Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.18 KB, 36 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tổng hợp các câu hỏi của các chương do cô Phượng biên soạn ( coppyright ).

CHƯƠNG I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Trình bày cơ sở hình thành tư tưởng HCM:
+ Khách quan:
Cơ sở khách quan.

a) Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

- Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

+ Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản
động,.. không cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới.
Không phát huy được những thế mạnh của dân tộc và đất nước, chống lại âm mưu xâm
lược của CNTD Phương Tây.

+ Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858), xã hội Việt Nam trở thành xã hội thuộc
địa nửa phong kiến, xuất hiện 2 mâu thuẫn cơ bản:

Toàn thể dân tộc VN >< TD Pháp và tay sai phong kiến (mâu thuẫn dân tộc)

Toàn dân VN (nông dân) >< địa chủ PK (mâu thuẫn giai cấp )


+ Nhiều phong trào yêu nước của nhân dân VN đã nổi dậy nhưng đều bị thất bại..như sự
thất bại của ptrào Cần Vương theo hệ tư tưởng PK, p.trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa
thục theo hệ tư tưởng TS đã giúp NAQ nhận rõ chỗ hạn chế của p.trào đó chưa biết tổ
chức, chưa có tổ chức.

-->Thúc đẩy NAQ ra đi tìm đường cứu nước mới của nhân dân VN.



- Bối cảnh thời đại (quốc tế)

+ CNTB trở thành CNĐQ, CNTB xác lập sự thống trị trên phạm vi thế giới. Lúc này
không chỉ dừng lại ở sự áp bức g/c trong chính quốc mà đã mở rộng ra sự ap bức đối với
các d.tộc khác. Vì thế cuộc đấu tranh g.phóng d.tộc không chỉ còn là hành động riêng lẻ
nữa mà trở thành cuộc đấu tranh chung của d.tộc thuộc địa chống ĐQ.

+ Cuộc đấu tranh g.phóng d.tộc gắn liền với cuộc đấu tranh g.phóng g/c .Cuộc đấu tranh
g.phóng d.tộc trở thành cuộc đấu tranh g.phóng g/v VS trên TG.

+ Sự thắng lợi của CMT 10 Nga, CNXH trở thành hiện thực trên TG, đánh dấu bước
chuyển biến lớn chuyển biến lớn của thời đại. Thời đại quá độ lên CNXH và giúp HCM
nhận ra một chân lý của thời đại " Chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các DT bị
áp bức và những người LĐ trên TG khỏi ách nô lệ."

b) Những tiền đề tư tưởng, lý luận

* Giá trị truyền thống VHDT của dân tộc VN

- CN yêu nước và ý chí đấu tranh bất khuất để gìn nước và giiữ nước, đây là nét chú yếu
nhất , đặc sắc nhất, rõ nét nhất trong LS tư tưởng của VN


- CN yêu nước là điểm xuất phát và là nguồn sâu xa của Tư tưởng Hồ Chí Minh, CN yêu
nước là hành trang lớn nhất trong con đường đi tìm đường cứu nước của HCM.

- HCM còn tiếp thu gía tri truyền thống DTVN, truyền thống VH VN như truyền thống
nhân nghĩa, đoàn kết, tinh thần khoan dung thủy chung, lạc quan yêu đời, trọng trí thức,
quý hiền tài nhân dân.


* Tinh hoa văn hoá nhân loại

- Văn hoá phương Đông:

+ Người đã tiếp thu tư tưởng của Nho giáo một cách có chọn lọc, hay nói cách khác
Người đã chắt lọc những mặt tích cực ,loại bỏ tiêu cực xây dựng XH mới tốt đẹp " Những
chuẩn mực để tu dưỡng đạo đức trong XH Nho giáo, tư tưởng về một XH đại đồng của
khổng Tử; tư tưởng lấy dân làm gốc, tư tưởng hành đạo giúp đời, đề cao việc học , coi
trọng hiền tài ".

Tiêu cực: khinh PN, khinh lao động chân tay.

+ Phật giáo: HCM đã kế thừa những mặt tích cực, hợp lý của Phật giáo như: tư tưởng về
cứu khổ cứu nạn, đề cao lao động, chống lười biếng, chủ trương thực hiện bình đẳng
trong XH. Người cũng đã tìm thấy ở "chủ nghĩa tam dân" của Tôn Trung Sơn những điều
phù hợp với điều kiện của cách mạng nước ta là Tư tưởng dân chủ tiến bộ " đó là dân tộc
được độc lập, dân quyền được tự do, dân sinh được hạnh phúc."

- Văn hoá phương Tây:


+ HCM đã nghiên cứu những tư tưởng của: Croxo, Monte, Vonte... và tiếp thu tinh thần
DC.
+ Sau này khi nghiên cứu TNĐL của CM Mỹ, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
CM Pháp, HCM đã nhận thức được tính tất yếu về quyền con người, quyền d.tộc mà 2
cuộc CM đó đã sáng lâp.

* Chủ nghĩa Mác-Lênin


- Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của tư tưởng
Hồ Chí Minh, là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh,
đồng thời tư tưởng của Người góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác-Lênin ở thời
đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập, tự do.

CN Mác - Lenin đã cho HCM:

+ T.giới quan khách quan, nhân sinh quan CM.

+ Phương pháp duy vật biện chứng.

--> Sự chuyển biến về chất:

+ Tư tưởng HCM thuộc hệ lý luận Mac - lenin

+ Có tính khoa học sâu sắc.

+ Có tính CM triệt để


--> CN Mác - Lenin là nguồn gốc lý luận, trực tiếp quyết định bản chất tư tưởng HCM

+ Chủ quan
* Nhân tố chủ quan

+ Ỏ Hồ Chí Minh nổi bật lên khả năng xử lý, chuyển hóa các tri thức của nhân loại thành
trí tuệ của bản thân Từ đó HCM trở thành người dẫn đường.

+ Khả năng tư duy độc lập tự chủ và sáng tạo của HCM.


+ Hồ Chí Minh là người có đầu óc phê phán tinh tường, không bị đánh lừa bởi những hào
quang chớp nhoáng bên ngoài.

+ Có tâm hồn của 1 nhà yêu nước vĩ đại, thương dân, thương nhân loại bị áp bức bóc lột.

+ Có tư tưởng lạc quan yêu đời, luôn tin tưởng vào sự thắng lợi của chính nghĩa.

{ tham khảo thêm: Bất cứ một TT nào cũng phải có nguồn gốc, cơ sở hình thành, đó
chính là tuân theo qui luật hình thành TT từ ít đến nhiều, từ hình thức đến nội dung, bản
chất. Vì vậy, TTHCM cũng ko nằm ngoài qui luật đó.

a. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc:

- Lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước được hình thành từ rất sớm và trở thành một tính
chất của mọi người dân Việt và đây là một yếu tố quan trọng nhất để Nguyễn Tất Thành


đi vào con đường cách mạng (Lòng yêu nước là cái vốn có của người dân Việt. Vấn đề
đặt ra là Đảng phải khơi gợi).

- Cho đến nay, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam kể cả thắng lợi công cuộc đổi mới
đều có cội nguồn từ lòng yêu nước, với học thuyết được du nhập vào Việt Nam đều phải
thông qua lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước của người dân Việt.

- Truyền thống đoàn kết, đoàn kết là sự gắn bó hợp tác với nhau để tạo nên sức mạnh.
Truyền thống đoàn kết được hình thành cùng với sự hình thành của dân tộc Việt và cũng
là cội nguồn của sức mạnh dân tộc Việt. Có 4 hình thức đoàn kết cơ bản:

+ Đoàn kết gia đình


+ Đoàn kết trong cộng đồng và dòng họ

+ Đoàn kết trong cộng đồng làng xã.

+ Đoàn kết quốc gia dân tộc thể hiện ở chỗ: Có tính nội dung, có văn hóa chung và có
ngày giỗ tổ chung (10/3. âm lịch)

- Truyền thống nhân văn nhân ái quý trọng con người, hướng con người vào làm điều
thiện, đồng thời xử lý tinh tế các mối quan hệ, gia đình, vợ chồng, anh em, họ hàng và đề
cao tình nghĩa, quy tắc ứng xử trong xã hội. Do đó người Việt sống tình cảm hơn, nhân
nghĩa hơn, thông minh hơn.

- Trong lối sống của người Việt: giản dị, khiêm nhường, cởi mở và đặc biệt không cực
đoan, cố chấp. Vì vậy có thể tiếp thu những cái hay, cái tốt, cái đẹp của dân tộc khác.


- Truyền thống văn hiến: Văn hiến là sự kết hợp nhuần nhuyễn của 3 yếu tố sau đây. Tri
thức, đạo đức, cái đẹp.

- Dân tộc Việt có khả năng học, hiếu học, coi trọng sự học, luôn luôn tôn vinh những
người học cao, đỗ đạt.

b. Tinh hoa nhân loại:

- Tinh hoa văn hoá phương Đông: Người tiếp thu Đạo phật và Nho giáo
+ HCM ra đời trong 1 gia đình Nho giáo nên Người có tiếp thu những quan điểm tốt đẹp
của Nho giáo. Người đánh giá rất cao Khổng Tử. Ngày 19/5/1966, Người đến thăm
Khổng Tử, khắc chữ lên bia đá: "Khổng Tử là người thầy vĩ đại nhất của nhân loại".

+ Người dùng rất nhiều những khái niệm, phạm trù nho giáo như: "Vì lợi ích mười năm

trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" (Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân)

+ Người đánh giá rất cao tư tưởng bình đẳng của nhà Phật: "Ta là Phật đã thành còn
chúng sinh là Phật sẽ thành"

- Trong tinh hoa văn hóa phương Tây.

+ HCM đã nghiên cứu tiếp thu TT văn hoá dân chủ và CM của CM Pháp, CM Mỹ, trong
đó có Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp và Tuyên ngôn độc lập năm 1776
của Mỹ.

+ Người đánh giá rất cao về chúa Jêsu. Người tiếp thu những tư tưởng của những nhà
khai sáng Pháp.


c. Chủ nghĩa Mác-Lênin

Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng Hồ
Chí Minh. Hồ Chí Minh khẳng định: "Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người
cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những
là cái kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng,
đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản"Đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí
Minh đã nắm vững cái cốt lõi, linh hồn sống của nó, là phương pháp biện chứng duy vật,
học tập, lập trường quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải
quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

Các tác phẩm, bài viêt của Hồ Chí Minh phản ánh bản chất tư tưởng cách mạng của
Người theo thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Là yếu tố quan trọng nhất, quyết định việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.


d. Những phẩm chất cá nhân riêng của Hồ Chí Minh

- Hồ Chí Minh có một tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cùng với một đầu óc phê phán tinh
tường sáng suốt trong việc tìm hiểu tinh hoa tư tưởng văn hoá cách mạng trong nước và
trên thế giới.

- Sự khổ công rèn luyện học tập để chiếm lĩnh những tri thức phong phú của thời đại và
với kinh nghiệm đấu tranh trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân
quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác Lênin một cách khoa học.


- Có một tâm hồn của nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành và một
trái tim yêu nước thương nòi, yêu thương những người cùng khổ, sãn sàng chịu đựng hi
sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì hạnh phúc của đồng bào.

Kết luận: Tóm lại, TTHCM là sản phẩm của sự tổng hoà và phát triển biện chứng TT văn
hoá truyền thống của dân tộc, tinh hoa TT văn hoá của phương Đông và phương Tây với
chủ nghĩa M-L làm nền tảng, cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến
và phát triển của HCM - một con người có tư duy sáng tạo, có PP biện chứng, có nhân
cách, phẩm chất CM cao đẹp tạo nên. TTHCM là TT VN hiện đại }
Trong những cơ sở đó cơ sở nào là quan trọng nhất ? Vì sao ? Cả 2, từ câu kết luận chúng
ta suy luận ra.
(2. Trình bày tiền đề để hình thành các cơ sở ? Các tiền đề đã được nêu rõ ở cơ sở chủ
quan và khách quan ở trên ) …..?
Có cách làm khác:
Tưởng HCM được hình thành từ 2 cơ sở: chủ quan và khách quan

a. cơ sở khách quan


-HCM sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động

Trong nước:triều Nguyễn đã từng bước thuần phục thực dân pháp, thừ nhận quyền bảo hộ
của pháp, các cuộc khởi nghĩa "cần vương", "khởi nghĩa của nông dân Yên thế", phoang
trào" đông du"...dần đi đến thất bại. hệ tư tưởng phong kiến và tiểu tư sản đều tỏ ra lỗi
thời.

+đầu thế kỷ XX pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa làn thứ nhất trong xã hội
xuất hiện nhưng giai cấp mới: công nhân, tư sản, tiểu tư sản. đây là những lực lượng mới
của phong trào dân tộc đặc biệt là giai cấp công nhân.


+thực tế lịch sử CMVN cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đặt ra yêu cầu bức thiết là phải
giải phóng dân tộc bằng con đường cứu nước mới và HCM đáp ứng yêu cầu của lịch sử.

+tư tưởng HCM xuất hiện là một yêu cầu tất yếu khách quan do lịch sử VN quyết định.
Đặt trong bối cảnh là sự thắng lợi của CM tháng 10 Nga là ngọn cờ dẫn đầu cho các nước
thuộc địa do vậy tưởng HCM vừa mang tính tất yếu vùa mang tính thời đại.

Tư tưởng HCM được hình thành trên những tiên đề tư tưởng-lý luận sau:

*Giá trị truyền thống của dân tộc

-lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành lên những giá trị truyền thống hết
sức cao quý của dân tộc VN và trở thành tiền đề lý luận cho việc hình thành tư tưởng
HCM:giản dị, tiết kiệm, tình yêu thương con người... ở HCM tinh hoa dân tộc được hội
tụ và nâng lên 1 tầm cao mới. VN còn là 1 dân tộc có tinh thần yêu nước nồng nàn ,nó là
nguồn sức mạnh giúp dân tộc VN chống lại mọi kẻ thù xâm lước. Cũng chính vì lòng yêu
nước mà Người đã ra đi tìm đường cứu nước.


*tinh hoa văn hóa của nhân loại:

- kết hợp các giá trị văn hóa truyền thống của phương Đông và phương Tây đó là nét đặc
sắc hình thành nên tưởng HCM

+ đối với văn hóa phương Đông: Người tiếp thu những mặt tích cực của Nho Giáo, đó là
triết lý hành động triết lý giúp đời, là ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục, hòa
đồng, là triết lý nhân sinh đề cao văn hóa lễ giáo tạo ra truyền thống hiếu học. Về Phật
Giáo HCM tiếp thu và chịu sử ảnh hưởng của tư tưởng từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn.


+Đối với văn hóa phương Tây: tìm hiểu cách mạng ở Pháp, Mỹ, tiếp thu về tư tưởng tự
do bình đẳng.

*Cách mạng LeNin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng HCM . Đây
là tiền đề quan trọng nhất hình thành lên tư tưởng HCM. Chủ nghĩa Mác LeNin đã giúp
HCM hình thành nên bản chất thế giới quan khoa học và phương pháp hành động biện
chứng. quá trình tiếp thu CN Mác của HCM là quá trình đi từ nhận thức cảm tính đến
nhận thức lý tính trên cơ sở so sánh với nhiều học thuyết khác nhau.

-Ngoài ra HCm còn tiếp thu CN Mác không theo lối tầm viện không theo lối tầm chương
tích ái mà theo cách thức sáng tạo linh hoạt. HCM nói "dù sao cũng không thể cấm bổ
sung cơ sở lịch sử cho CN Mác bằng cách thêm vào đó những tư liệu mà Mác trong thời
bình không thể có được.

b. cơ sở chủ quan

-khả năng tư duy và trí tuệ HCM: Người không ngừng học tập nghiên cứu làm phong phú
thêm sự hiểu biết của mình đồng thời hình thành những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên
những thành tựu trong lĩnh vực hoạt động của Người.


+trong quá trình tìm con đường cứu nước người đã tìm ra những quy luật vận động XH
đời sống văn hóa để khái quát thành lý luận và đưa lý luận thành thực tiễn. Nhờ nhận
thức như vậy mà lý luận của HCM mang tính khách quan và khoa học.

3. Các giai đoạn hình thanh TTHCM ( Trình bày từng giai đoạn, giai đoạn nào có ý nghĩa
quan trọng nhất hình thành nên cách mạng VN ).

Trả lời:


Các giai đoạn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh? Giai đoạn nào có ý nghĩa vạch đường
cho cách mạng Việt Nam? Chứng minh?
Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh được chia thành các giai đoạn như sau:a. Từ
1890-1911: Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng. Bác tiếp thu
truyền thống dân tộc, hấp thụ vốn văn hoá Quốc học và Hán học, tiếp xúc với văn hoá
phương Tây, chứng kiến cuộc sống khổ cực của đồng bào. Bác nảy ý định đi tìm đường
cứu nước, sang phương Tây tìm hiểu xem thế giới làm gì rồi trở về giúp đồng bào mình.
b. Từ 1911-1920: Thời kỳ tìm tòi con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Năm 1911,
Bác sang Pháp, sau đó sang Anh, Mỹ. Năm 1913, Người từ Mỹ quay lại Anh tham gia
công đoàn thuỷ thủ Anh. Năm 1917, Người từ Anh lại sang Pháp vào lúc nổ ra cách mạng
Tháng Mười Nga, Pa-ri sôi động tìm hiểu cách mạng tháng Mười. Năm 1919, Nguyễn Ái
Quốc ra nhập Đảng xã hội Pháp. Tháng 8/1919, Bác gửi bản yêu sách của nhân dân Annam đến hội nghị Véc-xay. Đại hội XVIII Đảng xã hội Pháp thảo luận vấn đề gia nhập
Quốc tế III, ngày 30/12/1920 Hồ Chí Minh biểu quyết tán thành Đảng cộng sản Pháp, trở
thành người cộng sản. Giai đoạn này đánh dấu sự phát triển vượt bậc thế giới quan của
Hồ Chí Minh từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc đến giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ chiến
sĩ chống thực dân trở thành chiến sĩ cộng sản Việt Nam. Đây là giai đoạn quan trọng có ý
nghĩa vạch đường cho cach1 mạng Việt Nam. c. Từ 1921-1930: thời kỳ hình thành cơ bản
tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam: vừa khoa học vừa thực tiễn.
Hồ Chí Minh đã hoạt động thực tiễn và lý luận phong phú trên địa bàn Pháp như: tích cực

hoạt động trong ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng xã hội Pháp, xuất bản tờ Le Paria
nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam (từ 1921-1923). Năm 1923-1924, tại
Liên-Xô, dự đại hội Quốc tế Nông dân, dự đại hội V Quốc tế cộng sản. Năm 1924, Bác
về Quảng Châu, tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng, mở lớp huấn luyện cán bộ.
Năm 1925, tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" được xuất bản tại Pa-ri. Năm 1927,
Bác xuất bản tác phẩm "Đường Kách Mệnh". Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội
nghị hợp nhất và thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Người trực tiếp thảo văn kiện
"Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Đảng". Ngày 3/2/1930, Hồ Chí Minh trở
thành nhà tư tưởng theo đúng nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam
được hình thành cơ bản. Có thể tóm tắt nội dung chính của những quan điểm lớn, độc
đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam như sau:- Cách mạng
giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản.- Cách
mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật thiết với nhau.- Cách
mạng thuộc địa trước hết là một cuộc "dân tộc cách mạng", đánh đuổi đế quốc xâm lược,
giành lại độc lập, tự do.- Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng; phải tập hợp
lực lượng dân tộc thành một sức mạnh to lớn chống đế quốc và tay sai.- Phải đoàn kết và


liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế.- Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, phải đoàn kết dân tộc, phải tổ chức quần chúng, lãnh đạo và tổ chức đấu tranh
bằng hình thức và khẩu hiệu thích hợp.- Cách mạng trước hết phải có đảng lãnh đạo, vận
động và tổ chức quần chúng đấu tranh. Đảng có vững cách mạng mới thành công...Cùng
với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh trong những năm 20 của
thế kỷ XX được truyền bá vào Việt Nam, làm cho phong trào dân tộc và giai cấp ở nước
ta là phong trào tự giác. d. Từ 1930-1945: thời kỳ thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm,
nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền dân tộc cơ bản. Đây là thời kỳ thắng lợi của tư
tưởng Hồ Chí Minh cả về phương diện lý luận và phương diện thực tiễn. Khẳng định
quan điểm của Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là đúng đắn. Thời kỳ
này Hồ Chí Minh và Quốc tế cộng sản mâu thuẫn trong nhận thức về liên minh các lực
lượng cách mạng, Hồ Chí Minh đã giữ vững quan điểm cách mạng của mình, vượt qua

khuynh hướng "tả" của Quốc tế cộng sản, lãnh đạo cách mạng Việt Nam thắng lợi. Điều
này phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí
Minh.e. Từ 1945-1969: thời kỳ phát triển mới về tư tưởng kháng chiến và kiến quốc. Đây
là thời kỳ mà Hồ Chí Minh cùng trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta vừa tiến hành
kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân mà đỉnh cao là
chiến thắng Điện Biên Phủ; tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh có bước phát triển mới:- Tư tưởng
kết hợp kháng chiến với kiến quốc, tiến hành kháng chiến kết hợp với xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau.- Tư tưởng
chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.- Xây dựng
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.- Xây dựng
Đảng Cộng sản với tư cách là một Đảng cầm quyền...Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành
trên cơ sở khoa học và cách mạng, có quá trình trưởng thành liên tục trong đấu tranh cách
mạng chống kẻ thù, chống nhận thức chưa phù hợp giữa trong nước và quốc tế về cách
mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam
trong thời đại mới, là nhọn cờ thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc
lập, tự do, vì giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một chân
lý, có ý nghĩa lớn trong những năm đầu thế kỷ XXI này.
c) Ý nghĩa học tập tư tưởng Hồ Chí Minh- Tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa MácLênin ở Việt Nam. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải:- Nắm vững nội dung cốt lõi
của hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, trang bị thế giới quan cách mạng theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh. - Học tập nhân sinh quan cách mạng của Hồ Chí Minh: đạo đức, nhân cách mẫu
mực của tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo.Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường
cho Đảng và nhân dân Việt Nam xây dựng mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh.Đối với thanh niên, học sinh, sinh viên cần coi trọng giáo dục


chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng...Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho họ, đào tạo họ thành những người vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc quan trọng và rất cần thiết.


CHƯƠNG II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH
MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1. Tại sao nói Chủ Nghĩa Dân Tộc là một động lực ? Giá trị của một dân tộc trong giai
đoạn hiện nay ?
Trả lời:

Năm 1924 Nguyễn Ái Quốc viết: ở các nước thuộc địa, “chủ nghĩa dân tộc là một động
lực lớn của đất nước”. Khái niệm chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái quốc dùng ở đây, như
Mác nói “không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ
mà Nguyễn Ái Quốc nói ở đây chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân
chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là một
động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân
tộc; nó khác về bản chất so với chủ nghĩa dân tộc sôvanh, vị kỷ của giai cấp tư sản đã bị
lịch sử lên án. Theo phân tích của Nguyễn Ái Quốc, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát
triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, cuộc đấu tranh giai cấp ở
đây không diễn ra giống như ở phương Tây.

Trong báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ gửi Quốc tế cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã
nói:

“Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây” bởi vì xã hội Đông
Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, “xét về mặt cấu trúc kinh tế, không giống như các xã hội
phương Tây thời Trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết


liệt như ở đây…” “Những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó được coi
là đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu
Âu và châu Mỹ…”.

“…Nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn…, nếu

thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ bóc lột
họ là máy móc; người thì chẳng có công đoàn, kẻ thì chẳng có tơrớt… Sự xung đột về
quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó, không thể chối cãi được”. Trái lại, giữa họ
vẫn có một sự tương đồng lớn: dù là địa chủ hay nông dân, họ đều là người nô lệ mất
nước. Chính vì thế mà có cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, có phong trào Đông Du và
có việc Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917, v.v…

Từ sự phân tích đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: đối với các dân tộc thuộc địa ở phương
Đông,”chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đãt nước”. Theo người, trong cách mạng
giải phóng dân tộc, “người ta sẽ không làm gì được cho người An Nam nếu không dựa
trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”.

Qua đó có thể thấy: xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống
dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với
nghĩa là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn
mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào
tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai
cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng đắn vừa
có tính chất cách mạng, nhân văn sâu sắc; thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc
và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập cho
dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Điều đó hoàn toàn phù hợp với
nhận định của Ăngghen: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công
nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở thành
lãnh tụ của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Người không màng danh lợi cá nhân, suốt


đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển

của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ cách mạng Việt Nam là
giải phóng dân tộc, đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Tư
tưởng đó được kết tinh thành một tuyên ngôn bắt hủ không chỉ đối với nhân dân Việt
Nam mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do.

Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch: ra con đường đúng
đắn cho cách mạng Việt Nam là "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội". Giải
phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy, ham muốn tột bậc của
Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do”.
Độc lập, tự do trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở
thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hy sinh, cống hiến của Người. Bởi đó là
điều kiện tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.
2. Mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp? HCM có sự sáng tạo trong việc giải quyết mối
quan hệ ( mqh ) giữa dân tộc với giai cấp như thế nào ?
Marx - Engels, Lenin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu, mục tiêu của cách mạng vô sản
châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và
bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản".
Tiếp thu chủ nghĩa Marx-Lenin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của dân
tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn đề dân
tộc. Người cho rằng: Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp,
song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.
Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt Nam:
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người cho rằng: "Marx đã xây
dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch
sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Dù sao thì cũng không
thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Marx bằng cách đưa thêm vào đó những tư
liệu mà Marx ở thời mình không thể có được". Và người đề nghị: "Xem xét lại chủ nghĩa
Marx về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông". Ở phương
Đông, "Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra không giống như ở phương Tây, bởi vì xã hội

Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt cấu trúc kinh tế không giống như xã


hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không
quyết liệt như ở đây…".
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong
kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu
thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó,
không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở phương
Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền
lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai
cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể thực hiện được. Quan điểm này sau này
thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII, năm 1941 do Người chủ trì: "Trong
lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân
tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp
ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được."
Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một trong những
sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và phát triển chủ nghĩa Marx-Lenin.
Nó có tác dụng lớn lao đối với việc tập hợp lực lượng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc ở
Việt Nam cũng như ở các nước thuộc địa nói chung.
3. Từ giải quyết mqh giữa dân tộc với giai cấp hãy c/m luận điểm: “ Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn
thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
TL:
Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc – giai cấp thực chất là mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân
tộc và dân chủ. Việc giải quyết mối quan hệ đó có ý nghĩa quan trọng – nhằm đi đến mục
tiêu cuối cùng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Vấn đề dân
tộc - giai cấp chi phối toàn bộ vấn đề khác: lực lượng cách mạng, khẩu hiệu đấu tranh,

hình thức tổ chức tập hợp lực lượng đấu tranh, hình thức đấu tranh và quyết định đến sự
thành bại của cách mạng.
4. Chứng minh luận điểm “ Giành được độc lập dân tộc mới có cơ sở xây dựng CNXH &
CNXH mới củng cố được nền độc lập dân tộc”.
Một nội dung cơ bản và nhất quán trong Tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc
bằng con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành


cách mạng XHCN. Ngay từ rất sớm Người đã nói rõ "ham muốn" tột bậc của mình là làm
sao cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân tộc được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Và qua 30 năm ra đi tìm đường cứu nước,
cuối cùng Người khẳng định, tin tưởng rằng: chỉ có CNXH mới là con đường để "ham
muốn" đó được thực hiện. Tư tưởng của Bác đã trở thành tư tưởng hướng đạo cho cách
mạng Việt Nam.
Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện CNXH và CNXH là cơ
sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Không giành được độc lập dân tộc thì không
có điều kiện để xây dựng CNXH. Độc lập dân tộc thật sự đòi hỏi xóa bỏ áp bức, nô dịch
của dân tộc này với dân tộc khác, gắn liền độc lập dân tộc với tự do, bình đẳng, hạnh
phúc của nhân dân, do đó chỉ có thể gắn liền với sự phát triển xã hội XHCN. Chính nhờ
sự kiên định nội dung tư tưởng đó mà Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác, viết nên một lịch sử Việt Nam anh hùng với những mốc son chói lọi: Cách
mạng Tháng 8 năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước và đi lên xây dựng CNXH. Tư tưởng đúng đắn, hợp quy luật, hợp
lòng dân đó đã được Đảng quán triệt xuyên suốt trong cả tiến trình cách mạng, đặc biệt là
trong quá trình đổi mới.
Đại hội lần thứ VI (12-1986) của Đảng mở đầu thời kỳ đổi mới đất nước đã khẳng định:
"Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và
lực lượng tiếp tục thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành công CNXH và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục nhấn mạnh:

"Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách
mạng nước ta".

Tiếp tục dòng chảy xuyên suốt và thống nhất đó, Báo cáo chính trị được thông qua tại Đại
hội Đảng lần thứ VIII xác định bài học quan trọng đầu tiên đối với cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới là: "Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi
mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa
Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh".
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4-2001) - Đại hội đầu tiên của thế kỷ XXI, đại hội
của dân chủ, trí tuệ, đoàn kết và đổi mới đã tiếp tục khẳng định: "Trong quá trình đổi
mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa
Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Như vậy, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với


CNXH trên thực tế đã trở thành dòng chủ lưu, là tư tưởng xuyên suốt, được quán triệt và
đề cao trong sự nghiệp đổi mới mà toàn dân ta đang tiến hành.
Chính nhờ sự kiên định đầy quyết tâm đó cùng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng mà nhân
dân ta đã đứng vững và tiếp tục kiên trì mục tiêu CNXH trong khi Liên Xô và các nước
XHCN ở Đông Âu đã lâm vào thoái trào, tan rã; tạo cơ sở khẳng định vị thế và sức mạnh
của cách mạng Việt Nam trên trường quốc tế. Niềm tin đối với Đảng trong lòng nhân dân
ngày càng được củng cố, tăng cường, tạo đà cho sự phát triển mạnh hơn, cao hơn, triệt để
hơn của thời kỳ CNH-HĐH.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước tình trạng nhiều vấn đề xã hội bức xúc và gay
gắt chưa được giải quyết tốt như nạn thiếu việc làm, sự phát triển của tệ nạn xã hội, sự
khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân dân, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo là
nguy cơ chệch hướng XHCN, tụt hậu xa hơn về kinh tế, "diễn biến hòa bình" và tệ quan
liêu tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức vẫn tồn tại và diễn biến
phức tạp thì việc giữ vững định hướng, mục tiêu XHCN càng trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết.
Hơn 70 năm chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta đã hoàn thành được một phần sứ mệnh

lịch sử: đất nước độc lập, thống nhất, đi lên CNXH. Song con đường phía trước không
hoàn toàn bằng phẳng, trơn tru. Sự đan xen sâu sắc giữa những thời cơ và thách thức mà
thời đại đặt ra, buộc dân tộc ta, Đảng ta và bản thân mỗi người dân Việt Nam chúng ta
phải "lớn" hơn ngày hôm qua. Trên bệ phóng của những thành công rực rỡ mà cha ông đã
xây dựng, thế hệ trẻ Việt Nam khát khao được là người kế nghiệp xứng đáng. Thiết nghĩ,
để khát khao ấy được thắp sáng, điểm xuất phát trước hết phải là sự trung thành đối với
Tổ quốc, với lý tưởng của Đảng và của nhân dân, kiên định lập trường cách mạng, thấm
nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đặc biệt là
nhất quyết thực hiện sứ mệnh: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, xây dựng thành
công CNXH.

5. TT HCM là độc lập dân tộc với CNXH
-………? ( Đoạn này mình quên chép T.T ).
- “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc ko có con đường nào khác con đường c/m vô
sản”.
Chứng minh luận điểm trên.


Trong hệ thống các luận điểm mà HCM đã từng đọc được thì luận điểm quan trọng và
được người chú ý hơn cả là luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải đi theo con đường của cách mạng vô sản.
Sở dĩ các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều thất bại là
do chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn. Khi chủ nghĩa đế quốc đã
thành một hệ thống thế giới, một mặt chúng tranh giành ảnh hưởng thuộc địa lẫn nhau,
mặt khác chúng lại thống nhất với nhau để đàn áp thuộc địa. Vì vậy trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân thuộc địa có chung
một kẻ thù. Chủ nghĩa tư bản như con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi
bám vào thuộc địa. Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai vòi của
nó đi. Vì vậy, cách mạng vô sản ở chính quốc phải kết hợp với cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa.


Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta phải đối đầu với một kẻ thù khác hẳn với chúng
ta về nên văn minh và văn hóa. Kẻ thù là chủ nghĩa tư bản mạnh hơn ta nhiều lần với các
phương tiện chiến tranh hiện đại hơn ta rất nhiều. Vì vậy các đường lối cách mạng cũ đều
không thể giành thắng lợi. Chủ nghĩa tư bản không những có nền văn minh hơn hẳn
chúng ta mà còn trở thành một hệ thống thế giới. Tuy chúng tranh giành ảnh hưởng thuộc
địa lẫn nhau nhưng chúng luôn luôn thống nhất với nhau để đàn áp lại các cuộc cách
mạng của nhân dân lao động ở chính quốc cũng như thuộc địa. Ví dụ như việc Nguyễn Ái
Quốc đã bị thực dân Anh bắt sau đó giao lại cho Pháp, còn phong trào Đông du của Phan
Bội Châu bị Nhật tiêu diệt.

Tất cả các phong trào yêu nước theo nhiều khuynh hướng khác nhau đều thất bại do
không có đường lối đấu tranh đúng đắn. Các cuộc nổi dậy do các sỹ phu yêu nước lãnh
đạo nổ ra rầm rộ và lan rộng khắp cả nước như khởi nghĩa Trương Đinh (1859- 1864),
Nguyễn Trung Trực ( 1861-1868) ở miền Nam, khởi nghĩa Trần Tuấn, Đặng Như Mai,
Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng ( 1886- 1887) ở miền Trung, khởi nghĩa Ba Đình
(1886-1887), Bãi Sậy ( 1885-1889) ở miền Bắc. Các cuộc nổi dậy này đều mạng nặng ý
thức hệ phong kiến, phụng chiếu Cần Vương, đường lối kháng chiến không rõ ràng, chủ
yếu là muốn khôi phục độc lập dưới chế độ phong kiến, tất cả đều có chung một kết cục
là bị thực dân Pháp đàn áp hết sức dã man và thất bại. Các phong trào theo hệ tư tưởng tư
sản như Đông du, Đông kinh nghĩa thục, Duy tân ở thập niên đầu của thế kỷ XX cũng


đều thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến trở nên lỗi thời do sự xuất hiện hệ tư tưởng của giai
cấp vô sản tiên tiến hơn.

Cần phải đoàn kết với giai cấp vô sản ở chính quốc để chống lại chủ nghĩa tư bản. Vì họ
cũng là những nạn nhân bị giai cấp tư bản bóc lột. Giai cấp vô sản ở chính quốc có cùng
chung một kẻ thù với nhân dân thuộc địa, đó chính là chủ nghĩa tư bản. Sự đoàn kết này
là hết sức quan trọng để tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm cắt đứt cả hai vòi của con đỉa

là chủ nghĩa tư bản.

Chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản mới có thể vừa giải phóng dân tộc vừa giải
phóng con người và giải phóng giai cấp. Các con đường khác có thể đem đến độc lập cho
đất nước nhưng không thể đạt được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Sau một quả trình nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tế trên bình diện rộng lớn trong
cũng như ngoài nước Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận “ Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Thực chất của con
đường cách mạng vô sản là gắn liền độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội.Cho đến nay hệ
tư tưởng của cách mang vô sản vẫn là hệ tư tưởng tiên tiến nhất của nhân loại.

Qua những phân tích trên ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc nói chung và
luận điểm “ Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phỉ đi theo con đường của
cách mạng vô sản” đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó đã chỉ ra cho dân tộc Việt
Nam con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, đưa dân tộc thoát khỏi đêm đen khủng hoảng
con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã dân đường cho cả dân tộc đi
theo, con đường đi đúng đắn để giải phóng đất nước, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Cho đến nay tư tưởng này vẫn còn nguyên giá trị. Nó là kim chỉ nam cho mọi
hoạt động của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
- Lực lượng trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc là ai ? Vì sao ? Lực lượng của cách
mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
- Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn ái Quốc xác định đó là "việc chung của cả
dân chúng chứ không phải việc một hai người", vì vậy phải đoàn kết toàn dân.


- Bên cạnh đó Người cũng nhấn mạnh sự đoàn kết toàn dân phải dựa trên đoàn kết là liên
minh công-nông. Bởi theo người : "Công nông là người chủ cách mệnh ... Công nông là
gốc cách mệnh".
- Trên cơ sở đó, Người đã chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân
trong một mặt trận dân tộc thống nhất nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu

tranh giành độc lập, tự do.
- DCSVN là nhân tố hàng đầu của cách mạng VN  Thắng lợi, vì sao ?
TL:
Qua lịch sử hình thành và hoạt động của ĐCSVN, thực tế đã chứng minh một điều: Đảng
là nhân tố quyết định mọi thành công cho cách mạng Việt Nam.
1. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Hơn 7 thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã vượt
qua một chặng đường đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn, gian khổ nhưng đã giành
được những thắng lợi rất vẻ vang:

Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã mở ra một kỷ
nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã
đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.


Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo con đường xã
hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực
và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm
chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam giành được trong
hơn 7 thập kỷ qua bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố hàng đầu quyết định là sự
lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện - một Đảng cách mạng thực sự vì nước, vì dân, ngoài lợi
ích đó Đảng không có lợi ích nào khác. Giành độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho
nhân dân là mục tiêu lý tưởng của Đảng. Vì vậy, vượt lên mọi thách thức, trong phong ba
bão táp, Đảng ta vẫn kiên định vững vàng không xa rời mục tiêu lý tưởng, không run sợ
trước kẻ thù, không nhụt chí trước những khó khăn chồng chất, không hạ thấp vị trí tiên
phong chiến đấu và trách nhiệm của người lãnh đạo, người tổ chức mọi thắng lợi của
cách mạng, một lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

2. Đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng - nhân tố hàng đầu bảo đảm vai
trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Đảng lãnh đạo trước hết và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, bằng chủ trương, chính
sách của Đảng. Đường lối chính trị đúng là cơ sở để đoàn kết thống nhất ý chí và hành
động của toàn Đảng, toàn dân, tạo nên sức mạnh của Đảng và của cách mạng.

Đường lối chính trị đúng đắn nghĩa là đường lối đó phải phản ánh được xu thế vận động
của lịch sử, đồng thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chân chính của đa số nhân dân.
Sức mạnh của Đảng chính là sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, mà sự đồng tình và tin
cậy của nhân dân đối với Đảng trước hết nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng.
Đường lối cách mạng của Đảng có vai trò to lớn trong việc thống nhất về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi những khuynh hướng
sai lầm về chính trị và tư tưởng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.


CHƯƠNG III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON

ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
- Mục tiêu, bản chất, đặc trưng, động lực của CNXH.
Tiếp thu lý luận về đặc trưng bản chất của CNXH do Mác LeNin vạch ra và kinh nghiệm
thực tiễn xây dựng CNXH trên thế giới cũng như thực tiễn VN HCM đã bàn tới vấn đề
kinh tế, chính trị, văn hóa, con người thể hiện rõ đặc trưng của CNXH:

-CNXH là 1 xã hội hoàn chỉnh trong đó con người được phát triển toàn diện tự do trong 1
xã hội như thế mọi thiết chế mọi cơ cấu đều nhằm đến mục tiêu giải phóng con người

+về mặt kinh tế:"CNXH là lấy nhà cửa, Xí nghiệp, xe lửa, ngân hàng làm của chung. Ai
làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không có ăn tất nhiên là trừ
những người già cả đau yếu và trẻ nhoe"

-định nghĩa CNXH dựa vào mục tiêu của nó đây là cách định nghĩa phổ biến nhất và
được sử dụng rộng rãi nhất:CNXH CNXh là mọi người được ăn no mặc ấm độc lập, tự
do, xã hội ngày càng tiên tiến vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt

-Định nghĩa về động lực:CNXh gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật nhằm
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. CNXH phải gắn liền với ý thức
lao động tập thể tinh thần thi đua yêu nước.

*Đặc trưng thể hiện trên những luận điểm sau:

-CNXH là 1 chế độ chính trị do dân làm chủ nhà nước là của dân do dân và vì dân, dựa
trên khối đại đoàn kết toàn dân lấy nòng cốt là liên minh công-nông-tri thức do ĐCS lãnh
đạo mọi quyền lực đều thuộc về tay nhân dân. Nhân dân là người quyết định đến vận


mệnh cũng như sự phát triển của đất nước dưới chế độ CNXH. CNXH là sự nghiệp của
nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.


-CNXH là 1 xã hội có nền kinh tế phát triển cao gắn liền với sự phát triển của khoa học
kỹ thuật. Đó là 1 xã hội có nền khoa học kỹ thuật phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao
động xã hội cao, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học kỹ thuật của nhân loài.

-CNXH là chế độ không còn người bóc lột người, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư
liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là 1 xã hội được xây
dựng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý.

-CNXH là 1 xã hội phát triển cao về mặt đạo đức, văn hóa trong đó người với người là
đồng chí bạn bè, anh em. Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột có cuộc sống
vật chất và tinh thần phong phú được tạo điều kiện để phát triển hết khả năng của mình.

Như vậy theo HCM CNXH là 1 XH công bằng, đạo đức, dân chủ, văn minh, 1 xã hội ưu
việt trong lịch sử, một xã hội tự do và nhân đạo phản ánh được ước mơ và khát vọng của
con người.

*Mục tiêu của CNXH

-mục tiêu chung của CNXH là mục tiêu phấn đấu theo HCM là 1 đó là giành độc lập tự
do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, đó là làm sao cho đất nước hoàn toàn được độc
lập, nhân dân được tự do, ai cũng có cơm ăn áo mặc ai cũng được hoch hành.

-HCM xác định mục tiêu cụ thể của thời kỳ qua độ lên CNXH trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội.


×