Tải bản đầy đủ (.docx) (122 trang)

Vai tro cua ca nhan trong cac cuoc cmts

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 122 trang )

Aleksandr II của Nga
Aleksandr II
Александр II

Nga hoàng Aleksandr II qua nét vẽ của Nikolai
Yegorovich Sverchkov (1817 - 1898).
Hoàng đế, Sa hồng nước Nga

Trị vì 2 tháng 3 năm 1855 – 13 tháng 3
năm 1881
Đăng quang 7 tháng 9 năm 1855
Tiền nhiệm Nikolai I
Kế nhiệm Aleksandr III

[hiện]Hậu duệ
Tên đầy đủ
Aleksandr Nikolayevich (Александр
Николаевич)

[hiện]Tước vị
Hoàng tộc
Thân phụ
Thân mẫu
Sinh
Mất
An táng

Nhà Holstein-Gottorp-Romanov
Nikolai I
Charlotte của Phổ
29 tháng 4, 1818


Moskva, Nga
13 tháng 3, 1881 (62 tuổi)
Sankt-Peterburg, Nga
Đại giáo đường Thánh Phêrô và


Tơn giáo

Phaolơ
Pháo đài Thánh Phêrơ và Phaolơ,
Sankt-Peterburg
Chính Thống giáo Đơng phương

Chữ ký

(tiếng Nga: Александр II Николаевич, Chuyển tự tiếng Nga sang ký tự Latinh: Aleksandr II
Nikolayevich Alexander (Aleksandr) II Nikolaevich, phiên âm tiếng Việt là A-lếch-xan-đrơ
II[1]) (29 tháng 4 [cũ 17 tháng 4] năm 1818, Moskva – 13 tháng 3 [cũ 1 tháng 3] năm 1881, SanktPeterburg), cũng được biết như Aleksandr vị Nga hồng giải phóng (tiếng Nga: Александр
Освободитель, Aleksandr Osvoboditel'), là một trong những vị Hoàng đế, hay Sa hồng cuối
cùng của đế quốc Nga, trị vì từ năm 3 tháng 3 năm 1855 đến khi ông bị ám sát vào năm 1881.
Ông cũng kiêm nhiệm chức Đại công tước xứ Phần Lan và Vua Ba Lan. Nhà sử học Edvard
Radzinsky (sinh năm 1936) đã viết cuốn sách về ơng có tựa là The Last Great Tsar, tức Vị Nga
Hoàng Vĩ Đại Cuối Cùng.[2] Sở dĩ người ta gọi ơng là "Aleksandr vị Nga hồng giải phóng"[3] là
do ông đã giải phóng 20 triệu người nông nô Nga vào năm 1861.[4] Tuy nhiên, triều đại ông đã kết
thúc một cách bi kịch. [5]
Là con của Nga hoàng Nikolai I, ông từng là một học sinh của nhà thơ Vasily Andreyevich
Zhukovsky.[6] Nikolai mất năm 1855 và Aleksandr II (36 tuổi[7]) lên ngôi giữa lúc nước Nga gặp
bất lợi trong chiến tranh Krym. Thất bại thảm hại của quân Nga trong chiến tranh Krym và nền
giáo dục theo xu hướng chủ nghĩa tự do của ông đã thúc đẩy ông thực hiện một cuộc cải cách
quy mơ lớn. Ơng đã thực hiện cuộc cải cách nổi tiếng nhất với "Sắc lệnh giải phóng nơng nơ"

năm 1861,[8] (trong khi chế độ nông nô vốn đã suy sụp kể từ cuộc khởi nghĩa trong các năm 1773
- 1775).[9] theo đó những người nơng dân có thể mua đất của địa chủ.[10] Cuộc cải cách của Nga
hoàng đã được ủng hộ bởi em trai của ông là Đại Công tước Konstantin Nikolayevich, cùng với
những nhân vật khác như J. I. Rostovtsev, D. A. Milyutin, N. A. Milyutin, J. F. Samarin,... Ngồi
ra, ơng cịn đề xướng những cải cách về Đại học (1863), pháp luật (1864), báo chí (1865), quân
sự (1870), hay quyền tự trị của chính quyền các tỉnh (1864) và các thành phố (1870).[11] Những
cải cách tiến bộ[12] của ông đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Nga theo đường lối chủ
nghĩa tư bản. [13]
Về mặt đối ngoại, triều đình Aleksandr bành trướng mạnh mẽ, đặc biệt là ở châu Á. Quân Nga
trấn áp của khởi nghĩa Tháng Giêng năm 1863 ở Ba Lan, đánh bại quân Ottoman, chiếm tỉnh
Maritime từ tay triều đình Mãn Thanh, chinh phạt các xứ Khiva, Bokhara, Turkestan ở Trung Á,
và bán Alaska cho Mỹ với giá 7.2 triệu đô la.[8][4] Trong các năm 1873 - 1874, Liên minh ba hoàng
đế (Nga, Đức, Áo-Hung) được thành lập. Năm 1877, sau khi quân khởi nghĩa vùng Balkan bị
quân đội Ottoman trấn áp, Aleksandr II tuyên chiến với Ottoman.[14] Thất bại của quân Ottoman
trước quân Nga năm 1878 đã dẫn tới Hiệp ước San Stefano và sự hình thành của Nhà nước
Bulgaria - nơi vua Aleksandr II được xem là một trong những quốc phụ.[15] Tuy nhiên, các đế
quốc Tây Âu can thiệp vào tình hình Nga-Thổ, tại Hội nghị Berlin năm 1878 người Nga đã nhận
lấy thất bại về ngoại giao. [11]
Ơng trị vì nước Nga trong thời kỳ vàng son của nền văn học quốc gia này,[16] với những nhà văn
nổi tiếng như Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Lev Nikolayevich Tolstoy, và Ivan Sergeyevich


Turgenev.[17] Dù là một Nga hồng có tư tưởng tự do nhất,[18][19][20] bên cạnh đó ơng cũng là vị vua
bằng mọi cách quyết phải giữ ngôi vị "Đấng cầm quyền chun chính" của triều đại, ngồi ra cải
cách của ơng vẫn cịn hạn chế, tàn tích của chế độ nơng nơ vẫn cịn.[21] Từ năm 1866, chính quyền
Nga hồng bắt đầu một thời kỳ của những vụ trấn áp. Sau khi "Sắc lệnh giải phóng nơng nơ"
được ban bố, phong trào giải phóng tại Nga bước vào giai đoạn Cách mạng dân chủ tư sản, nói
cách đây là giai đoạn của các cuộc đấu tranh do những người Dân tuý (các tầng lớp phi quý tộc
bao gồm thương gia, tiểu tư sản, lớp thầy tu bên dưới và nông dân) lãnh đạo.[22] Nước Nga dưới
triều Aleksandr II trở thành nơi ra đời của chủ nghĩa khủng bố hiện đại.[17] Trong thập niên 1870

và 1880, những người theo chủ nghĩa dân túy đóng vai trị khơng nhỏ trong cuộc đấu tranh chống
chế độ quân chủ chuyên chế,[23] và Aleksandr II là mục tiêu của nhiều vụ ám sát (1866, 1867,
1879, 1880).[11] Phong trào công nhân Nga cũng thành lập một số tổ chức trong thời gian này.[1]
Nga hoàng Aleksandr II đã cưới Quận chúa Maria Aleksandrovna xứ Hesse từ khi ông còn là
Thái tử. Tuy nhiên, cuối năm 1864, trong một chuyến viếng thăm chính thức đến học viện
Smolny tại Sankt-Peterburg, ông gặp một nữ sinh tên là Yekaterina Mikhailovna Dolgorukova,
và yêu say đắm người phụ nữ này.[24] Ông và Dolgorukova có bốn người con; họ đã gửi thư tình
cho nhau trong suốt 15 năm, lại cịn cưới nhau khi Hồng hậu Maria qua đời năm 1880. Tháng 5
năm 2007, người ta đem bán đầu giá 11 bức thư tình được Aleksandr II viết từ tháng 2 năm 1868
cùng với 11 bức thư tình khác do tình nhân trẻ tuổi viết cho nhà vua từ tháng 10 năm 1871. [25][12]
Nếu vua Aleksandr II không bị ám sát, ông sẽ ban hành bản Hiến pháp đầu tiên của nước Nga
vào giai đoạn tự do chủ nghĩa như ở châu Âu:[17] vào ngày 13 tháng 3 [cũ 1 tháng 3] năm 1881, ông
đã phê duyệt bản hiến pháp Loris-Melikov, theo đó thành lập hai ủy ban lập pháp, gồm những
đại biểu được gián tiếp bầu chọn. Tuy nhiên, đúng ngày đó, những thành viên thuộc một tổ chức
khủng bố cánh tả là Narodnaya Volya (Dân ý) đã đặt bom ám sát ơng.[26] Ơng bị thương nặng và
qua đời cùng ngày, trong khi nhà cách mạng Ignacy Hryniewiecki - người đã làm nổ quả bom cũng thiệt hại.[22] Sau đó, Nga hồng Aleksandr III lên nối ngơi đã duy trì một chính sách chun
chế hơn, bãi bỏ nhiều cải cách của tiên đế[10] và không chấp thuận hiến pháp Loris-Melikov[27], mở
ra một thời kỳ của sự bảo thủ và trấn áp.

Mục lục


1 Tuổi trẻ



2 Những cải cách của Aleksandr II
o

2.1 Bối cảnh lịch sử


o

2.2 Giải phóng nơng nơ năm 1861

o

2.3 Những cải cách khác và sự phát triển của tư bản chủ nghĩa

o

2.4 Ban thưởng những người trung thành và khuyến khích chủ nghĩa dân tộc Phần Lan phát triển ở










3 Những hoạt động đối ngoại
o

3.1 Bán Alaska cho Hoa Kỳ

o

3.2 Những cuộc bành trướng tại Trung Á


o

3.3 Chiến tranh chống Ottoman

o

3.4 Quan hệ với các nước Á Đông

4 Bạo loạn dưới thời Aleksandr II
o

4.1 Đối phó với phong trào khởi nghĩa Ba Lan

o

4.2 Chủ nghĩa dân túy và phong trào công nhân

o

4.3 Những vụ ám sát hụt nhằm vào Aleksandr II (1866 - 1880)

5 Cái chết của Aleksandr II
o

5.1 Đề xuất của Mikhail Tarielovich, Bá tước Loris-Melikov

o

5.2 Diễn biến vụ ám sát (1881)


6 Gia quyến
o

6.1 Aleksandr II và Yekaterina M. Dolgorukov

o

6.2 Những bức thư tình được bán đấu giá



7 Nhận định



8 Trong tiểu thuyết



9 Tổ phụ



10 Xem thêm



11 Chú thích




12 Tài liệu tham khảo



13 Liên kết ngồi


[sửa] Tuổi trẻ

Công chúa Phổ Charlotte cùng với hai đứa con đâu lịng là Aleksandr và Maria Nikolaievna.
Ơng chào đời năm 1818 tại thành phố Moskva,[11][28] là con của Đại Công tước Nga Nikolai và
Công chúa Alexandra Fyodorovna - con gái Friedrich Wilhelm III của Phổ và Louise của
Mecklenburg-Strelitz. Trước khi cưới Đại Cơng tước Nikolai và theo Chính Thống giáo Đơng
phương, cơng chúa Fyodorovna có tên là Charlotte, cịn Nikolai thì trở thành Nga hồng năm
1825.[8] Thiếu thời, ơng đã bộc lộ chút ít tiềm năng cơ bản của mình; đến khi ơng lên ngơi năm
1855, tuổi 37, một số người cho rằng hậu thế sẽ xem Aleksandr là một ơng vua có khả năng thực
hiện những cải cách mang tính thử thách nhất trong lịch sử Nga, kể từ thời vua Pyotr Đại đế
(1682 - 1725).
Việc giáo dục vị Nga hoàng tương lai được thực hiện dưới sự giám sát của một nhà thơ lãng mạn
theo xu hướng tự do, đồng thời cũng là một dịch giả tài ba tên là Vasily Andreyevich
Zhukovsky[6], cùng với M. M. Speransky và E. F. Kankrin.[29] Ông được dạy kỹ một vốn kiến thức
nông cạn trong rất nhiều môn học, và trở nên rành rọt những ngôn ngữ tiêu biểu ở châu Âu thời
hiện đại. Các thầy cho rằng Thái tử Aleksandr là người có thiện ý, hịa đồng, rất giỏi mơn khoa
học nhưng có thói dễ lùi bước trước khó khăn.[29] Cả thầy Zhukovsky và vua cha Nikolai I đều cố
gắng truyền ảnh hưởng vào con người Aleksandr. Năm xưa, bác của ông là Aleksandr I - được
giáo dục bởi một ông thầy học theo Jean-Jacques Rousseau và có tư tưởng Cộng hịa người Thụy
Sĩ - từng là vị hồng đế có tư tưởng tự do, hoặc là một người chuyên quyền theo chủ nghĩa nhân
đạo ở một mức độ nào đó, nay Aleksandr cũng vậy.[8]

Thưở bé, Aleksandr đã tỏ ra yêu thích những hoạt động quân sự, chẳng hạn như những cuộc
duyệt binh hoặc những trò chơi chiến sự.[30] Sau này ông đã trở thành sĩ quan chỉ huy của đội vệ
binh. Kể từ khi Aleksandr được tấn phong làm Hồng thái tử, ơng trở thành Hiệu trưởng của một
trường quân sự tại Nga. Khác với vua cha, ông không u thích qn đội Nga thời bấy giờ. Có
người cho rằng ảnh hưởng từ thầy Zhukovsky đã khiến ông không có thiện cảm với quân đội


Nga.[31] Các sử gia về sau đã phát hiện rằng ông không có hứng với việc quân sự, và có lẽ đây chỉ
là phản ứng của ông đối với thất bại của Hoàng gia Nga trong cuộc Chiến tranh Krym, và đối với
những hậu quả mà đất nước phải gánh chịu trong cuộc chiến tranh tàn khốc này. Thái tử
Aleksandr đã thực hiện một chuyến hành trình sáu tháng, thăm viếng 20 tỉnh trên khắp nước
Nga[32], một việc làm khác thường trong thời kỳ này. Ông cũng thăm viếng nhiều quốc gia giàu
mạnh ở Tây Âu.[33] Ông trở thành Thái tử nhà Romanov đầu tiên đến thăm Xibia. [34]
Ngày 2 tháng 3 năm 1855, Nga hoàng Nikolai I lâm bệnh mất, trong lúc chiến tranh Krym còn
tiếp diễn. Theo đạo luật về quyền thừa kế ngơi Hồng đế (ban hành năm 1797),[11] hồng thái tử
Aleksandr lên nối ngơi ở tuổi 36,[8] tức là Hoàng đế Aleksandr II của Nga. Ngày 26 tháng 8 năm
1856, ông làm lễ đăng quang tại Đại giáo đường Uspensky (Cái chết của Đức Mẹ Đồng trinh) ở
điện Kremlin (Cẩm Linh).[35]

[sửa] Những cải cách của Aleksandr II
[sửa] Bối cảnh lịch sử
Trong thời gian cầm quyền của mình (1825 - 1855), Nga hồng Nikolai I đã thực hiện những
chính sách chuyên chế. Dưới thời Nikolai I, đế quốc Nga lâm vào tình trạng quan liêu và kinh tế
suy sụp. Theo đủ thứ hình thứ của chế độ đương thời, trật tự quân đội được thành lập ở kinh đơ
Sankt-Peterburg. Năm 1825, triều đình Nikolai trấn áp cuộc nổi dậy Tháng Chạp, do những sĩ
quan quân đội theo xu hướng tự do cầm đầu.[22] Trong xã hội, địa chủ đối xử với nơng nơ chẳng
khác gì đối xử với loài thú vật. [36]
Tuy nhiên, dưới chế độ độc đốn khe khắt của Nga hồng Nikolai I, nền văn hóa lại phát triển
rầm rộ ở thành phố Sankt-Peterburg. Đây là thời đại của nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng tăm trong
lịch sử Nga, chẳng hạn như Aleksandr Sergeyevich Pushkin, Mikhail Ivanovich Glinka hay

Fyodor Mikhailovich Dostoevsky. Puskin thì đã kết thúc sự nghiệp văn thơ vào năm 1837 khi
nhà thơ này chết trong một cuộc đấu súng, để lại cho đời sau những tác phẩm. Còn Glinka là một
trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử Nga, đã bỏ thời gian ra chế tác những vở nhạc
kịch và nhạc thính phịng có tiếng tăm tại kinh đơ Peterburg. Fyodor Dostoyevsky thì là một nhà
văn, từ năm 1837 đến năm 1844 Dostoyevsky cư ngự tại Peterburg, cho ra mắt các tác phẩm.[22]
Dostoyevsky trở thành một người bất đồng chính kiến với triều đình Nga hồng, tham gia trong
phong trào trí thức Nga "Petrashevsky". Dù cao trào cách mạng ở Tây Âu năm 1848 (được sự
tham gia của một số người Nga như Herzen hay Bakunin) đã kết thúc, Nikolai I vẫn lo sợ chế độ
Nga hoàng phải chống nhau một cao trào cách mạng như thế, nên thực hiện chính sách trấn áp.
Quan quân đi lùng bắt các thành viên của tổ chức Petrashevsky, bỏ họ vào hầm của pháo đài
Thánh Phêrô và Phaolô.[37] Năm 1849 nhà văn này súy nữa thì bị hành hình trước khi được giảm
án mà đày sang Xibia. [38]


Nga hoàng Aleksandr II được xức dầu thánh.
Mặc dù nền kinh tế lạc hậu, nước Nga cũng dần dần thực hiện những bước tiền trên con đường
phát triển kỹ thuật. Vào năm 1837, người ta khai thông một tuyến đường sắt nối liền kinh thành
Sankt-Peterburg với "Hồng Thơn" (Tsarskoye Selo) của Hoàng gia Nga. Năm 1851, người ta lại
hoàn thành tuyến đường sắt thứ hai trong lịch sử Nga, kết nối Sankt-Peterburg với Moskva. [22]
Trước đó, năm 1851 người ta dựng nên cây cầu vĩnh cửu đầu tiên bắc qua sông Neva, không phải
sử dụng những chiếc cầu phao tạm như trước đó nữa. Năm 1853, đế quốc Ottoman - được sự
giúp đỡ của quân Anh, Pháp - tuyên chiến với Nga. Chiến tranh Krym bùng nổ và kéo dài cho
đến năm 1856. [39]
Từ sau cuộc khởi nghĩa nông dân trong các năm 1773 - 1775, chế độ nông nô Nga suy sụp.[9] Một
phong trào nhân đạo đang phát triển, ở những năm sau này đã liên kết với phong trào bãi nô ở
Hoa Kỳ trước cuộc nội chiến nước này, tấn cơng chế độ nơng nơ. Năm 1859, có 23 triệu nơng nơ
(tổng dân số Nga khi đó là 67,1 triệu người)[40], sống trong những điều kiện thường là tồi tệ hơn
so với các nông dân Tây Âu tại các thái ấp thế kỷ 16. Nga hoàng Aleksandr II lên ngơi giữa lúc
cuộc chiến tranh Krym vẫn cịn tiếp diễn, lợi thế nghiêng về đối phương. Sau khi Sevastopol thất
thủ, một cận thần của Nga hồng là Cơng tước Gorchakov đã tiến hành đàm phán hóa bình. Với

việc ký kết Hiệp ước Paris, cuộc chiến tranh Krym chấm dứt,[41] đế quốc Nga mất vùng lãnh thổ
phía nam.[42] Thất bại ê chề trong cuộc chiến tranh Krym đã làm cho đế quốc Nga bị choáng váng
và nhục nhã.[22][43] Những vụ hối lộ, trộm cắp và tham nhũng xảy ra ở mọi nơi.[44] Trước tình cảnh
đó, nhiều người Nga mong muốn cải cách. Nền kinh tế đất nước cần phải được chấn hưng và và
nền chính trị phải được giữ ổn định hơn trước.[22] Với những ý định này, Nga hoàng Aleksandr II
đã đề xướng những cải cách tiến bộ:

[sửa] Giải phóng nơng nơ năm 1861
Bài chi tiết: Cải cách giải phóng nơng nơ năm 1861


Nga hoàng Aleksandr II chào thần dân.
Khi Aleksandr II lên ngơi hồng đế năm 1855, chưa có sự báo trước rằng ông sẽ là một nhà cải
cách.[11] Cuộc chiến vùng Krym khiến ơng nhận ra rằng nước Nga khơng cịn là một thế lực lớn
về quân sự nữa. Những cố vấn của ông cho rằng nền kinh tế phụ thuộc vào nông nô của Nga sẽ
không thể cạnh tranh với các nước cơng nghiệp hóa như Anh và Pháp. Giờ đây Aleksandr II bắt
đầu nghĩ đến khả năng kết thúc của chế độ nông nô ở Nga.[41] Tuy nhiên, ý định cải cách của ông
đã gặp phải sự phản đối từ tầng lớp quý tộc, và Nga hoàng đã tuyên bố với một nhóm quý tộc
thành phố Moskva[41] vào ngày 30 tháng 3 năm 1856: [29][45]

T
ốt
h
ơ
n

h

y
b


c
h
ế
đ

n
ô
n
g
n
ô
từ
b
ê


n
tr
ê
n
cị
n
h
ơ
n

c
h


c
h
o
đ
ế
n
k
hi
n
ơ
n
g
n
ơ
tự
gi
ải
p
h
ó
n
g
m
ìn
h
từ
b
ê
n
d

ư


ới
.


N
g
a
h
o
à
n
g
A
l
e
k
s
a
n
d
r
I
I

Dù là vị Hoàng đế nắm quyền hành chuyên chế trị vì đế quốc Nga, trong một vài năm ơng có
những hoạt động hơi giống một vị vua lập hiến của đế quốc rộng lớn này. Đại văn hào Fyodor
Mikhailovich Dostoyevsky - vốn đã bị đày sang Xibia như đã nêu - được Nga hồng mới khơi

phục địa vị trong tầng lớp quý tộc cũng như trong quân đội Nga. Năm 1859, ông cũng cho phép
Dostoyevsky được về Sankt-Peterburg sau 10 năm lưu đày mà sống trong quãng đời còn lại,
nhưng không ban cho văn hào này một đặc ân hay đặc lợi gì đồng thời Dostoyevsky khơng thể
thốt khỏi tầm theo dõi của lực lượng cảnh sát an minh. Dù sao thì sự khoan hồng của Nga
hồng cũng là một trong những lý do khiến Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky thay đổi quan
điểm.[46][37]
Triều đình Aleksandr II giải quyết số phận của giai cấp nông nô một cách táo bạo. Những địa chủ
người Ba Lan ở các tỉnh thuộc Litva hy vọng rằng tình hình quan hệ giữa họ với các nơng nơ có
thể được dung hịa và trở nên tốt đẹp hơn (thực chất, các địa chủ mong muốn tình hình quan hệ
địa chủ - nông nô sẽ trở nên tốt đẹp hơn đối với chính họ), và kiến nghị với triều đình Nga hồng
về hy vọng này. Thế là ơng cho phép hình thành những ủy ban " cải thiện thân phận của những
người nông dân", và đặt ra những quy định mà theo đó việc cải thiện được thực hiện.
Bước tiến này được tiếp nối bởi một bước tiến quan trọng hơn. Không tham vấn các cố vấn
thông thường của mình, Aleksandr hạ lệnh cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ gửi một thông tư cho các
tỉnh trưởng của phần thuộc châu Âu của Nga, trong đó có chứa một bản sao của các chỉ thị đã


được gửi đến quan Toàn quyền xứ Litva, tán dương lịng hào phóng vốn đã được địi hỏi, cũng
như những ý định mang tính yêu nước của các địa chủ xứ Litva, và cho rằng có lẽ các địa chủ ở
những tỉnh khác đã bày tỏ một mong muốn tương tự. Trong thơng thư này có một đoạn ghi bóng
gió: "ở tất cả những tỉnh có nơng nơ tồn tại, những ủy ban giải phóng được hình thành".
Nhưng cơng cuộc giải phóng khơng chỉ là một vấn đề nhân đạo có thể được giải quyết ngay lập
tức bởi Sắc lệnh (ukase) của chế độ Nga hồng. Cuộc giải phóng chứa đựng nhiều vấn đề rất
phức tạp, ảnh hưởng sâu sắc đến kinh tế, xã hội, chính trị và tương lai của tồn thể dân tộc Nga.
Aleksandr II cịn phải lựa chọn một trong hai phương sách mà người ta đã thỉnh cầu ông thực
hiện: hoặc là để nông nô trở thành những người nông dân lệ thuộc về kinh tế và hành chính đối
với các địa chủ, hoặc là họ sẽ trở thành một tầng lớp mới: đó là tầng lớp chủ sở hữu ở các công
xã độc lập. Trước khi nhà vua ban bố "Sắc lệnh giải phóng nơng nô", vào năm 1860 nhà văn nổi
tiếng người Nga Ivan Sergeyevich Turgenev đã viết tác phẩm "Đêm Hôm Trước" (On the Eve),
thể hiện sự mong muồn của nhân dân Nga đối với cải cách của chế độ Nga hoàng. [37]

Cuối cùng thì Nga hồng Aleksandr đã ủng hộ phương sách thứ hai. Cụ thể hơn, sáu năm sau khi
Aleksandr II lên ngôi, ngày 3 tháng 3 năm 1861, luật giải phóng đã được ký kết và ban bố.
Những người tham gia vào việc thực hiện bản tun ngơn giải phóng là Đại Công tước
Konstantin - em trai của Aleksandr II, Yakov Ivanovich Rostovtsev và Nikolay Alekseyevich
Milyutin. Ngày 3 tháng 3 (19 tháng 2 (Lịch Julian) là ngày Aleksandr II được thần dân mến mộ
nhất trong đời ông.[11] Với "Sắc lệnh giải phóng nơng nơ", hồng đế tun bố rằng chế độ nơng nơ
sẽ bị bãi bỏ và tồn bộ nơng dân sẽ có thể mua đất từ các địa chủ của họ.[41] Theo "Harmsworth
history of the world" thì khoảng 23 triệu người Nga nhận lấy quyền tự do.[47] Tuy nhiên, theo một
tài liệu của những tác giả Nga thì khoảng mười triệu người Nga đã thốt khỏi thân phận nơng nơ,
được cấp một số ít đất đai.[48] Những người nơng dân Nga trở thành một trong những nhóm nơng
dân cuối cùng ở châu Âu được tự do. Đến giờ triều đình Nga mới giải phóng nơng nơ, sau khi
chế độ nơ lệ đã bị các chính phủ Tây Âu bãi bỏ. [21] Cải cách giải phóng nơng nơ năm 1861 trở
thành cuộc cải cách nổi bật nhất dưới triều Aleksandr II. [28] Cuộc cải cách này được xem là
"phong trào xã hội vĩ đại nhất kể từ cuộc Đại cách mạng Pháp" và tạo nên một bước tiến quan
trọng cho phong trào giải phóng nhân dân lao động Nga.[8] Nó được vua Aleksandr II thực hiện
một năm trước khi Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln tuyên bố giải phóng những người nô lệ
(1862). [49][50]


Những người Cozak bái tạ Aleksandr II, trong lễ đăng quang năm 1856.
Bên cạnh đó, cuộc cải cách - bị xem là nửa vời bịp bợm[51] - vẫn còn hạn chế: những người tá điền
canh tác những mảnh đất nào cịn bị ép buộc phải trả lệ phí cho những mảnh đất đó.[22] Vì thế,
những cải cách của ơng đã làm cho người nông dân thất vọng. Ở một số vùng, người nông dân
nhận lấy đất đai trong gần 20 năm. Nhiều người bị bắt phải trả lệ phí cao trong khi đất đai của họ
thì cằn cỗi và một số người khác thì được giao cho một số lượng đất khơng thỏa đáng với mong
ước của họ. Nhìn chung, cuộc cải cách của ông cũng không đáp ứng được nhu cầu của những
người có tư tưởng tiến bộ, vì họ muốn thành lập một nền dân chủ nghị viện và tự do tư tưởng
giống như ở Hoa Kỳ và phần lớn các quốc gia châu Âu khác.[41] Sau cuộc cải cách năm 1861,
nước Nga chưa thoát khỏi sự phân chia giai cấp, ngồi ra chế độ nơng nơ xưa vẫn cịn tồn tại
những vết tích của nó. Tuy nhiên, dù sao thì cuộc cải cách cũng giúp cho chế độ tư bản thế chỗ

cho chế độ nông nô xưa, sự phân chia giai cấp Nga cũng không phải là khơng có chuyển đổi.
Vladimir Ilyich Lenin, trong Báo sự thật, có nhận định về cuộc cải cách này:[21]
...Và khi chế độ nơng nơ đã bị xố bỏ, vào cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIXI - ở nước
Nga, muộn hơn các nơi khác, vào năm 1861 - thì nhà nước tư bản thay thế cho nhà nước
phong kiến; nó tuyên bố mọi người đều được tự do, nó nói rằng nó là biểu hiện ý chí của
tất cả mọi người, nó khơng nhận nó là một nhà nước giai cấp; thế là giữa những người
xã hội chủ nghĩa đấu tranh cho tự do của toàn thể nhân dân và nhà nước tư bản diễn ra
một cuộc đấu tranh, nó vừa đưa đến việc thành lập nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa xôviết và đang lan tràn khắp thế giới.

[sửa] Những cải cách khác và sự phát triển của tư bản chủ nghĩa


Nga hồng Aleksandr II và vợ ơng, Hồng hậu Maria, cùng với con trai là Nga hồng Aleksandr
III tương lai.
Ít lâu sau cuộc đàm phán hịa bình nhằm chấm dứt chiến tranh Krym, những thay đổi quan trọng
được thực hiện trong luật pháp về công thương nghiệp, và sự tự do mới này đã dẫn đến sự thành
lập rất nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn, phát triển hệ thống ngân hàng và gia tăng xuất khẩu
ngũ cốc. Dưới triều vua Aleksandr II, nền kinh tế Nga đạt được không ít thành quả. Người ta còn
dự định xây dựng một mạng lưới đường sắt to lớn, nhằm mục đích khai thách nguồn tài nguyên
thiên nhiên của đất nước, và cũng nhằm mục đích gia tăng sức mạnh của nó trong việc phịng thủ
và tấn cơng. Sách Về trí thức Nga - Tập tiểu luận về tầng lớp trí thức Nga ghi nhận:
Nền kinh tế Nga đạt nhiều thành tựu: chiều dài đường sắt tăng từ 965 km lên 22.525 km,
quá trình xây dựng đường sắt đã kích thích rất nhiều sự phát triển kinh tế theo chiều
hướng tư bản.[48]
Trong bốn mươi năm đầu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa tư bản nước Nga (1861 – 1917),
hệ thống sản xuất đại công nghiệp được thiết lập. Trong thời gian này, các ngành cọng nghiệp
nặng có 30% tỷ trọng, trong khi Nga có sản lượng nhiều hơn trước đến bảy lần. Về những ngành
khai thác nguyên liệu khoáng, đúc gang, sản xuất thép và chế tạo máy (mà quan trọng hơn cả là
ngành chế tạo các phương tiện vận tải), Nga gần nhu không thua Pháp. Người Nga cũng thiết lập
hệ thống cho vay và mượn tiền ở ngân hàng. Có hệ thống này thì dĩ nhiên là phải thành lập ngân

hàng. Nga có đến 39 ngân hàng vào năm 1876, đến năm năm 1900 thì tăng lên 43 ngân hàng. [1]
Ngồi những cải cách nói trên, Nga hồng Aleksandr II còn thực hiện những cải cách về quân
đội và pháp luật.[22] Trong khi các nước khác ở châu Âu đang thực hiện những cuộc cải cách về
quân sự, Nga nhận lấy chiến bại nặng nề trong Chiến tranh Krym không lâu trước đó. Trước tình
cảnh này, triều đình Aleksandr II thực hiện việc chỉnh đốn và tái vũ trang Quân đội và Hải quân.
Những thay đổi bao gồm chế độ cưỡng bách tịng qn tồn thể mọi người, được bắt đầu vào
ngày 1 tháng 1 năm 1874.[52] Theo đó, con trai của những người giàu, nghèo, thuộc các "đẳng
cấp" khác nhau đều phải phục vụ trong quân đội.[53] Những cải cách khác là thành lập một đạo
quân dự bị và cơ cấu quản hạt có trách nhiệm trơng coi việc qn sự (khơng bị xóa bỏ trong thế


kỷ sau đó) hay việc xây dựng những con đường sắt chiến lược. Ngoài ra, việc giáo dục về quân
sự đối với các quân đoàn của sĩ quan cũng được chính quyền nhấn mạnh, các trường học quân sự
được cải tiến. Nhục hình trong quân sự và một hình phạt khác là làm ô danh các binh sĩ cũng bị
bãi bỏ.[54] Cải cách về quân sự năm 1874 được xem là cải cách quan trọng cuối cùng của
Aleksandr II.[11]
Năm 1864, triều đình ban bố đạo luật cải tổ luật pháp.[55] Với đạo luật này, hệ thống tư pháp Nga
về nhiều mặt quan trọng có thể so sánh được với hệ thống tư pháp các nước phương Tây. Cũng
theo đạo luật này, các hội đồng địa phương được thiết lập thông qua việc bầu cử (zemstva). Về
những vấn đề giáo dục, y tế, các ngành nghề thủ công, nông nghiệp,… các hội đồng này được
quyết tự quyết. Tuy nhiên, quyền bầu cử thành viên lại hạn chế về tay những người giàu có.[41]
Ngồi ra, triều đình cũng xóa bỏ những hình phạt có thể gọi là "mọi rợ", cũng như những quy
định quản lý xã hội mang tính chuyên chế. Việc thiết lập nhiều trường đại học ở Nga đã đạt thành
tựu lớn: đến năm 1897, có đến hơn một trăm nghìn người Nga có trình độ đại học.[48]
Năm 1870, triều đình cũng thực hiện cải cách nữa về chính quyền thành phố.[41] Nhờ có cải cách
này, chính quyền thành phố Sankt-Peterburg nhận được quyền tự trị ở mức độ cao nhất.[22] Dù
Aleksandr II là vị hồng đế có tư tưởng tự do, dưới triều ông người Do Thái không được phép
th nơ lệ người Ki-tơ giáo, khơng có đất mà làm chủ và hạn chế đi lữ hành. [56]

[sửa] Ban thưởng những người trung thành và khuyến khích chủ nghĩa dân tộc

Phần Lan phát triển ở Nga

Đài tưởng niệm Aleksandr II (Romanov) ở Helsinki, Phần Lan.
Năm 1863 Nga hoàng Aleksandr II tái lập Nghị viện Phần Lan và thực hiện một số cải cách
nhằm gia tăng quyền tự trị của xứ Phần Lan trong đế quốc Nga. Ông cho thành lập đơn vị tiền tệ
riêng của Phần Lan - Markka. Sự tự do thương mại đã khiến cho nước ngoài tăng cường đầu tư
vào Phần Lan và công nghiệp được mở rộng.


Cuối cùng, tiếng Phần Lan được nâng lên từ một ngôn ngữ của dân chúng thành một ngôn ngữ
quốc gia ngang hàng với tiếng Thuỵ Điển. Cải cách này đã tạo sự cân xứng không nhỏ trong xã
hội. Đến nay, người Phần Lan vẫn xem Aleksandr II như một Nga hồng có lịng nhân ái.
Những cải cách này có thể được xem như kết quả của một ý nghĩ chính xác rằng cải cách dễ
được thực hiện ở một vùng đất thưa dân, thuần nhất hơn là ở nước Nga rộng lớn. Chúng cũng có
thể được xem như sự ban thưởng cho lịng trung thành của những thần dân Đơng Tây của triều
đình Nga trong cuộc chiến tranh Krym và cuộc khởi nghĩa của nhân dân Ba Lan. Việc khuyến
khích sự phát triển của ngôn ngữ và chủ nghĩa dân tộc Phần Lan cũng có thể được xem như là
một cố gắng để làm giảm bớt những phụ thuộc vào vương quốc Thụy Điển.
Mười ba năm sau khi ông bị ám sát, đài tưởng niệm Nga hoàng Aleksandr "Nhà giải phóng" tại
Quảng trường Thượng Nghị viện được xây dựng ở Helsinki năm 1894. Khi đó, Phần Lan vẫn là
một cơng quốc thuộc đế quốc Nga. Dưới tượng đài có ghi niên đại "1863" - tức năm tái lập Nghị
viện Phần Lan. Đài tưởng niệm này, nêu rõ lòng biết ơn của nhân dân Phần Lan đối với Nga
hoàng Aleksandr II, vẫn tồn tại nguyên vẹn qua nhiều thời kỳ căng thẳng và chiến tranh với Nga
dưới nhiều chính thể của quốc gia rộng lớn này về sau.
Dù không triệt để, những cải cách nêu trên của Nga hoàng Aleksandr II - còn gọi là cuộc "đại cải
cách" - thường được xem là những sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử nước Nga thời cận đại,
kể từ thời vua Pyotr Đại đế cho đến khi những phong trào cách mạng Nga năm 1905 và 1907
bùng nổ. [57]

[sửa] Những hoạt động đối ngoại


Nga hoàng Aleksandr II qua nét vẽ của Konstantin Makovsky (1881).
Vấn đề Đông phương là vấn đề đầu tiên mà chính sách đối ngoại của Nga hồng Aleksandr II
hướng tới. Chiến bại của quân Nga tại vùng Krym đã làm vị thế quốc tế của Nga bị suy giảm và
làm Nga mất đi thế mạnh của họ trên vùng Balkan. Sự trung lập hóa Biển Đen đã khiến cho vùng
biển tại biên giới phía nam của nước Nga khơng được phòng vệ, thế là sự phát triển của miền
Nam Nga và phá vỡ sự mở rộng của việc ngoại thương. [14]


Dưới triều vua Aleksandr II, các nhà ngoại giao Nga mong muốn xóa bỏ các điều khoản của
Hiệp ước Paris. Để thực hiện được ý đồ này, Nga cần phải có một đồng minh đáng tin cậy. Thời
bấy giờ, Anh là đối thủ nguy hiểm nhất của Nga, tranh giành thuộc địa với Nga tại vùng
Transcaucasia và Trung Á. Đế quốc Áo-Hung thì cố gắng lập lại trật tự tại vùng Balkan. Đế quốc
Ottoman thì thực hiện chính sách thân Anh, còn Phổ là một nước yếu. Như vậy Nga cần phải nối
lại tình hữu nghị với đế chế Pháp - nước cạnh tranh với đế quốc Anh tại Địa Trung Hải. Để nâng
cao vị thế của Nga ở phía Đơng, chính quyền Nga hồng giúp đỡ cuộc khởi nghĩa của tín đồ Kitơ giáo chống Sultan Ottoman.[14]
Tháng ba năm 1859, Hiệp ước Pháp-Nga được ký kết. Theo đó, Nga hồng giữ vai trị trung lập
trong cuộc chiến của Pháp và Sardinia chống quân Áo-Hung. Tuy nhiên, tin chắc rằng Pháp
không ủng hộ Nga trong những vấn đề Nga quan tâm ở phía Đơng, Nga hồng đã cố gắng lập lại
tình hữu nghị với Vương quốc Phổ. [14]
Trong một chuyến thăm viếng Liên bang Nga của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, Tổng
thống Nga lúc đó là Dmitry Anatolyevich Medvedev đã gởi tặng Obama một bộ sưu tập văn kiện
lịch sử. Bộ sưu tập bao gồm 10 bản sao thư của Nga hoàng Aleksandr II gửi Abraham Lincoln vị tổng thống thứ 16 trong lịch sử Hoa Kỳ - được viết bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Dưới những
lá thư đó có dịng ký của Aleksandr II: Người bạn tốt của ngài. Ngồi ra, bộ sưu tập cịn chứa
một bản sao của bài diễn văn gửi Nga hoàng Aleksandr II của nhân dân các bang miền Bắc Hoa
Kỳ nhằm cảm ơn sự cảm thông và giúp đỡ họ của nước Nga trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ.[58]
Năm 1874, nhận lời mời của nữ hoàng Anh là Victoria, Nga hoàng Aleksandr II đã thực hiện
chuyến viếng thăm đến Vương quốc Anh. [59]

[sửa] Bán Alaska cho Hoa Kỳ

Bài chi tiết: Thương vụ Alaska
Năm 1867, đế quốc Nga đã bán các đảo Aleutian[35] và vùng đất Alaska có diện tích
1.600.000km2 cho Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Trước khi việc bán đất được thực hiện, Alaska và
Xibia là “một” vùng nằm trong đế quốc Nga. Lúc bấy giờ, triều đình Aleksandr II cịn đang đối
địch với Hoàng gia Anh.[60] Do lo ngại rằng nước Nga sẽ không giữ vững được Alaska, ông
truyền lệnh cho đại sứ Nga tại Hoa Kỳ là Eduard de Stoeckl thương thuyết với ngoại trưởng Hoa
Kỳ là William Seward, nhằm mục đích bán Alaska cho Hoa Kỳ, tránh trường hợp vùng đất địa
đầu này bị đế quốc Anh chiếm đóng. Đêm 30 tháng 3 năm 1867, hai bên thực hiện thương
thuyết, đến 9 giờ sáng, phía Nga chấp nhận bán Alaska với giá 7,2 triệu đôla Mỹ, tương đương
với khoảng 1,67 tỉ đôla Mỹ ngày nay. [60]
Thương vụ Alaska đã khơng được dư luận, đặc biệt là báo chí Mỹ thời đó vui mừng, họ xem đây
là “trị điên của ngoại trưởng Seward”, “vườn gấu bắc cực của tổng thống Andrew Johnson”.[60]
Dù vậy, ngoại trưởng Mỹ Seward cho rằng thương vụ này là cả một tính tốn về chiến lược.
Vùng Alaska nằm gần sát với Canada, một phần thuộc đế quốc Anh. Mục đích của việc bán
Alaska là Mỹ sẽ cùng liên minh với Nga đương đầu với Anh. Trước đây, Nga là nước ủng hộ phe
liên quân trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, trong khi Anh thì ngược lại. Ngày 18 tháng 10 năm


1867, hai bên thực hiện lễ chuyển giao vùng đất Alaska. Tuy nhiên, cho tới năm 1917 (50 năm
sau thương vụ Alaska) và tới ngày nay, người Nga đã hối hận về thương vụ Alaska.[60]

[sửa] Những cuộc bành trướng tại Trung Á

Chiến bại của quân Nga trước du mục Khiva.
Quan hệ thương mại với Trung Á - một yếu tố rất quan trọng đối với nền kinh tế nước Nga - trở
nên rắc rối vì những bất đồng trong nội bộ vùng này. Triều đình Nga hồng tỏ ra lo ngại trước
những cố gắng về ngoại giao của Anh nhằm chiếm lấy các Hãn quốc Kokand và Khiva thông qua
vua Afghanistan. Cùng với vua cha Nikolai I và vua con Aleksandr III, Aleksandr II tiếp tục mở
mang lãnh thổ của đế quốc Nga rộng lớn.[61]
Năm 1864, quân đội Nga bắt đầu tiến đánh các Hãn quốc vùng Trung Á. Mùa xuân năm 1866, họ

gặt hái thành công trong những chiến dịch đánh đánh Bukhara. Tháng 3 năm 1868 vua xứ
Bukhara tuyên bố một cuộc "thánh chiến" chống Nga hoàng, nhưng bị đánh bại. Tháng 6 năm đó
vua xứ Bukhara phải ký một hịa ước bất bình đẳng với chính phủ Nga hồng. [14]
Nga đã thơn tính được Bukhara, vùng Trung Á còn một Hãn quốc lớn nữa là Khiva. Tuy nhiên,
trước khi xâm lược xứ này, chính phủ Nga hồng quyết định dùng những biện pháp làm giảm sự
căng thẳng trong quan hệ với Vương quốc Anh. Năm 1873, sau một thời gian thỏa thuận, hai
nước Anh và Nga công nhận Afghanistan là một vùng trung lập, ngoài ra Nga được phép xâm
chiếm xứ Khiva. Tháng 2 năm 1873 quân đội Nga mở màn chiến dịch đánh Hãn quốc Khiva.
Tháng 5 năm 1873 vua Khiva đầu hàng, sang tháng 8 năm đó vua Khiva phải ký một hiệp ước
với đế quốc Nga: xứ Khiva trở thành một chư hầu của Nga hoàng. [14]
Sau khi dập tắt một cuộc khởi nghĩa tại Kokand (1875-1876), ngày 19 tháng 2 năm 1876 Nga
hoàng tuyên bố vùng Kokand trở thành một phần của xứ Turkistan thuộc Nga. Tuy nhiên, các
Hãn quốc Bukhara và Khiva đã dữ được nền độc lập trên danh nghĩa. Trong các năm 1878 - 1879
Vương quốc Afghanistan cũng bị thực dân Anh xâm chiếm và bảo hộ.
Ngoài ra, đầu thập niên 1870, quân đội Nga hoàng bắt đầu tiến đánh các bộ lạc Turkmen. Triều
đình Nga thực hiện chính sách chấp thuận những truyền thống bản địa của dân thuộc địa Trung
Á. Người Nga cũng xây dựng luật pháp tại Trung Á. Xung đột nội bộ vùng Trung Á kết thúc.
Người Nga và người các nước láng giềng được tự do di cư đến Trung Á. [14]
Thời bấy giờ người Nga cũng tiến đánh vùng Kavkaz và chiếm được nhiều vùng đất. Trong thập
niên 1860 Nga hoàng Aleksandr II đã hoàn thành cuộc chinh phạt vùng Kavkaz.[8] Tháng tư năm
1873, hai nước Nga và Đức ký kết hiệp ước quân sự và phòng thủ. Cùng năm đế quốc Áo-Hung
và Đức ký kết với Nga một hiệp ước chính trị: "Liên minh ba hoàng đế" được thành lập.


Nhìn chung, dưới triều vua Aleksandr II, nước Nga được mở rộng tới Trung Á - một khu vực có
nhiều khoáng sản, chinh phục các quốc gia Turkestan, Bokhara và Khiva trong thập niên 1870,
cũng như Vùng liên Caspi. [62]

[sửa] Chiến tranh chống Ottoman
Bài chi tiết: Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877-1878)

Xem thêm: Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ, Hội nghị Constantinopolis, và Hội nghị Ln
Đơn

Đài tưởng niệm vị Nga hồng giải phóng ở Sofia, tưởng nhớ vai trị quyết định của Aleksandr II
đối với cuộc giải phóng Bulgaria khỏi ách thống trị của Thổ (Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ
(1877–1878)).
Năm 1855, Nga hồng Aleksandr II lên nối ngơi. Theo sau lễ gia miện của ơng là một câu hỏi:
"Phải làm gì với đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ?" - mà người ta thường gọi là "vấn đề Đông phương". Kể
từ khi quân đội Ottoman chiếm kinh đô Constantinopolis của đế quốc Đông La Mã, người Nga
luôn khao khát chiếm lại Constantinopolis và đặt lại Thánh giá lên Giáo đường Hagia Sophia.
Với khát vọng này, trước đây qn Nga đã khơng ít lần giao chiến với quân Ottoman. Vấn đề này
đã chi phối chính sách đối ngoại của Aleksandr II, cuối cùng dẫn tới chiến tranh. [63]
Trước chiến tranh, Serbia đã được tự trị năm 1833,[64] còn Bulgaria vẫn là xứ thuộc đế quốc
Ottoman. Năm 1875, khủng hoảng chính trị xảy ra ở Balkan. Do chính quyền Ottoman đánh sưu
cao thuế nặng lên người dân Bosnia và Herzegovina, họ phải nổi dậy đấu tranh. Người Serbia
thấy Bosnia Herzegovina làm loạn cũng giúp những người Bulgaria - vốn đã bị trấn áp nặng nề
tại đế quốc Ottoman - vùng dậy khởi nghĩa. Chính quyền Ottoman mong muốn dập tắt nhanh
chóng các cuộc khởi nghĩa này để lấy trường hợp Bulgaria ra làm bài học cho những người khác
và trấn áp khởi nghĩa Bulgaria một cách tàn nhẫn. Trong triều đình Aleksandr II, dù Bộ trưởng
Ngoại giao Aleksandr Gorchakov là người phản đối chủ nghĩa Đại Sla-vơ, nhiều triều thần theo
chủ nghĩa này.[65] Kể từ cuối thập niên 1860, Nga hồng Aleksandr II ít quan tâm đến Hồng gia
và xã hội Sankt-Peterburg vì vướng vào mối tình khó giấu giếm với Yekaterina Dolgorukov, hơn
nữa, sự mặc cảm tội lỗi của ông đã khiến ông dễ bị tổn thương trước áp lực của các nhà dân tộc
chủ nghĩa Đại Sla-vơ - những người đã nhờ bà Hoàng hậu đau yếu bào chữa cho họ khi Serbia
tuyên chiến với đế quốc Ottoman vào năm 1876.[8][66] Được Nga xúi dục, Serbia và Montenegro
tuyên chiến với đế quốc Ottoman. Tuy nhiên Nga không thể trực tiếp tuyên chiến với Thổ


Ottoman vì trong “Liên minh ba hồng đế”, Áo-Hung khơng muốn Nga can thiệp quá mạnh mẽ
vào vùng Balkan vì họ có tham vọng đối với vùng đất đó. Aleksandr II bèn đề nghị hoàng đế ÁoHung giữ thái độ trung lập nếu Nga can thiệp vào khủng hoảng chính trị vùng Balkan. Không

nhận được sự hồi đáp, Aleksandr đã gửi tiền, quân nhu, và cả “những cựu tướng lĩnh và sĩ quan”
đến giúp phong trào khởi nghĩa vùng Balkan. Áo-Hung và đặc biệt và Anh không muốn Nga bảo
hộ Thổ Nhĩ Kỳ - đồng minh của họ trong chiến tranh Krym ngày trước. Họ đã triệu tập một Hội
nghị Constantinopolis nhưng không thành công. Trong lúc này, chiến tranh vẫn tiếp diễn, phong
trào khởi nghĩa đến hồi thất thế. Cuối năm 1876 quân Thổ Ottoman đã áp đảo quân khởi nghĩa.
Thổ Nhĩ Kỳ có 400.000 quân trong khi lực lượng khởi nghĩa của Bulgaria, Serbia, và
Montenegro chỉ có 105.000 quân. [63]

Nga hoàng Aleksandr II được chào mừng tại Bucharest, kinh đơ xứ Romania.
Cuối năm 1876, người Nga đau xót trước cảnh chính quyền Ottoman trấn áp những người anh
em Sla-vơ của họ. Dù nhiều người mong muốn vua Aleksandr II can thiệp vào tình hình Balkan,
nhưng ơng khơng muốn tuyên chiến. Ông lo sợ rằng đế quốc Áo-Hung sẽ phản ứng, dẫn đến
cuộc chiến với thế lực này. Một hội nghị khác được triệu tập nhưng cũng không thành cơng. Dù
sao thì Hội nghị Ln Đơn đã nghiêm khắc cảnh cáo thái độ bất công của Sultan Ottoman đối với
tín đồ Ki-tơ giáo. Khi người Thổ phớt lờ cảnh cáo này, đế quốc Áo-Hung cho phép Nga đánh
Ottoman. Hoàng đế Áo-Hung sẽ giữ vai trò trung lập trong cuộc chiến sắp tới - mãi cho đến khi
họ chiếm được Bosnia và Herzegovina. Những người Serbia, Hy Lạp và Montenegro sẽ dành lại
toàn bộ lãnh thổ, Bulgaria và Romania sẽ độc lập, còn Constantinopolis sẽ trở thành một thành
phố tự do. Sau những quyết định này, năm 1877, dù tự nhận là một người u hịa bình và khơng
sẵn lịng tham chiến,[67] trước áp lực của các nhà dân tộc chủ nghĩa Đại Sla-vơ[65][68] Nga hồng
tun bố ơng là người bảo vệ của giáo dân Chính Thống giáo Đơng phương sống trong đế quốc
Ottoman, rồi tuyên chiến với đế quốc này vào ngày 12 tháng 4. Đây là cuộc chiến tranh cuối
cùng trong một loạt cuộc chiến tranh Nga-Thổ trong lịch sử.[63] Ngày 10 tháng 5 năm 1877, một
xứ thuộc địa của Thổ là Công quốc Romania tuyên bố độc lập.[69] Nga hoàng Aleksandr II phái
1.200.000 quân đến đánh quân Ottoman tại vùng Kavkaz. Tuy nhiên, sự thối nát hết thuốc chữ
của quân đội Nga đã khiến cho họ nhận lấy tổn thất nặng nề và cuộc chiến trở nên đẫm máu. Dù
Aleksandr II đã cải cách quân đội Nga theo kiểu Phổ, những cải cách này đã không khiến qn
đội khắc phục tình trạng vơ học của các binh sĩ.[70][63] Tuy nhiên, khả năng chịu đau và chịu khó
của người Nga, cũng như niềm khao khát cháy bỏng muốn nhìn thấy cảnh Constantinopolis bị tái
chiếm, đã khiến họ chậm rãi tiến về phía trước.[63] Vào tháng 2 năm 1878, cuối cùng quân Nga

cũng đánh đuổi quân Thổ và kinh thành Constantinopolis hiện ra trước mắt họ, dù họ tổn thất
nặng nề. Ước mơ của biết bao người Nga đã trở thành hiện thực, Constantinopolis nhất định sẽ
thất thủ. [63]


Nguy cơ thất thủ của Constantinopolis đã khiến cho đế quốc thực dân Anh. Họ không hề muốn
Constantinopolis trở thành một "thành phố tự do" tiếp thu nhiều ảnh hưởng từ Nga. Chiến thắng
của Nga có thể đe dọa đến Kênh đào Suez mà Anh mới chiếm được và con đường bn bán của
họ tới Ấn Độ. Chính vì vậy họ khơng đời nào chịu nhìn thấy cảnh Nga kiểm soát các eo biển và
đặt ảnh hưởng lên Constantinopolis. Thế là chính phủ Anh gửi một đội tàu chiến đến biển
Marmara, lại có đe dọa sẽ cắt đứt quan hệ ngoại giao và tuyên chiến nếu Nga đánh chiếm kinh
đô Constantinopolis.[63][14] Cuộc chiến tranh Nga-Thổ cũng làm gia tăng căng thẳng với đế quốc
Áo-Hung, vì Áo-Hung cũng có tham vọng ở vùng Balkan.[71] Tương tự như Anh, Áo-Hung cũng
đe dọa chiến tranh và gửi một đạo quân đông đảo đến hịng tấn cơng bên sườn qn Nga. Trước
sự can thiệp của các đế quốc Tây Âu, Aleksandr II nhận thấy nước ơng khơng có tiềm lực về
qn sự để tham gia một cuộc chiến tranh nữa (mà lần này thì đối phương quá mạnh), bèn tiếc
nuối hạ lệnh cho quân sĩ khơng chiếm đóng Constantinopolis. Sự kiện này đã khiến cho biết bao
người Nga thất vọng. Không những thế, ông cũng nhận thấy rằng cứ kéo dài chiến tranh thì nước
Nga cũng khơng có thêm lợi lộc gì, bèn hạ lệnh ngừng bắn.[63] Những nhà ngoại giao và tướng
lĩnh theo chủ nghĩa dân tộc Nga đã thuyết phục Nga hoàng buộc triều đình Ottoman phải ký kết
Hiệp ước San Stefano.[72] Hiệp ước này được ký kết vào ngày 19 tháng 2 (3 tháng 3) năm 1878,
theo đó đế quốc Ottoman phải thừa nhận sự thành lập của Nhà nước Bulgaria (trong đó có
Macedonia và Rumelia). Đồng thời Serbia, Montenegro và Romania cũng giành được độc lập, [73]
[14]
lãnh thổ Serbia và Montenegro được mở rộng.[74] Người Bulgaria gọi vua Aleksandr II là "Czar
Osvoboditel", tức "vị Nga hồng giải phóng". Họ cịn xem ông như một trong những quốc phụ
Bulgaria, và tạc tượng ông tại trái tim của thủ đô Sofia và nhiều thành phố Bulgaria.[15] Cũng theo
hiệp ước này quyền kiểm soát của Nga đối với xứ Armenia được củng cố, tồn bộ lực lượng
Ottoman trên sơng Danube bị tiêu diệt, tất cả các nước đều có quyền ra vào các eo biển, triều
đình Ottoman phải cống cho Nga một khoản bồi thường đồ sộ[63] và hứa cải cách xứ Bosnia và

Herzegovina.[74] Như vậy là Nga hoàng Aleksandr II phá vỡ thỏa thuận trước đây với hồng đế
Áo-Hung, theo đó Áo-Hung sẽ chiếm lấy Bosnia and Herzegovina.[63] Với chiến thắng của quân
Nga trong cuộc chiến tranh 1877-1878, Hiệp ước Paris bị hủy bỏ và người Nga đã gỡ được cái
nỗi nhục thất bại trong chiến tranh Krym và chiếm được miền Bắc Bessarabia và các thành Kare,
Ardagan và Batum.[14] Chiến thắng trước đế quốc Ottoman vào năm 1878 là thành tựu lớn nhất về
mặt ngoại giao mà Nga hoàng Aleksandr II đã đạt được trong thời gian cầm quyền của ông. [35]
Hiệp ước San Stefano đã bị nhiều quốc gia phản đối, chủ yếu là Anh và Áo-Hung. Một quốc gia
Bulgaria sẽ khiến cho đế quốc Áo-Hung bị ngăn chặn từ biển Aegean và Constantinopolis, cịn
đế quốc Anh thì rất lo sợ người Nga sẽ mang ảnh hưởng lớn lao vào các eo biển và Kênh đào
Suez.[63] Vì vậy, hai đế quốc này tuyên bố rằng họ không công nhận hiệp ước San Stefano, người
Nga phải ký một hiệp ước khác với họ. Thủ tướng Đức Otto von Bismarck đã hỗ trợ việc đàm
phán dẫn tới cuộc hội đàm Berlin - một thất bại về ngoại giao của Nga. Khi Hội nghị Berlin diễn
ra, Nga hoàng Aleksandr II giận dữ, nhưng ông không thể từ chối. Dĩ nhiên là Aleksandr II
không đồng ý với việc ký kết một hiệp ước mới, nhưng nếu ông từ chối, chiến tranh nhất định
phải nổ ra. Thế là ông đành phải công nhận việc ký kết một hiệp ước mới. Hiệp ước Berlin năm
1878, điều chỉnh lại Hiệp ước San Stefano trước đó, đã được ký kết: đế quốc Ottoman lấy lại
được một phần lãnh thổ bị mất của họ, trong số đó có thành Bayazet, đế quốc Áo-Hung chiếm
giữ Bosnia và Herzegovina, còn Anh thì nhận lấy đảo Síp.[14] Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877
- 1878) chính thức kết thúc. [63]

[sửa] Quan hệ với các nước Á Đông


Xem thêm: Đại Công tước Aleksei Aleksandrovich của Nga và Thiên hoàng Minh Trị
Năm 1860, Vladivostok trở thành thủ phủ của nước Nga ở miền Viễn đơng.[8] Chính sách Cận
đơng của vua Aleksandr II gắn liền với quá trình thực dân hóa vùng đất này và phát triển quan hệ
ngoại thương giữa Nga và nhà Mãn Thanh của Trung Quốc. Lúc này, sau hai cuộc chiến tranh
thuốc phiện, triều đại Mãn Thanh đã suy yếu.
Nga hoàng đã ký kết với triều đình Mãn Thanh Hiệp ước Ái Huy năm 1858. Đây là một hiệp ước
bất bình đẳng đối với người Trung Quốc, vì theo đó họ phải nhượng cho Nga tất cả mọi vùng đất

phía bắc Hắc Long giang cùng với một phần lãnh thổ lớn ở phía Đơng Ơ Tề Lí Giang cho đế
quốc Nga.[75] Theo tác phẩm "Sử Trung Quốc" của Nguyễn Hiến Lê, năm 1860, Nga đứng ra làm
"trung gian" trong Hiệp ước Bắc Kinh giữa Anh, Pháp với Trung Quốc, lại bắt Mãn Thanh
nhượng toàn bộ miền Bắc Ơ Tê Lí Giang cho tới bờ biển và cho phép các nhà buôn người Nga
tha hồ tới Bắc Kinh. Triều đình Mãn Thanh đã mất tỉnh Maritime về tay đế quốc Nga hoàng.[8]
Ngoài ra, qua hai hiệp ước này, Nga hoàng đã nhận được quyền cai quản vùng biển ấm áp không
xa đất nước Mặt trời mọc và chính thức thành lập Hạm đội Thái Bình Dương.[76]
Năm 1855, Hiệp ước Shimoda được ký kết giữa Nhật Bản và nước Nga Sa hoàng. Với Hiệp ước
này, Nhật Bản và Nga đã thành lập mối ngoại giao song phương. Ngồi ra, Hiệp ước cịn chỉ ra
vùng biên giới Nga-Nhật nằm giữa các đảo Iturup (Etorofu), Urup (Uruppu) và hai phần của
quần đảo Kuril. Giờ đây tàu thuyền Nga đã được phép ra vào các cảng Shimoda, Hakodate và
Nagasaki của Nhật Bản. [77]
Mặc dù cả hai nước vẫn cùng cai quản Sakhalin, người Nhật lại đặt quyền cai quản lên những
hòn đảo Iturup, Kunashir (Kunashiri), Shikotan và Khabomai (Habomai) - giữa lúc người chủ
của những hòn đảo này chưa được xác định là ai. [78]
Đến năm 1875, Hiệp ước Sankt-Peterburg được ký kết giữa đế quốc Nhật và Nga: tất cả các quần
đảo Kurile giờ đây nằm dưới quyền kiểm sốt của triều đình Nhật hồng. Đáp lại, Nga được đặt
quyền cai quản lên đảo Sakhalin. Mãi đến năm 1905, chiến bại của Nga trong chiến tranh NgaNhật (1904 - 1905) đã khiến Nga mất quyền kiểm sốt phía nam đảo Sakhalin. [78]
Qua những hoạt động bành trướng đã nêu trên, Nga hồng Aleksandr II là người có những cống
hiến không nhỏ đối với sự phát triển của cái được gọi là "chủ nghĩa đế quốc hòa hợp" trong lịch
sử Nga. [8]

[sửa] Bạo loạn dưới thời Aleksandr II
Dưới thời Aleksandr II, triều đình Nga hồng phải đối phó với một vài cuộc bạo loạn.[22] Năm
1863 một phong trào khởi nghĩa bùng nổ tại Ba Lan, cuối cùng cũng nhận lấy chiến bại vào mùa
thu năm 1864.[79] Năm xưa, các thầy của ông đã cho rằng Aleksandr là người dễ lùi bước trước
khó khăn, thật vậy, trong những năm 1865 - 1866 ơng chán nản vì những cải cách của ơng đã
khơng làm cho xã hội nước Nga được hịa thuận.[80] Sang thập niên 1870 Nga hồng cịn phải đối
mặt với sự phát triển của trào lưu "chủ nghĩa dân túy" của tầng lớp thanh niên trí thức. [23]


[sửa] Đối phó với phong trào khởi nghĩa Ba Lan


Polonia, tranh của Jan Matejko, cho thấy hậu quả của cuộc khởi nghĩa tháng Giêng năm 1863, đã
bị triều đình Aleksandr II trấn áp. Những người tù chờ bị đày tới Xibia; các tướng sĩ Nga giám
sát người thợ rèn trói "Polonia", người phụ nữ đại diện cho Ba Lan.
Xem thêm: Quốc tế thứ nhất
Ngay từ khi Aleksandr II mới lên làm vua, ơng đã nói lời tun bố nổi tiếng với những người Ba
Lan: "Đừng có mơ". Thời đó, người Ba Lan sống ở Vương quốc Lập hiến Ba Lan, Tây Ukraina,
Litva, Livonia và Belarus. Trước sự đối xử bất bính đẳng của chế độ Nga hồng, người Ba Lan
đã phất cờ khởi nghĩa, xảy ra cuộc khởi nghĩa Tháng Giêng kéo dài từ năm 1863 đến năm 1864.
[81]
Năm 1863, Phổ ký kết hiệp định với Nga, theo đó Phổ ủng hộ Nga hoàng trong cuộc khởi
nghĩa tại Ba Lan.[14] Sau 8 tháng thực hiện chiến tranh du kích,[82] quân khởi nghĩa bị quân đội Nga
hoàng trấn áp. Ngày 22 tháng 7 năm 1863, một hội nghị của công nhân được họp tại thành phố
Luân Đôn, với quan điểm ủng hộ khởi nghĩa Ba Lan và phản kháng lại sự ủng hộ của các lãnh
đạo Âu châu với chính quyền Aleksandr II. Năm sau (1864), vào ngày 28 tháng 9, công nhân các
nước Anh và Pháp lại họp tại Luân Đôn, tỏ ra quan điểm chống đối việc quân Nga dập tắt cuộc
đấu tranh của nhân dân Ba Lan. [83]
Hàng trăm người Ba Lan bị xử tử, và một số người bị trục xuất đến Xibia. Cái giá của khởi nghĩa
đó là sự ủng hộ của Nga đối với công cuộc thống nhất nước Đức do người Phổ lãnh đạo. Được
sự ủng hộ của Nga, Thủ tướng Phổ Otto von Bismarck đã đánh bại quân Đan Mạch (1864), Áo
(1866) và Pháp (1871).[14] Thế mà hai mươi năm sau, đế chế Đức trở thành một kẻ thù đáng gờm
của người Nga trên lục địa.
Tất cả các lãnh thổ của Ba Lan-Litva trước đây đều bị loại trừ khỏi những chính sách tự do được
Aleksandr thực hiện. Luật quân nhân ở Litva, được giới thiệu năm 1863, kéo dài trong 40 năm
sau. Các ngôn ngữ bản địa, Litva, Ukraina và Belarus hoàn toàn bị loại bỏ khỏi các văn bản được
in ra (xem thêm bài Sắc lệnh Ems). Triều đình cũng cấm nói và viết tiếng Ba Lan ở các tỉnh,
ngoại trừ Vương quốc Lập hiến Ba Lan, nơi nó chỉ được cho phép dùng trong những cuộc đàm
thoại cá nhân.


[sửa] Chủ nghĩa dân túy và phong trào công nhân
Bài chi tiết: Chủ nghĩa dân túy
Cải cách giải phóng nơng nơ năm 1861 có hạn chế như đã nêu, và, cho đến đầu thế kỷ XX nước
Nga vẫn còn nằm dưới chế độ quân chủ chuyên chế Nga hoàng.[1] Sau cuộc giải phóng nơng nơ
năm 1861, phong trào giải phóng tại Nga vẫn chưa kết thúc. Nó bước vào giai đôn Cách mạng
dân chủ tư sản, nói cách đây là giai đoạn của các cuộc đấu tranh do các tầng lớp phi quý tộc (các


tầng lớp phi quý tộc bao gồm thương gia, tiểu tư sản, lớp giáo sĩ bên dưới và nông dân) lãnh đạo.
[1]
Ước nguyện của những nhà cách mạng phi quý tộc là người dân sẽ đi vào con đường dẫn tới
cuộc sống công bằng, hạnh phúc, họ được gọi là những người dân tuý.
Năm 1877, các nhà cách mạng thực hiện cuộc vận động tích cực và “chớp nhống”, theo đó họ
kêu gọi nhân dân tại 37 tỉnh thuộc đế quốc Nga (thuộc phần châu Âu) ngay lập tức phải phất cờ
khởi nghĩa, chống nhau với chế độ quân chủ chuyên chế Nga hoàng và tầng lớp địa chủ. Tuy vậy,
quần chúng nông dân đã không làm theo những lời kêu gọi này. Để nắm bắt tình hình hoạt động
của những người dân túy, cảnh sát của triều đình Aleksandr II đã đưa 4 nghìn người vào cơ quan
mật vụ.
Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa dân túy đã thay đổi hình thức hoạt động của họ, mà
nguyên nhân là do sự bắt buộc của chính cuộc sống. Năm 1876, tại kinh đơ Sankt-Peterburg, một
hội bí mật mang tên “Ruộng đất và tự do” được Aleksandr Mikhailov, Sophia Lvovna
Perovskaya, Georgi Valentinovich Plekhanov,… thiết lập. Hội này đã tách thành hai tổ chức hoạt
động riêng biệt: “Chia đều các ruộng đất” và “Dân ý” (năm 1879). Dù nông dân đã tỏ ra thờ ơ
trước lời kêu gọi khởi nghĩa, những thành viên của tổ chức “Chia đều các ruộng đất”, lãnh đạo
bởi Plekhanov không nản: họ vẫn cố kêu gọi nông dân đấu tranh trong một thời gian nữa. Cịn
nhóm "Dân ý" thì chủ trương dùng thủ đoạn khủng bố để chiến đấu chống triều đình Romanov,
họ cho rằng: nhân dân sẽ vùng lên khởi nghĩa sau khi Nga hoàng bị ám hại. Năm 1880, lực lượng
mật vụ và cảnh sát của chế độ Nga hồng đẩy mạnh việc truy kích tổ chức "Chia đều các ruộng
đất", khiến thủ lĩnh Plekhanov và những thành viên khác của tổ chức này phải rời khỏi nước

Nga. [1]
Ngoài ra, trong thời gian này phong trào cơng nhân Nga cũng có:


“Hội liên hiệp cơng nhân miền Nam Nga” được thiết lập vào năm 1875.



“Hội liên hiệp công nhân miền Bắc Nga” tại thành phố Sankt-Peterburg, được thiết lập
năm 1878. Hội này tồn tại cho đến năm 1880.[1]

[sửa] Những vụ ám sát hụt nhằm vào Aleksandr II (1866 - 1880)
Thật vậy, dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành, tổ chức “Dân ý” (Narodnaya Volya) đã thực hiện
tổng cộng là tám vụ ám sát nhằm vào Nga hồng Aleksandr II, nhưng khơng thành cơng trong
những lần đầu. [1]
Một năm sau khi con trưởng của nhà vua mất (1866),[84] Aleksandr II bị nhà cách mạng trẻ tuổi
Dimitry Karakozov mưu sát. Ơng thốt chết trong gang tất, và, để tưởng niệm sự thốt chết của
Nga hồng (bản thân ông gọi là "sự kiện 4 tháng 4 năm 1866), nhiều nhà thờ và nhà nguyện
được xây dựng ở các thành phố Nga. Không những thế, Viktor Hartmann, một kiến trúc sư người
Nga, còn dự định xây một cổng đồ sộ để tưởng niệm sự kiện này. Tuy nhiên, đây chỉ là dự định,
cánh cổng đồ sộ đó đã khơng được xây nên. Sau này, trong phần cuối tác phẩm Kartinki s
vystavki – Vospominaniye o Viktore Gartmane của Modest Mussorgsky, "Cảnh cổng lớn thành
Kiev" được mô tả dựa trên bản phác thảo của Hartmann.


Một số nhà cải cách cũng theo đuổi biện pháp khủng bố để thực hiện cải cách: vào ngày 14 tháng
4 năm 1879, Aleksandr Soloviev, một cựu sinh viên, đã mưu sát Aleksandr. Ơng lại thốt chết
cịn Soloviev bị xử tử vào tháng sau. Ngồi ra, cịn có 16 người khác bị tình nghi là khủng bố. [41]
Lo sợ bị ám sát, Nga hoàng Aleksandr II đã bổ nhiệm sáu quan Toàn quyền - những người thực
hiện quyển kiểm duyệt khắt khe ở Nga. Tất cả những quyển sách mang tư tưởng tiến bộ đều bị

cấm đoán và những người có tư tưởng cách mạng bị chính quyền bắt và bỏ vào nhà ngục.[41]
Trong số đó có Peter Kropotkin - một người chỉ trích nền chính trị Nga thời bấy giờ - bị bắt giữ
năm 1874. [85]
Vào tháng 12 năm 1879, hai thành viên của tổ chức "Dân ý" là Andrei Zhelyabov và Sophia
Perovskaya đã dùng nitrôglyxêrin để phá hoại chiếc xe lửa của Nga hoàng. Tuy vậy, những
người khủng bố đã tính tốn sai lệch và kết quả là một chiếc xe lửa khác bị phá hoại. Một âm
mưu dùng chất nổ để phá chiếc cầu Kamenny ở kinh thành Sankt-Peterburg khi Aleksandr II đi
qua chiếc cầu này cũng khơng thành cơng. [41]
Sau đó, ơng lại trở thành nạn nhân của một vụ ám sát hụt khác do Stefan Khalturin thực hiện.
Stefan Khalturin là một thợ mộc, tham gia trong tổ chức khủng bố "Dân ý".[86] Stefan Khalturin
đến kiếm việc ở Cung điện Mùa Đông, được cho phép ngủ tại đó. Thế là Stefan Khalturin đem
những gói thuốc nổ dynamit vào phịng của mình và giấu giếm chúng dưới bộ đồ giường của
Khalturin.
Vào ngày 17 tháng 2 năm 1880, theo lệnh của tổ chức "Dân ý", Khalturin đặt mìn trong một tầng
hầm dưới phòng ăn trong Cung điện Mùa Đơng. Quả mìn sẽ nổ vào lúc Nga hồng Aleksandr II
ăn tối, theo tính tốn của tổ chức "Dân ý". Rủi thay cho những nhà cách mạng, khách của ông là
Vương cơng Alexander xứ Bulgaria đến trễ, vì thế Aleksandr chưa ngồi vào bàn ăn. Thế là ơng
lại thốt khỏi một vụ ám sát khác dù 67 người bị giết và bị thương trong vụ nổ.

[sửa] Cái chết của Aleksandr II


Đài tưởng niệm vua Aleksandr II mới được hoàn thành, nằm ở phía trước Đại giáo đường Chúa
Ki-tơ cứu thế ở Moskva.
Xem thêm: Pervomartovtsiz và Sophia Perovskaya
Trước khi Aleksandr II bị giết, nhà cách mạng người Ba Lan Ignacy Hryniewiecki - một trong
những người tham gia vụ mưu sát Nga hồng - có viết: [87]
Nga hồng Aleksandr II nhất định phải chết... Ông ta sẽ chết, và chúng ta - kẻ thù của ông ta,
đao phủ của ông ta - cũng sẽ chết. . . . Có bao nhiêu người phải hy sinh để đất nước được tự do?
. . . Tơi là một người có số phận chết yểu, tôi sẽ không thấy chiến thắng của chúng ta, tôi sẽ

không được sống trong một ngày, một giờ chiến thắng huy hồng của chúng ta, nhưng tơi tin
rằng, với cái chết của tơi, tơi sẽ làm trịn nghĩa vụ của mình, và khơng có một ai trên thế giới
này có thể địi hỏi tơi làm một điều gì nữa. . . .

[sửa] Đề xuất của Mikhail Tarielovich, Bá tước Loris-Melikov
Xem thêm: Mikhail Tarielovich, Bá tước Loris-Melikov
Nga hoàng bổ nhiệm Mikhail Tarielovich, Bá tước Loris-Melikov làm Chủ tịch Uỷ ban Hành
pháp tối cao - một Uỷ ban vừa được thiết lập tại Sankt-Peterburg sau vụ mưu sát Aleksandr II
vào tháng 2 năm 1880, với trọng trách đối phó với phong trào cách mạng.[88] Hội "Dân ý" tuyên
bố sẽ chấm dứt những hoạt động khủng bố nếu triều đình Nga ban bố một bản Hiến pháp công
nhận quyền tự do bầu cử và bãi bỏ cơ quan kiểm duyệt. Vào ngày 25 tháng 2 năm 1880,
Aleksandr II tuyên bố rằng ông đang suy xét về việc ban bố Hiến pháp. Để chứng tỏ ý định tốt
của mình, ơng ra lệnh cho các nhà tù phóng thích một số lượng lớn tù nhân. Ngồi ra, ơng cũng
hạ lệnh cho Loris-Melikov soạn thảo một bản Hiến pháp, với những quy định làm thoả mãn
những nhà cách mạng nhưng đồng thời bảo vệ quyền lợi của tầng lớp thống trị.[41] Tháng 8 năm


×