Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG MIỀN NÚI VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.29 KB, 24 trang )

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÚNG
ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG MIỀN NÚI VIỆT NAM
DƯỚI GÓC ĐỘ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH
Võ Thanh Sơn
Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường,
Đại học Quốc gia Hà Nội

Abstract
According to different scenarios, Vietnam is considered one of five countries suffering the
most from impacts of rising sea-levels and climate change. In addition to the coastal zones
and the two large deltas – the Red River and the Mekong River – the uplands of Vietnam that
make up three quarters of the land territory of the country will also be seriously affected. This
paper, therefore, gives an overview of the natural and socio-economic characteristics of
Vietnam’s uplands, including the main environmental and poverty reduction policies applied
in these areas; the significant impacts of climate change on sectors and regions of Vietnam’s
uplands, based on the medium emission scenario (B2) recommended by Ministry of Natural
Resource and Environment, especially the impacts of natural disasters related to extreme
climatic events and climate change, such as typhoons, floods, flash floods, drought, extreme
temperatures and the like; and the difficulties and challenges of sustainable development in
the uplands in the context of climate change. Information about experiences of integrating
climate adaption into the policy making process, drawn from diverse studies in different
regions, and initial recommendations for policy making in Vietnam flowing from this, are
provided here.
1. BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Biến đổi khí hậu đã trở thành một vấn đề thời sự có tính toàn cầu và mọi người ngày càng
nhận thức một cách đầy đủ hơn. Biến đổi khí hậu không còn là dự báo nữa mà đã trở thành
hiện thực và nếu không hành động khẩn trương và kiên quyết thì sẽ quá muộn. Như ông Al
Gore – người nhận giải thưởng Nobel Hòa bình năm 2007 – đã tuyên bố: “Cuộc khủng hoảng
khí hậu là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất mà nền văn minh nhân loại từng đối mặt từ
trước đến nay”. Chính vì vậy, Báo cáo Phát triển con người năm 2007/2008 của Liên Hợp
Quốc có chủ đề “Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu: Đoàn kết nhân loại trong một thế giới


phân cách”. Không lâu nữa, từ ngày 7-19 tháng 12 năm 2009, tất cả các nguyên thủ quốc gia
trên toàn thế giới sẽ họp nhau tại Hội nghị thượng đỉnh về Biến đổi khí hậu tại Copenhagen
(Đan Mạch) để tìm những giải pháp mang tính toàn cầu, nhằm chống lại khí hậu đang nóng
lên nhanh chóng.
Việt Nam là một nước đã nhận thức vấn đề môi trường, phát triển bền vững và nay là biến đổi
khí hậu từ rất sớm. Việt Nam đã tham gia Hội nghị Thượng đỉnh về Phát triển Bền vững từ
năm 1992 tại Rio de Janero (Brazil), năm 2002 ở Johannesburg và cam kết thực hiện nhiều
công ước quốc tế. Năm 2004, Chính phủ đã ban hành Định hướng Chiến lược phát triển bền
209


vững (Chương trình Nghị sự 21 Quốc gia) và tiếp theo đó đã triển khai xây dựng được các
chương trình nghị sự địa phương và ngành.
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn
hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Chương trình Nghị sự 21 của Việt
Nam đưa ra 8 nguyên tắc phát triển bền vững, trong đó 3 nguyên tắc đầu tiên nhấn mạnh đến
vai trò của con người, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, nhưng phải hài hòa với
phát triển xã hội và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và coi bảo vệ, cải thiện
môi trường là yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển. Cũng trong Chương trình
Nghị sự 21 này, giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi
khí hậu góp phần phòng chống thiên tai là một trong 9 lĩnh vực ưu tiên về tài nguyên và môi
trường.
Với nguy cơ là một trong 5 nước bị ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu, năm 2008,
Chính phủ thông qua Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc
gia ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong chương trình này, nhiều bộ, ngành, các cơ quan
nghiên cứu và phát triển, các trường đại học ở cả trung ương và địa phương đều tham gia vào
thực hiện. Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, với đầu mối liên kết là Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, là lồng ghép những vấn đề biến đổi khí hậu vào những chính sách phát triển
bền vững. Đây là một vấn đề mới, nên đòi hỏi nỗ lực và trí tuệ của nhiều các nhà khoa học,
quản lý của các bộ, ngành, các trường đại học và viện nghiên cứu tham gia vào xây dựng thì

mới có thể giải quyết được vấn đề.
Miền núi Việt Nam giữ một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển bền vững của đất nước,
không những vì chúng chiếm đến ¾ diện tích đất của cả nước, mà vùng miền núi còn quyết
định đến sự phát triển ổn định ở vùng đồng bằng. Xem xét thực trạng phát triển bền vững
vùng miền núi Việt Nam sẽ giúp ta thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu.
2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA VÙNG MIỀN NÚI

2.1. Đặc điểm tự nhiên và môi trường
2.1.1. Địa hình và cảnh quan
Miền núi Việt Nam chiếm ¾ diện tích tự nhiên với khoảng hơn 24 triệu người trong cộng
đồng 54 dân tộc khác nhau. Đây là nơi lưu giữ các thảm rừng, hệ sinh thái động thực vật
phong phú, nơi đầu nguồn của các dòng sông, có chức năng duy trì cân bằng sinh thái và miền
núi cũng là nơi cung cấp các nguồn tài nguyên thiên nhiên cho sự nghiệp phát triển kinh tế
của đất nước.
Miền núi Việt Nam phần lớn là địa hình trung du (dưới 500 mét so với mặt biển) và vùng núi
thấp (500-1.500 mét). Khoảng 70% diện tích đất nước có độ cao từ 500 mét trở xuống và 85%
là dưới 1.000 mét. Phần lớn diện tích là đồi núi dốc, với 29% diện tích dốc dưới 15o, 14% từ
15-20o, trên 57% là độ dốc trên 25o. Độ dốc lớn làm khả năng sản xuất nông nghiệp ở miền
núi bị hạn chế.
Miền núi nước ta có thể chia ra thành 5 vùng lớn, đó là vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Trường Sơn
Bắc, Tây Nguyên/Trường Sơn Nam và Đông Nam Bộ.
210


Bảng 1. Một số đặc điểm các vùng miền núi Việt Nam
STT

Vùng miền
núi


Diện tích

Đặc điểm tự nhiên

1

Vùng Đông
Bắc

67.006 km2, chiếm
20% diện tích cả
nước

Vùng núi phía Bắc và Đông Bắc thung lũng
sông Hồng, là vùng núi thấp hoặc trung bình

2

Vùng Tây Bắc 36.101 km2, chiếm
11% diện tích cả
nước

Vùng núi từ hữu ngạn sông Hồng đến thung
lũng sông Cả, là vùng núi trung bình và vùng
núi cao

3

Vùng Trường
Sơn Bắc


Vùng núi từ phía Nam sông Cả đến vùng
thung lũng sông Bung, là vùng có nhiều dãy
núi chạy song song, có độ cao trung bình từ
600-800 mét

4

Vùng Tây
Nguyên –
Trường Sơn
Nam

Vùng núi từ phía Nam đèo Hải Vân đến vùng
Đông Nam Bộ, bao gồm vùng duyên hải
miền Trung, có địa hình cao hơn Trường Sơn
Bắc, bao gồm cao nguyên Tây Nguyên

5

Vùng Đông
Nam Bộ

Vùng đồi núi chạy dài từ tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu đến tỉnh Tây Ninh, có độ cao trung bình
từ vài chục mét đến khoảng 200 mét

Bao gồm 6 tỉnh,
diện tích 40.000
km2, chiếm 12,5%

diện tích cả nước

Nguồn: Ủy ban Dân tộc, 2002.
2.1.2. Khí hậu
Nhìn chung, khí hậu vùng miền núi Việt Nam mang những sắc thái riêng, đa dạng về thời tiết.
Có thể chia làm ba kiểu khí hậu phổ biến:
+ Kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa ở Bắc Bộ với mùa hè nóng và mưa nhiều, mùa đông lạnh,
mưa ít, với nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 20oC, chênh lệch nhiệt độ hai mùa từ 1011oC.
+ Kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều vào nửa cuối hè và nửa đầu đông ở Trung Bộ,
với nhiệt độ trung bình năm là 25oC (Quảng Nam).
+ Kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa quanh năm nóng ở vùng Tây Nguyên, Ninh Thuận và Nam
Bộ, với nhiệt độ trung bình năm ở miền núi là 21oC.
Nói chung nhiệt độ ở trung du miền núi bao giờ cũng thấp hơn đồng bằng từ 3-5oC.
2.1.3. Sông ngòi, tài nguyên nước và tiềm năng thủy điện
Chế độ khí hậu ẩm, mưa nhiều cùng với địa hình cao, dốc đã tạo ra ở vùng miền núi một hệ
thống sông ngòi dày đặc. Trừ vùng núi đá vôi, tại các vùng còn lại, mật độ sông suối trung
bình là 1-1,5 km/km2. Vì nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nên phần lớn nguồn nước

211


các sông đều có sự phân hóa theo mùa rõ rệt, với sự chênh lệnh rất lớn giữa lưu lượng cực đại
và cực tiểu, tới hàng chục lần, thậm chí có những nơi lên đến hàng trăm lần.
Tài nguyên nước ở Việt Nam rất phong phú với tổng nguồn nước mặt các sông hồ là 880 km3,
trong đó 556 km3 là từ lưu vực bên ngoài lãnh thổ quốc gia. Sông ngòi miền núi Việt Nam dự
trữ một nguồn thủy năng to lớn cho sản xuất điện. Tiềm năng thủy điện của miền núi Việt
Nam ước tính đạt 90 tỷ kWh với công suất lắp đặt là 20.000 MW. Cả nước có thể xây dựng
571 công trình thủy điện, trong đó 11 công trình công suất trên 300 MW, 200 công trình có
công suất từ 5 đến 300 MW. Những công trình thủy lớn là Sông Đà (1.920 MW), Yaly (640
MW), Trị An (420 MW), Sơn La (3.600 MW).

2.1.4. Tính đa dạng sinh học
Là nơi tiếp xúc với các luồng thực vật từ Hoa Nam, Ấn Độ – Miến Điện và Malaixia –
Inđônêxia, nên thực vật giới của Việt Nam nói chung và của miền núi nói riêng rất đa dạng,
với các kiểu rừng chính sau: (i) Rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh, thường phân bố trên các
vùng đồi núi cao dưới 800 m (ở phía Bắc) và dưới 1.000 m (ở phía Nam), với họ đặc trưng
như họ Đậu (Fabaceae); (ii) Rừng nhiệt đới lá rộng rụng lá mùa khô thường hay gặp ở miền
Bắc và ở các vùng có mùa khô rõ rệt tại miền Nam như Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, với
các họ phổ biến như họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ Tử vi (Lythraceae), họ Sau sau
(Hamamelidaceae), họ Bồ đề (Styracaceae)...; (iii) Rừng nhiệt đới lá rộng trên núi đá vôi, có
thành phần thực vật tương đối phong phú, chủ yếu là rừng thường xanh, với các cây như
Nghiến (Burretiodendron hsienmu), Trai (Garcinia fragraeoides), Hoàng đàn (Cupressus
torulosa)...; (iv) Rừng á nhiệt đới lá rộng thường xanh, thường gặp tại các vùng núi cao trên
800 m ở phía Bắc, gồm các loài cây thuộc họ Dẻ (Fagaceae), Long não (Lauraceae), Đỗ
quyên (Ericaceae); (v) Rừng ôn đới lá kim phổ biến tại các vùng núi cao trên 1.000 m ở phía
Nam với các loài cây như Tùng, Bách, Thông...; (vi) Rừng tre nứa phân bố rộng khắp từ Bắc
xuống Nam.
Vùng trung du miền núi Việt Nam luôn là nơi lưu trữ tính đa dạng sinh học cao của cả nước.
Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một thời gian dài, hệ thực vật
rừng Việt Nam, chủ yếu là thuộc các vùng miền núi, vẫn còn phong phú về chủng loại. Cho
đến nay, đã thống kê được 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch và 2.393 loài thực vật bậc
thấp, trong đó có gần 2.000 loài cây lấy gỗ, 3.000 cây làm thuốc, hơn 100 loài tre nứa và
khoảng 50 loài song mây. Theo dự đoán của các nhà thực vật học, số loài thực vật bậc cao có
mạch ít nhất sẽ lên đến 20.000 loài, trong đó có nhiều loài đã được nhân dân ta dùng làm
nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu và cho
nhiều mục đích khác.
Hệ thực vật Việt Nam có mức độ đặc hữu cao, với số loài đặc hữu chíếm khoảng 33% số loài
thực vật ở miền Bắc Việt Nam (Pocs Tamas, 1965) và hơn 40% số loài thực vật toàn quốc
(Thái Văn Trừng, 1970). Phần lớn số loài đặc hữu này tập trung ở bốn khu vực chính: khu
vực núi cao Hoàng Liên Sơn ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc Linh ở miền Trung, cao
nguyên Lâm Viên ở phía Nam và khu vực rừng mưa nhiệt đới thuộc dãy núi Bắc Trường Sơn.

Hệ động vật Việt Nam cũng hết sức phong phú và phần lớn là các loài sinh sống tại miền núi.
Hiện đã thống kê được 310 loài thú, 840 loài chim, 296 loài bò sát, 162 loài ếch nhái, hơn
212


1.000 loài cá nước ngọt và thêm vào đó có hàng chục nghìn loài động vật không xương sống
ở cạn và ở nước (Võ Quý, 2008). Hệ động vật Việt Nam không những giàu về thành phần loài
mà còn có nhiều loài đặc hữu.
Cũng như thực vật giới, động vật giới Việt Nam có nhiều loài đặc hữu: hơn 100 loài và phân
loài chim và 78 loài và phân loài thú là đặc hữu. Có rất nhiều loài động vật có giá trị thực tiễn
cao và nhiều loài có ý nghĩa lớn về bảo vệ như Voi, Tê giác Java, Bò xám, Bò rừng, Bò tót,
Trâu rừng, Nai cà toong, Hổ, Báo, Cu ly, Vượn, Voọc vá, Voọc xám, Voọc mông trắng, Voọc
mũi hếch, Voọc đầu trắng, nhiều loài trĩ, cá sấu, trăn, rắn và rùa.

2.2. Một số đặc điểm phát triển kinh tế-xã hội ở miền núi
2.2.1. Đặc điểm kinh tế-xã hội ở vùng miền núi
Dân số và phân bố dân cư:
Theo tổng điều tra dân số năm 1999 thì dân số miền núi chiếm khoảng 30% dân cư cả nước
với hơn 23,3 triệu người.
Mật độ dân số Việt Nam đã tăng từ 195 người/km2 năm 1989 lên 236 người/km2 năm 2000 và
hiện nay, năm 2009 là 260 người/km2 (85.790.000 người vào tháng 4/2009). Tương ứng cho
các vùng miền núi trong năm 1989 và 1999, Đông Bắc là 118 và 137 người/km2, Tây Bắc là
52 và 64 người/km2, Tây Nguyên là 49 và 78 người/km2. So sánh tỷ trọng dân số của các
vùng trong tổng số dân của cả nước qua hai lần tổng điều tra dân số đã có sự thay đổi: tăng
lên ở 3 vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Tây Bắc, phần lớn thuộc vùng núi và giảm đi ở
các vùng còn lại. Hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là địa điểm chủ yếu thu hút các
luồng dân di cư kinh tế mới cũng như di cư tự do.
Gia tăng dân số:
Sau ngày miền Nam giải phóng (1975), dân số ở miền núi cũng như ở các dân tộc thiểu số
tăng lên khá nhanh. Thời kỳ 1976-1989, trong khi bình quân dân số hàng năm của cả nước chỉ

tăng 2,07%, thì ở miền núi phía Bắc là 2,46%, Tây Nguyên là 5,33%. Thời kỳ 1989-1999,
mức tăng này ở cả nước là 1,7%, Đông Bắc là 1,53%, Tây Bắc là 2,15%, Tây Nguyên là 4,91
%. Theo dân tộc thì dân số người Kinh tăng 1,77%, Tày 2,41%, Mông 4,11%, Cơ Ho 3,96%,
Khơ Mú 3,19%...
Sự gia tăng nhanh dân số ở miền núi và dân tộc thiểu số trước hết liên quan đến sức sinh đẻ
cao và tương đối ổn định của cư dân các tộc người. Trong những năm gần đây, công tác dân
số – kế hoạch hóa gia đình được đẩy mạnh cho cả vùng miền núi và các dân tộc thiểu số, nên
tỷ lệ sinh thô đã giảm đi. Tuy nhiên, nhờ công tác y tế đã được cải thiện, nên tỷ lệ chết của trẻ
sơ sinh giảm đi cũng góp phần cho tỷ lệ tăng dân số cao ở vùng miền núi và dân tộc ít người.
Đóng góp một phần quan trọng làm tăng dân số, nhất là dân số người Kinh trong những năm
qua ở miền núi nước ta là quá trình biến động cơ học mà thực chất là sự di cư ồ ạt cư dân từ
nơi khác tới, thực hiện chủ trương phân bố lại dân cư và phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội ở
miền núi của Đảng và Nhà nước.
Ở miền núi phía Bắc, từ năm 1960 đến năm 1974, đã có trên 38 vạn người và từ năm 1975
đến cuối năm 1979 đã có gần 28 vạn người từ các tỉnh đồng bằng, trung du di chuyển đến,
213


làm cho tốc độ tăng trưởng cơ học dân cư hàng năm của vùng lên với 3,4%, trong khi tốc độ
tăng dân số tự nhiên chỉ là 2,8%. Ở Tây Nguyên, tính ra trong số 80,7 vạn người tăng lên
trong 10 năm (1976-1986), có tới 46,5 vạn người, chiếm tới 60% số người tăng lên do di dân,
trung bình hàng năm, dân số cơ học tăng lên là 3,31%. Tính chung cả nước, trong hơn 30 năm
(1960-1992) đã chuyển được 5,3 triệu người lên vùng núi và cao nguyên để phát triển kinh tếxã hội và xây dựng các vùng kinh tế mới.
Đối với dân tộc thiểu số, mức độ di chuyển của họ rất lớn, nhưng đáng chú ý là trong những
năm gầm đây, xuất hiện nhiều luồng di cư tự do (di dân tự phát) của các dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc vào Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Tính chung trong cả thời kỳ 1976-1990, số
dân cư tự do thuộc các dân tộc Tày, Nùng, Dao, H’mông..., lên trên 21 vạn người.
Thành phần dân tộc và phân bố:
Trong số 54 dân tộc của nước ta hiện nay, chủ yếu có 4 dân tộc Kinh, Hoa, Khơ Me và Chăm
chủ yếu cư trú ở vùng đồng bằng, ven biển, còn 50 dân tộc thiểu số khác sinh sống hầu hết ở

vùng miền núi. Vì vậy, nói đến miền núi, cũng là nói đến vùng cư trú của các dân tộc thiểu số
ở nước ta.
Đặc trưng cư trú của các nhóm dân tộc là phân tán và xen kẽ biểu hiện ở tất cả các cấp độ từ
toàn quốc, tỉnh, huyện đến xã. Các dân tộc như Tày, Thái, Mường, H’mông, Dao... cư trú
không phải trên một tỉnh mà nhiều tỉnh.
Các dân tộc thiểu số không đồng đều về mặt số dân của từng dân tộc. Tính đến nay, có 5 dân
tộc có dân số khá đông, mỗi dân tộc trên một triệu người (Tày, Thái, Khơ Me, Mường, Hoa).
Có 3 dân tộc, mỗi dân tộc có số dân từ 60 vạn đến dưới 1 triệu người (Nùng, H’mông, Dao).
Có 9 dân tộc, mỗi dân tộc có số dân từ 10 vạn đến 60 vạn người (Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Sán
Chay, Chăm, Xơ Đăng, Sán Dìu, Cơ Ho), còn lại là các dân tộc có số dân ít hơn 10 vạn người.
Trong thời gian 40-50 trở lại đây, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do sự chuyển cư hàng
loạt, bao gồm cả di dân có tổ chức, di dân dự phát của người Kinh và các dân tộc khác, làm
cho mức độ cư trú xen kẽ của các dân tộc có chiều hướng ngày càng tăng.
2.2.2. Một số chính sách kinh tế, xã hội và môi trường quan trọng được thực hiện ở miền
núi
Vùng miền núi được Đảng và Chính phủ đặc biệt quan tâm hỗ trợ phát triển từ hơn 50 năm
qua với rất nhiều các chương trình lớn về phát triển kinh tế-xã hội và môi trường.
Chính sách môi trường:
Những chính sách môi trường được triển khai ở miền núi bao gồm các chương trình trồng
rừng; chương trình giao đất giao rừng để bảo vệ rừng và phát triển rừng; chính sách xây dựng
và phát triển hệ thống các khu bảo tồn.
+ Chương trình 327 (1993-1997) với mục đích phủ xanh đất trống đồi núi trọc, khai thác bãi
bồi ven biển, nuôi trồng thủy sản... bằng biện pháp trồng, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh
rừng... Quyết định 556 (1995) bổ sung 327 về tạo mới về rừng phòng hộ và đặc dụng (từ
năm 1995). Chương trình đã đầu tư khoảng 2.300 tỷ đồng cho phát triển và bảo vệ rừng để
bảo vệ 6,79 triệu ha rừng, khoanh nuôi tái sinh gần 1 triệu ha, trồng 560.000 ha.
214


+ Chương trình 661/5 triệu ha rừng (1998-2010): Mục tiêu là đẩy mạnh tốc độ trồng rừng,

phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ rừng hiện có và trồng mới, đưa tỷ lệ che phủ của
rừng lên 43% (cụ thể trồng 2 triệu ha rừng phòng hộ, rừng đặc dụng (1 triệu trồng mới),
khoanh nuôi tái sinh 1 triệu ha, trồng 3 triệu ha rừng sản xuất). 5.900 tỷ đồng (1998-2005)
đã chi để trồng mới 1,55 triệu ha rừng (63% kế hoạch), có 0,77 triệu ha rừng sản xuất
(26% kế hoạch) (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2006).
+ Nghị định 02 (1994), Nghị định 196 (1999) về giao đất và cho thuê đất lâm nghiệp nhằm
mục đích sử dụng hiệu quả đất rừng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng, đảm
bảo mỗi mảnh đất, khoảng rừng có chủ quản lý cụ thể. Năm 2002, 12,8 triệu ha đã giao
(70,4% diện tích lâm nghiệp), trong đó doanh nghiệp Nhà nước là 4,5 triệu ha, hộ gia
đình, tập thể: 4,8 triệu, còn lại là các ban quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.
+ Chính sách xây dựng hệ thống các khu bảo tồn: Nước ta đã xây dựng được một hệ thống
khu bảo tồn thiên nhiên được gọi chung làảừng đặc dụng và chia ra làm ba hạng chính:
vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên và khu bảo vệ cảnh quan. Tính đến năm 2005, đã
có 128 khu rừng đặc dụng được thành lập với diện tích trên 2,5 triệu hecta, chiếm khoảng
7,6% diện tích tự nhiên cả nước, bao gồm 30 vườn quốc gia, 59 khu bảo tồn thiên nhiên và
39 khu bảo vệ cảnh quan.
Bảng 2. Hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam
Hạng khu bảo tồn

TT

Số lượng

Diện tích (ha)

1

Vườn quốc gia

30


957.330

2

Khu bảo tồn thiên nhiên:

59

1.369.058

- Khu dự trữ thiên nhiên

48

1.283. 209

- Khu bảo tồn loài/sinh cảnh

11

85.849

Khu bảo vệ cảnh quan

38

215.287

Tổng cộng


128

2.541.675

3

Nguồn: Phòng Bảo tồn, Cục Kiểm lâm, 2005.
Chính sách kinh tế:
Một trong những chính sách kinh tế lớn, góp phần ổn định cuộc sống của đồng bào dân tộc là
chương trình định canh định cư được triển khai từ năm 1968 để giảm áp lực canh tác nương
rẫy lên rừng.
+ Nghị quyết 38/CP (1968) về Cuộc vận động định canh định cư cho đồng bào dân tộc, với
mục đích chuyển đồng bào dân tộc còn du canh du cư chuyển qua định canh định cư. Cuộc
vận động này thực hiện trong 40 năm ở miền Bắc và hơn 30 năm ở miền Nam. Nghị quyết
22/TW (1989) tiếp tục công tác định canh định cư gắn với việc phát triển kinh tế-xã hội
địa phương.

215


+ Trong khoảng 10 năm gần đây, công tác định canh định cư thường gắn với các chương
trình phát triển kinh tế cho các xã khó khăn (135), xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ miền núi
(134), Chương trình trồng rừng (327/661) và các chương trình kinh tế-xã hội khác.
Chính sách kinh tế-xã hội nhằm mục đích xóa đói giảm nghèo:
Các chính sách phát triển kinh tế-xã hội này bao gồm các chương trình xóa đói giảm nghèo
135, 134 và Chương trình giảm nghèo bền vững cho 62 huyện trong toàn quốc.
+ Chương trình 135, hay còn gọi là Chương trình phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó
khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, thực hiện theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ theo 2 giai đoạn.

Chương trình 135 giai đoạn 1 (1997-2006) có mục tiêu là: (i) Phát triển sản xuất, nâng cao
mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số; (ii) Phát triển cơ sở hạ tầng; (iii) Phát triển các dịch vụ
công cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế, nước sạch; và (iv) Nâng cao
đời sống văn hóa cho 1.870 xã đặc biệt khó khăn với nguồn kinh phí khoảng 10 nghìn tỷ
đồng; đã xây dựng và đưa vào sử dụng hơn 25 nghìn công trình thiết yếu các loại, góp phần
thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn miền núi, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân địa
phương.
Chương trình 135 giai đoạn 2 (2006-2010) với mục đích: (i) Tạo chuyển biến nhanh về sản
xuất; (ii) Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị
trường; (iii) Cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân; (iv) Giảm khoảng
cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong nước; và (v) Đến năm 2010, trên địa
bàn không có hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30% cho 1.946 xã đặc biệt khó khăn, với
nguồn kinh phí khoảng 12 nghìn tỷ đồng. Qua 3 năm thực hiện, Chương trình đã được triển
khai trên địa bàn 1.779 xã đặc biệt khó khăn thuộc 47 tỉnh với tổng số vốn trên 7 nghìn tỷ
đồng, với 4 hợp phần chính: (i) xây dựng cơ sở hạ tầng; (ii) hỗ trợ phát triển sản xuất; (iii) đào
tạo và nâng cao năng lực; và (iv) hỗ trợ nâng cao đời sống người dân. Chương trình 135 đã
xây dựng được 11.765 công trình, dự án, mở hàng nghìn lớp đào tạo, tập huấn, thu hút hàng
vạn hộ dân tham gia.
+ Chương trình 134, hay còn gọi là Chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước
sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, thực hiện theo Quyết
định 134/2004/QĐ-TTg, nhằm mục đích đẩy nhanh tiến độ xóa nghèo cho các hộ dân tộc
thiểu số ở Việt Nam, được thực hiện từ năm 2004. Sau 4 năm triển khai thực hiện Quyết định
134, các địa phương đã hoàn thành việc hỗ trợ gần 380.000 nhà ở, đạt 111% so với mục tiêu
chương trình với nguồn vốn thực hiện trên 1.900 tỷ đồng. Về đất ở, đến năm 2008, đã hỗ trợ
được hơn 1.500 ha cho gần 72.000 hộ. Về đất sản xuất, đã có 40 tỉnh triển khai thực hiện mục
tiêu hỗ trợ đất sản xuất cho hơn 83.500 hộ với gần 30.000 ha. Để tháo gỡ khó khăn về quỹ đất
sản xuất, nhiều địa phương đã tiến hành các giải pháp như: giao khoán bảo vệ rừng, khuyến
khích chuyển đổi ngành nghề... Hết năm 2008, các địa phương đã xây dựng được hơn 4.600
công trình nước tập trung và đã có gần 200.000 hộ nghèo được hỗ trợ nước sinh hoạt phân
tán.

(Nguồn: Ủy ban Dân tộc, ).

216


+ Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối
với 62 huyện nghèo, là một chương trình phát triển kinh tế-xã hội của Chính phủ Việt Nam
nhằm tạo ra sự chuyển biến nhanh về đời sống vật chất và tinh thần cho các hộ nghèo, người
các dân tộc thiểu số ở 62 huyện nghèo trong cả nước (những huyện có tỷ lệ hộ nghèo trong
tổng số hộ của huyện lớn hơn 50%), sao cho đến năm 2020 có thể ngang bằng với các huyện
khác trong khu vực, với 4 nhóm biện pháp chính: (i) Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu
nhập (bao gồm cả đưa người lao động ở huyện nghèo đi lao động ở nước ngoài); (ii) Đào tạo,
dạy nghề, nâng cao dân trí; (iii) Bổ sung nguồn lực con người ở các cấp quản lý và các tổ
công tác; và (iv) Đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả cấp thôn/bản, xã, huyện.
Hộp 1. Tình hình nghèo đói ở nông thôn miền núi (Võ Thanh Sơn, 2004)
Theo Ủy ban Dân tộc Miền núi (2002), những đặc điểm nghèo đói của Việt Nam là: (i) tập trung ở
vùng nông thôn và miền núi, nơi thu nhập của hộ gia đình thấp, không ổn định, với mức độ phát
triển kinh tế thấp và nơi tài nguyên thiên nhiên hạn chế; và (ii) các nhóm dân tộc ít người thường là
nạn nhân của sự nghèo đói. Vùng trung du và miền núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên vẫn là
những vùng có tỷ lệ nghèo đói cao nhất vì ở vùng miền núi, người dân lại phải đối mặt với những
hạn chế của cơ sở hạ tầng và dịch vụ như điện, đường sá, trường học và trạm xá.
Hiện nay, dù một số lớn người Kinh đã di cư lên vùng miền núi, nhưng đại bộ phận dân cư ở đó là
người dân tộc, mà số đông vẫn còn có phương thức canh tác nương rẫy. Không giống như người
Kinh, các dân tộc thiểu số thường sống khá phân tán và cách xa đường quốc lộ cũng như các khu
dân cư đông đúc, nên họ có ít cơ hội tiếp cận với điều kiện phát triển kinh tế và luôn phải đối mặt
với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt để có thể tồn tại. Theo Điều tra nghèo đói quy mô lớn (PMS
– Large-scale Poverty Monitoring Survey), tỷ lệ đói nghèo của người Kinh là 39%, người Tày là
59%, người Dao là 89% và người H’mông là 100% (Lê Duy Phong và Hoàng Văn Hòa, 1999: 66).
Theo những nghiên cứu của Liên Hợp Quốc, Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới,
(Anonym, 1999), nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam là: (i) tách biệt (về địa lý, ngôn ngữ, xã hội,

trí tuệ và kinh tế); (ii) không có khả năng thích ứng với những nguy cơ lớn (thảm họa thiên nhiên,
chết, bệnh tật, mất mùa, có thai ngoài dự kiến); (iii) thiếu sự tiếp cận tới nguồn tài nguyên (đặc biệt
là đất đai, vốn, công nghệ và thông tin); (iv) thiếu sự tham gia trong các chương trình quốc gia; và
(v) thiếu tính bền vững (về tài chính và môi trường).

2.3. Những thách thức về phát triển bền vững ở miền núi
2.3.1. Phát triển bền vững ở miền núi
Nhiều chủ trương chính sách lớn về phát triển miền núi đã được Đảng và Nhà nước đưa ra.
Đặc biệt, Nghị quyết số 22/NQ/TƯ (ngày 27/11/1989) của Bộ Chính trị về “Những chủ
trương chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội miền núi” đã chỉ rõ: (i) Phải coi phát triển kinh
tế-xã hội miền núi là một bộ phận hữu cơ của phát triển nền kinh tế quốc dân; (ii) Phải coi sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa miền núi là sự nghiệp chung của
nhân dân cả nước, trước hết là sự nghiệp của nhân dân các dân tộc miền núi và đồng bào miền
xuôi lên định cư ở miền núi; (iii) Phải nắm vững quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, điều chỉnh lại quan hệ sản xuất ở miền núi cho phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; và (iv) Phát triển miền núi toàn diện cả
217


về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, trong đó trọng tâm là phát triển
kinh tế-xã hội gắn với thực hiện chính sách dân tộc của Đảng.
Như vậy, ngoài tính đặc thù của của miền núi, Nghị quyết đã nhấn mạnh đến yếu tố dân tộc
và văn hóa của phát triển kinh tế-xã hội ở vùng miền núi.
Trong thực tiễn của Việt Nam, phát triển bền vững là sự phát triển hài hòa cả về 3 mặt: kinh tế
– xã hội – môi trường, để đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của
thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại, gây trở ngại đến khả năng cung cấp tài nguyên để
phát triển kinh tế-xã hội mai sau, không làm giảm chất lượng cuộc sống của các thế hệ trong
tương lai. Hay nói một cách khác: muốn phát triển bền vững thì phải cùng đồng thời thực hiện
3 mục tiêu: (1) phát triển có hiệu quả về kinh tế; (2) phát triển hài hòa các mặt xã hội, nâng
cao mức sống, trình độ sống của các tầng lớp dân cư; và (iii) cải thiện môi trường, bảo đảm

phát triển lâu dài vững chắc cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, phát triển bền vững miền núi được thực hiện bằng cách
tổng hòa những mục tiêu về kinh tế – xã hội – môi trường trong bối cảnh văn hóa rất đa dạng
của nhiều dân tộc thiểu số của Việt Nam (Hình 1).

Hình 1. Phát triển bền vững trong sự đa dạng về văn hóa
2.3.2. Một số thách thức cho sự phát triển bền vững ở miền núi
Những thách thức liên quan đến kinh tế và xã hội:
Khi nghiên cứu về những khó khăn trong công cuộc phát triển bền vững miền núi Việt Nam,
Jamison, Lê Trọng Cúc và Rambo (1999) cho rằng vùng miền núi Việt Nam vẫn đối mặt với
tình trạng phát triển chậm chạp và khó khăn, phần lớn là bị tác động của vòng xoáy sự gia
tăng dân số, suy thoái môi trường, nghèo đói, sự phụ thuộc vào nguồn lực hỗ trợ bên ngoài và
sự phân hóa về kinh tế, văn hóa, xã hội: (i) Gia tăng dân số nhanh, tạo ra sự khan hiếm đất
canh tác ở miền núi; mật độ dân số tăng đã tiến nhanh hoặc đã vượt quá sức tải của đất canh
tác ở miền núi; (ii) Suy thoái môi trường, đặc biệt là diện tích rừng giảm sút, đa dạng sinh học
bị thất thoát, đất đai bị suy thoái, năng suất cây trồng thấp, hạn hán và lũ lụt ngày càng
nghiêm trọng; (iii) Đói nghèo, đặc biệt ở các vùng dân tộc ít người vùng sâu vùng xa ở miền
218


núi, vẫn còn cao so với các vùng khác, mặc dù đã được cải thiệt rất nhiều so với trước kia;
(iv) Sự phụ thuộc vào nguồn lực bên ngoài, khi mà nhiều tỉnh miền núi vẫn phải nhận sự trợ
cấp của trung ương để duy trì hệ thống hành chính của mình, khi mà kiến thức bản địa của
người dân tộc ít người chưa được thể hiện nhiều trong các chính sách phát triển kinh tế-xã hội
của địa phương; và (v) Sự phân hóa về kinh tế, văn hóa, xã hội, mặc dù chưa có nhiều nghiên
cứu, nhưng tình trạng khoảng cách giàu nghèo gia tăng, hạn chế tiếp cận tới giáo dục, y tế
cũng như nguồn lực tài chính trong đời sống xã hội ở miền núi.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), những thách thức đối với sản xuất nông nghiệp và nông
thôn Việt Nam, đặc biệt ở miền núi là: (i) tài nguyên phục vụ cho sản xuất đang tiếp tục suy
giảm nhanh, tình trạng ô nhiễm môi trường có xu hướng diễn ra trên diện rộng; (ii) phân hóa

giàu nghèo và sự chênh lệch về cơ hội giữa các tầng lớp dân cư trong tiếp cận các nguồn lực
phát triển ngày càng gia tăng; (iii) nông nghiệp tăng trưởng thiếu bền vững và khả năng rủi ro
cao; (iv) một số vấn đề xã hội bức xúc và gay gắt ở nông thôn chậm được giải quyết; (v) sự
thiếu sót về mặt chính sách và bất cập trong một số hoạt động chỉ đạo của Nhà nước các cấp;
(vi) chậm thực hiện các chính sách an sinh xã hội phù hợp ở nông thôn; (vii) bình quân đất
nông nghiệp theo đầu người ngày càng thấp; (viii) năng lực kinh tế của nông dân và các
doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp còn thấp; (ix) năng lực, hiệu quả của hệ thống công
nghiệp, dịch vụ liên quan đến nông nghiệp còn yếu; (x) những điều kiện cơ bản để nền nông
nghiệp tăng trưởng bền vững tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn ở mức thấp; (xi) cam kết
thương mại quốc tế và áp lực hội nhập kinh tế thế giới; (xii) đầu tư cho nông nghiệp, nông
thôn không tương xứng; (xiii) trong nông thôn đang nảy sinh những vấn đề kinh tế-xã hội bức
xúc như tệ nạn xã hội, thiếu việc làm, khiếu kiện nhiều, kéo dài.
Những thách thức về môi trường, đặc biệt là thiên tai liên quan đến khí hậu:
Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều thách thức, đặc biệt là các vấn đề môi trường và thiên tai
liên quan đến biến đổi khí hậu như lũ lụt, lũ quét, trượt lở đất và hạn hán. Theo đánh giá sơ
bộ, những thiệt hại do thiên tai ở Việt Nam ước tính từ 1-1,5% GDP của cả nước (Hoàng
Trung Hải, 2009). Điều này cũng được thể hiện rõ trên quy mô toàn cầu, khi mà những thiệt
hại do thiên tai ngày càng tăng về số lượng và cường độ trong một vài thập kỷ gần đây ở trên
thế giới, đặc biệt trong 50 năm qua, những thảm họa thiên nhiên này đã làm hơn 800.000
người chết và làm thiệt hại kinh tế hơn 1.000 tỷ đô la Mỹ (ECA, 2009).
Ở quy mô quốc gia, thiên tai, phần nhiều liên quan đến khí hậu và biến đổi khí hậu, đã gây ra
thiệt hại lớn, đặc biệt trong khoảng 15 năm lại đây, với những mất mát tính đến hàng ngàn tỷ
đồng (Hình 2). Những năm có thiệt hại lớn nhất là năm 1996: 8.000 tỷ đồng (số làm tròn);
năm 1997: 7.700 tỷ đồng; năm 2000: 5.200 tỷ đồng; năm 2008: 3.500 tỷ đồng (Trung tâm Khí
tượng Thủy văn Quốc gia, 2009). Riêng 9 tháng đầu năm 2009, thiên tai đã làm 292 người
chết và mất tích, thiệt hại kinh tế ước tính khoảng 24.000 tỷ đồng (Hoàng Trung Hải, 2009).
Theo đánh giá của Ban Chỉ đạo Phòng chống Lụt bão Trung ương, kể từ năm 1969, bão số 9
là một trong những cơn bão mạnh nhất tại Việt Nam (cường độ gió cấp 12, giật cấp 14-15), đổ
bộ vào miền Trung cuối tháng 9/2009, đã gây thiệt hại lớn cho các tỉnh Quảng Trị, Thừa
Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Kon Tum. Bão số 9 đã làm 163 người

chết, 11 người mất tích và 629 người bị thương; 21.610 nhà bị sập, trôi; 258.260 nhà hư hại

219


và 294.710 nhà bị ngập, với tổng thiệt hại ước tính 14.014 tỷ đồng. Với số dân 5 tỉnh và TP.
Đà Nẵng là 6 triệu người, thì một cơn bão này đã gây thiệt hại cho trung bình là 2,3 triệu
đồng/người cho 6 triệu người dân của vùng, tương đương với 20% GDP trung bình/người của
Việt Nam. Nói một cách khác, thiệt hại của một cơn bão đã lớn hơn 2 lần mức đầu tư cho
Chương trình 5 triệu ha rừng trong giai đoạn 1998-2005 (5.900 tỷ đồng), bằng 140% hỗ trợ
cho Chương trình 135 giai đoạn 1 năm 1997-2006 (10.000 tỷ đồng).

Hình 2. Tổng thiệt hại do thiên tai ở Việt Nam theo các năm và theo một số tỉnh miền núi
(Nguồn: Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia, 2009).
3. TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU LÊN VÙNG TRUNG DU MIỀN NÚI

3.1. Kịch bản biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Trong 4 kịch bản biến đổi khí hậu do tổ chức SRES, IPCC (Cơ quan Liên chính phủ về Biến
đổi Khí hậu)thực hiện, thì kịch bản B2, kịch bản phát thải khí nhà kính trung bình (mà chủ
yếu là chất CO2) sẽ là kịch bản có khả năng xảy ra nhất và đây cũng là kịch bản được Bộ Tài
nguyên và Môi trường khuyến cáo sử dụng (Trần Thục, 2009). Theo kịch bản này, nhiệt độ
của nước ta sẽ tăng lên 0,7oC và mực nước biển sẽ tăng thêm 0,5 mét vào năm 2020 (Bộ Tài
nguyên và Môi trường, 2009). Hơn nữa, mốc năm 2020 cũng là mốc các kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội đang triển khai xây dựng.
Hiện nay, đã có một số kịch bản tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đã được
nghiên cứu cho vùng ven biển, đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ. Trong 50 năm qua (19582007), nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng lên khoảng từ 0,5oC đến 0,7oC, còn lượng
mưa năm thì giảm khoảng 2% (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2009). Theo kịch bản trung
bình B2, thì nước biển dâng lên 12 cm vào năm 2020, 30 cm – năm 2050 và 75 cm – năm
2100. Nếu nước dâng lên 65 cm, đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngập 12,8% diện tích. Nếu
nước dâng lên 75 cm – nước sẽ ngập 19% diện tích. Tuy nhiên, chưa có nhiều các nghiên cứu

về tác động của biến đổi khí hậu lên vùng trung du miền núi, chiếm tới ¾ diện tích tự nhiên
của cả nước. Vì vậy, báo cáo này tập trung nghiên cứu khả năng ảnh hưởng của biến đổi khí
hậu lên sự phát triển của vùng trung du miền núi Việt Nam.
Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (oC) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản phát thải trung
bình (B2) trong các vùng của Việt Nam được thể hiện trong Bảng 2. Theo như kịch bản này,
nhiệt độ ở vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, bao gồm cả vùng đồng bằng và miền núi, nhiệt độ
220


trung bình năm đều cao hơn so với Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Cần lưu ý rằng, theo báo cáo
về Biến đổi khí hậu và phát triển con người ở Việt Nam của Chương trình Phát triển Liên Hợp
quốc (UNDP, 2007), từ năm 1900 đến năm 2000, mỗi thập kỷ, nhiệt độ trung bình ở Việt
Nam tăng 0,1oC. Mùa hè trở nên nóng hơn, với nhiệt động trung bình tăng 0,1-0,3oC/thập kỷ.
Vì vậy, sự tăng nhiệt độ trong thời gian tới sẽ làm thời tiết ở phía Bắc khắc nghiệt hơn, hạn
hán tăng lên, với số ngày có nhiệt độ < 20oC giảm và số ngày có nhiệt độ > 25oC tăng, tổng
lượng nhiệt tăng, nhiệt độ tối thấp tăng.
Mức thay đổi lượng mưa (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản phát thải trung bình
(B2) trong các vùng của Việt Nam được thể hiện trong Bảng 3. Theo như kịch bản này, lượng
mưa trung bình hàng năm ở vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, bao gồm cả vùng đồng bằng và
miền núi, sẽ cao hơn so với lượng mưa trung bình năm ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Tuy
nhiên, lượng mưa sẽ tập trung hơn vào các tháng mùa mưa và sẽ khô hạn hơn vào mùa khô.
Bảng 3. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (oC) so với thời kỳ 1980-1999
theo kịch bản phát thải trung bình (B2)
Các mốc thời gian của thế kỷ 21 (năm)
Vùng
2020

2030

2040


2050

2100

Tây Bắc

0,5

0,7

1,0

1,3

2,6

Đông Bắc

0,5

0,7

1,0

1,2

2,5

Đồng bằng Bắc Bộ


0,5

0,7

0,9

1,2

2,4

Bắc Trung Bộ

0,5

0,8

1,1

1,5

2,8

Nam Trung Bộ

0,4

0,5

0,7


0,9

1,9

Tây Nguyên

0,3

0,5

0,6

0,8

1,6

Nam Bộ

0,4

0,6

0,8

1,0

2,0

Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2009.

Một nhận xét chung là biến đổi khí hậu sẽ làm tăng nhiệt độ và tăng lượng mưa trung bình
năm, tuy nhiên, sự thay đổi này lại không đồng đều theo thời gian và không gian. Kết quả là
mùa hè, đặc biệt ở vùng đất liền và miền núi, nhiệt độ lại tăng cao hơn, lượng mưa lại tăng
hơn vào mùa mưa và khô hạn hơn vào mùa khô. Những hiện tượng thời tiết cực đoan (nóng
lạnh quá, mưa bất thường), hiện tượng nhiễu loạn thời tiết ngày càng gia tăng cả về số lượng
lẫn cường độ.

221


Bảng 4. Mức thay đổi lượng mưa (%) so với thời kỳ 1980-1999
theo kịch bản phát thải trung bình (B2)
Các mốc thời gian của thế kỷ 21 (năm)
Vùng
2020

2030

2040

2050

2100

Tây Bắc

1,4

2,1


3,0

3,8

7,4

Đông Bắc

1,4

2,1

3,0

3,8

7,3

ĐB Bắc Bộ

1,6

2,3

3,2

4,1

7,9


Bắc Trung Bộ

1,5

2,2

3,1

4,0

7,7

Nam Trung Bộ

0,7

1,0

1,3

1,7

3,2

Tây Nguyên

0,3

0,4


0,5

0,7

1,4

Nam Bộ

0,3

0,4

0,6

0,8

1,5

Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2009.

3.2. Tác động của biến đổi khí hậu lên các ngành và vùng
Cơ chế tác động của biến đổi khí hậu lên vùng miền núi cũng rất phúc tạp và đa dạng, nhưng
cơ chế này thể hiện rõ ràng nhất là thông qua chu trình nước và biểu hiện thông qua những
nhiễu loạn và bất thường của thời tiết (Hình 3).

Hình 3. Cơ chế tác động của biến đổi khí hậu lên vùng miền núi
Đối tượng chính chịu sự tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu là hệ tự nhiên và hệ xã hội.
Các thành phần của hệ tự nhiên bị tác động bao gồm cảnh quan, địa hình, tài nguyên nước,
cũng như thảm thực vật, hệ sinh thái rừng và hệ động vật. Những tác động lên hệ tự nhiên này
có thể làm thay đổi 4 chức năng hay 4 “dịch vụ hệ sinh thái”, đó là: (i) dịch vụ cung cấp, bao

gồm lương thực, thực phẩm, gỗ, lâm sản ngoài gỗ, cây thuốc, nước sạch; (ii) dịch vụ điều
chỉnh, bao gồm điều hòa khí hậu, giữ nước, hạn chế xói mòn đất, giảm tốc độ của gió bão, bảo
222


vệ mùa màng; iii)địch vụ văn hóa, bao gồm tinh thần, giải trí, thẩm mỹ, văn hóa...; và (iv)
dịch vụ hỗ trợ góp phần tạo ra lớp đất màu, tạo độ phì của đất (MA, 2006).
Bảng 4. Tác động của biến đổi khí hậu đến một số ngành và cộng đồng dễ bị tổn thương
Tác động
Tăng nhiệt
độ

Vùng nhạy cảm,
dễ tổn thương

Ngành, lĩnh vực dễ bị tổn thương

+ Vùng núi: Đông + Nông nghiệp (trồng trọt, chăn
Bắc, Tây Bắc và
nuôi, thủy sản)
Bắc Trung Bộ
+ Các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng
+ Đồng bằng Bắc sinh học
Bộ
+ Năng lượng (sản xuất và tiêu thụ)
+ Sức khỏe cộng đồng

Nước biển
dâng, xâm
nhập mặn


+ Dải ven biển:
ĐB Bắc Bộ, ĐB
sông Cửu Long,
duyên hải Trung
Bộ

+ Nông nghiệp (trồng trọt, chăn
nuôi, thủy sản)

+ Hải đảo

+ Cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp,
năng lượng

+ Các hệ sinh thái biển và ven biển
+ Tài nguyên nước (nước mặt, nước
ngầm)

Cộng đồng dễ bị
tổn thương
+ Nông dân
nghèo
+ Các dân tộc
thiểu số, người
già, trẻ em, phụ
nữ
+ Dân cư ven
biển, nhất là nông
dân nghèo, ngư

dân
+ Người già, phụ
nữ, trẻ em

+ Nơi cư trú, sức khỏe cộng đồng
Lũ lụt, tiêu
thoát nước
và sạt lở
đất

Bão, áp
thấp nhiệt
đới

+ Dải ven biển:
ĐB Bắc Bộ, ĐB
sông Cửu Long,
duyên hải Trung
Bộ

+ Nông nghiệp (trồng trọt, chăn
nuôi, thủy sản)

+ Dân cư ven
biển

+ Tài nguyên nước (sinh hoạt, công
nghiệp)

+ Dân cư miền

núi, nhất là dân
tộc thiểu số

+ Vùng núi: Tây
Bắc, Đông Bắc,
Bắc Trung Bộ và
Tây Nguyên

+ Nơi cư trú, sức khỏe và đời sống

+ Người già, phụ
nữ, trẻ em

+ Dải ven biển:
ĐB Bắc Bộ, ĐB
sông Cửu Long,
duyên hải Trung
Bộ

+ Nông nghiệp (trồng trọt, chăn
nuôi, thủy sản)

+ Dân cư ven
biển, nhất là ngư
dân

+ Hải đảo

+ Cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải


+ Các hoạt động trên biển và ven
biển
+ Cơ sở hạ tầng, năng lượng (dầu
khí), giao thông

+ Người già, phụ
nữ, trẻ em

+ Nơi cư trú, sức khỏe và đời sống
Hạn hán

+ Trung Bộ, đặc
biệt là Nam
Trung Bộ

+ Nông nghiệp (trồng trọt, chăn
nuôi).
+ Năng lượng (thủy điện)
223

+ Nông dân, nhất
là các dân tộc
thiểu số ở Nam


Vùng nhạy cảm,
dễ tổn thương

Tác động


+ Đồng bằng và
trung du Bắc Bộ

Ngành, lĩnh vực dễ bị tổn thương
+ Giao thông thủy
+ Tài nguyên nước

+ ĐB sông Cửu
Long

Cộng đồng dễ bị
tổn thương
Trung Bộ và Tây
Nguyên
+ Người già, phụ
nữ, trẻ em

+ Tây Nguyên
Các hiện
tượng khí
hậu cực
đoan
khác(*)

+ Dải ven biển
Trung Bộ

+ Nông nghiệp và an ninh lương
thực


+ Vùng núi và
Trung du Bắc Bộ

+ Sức khỏe và đời sống

+ Nông dân, nhất
là ở miền núi Bắc
Bộ và Trung Bộ
+ Người già, phụ
nữ, trẻ em

Ghi chú: (*) Các hiện tượng khí hậu cực đoan khác gồm: Các đợt nắng nóng và số ngày nắng
nóng, các đợt rét và số ngày rét đậm, rét hại, mưa cực lớn, dông, tố, lốc…
Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008.
Bảng 5. Tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu và mực nước biển dân tới một số mục tiêu
thiên niên kỷ có liên quan đến phát triển bền vững vùng miền núi
Mục tiêu
thiên niên kỷ
Mục tiêu 1:
Xóa bỏ tình
trạng nghèo
cùng cực và
thiếu đói

Tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng
+ Tác động tới tài sản, sinh kế, bao gồm nhà cửa, nguồn cấp nước, sức
khỏe và hạ tầng kỹ thuật. Những tác động này có thể làm suy giảm khả
năng của con người trong việc đảm bảo cuộc sống, vượt qua đói nghèo;
+ Giảm sản lượng nông nghiệp, ảnh hưởng tới an ninh lương thực;
+ Thay đổi trong hệ thống tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, hạ tầng kỹ

thuật và năng suất lao động có thể làm giảm các cơ hội thu nhập và ảnh
hưởng tới phát triển kinh tế;
+ Các sức ép xã hội có nguồn gốc từ sử dụng tài nguyên thiên nhiên có thể
dẫn tới xung đột, mất ổn định cuộc sống và sinh kế, buộc các cộng đồng
phải di cư.

Mục tiêu 7:
Đảm bảo bền
vững về môi
trường

+ Các tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của BĐKH có thể gây thay đổi và
suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ sinh thái, giảm đa dạng
sinh học, tăng ô nhiễm môi trường, là một thách thức lớn cho phát triển
bền vững;
+ BĐKH có thể thay đổi quá trình tương tác giữa hệ sinh thái và con
người, dẫn tới mất đa dạng sinh học và các nguồn bổ trợ cuộc sống cơ bản
từ tài nguyên thiên nhiên cho sinh kế con người đối với nhiều cộng đồng.

Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008.

224


Những thành phần của hệ xã hội bị tác động do biến đổi khí hậu là: (i) cơ sở hạ tầng, như
đường sá, cầu cống; công trình thủy lợi, đập, hồ chứa nước; đê sông và biển; nhà cửa, trường
học, bệnh viện; nhà máy thủy điện, hệ thống truyền tải điện, truyền thông; và (ii) hệ thống sản
xuất nông lâm nghiệp. Đấy là những hợp phần rất nhạy cảm với những thiên tai liên quan đến
khí hậu.
Như vậy, trong 6 tác động do Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu

đưa ra thì 4 tác động ảnh hưởng trực tiếp đến vùng trung du miền núi, đó là: (i) Tăng nhiệt độ;
(ii) Lũ lụt, tiêu thoát nước và sạt lở đất; (iii) Hạn hán; và (iv) Các hiện tượng khí hậu cực đoan
khác. Tuy tác động “bão, áp thấp nhiệt đới” không ảnh hưởng trực tiếp đến vùng trung du
miền núi, nhưng thực tế cho thấy lũ quét và trượt lở đất sau bão rất nặng nề, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến vùng miền núi của các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên – Huế,
Quảng Trị, Kon Tum, như trong trận bão số 9 (bão Ketsana) vào cuối tháng 9 đầu tháng 10
vừa qua. Như vậy, chỉ có một tác động “nước biển dâng, xâm nhập mặn” là không ảnh hưởng
trực tiếp đến vùng miền núi mà thôi.
Liên quan đến thực hiện các mục tiêu thiên nhiên kỹ, biến đổi khí hậu và nước biển dâng sẽ
có khả năng tác động mạnh đến hai mục tiêu, đó là: (i) xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và
thiếu đói; và (ii) đảm bảo bền vững về môi trường.
Bảng 6. Tổng hợp một số tác động của biến đổi khí hậu đến một số
lĩnh vực phát triển bền vững ở miền núi
STT
1

Lĩnh vực
tác động
Đa dạng
sinh học

Biến đổi khí hậu
Nhiệt độ tăng lên

Biến động về lượng mưa

+ Thay đổi vùng phân bố
và cấu trúc quần xã sinh
vật của nhiều HST; các loài
ôn đới sẽ giảm đi; cấu trúc

chuỗi và lưới thức ăn cũng
thay đổi

Thủy vực nội địa (sông,
hồ, đầm lầy...) bị tác động
do sự thay đổi nhiệt độ
nước và mực nước

Nguồn
Trương
Quang Học,
2008

+ Nguy cơ diệt vong của
nhiều loài động, thực vật
bản địa
2

Tài
nguyên
nước

+ Tài nguyên nước đang chịu thêm nguy cơ suy giảm do
hạn hán ngày một tăng ở một số vùng, mùa

Bộ Tài
nguyên và
Môi trường,
+ Chế độ mưa thay đổi có thể gây lũ lụt nghiêm trọng
vào mùa mưa và hạn hán vào mùa khô, gây khó khăn cho 2008

việc cấp nước và tăng mâu thuẫn trong sử dụng nước
+ Xu hướng giảm nhiều hơn đối với dòng chảy năm và
dòng chảy kiệt; xu thế tăng nhiều hơn đối với dòng chảy
lũ trên các sông lớn như sông Hồng và sông Cửu Long

3

Nông

+ BĐKH có tác động lớn đến sinh trưởng, năng suất cây

225

Bộ Tài


STT

Lĩnh vực
tác động
nghiệp và
an ninh
lương
thực

Biến đổi khí hậu
Nhiệt độ tăng lên

Biến động về lượng mưa


trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu
bệnh hại cây trồng; ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng
của gia súc, gia cầm, làm tăng khả năng sinh bệnh,
truyền dịch của gia súc, gia cầm
+ Ranh giới của cây trồng nhiệt đới dịch chuyển về phía
vùng núi cao hơn và các vĩ độ phía Bắc. Phạm vi thích
nghi của cây trồng á nhiệt đới bị thu hẹp thêm

Nguồn
nguyên và
Môi trường,
2008;
Đào Xuân
Học, 2009;
Cuong,
2008

+ BĐKH có khả năng làm tăng tần số, cường độ, tính
biến động và tính cực đoan của các hiện tượng thời tiết
nguy hiểm như bão, tố, lốc, các thiên tai liên quan đến
nhiệt độ và mưa như thời tiết khô nóng, lũ lụt, ngập úng
hay hạn hán, rét hại, xâm nhập mặn, sâu bệnh, làm giảm
năng suất và sản lượng của cây trồng và vật nuôi
+ Sự thay đổi các yếu tố khí hậu và thời tiết có thể làm
nảy sinh một số bệnh mới đối với chăn nuôi gia súc, gia
cầm, thủy cầm và phát triển thành dịch hay đại dịch
+ Dòng chảy và xói mòn đất tăng lên gây ra suy thoái độ
màu mỡ của đất và vì vậy, làm suy giảm năng suất
4


Lâm
nghiệp

+ Ranh giới rừng nguyên sinh cũng như rừng thứ sinh có
thể dịch chuyển. Rừng cây họ dầu mở rộng lên phía Bắc
và các dải cao hơn, rừng rụng lá với nhiều cây chịu hạn
phát triển mạnh

Bộ Tài
nguyên và
Môi trường,
2008

+ Nhiệt độ cao kết hợp với ánh sáng dồi dào thúc đẩy
quá trình quang hợp, dẫn đến tăng cường quá trình đồng
hóa của cây xanh. Tuy vậy, chỉ số tăng trưởng sinh
khối của cây rừng có thể giảm do độ ẩm giảm
+ Nguy cơ diệt chủng của động vật và thực vật gia tăng,
một số loài động, thực vật quý hiếm có thể bị suy kiệt
+ Nhiệt độ và mức độ khô hạn gia tăng, làm tăng nguy
cơ cháy rừng, phát triển sâu bệnh, dịch bệnh...
5

Sức khỏe
con người

+ Nhiệt độ tăng làm tăng tác động tiêu cực đối với sức
khỏe con người, dẫn đến gia tăng một số nguy cơ đối với
tuổi già, người mắc bệnh tim mạch, bệnh thần kinh
+ Tình trạng nóng lên làm thay đổi cấu trúc mùa nhiệt

hàng năm
+ BĐKH làm tăng khả năng xảy ra một số bệnh nhiệt đới
như sốt rét, sốt xuất huyết, làm tăng tốc độ sinh trưởng
và phát triển nhiều loại vi khuẩn và côn trùng, vật chủ
226

Bộ Tài
nguyên và
Môi trường,
2008


STT

Biến đổi khí hậu

Lĩnh vực
tác động

Nhiệt độ tăng lên

Biến động về lượng mưa

Nguồn

mang bệnh, làm tăng số lượng người bị bệnh nhiễm
khuẩn dễ lây lan...
+ Thiên tai như bão, tố, nước dâng, ngập lụt, hạn hán,
mưa lớn và sạt lở đất, v.v... gia tăng về cường độ và tần
số, làm tăng số người bị thiệt mạng và ảnh hưởng gián

tiếp đến sức khỏe thông qua ô nhiễm môi trường, suy
dinh dưỡng, bệnh tật hoặc do những đổ vỡ của kế hoạch
dân số, kinh tế-xã hội, cơ hội việc làm và thu nhập
Nền sản xuất nông nghiệp, đặc biệt sản xuất lương thực của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng do biến đổi khí hậu.
Ở Việt Nam, Mô hình mô phỏng sinh thái-động (Dynamic-Ecological simulation Model) do
Tập đoàn DINAS-COAST xây dựng, dự báo giảm sản lượng lúa xuân 2,4% vào năm 2020 và
8,4% vào năm 2050 theo kịch bản A1B (Bảng 7). Lúa hè thu ít nhạy cảm hơn đối với biến đổi
khí hậu so với lúa xuân nhưng cũng giảm đi 0,77% sản lượng vào năm 2050. Như vậy, sản
lượng lúa ở miền Bắc và miền Trung sẽ bị tác động mạnh hơn so với ở miền Nam.
Bảng 7. Thay đổi sản lượng lúa ở Việt Nam (so với các năm 1980-1990), %
Vị trí

Lúa xuân

Lúa hè thu

2020

2050

2020

2050

Hà Nội (miền Bắc)

- 3,7

- 12,5


- 1,0

- 3,7

Đà Nẵng (miền Trung)

- 2,4

- 6,8

- 1,2

- 4,2

TP. Hồ Chí Minh (miền Nam)

- 1,1

- 6,0

- 0,2

- 1,7

Trung bình

- 2,4

- 8,4


- 0,8

- 3,2

Nguồn: Cuong, 2008.
4. LỒNG GHÉP THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀO TRONG HOẠCH ĐỊNH
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

4.1. Lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội
Trong 8 nhiệm vụ chủ yếu của Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu,
thì nhiệm vụ thứ bảy “Tích hợp yếu tố biến đổi khí hậu vào các chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội, phát triển ngành và địa phương” có một ý nghĩa rất quan trọng
trong phát triển bền vững.
Với những tác động của BĐKH, việc tích hợp yếu tố BĐKH vào Kế hoạch phát triển kinh tếxã hội (gọi tắt là Kế hoạch phát triển) là sự rà soát, điều chỉnh và bổ sung các kế hoạch phát

227


triển đã được hoặc sẽ được ban hành có tính đến các tác động của BĐKH và các biện pháp
ứng phó tương ứng. Lồng ghép việc ứng phó với BĐKH vào các kế hoạch phát triển là triển
khai sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, là sự thể hiện trách nhiệm không
những của các bộ, ngành, địa phương, mà cả các doanh nghiệp và cộng đồng xã hội ứng phó
với BĐKH.
Các hoạt động chính của tích hợp bao gồm: (i) tích hợp BĐKH vào các chiến lược và kế
hoạch quốc gia về phát triển kinh tế-xã hội; và (ii) tích hợp BĐKH vào các chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển ngành, địa phương.
Quá trình tích hợp BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội,
phát triển ngành và các địa phương có thể được thực hiện theo quy trình các bước như sau:

Bước thứ 1: Xác định chỉ tiêu của quá trình tích hợp yếu tố BĐKH vào các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, phát triển ngành và các địa phương.
Bước thứ 2: Đánh giá tác động của BĐKH đến các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội, phát triển ngành và các địa phương.
Bước thứ 3: Đánh giá quá trình thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
ngành và địa phương.
Bước thứ 4: Đánh giá nhận thức và năng lực về BĐKH của đội ngũ cán bộ của các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, nhằm thực hiện quá trình tích hợp.
Bước thứ 5: Đánh giá các tác động của quá trình tích hợp (tích cực và tiêu cực).
Bước thứ 6: Xây dựng cơ chế chính sách và chiến lược tích hợp (bao gồm cả các vấn đề về
tài chính, kinh tế và chính sách).
Bước thứ 7: Thực hiện quá trình tích hợp trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển.

4.2. Những thách thức khi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia
Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện thì gặp rất nhiều thách thức.
Khó khăn trước tiên trong thực hiện Chương trình là sự yếu kém về nhận thức, cả về phạm vi
và mức độ, cũng như các biện pháp để ứng phó với BĐKH. Sự thiếu nhận thức tồn tại ở các
cấp, từ các nhà hoạch định chính sách, các cán bộ ở các ngành và địa phương, các tổ chức xã
hội, cũng như bản thân các cộng đồng dễ bị tổn thương. Vì thế, nâng cao nhận thức cho mọi
tầng lớp rõ ràng là hoạt động cần được ưu tiên đầu tiên.
Khó khăn thứ hai trong thực hiện Chương trình là thiếu sự phối hợp để ứng phó với BĐKH
trong xây dựng các chính sách, quy hoạch và chương trình trong các ngành và lĩnh vực, ngay
cả trong những ngành nhạy cảm với khí hậu. Chưa có nhận thức về sự cần thiết của việc tích
hợp. Việc tích hợp BĐKH trong quy hoạch, thiết kế và thực thi các chính sách hầu như chưa
có, đặc biệt là chưa gắn kết BĐKH với các hoạt động giảm đói nghèo và việc làm.
Khó khăn thứ ba trong triển khai Chương trình (khi nhận thức đã được nâng cao) là thiếu các
công cụ và phương pháp luận để hướng dẫn và tư vấn cho các nhà ra chính sách. Điều này
xảy ra ngay cả đối với các cán bộ chuyên môn ở các ngành, các cấp ở địa phương và các cộng
đồng dễ bị tổn thương. Vì thế, đào tạo và nâng cao kiến thức, thu thập và xử lý số liệu, phát
228



triển các phương pháp luận và các công cụ phân tích và thích ứng với BĐKH là các hoạt động
quan trọng cần được làm ngay.
Khó khăn thứ tư trong thực hiện Chương trình là sự thiếu kiến thức. BĐKH là vấn đề lâu dài,
các tác động của BĐKH là rất phức tạp bao gồm cả những tác động hiện tại và những tác
động tiềm tàng. Những hiểu biết của thế giới và của Việt Nam về quá trình BĐKH cũng như
tác động của chúng đến các hoạt động kinh tế-xã hội còn rất hạn chế.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng đã chỉ ra 2 hạn chế cơ bản nhất liên quan đến hoạch định
chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu, đó là: (i) Những hạn chế để lượng hóa hiểm họa:
hiện chưa có một cách thức có hệ thống nào để đánh giá hiểm họa khí hậu và cũng không có
phương pháp luận chung nào để so sánh những hiểm họa do thiên tai khác nhau và ở các vùng
địa lý khác nhau; (ii) Thiếu những công cụ hỗ trợ chính sách: cơ sở của những nghiên cứu và
chính sách hiện tại không thể cung cấp phương pháp luận cho hoạch định chính sách để xem
xét hiểm họa khí hậu một cách có hệ thống và hiệu quả về nguồn lực (ECA, 2009).

4.3. Một vài kinh nghiệm quốc tế trong lồng ghép giải pháp thích ứng với biến đổi
khí hậu vào quá trình hoạch định chính sách
Nhóm nghiên cứu kinh tế thích ứng với biến đổi khí hậu dưới sự tài trợ của Quỹ Môi trường
Toàn cầu (Global Environment Facility), Quỹ Rockefeller (Rockefeller Foundation), Cộng
đồng Châu Âu và một số ngân hàng (ECA, 2009) đã xây dựng được một cách tiếp cận hệ
thống để thích ứng với biến đổi khí hậu và đã triển khai nghiên cứu điển hình tại các nước
Trung Quốc, Guyana, Ấn Độ, Mali, Anh và Mỹ về phương thức lồng ghép những giải pháp
thích ứng với biến đổi khí hậu cho quá trình hoạch định chính sách. Khi tiếp cận theo phương
pháp luận này, câu hỏi thiết yếu được đưa ra không phải là “Làm thế nào chúng ta giảm thiểu
tối đa thiệt hại của thảm họa khí hậu?” mà là “Làm thế nào chúng ta đạt được mục tiêu phát
triển trong lúc vẫn tính đến những hiểm họa hiện tại và tương lai của khí hậu?”. Từ tư duy
này, 3 bước thực hiện cho các nhà hoạch định chính sách là: (i) Tiến hành những đánh giá
nguy cơ khí hậu đối với nền kinh tế – kết nối tất cả những hiểm họa khí hậu lớn và tất cả
những tác động tiềm tàng, từ cơ sở hạ tầng đô thị, tới sản xuất nông nghiệp và sức khỏe con

người; (ii) Thu nhận các hiểu biết chính xác về những giải pháp sẵn có nhằm giải quyết các
hiểm họa đó, cũng như tất cả các chi phí và lợi ích của những giải pháp đó; và (iii) Đặt mức
ưu tiên cho những giải pháp có hiệu lực nhất và lồng ghép chúng vào chiến lược phát triển
kinh tế.
Khuôn khổ đánh giá hiểm họa khí hậu tổng thể được áp dụng cho các nghiên cứu điển hình
nêu trên là (ECA, 2009:28):
+ Chúng ta đang chịu hiểm họa ở đâu và từ cái gì? Xác định những hiểm họa cao nhất cũng
như những vùng hoặc lãnh thổ bị tác động của hiểm họa trên và đưa ra bản đồ phân bố
toàn bộ dân số, phần dân số bị ảnh hưởng và giá trị kinh tế.
+ Quy mô của những thiệt hại dự kiến là như thế nào? Hãy xác định những thứ gì đang bị
nguy hiểm từ những hiểm họa bằng cách sử dụng những kịch bản và mô hình đánh giá
thiệt hại tiềm tàng để tính được tổng hiểm họa khí hậu cho một vùng cụ thể với trọng tâm
– đó là hiểm họa đến từ khí hậu hiện tại, cộng thêm sự tăng trưởng kinh tế, cộng thêm sự
biến đổi khí hậu.
229


Hình 4. Khuôn khổ đánh giá hiểm họa khí hậu tổng thể (ECA, 2009)
+ Chúng ta sẽ phản ứng lại như thế nào? Xây dựng một bộ danh mục những phản hồi với
các đánh giá chi phí-lợi ích chi tiết khi mà tỷ lệ chi phí-lợi ích được tính toán bằng cách
tính toán vốn đầu tư và chi phí điều hành với tổng lợi ích.
+ Chúng ta sẽ thực hiện như thế nào? Thực hiện một chiến lược ứng phó hiểm họa khí hậu
tổng thể sao cho có thể vượt qua được những rào cản và đưa ra được những sáng kiến
thích ứng then chốt và được tài trợ toàn bộ.
+ Những tác động, hiệu quả và các bước tiếp theo là gì? Đo đạc mức độ thành công, thực
hiện quy trình quản lý rủi ro định kỳ và điều chỉnh những chiến lược khi các kịch bản biến
đổi khí hậu thay đổi.
Các bước thực hiện một chiến lược tổng hợp cho sự phát triển thích ứng với biến đổi khí hậu
(ECA, 2009:64-67):
Bước 1: Bắt đầu với một cách tiếp cận và mục tiêu tổng thể.

Bước 2: Xác định ưu tiên cho các thiên tai và địa điểm của chúng.
Bước 3: Nhận biết tính không chắc chắn (uncertainty) về khí hậu trong tương lai – nhưng
không bị cản trở về điều đó.
Bước 4: Xác định cách giải quyết (penestration) hiện tại và có mục tiêu đối với các giải pháp
ưu tiên theo chi phí-hiệu quả.
Bước 5: Tập trung vào giải quyết những cản trở (thắt cổ chai), thực hiện sự phát triển theo
cách truyền thống.
Bước 6: Động viên sự tài trợ đầy đủ từ cộng đồng quốc tế.
Bước 7: Nhận biết, tạo điều kiện và động viên các vai trò khác nhau của mỗi bên có liên
quan.

230


MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
+ Lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội ở vùng
miền núi phải được thực hiện song song với quy hoạch giảm nhẹ rủi ro thiên tai, kết hợp
với phát triển sinh kế bền vững cho người nghèo.
+ Cách tiếp cận liên ngành phải được xem là chiến lược chủ đạo trong xây dựng kế hoạch, tổ
chức thực hiện và giám sát, đặc biệt trong điều phối các ngành kinh tế liên quan mật thiết
tới tài nguyên thiên nhiên và nhạy cảm với các thiên tai do tác động của biến đổi khí hậu.
+ Huy động mọi nguồn lực vật chất và tinh thần của mọi người có liên quan, từ các cơ quan
của Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, thành phần tư nhân và cộng đồng địa phương,
trong nỗ lực chung để ứng phó với biến đổi khí hậu.
+ Trong công tác lập kế hoạch, có thể dự trù một tỷ lệ % GDP nào đấy, có thể là 1%, là tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế có thể bị giảm đi do những thiệt hại của thiên tai. Ngoài ra, có thể tăng
thêm yêu cầu kỹ thuật hoặc chi phí cho những công trình công cộng, thủy lợi, đê điều, hồ
đập, nhà cửa, đường sá... có tính đến yếu tố rủi ro do các thiên tai ngày càng diễn biến
phức tạp và khó dự báo.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. AIDA, 2007. Cơ sở cho phát triển nông thôn theo vùng ở Việt Nam. Đại sứ quán Tây Ban
Nha ở Việt Nam, 500 trang.
2. Asian Development Bank, 2009. The Economics of Climate Change in Southeast Asia: A
Regional Review. Mandaluyong City, Philippines: Asian Development Bank.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2006. Ảnh hưởng của chính sách nông lâm nghiệp và nuôi trồng
thủy sản tới phát triển bền vững ở Việt Nam. NXB Lao động Xã hội, Hà Nội.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008. Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến
đổi khí hậu. Hà Nội, 65 trang.
5. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2009. Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt
Nam. 33 trang.
6. Cuong, N., 2008. Vietnam Country Report: A Regional Review on the Economics of
Climate Change in Southeast Asia. Report submitted for RETA 6427: A Regional Review
of the Economics of Climate Change in Southeast Asia. Asian Development Bank,
Manila. Processed.
7. ECA, 2009. Shaping Climate-Resilient Development: A Framework for DecisionMaking. A Report of the Economics of Climate Adaptation Working Group. 164 pp.
8. Hoàng Trung Hải, 2009. Báo cáo cho Hội nghị với các nhà tài trợ về ứng phó với biến đổi
khí hậu. Hà Nội, 09/10/2009.

231


9. Đào Xuân Học, 2009. Kế hoạch thích ứng với biến đổi khí hậu trong lĩnh vực nông
nghiệp và phát triển nông thôn. Bài trình bày tại Hội thảo Việt Nam thích ứng với biến
đổi khí hậu, 31/7/2009 tại Hội An, Quảng Nam, 12 trang.
10. Truong Quang Hoc, 2007. Biodiversity and Climate Change: General Issues. ISGE
Newsletter, MONRE, Volume 8, May 2007: 1-2.
11. International Food Policy Research Institute, 2009. Addressing Climate Change in the
Asia and Pacific Region. Building Climate Resilience in the Agriculture Sector.
Unpublished. TA 6479-REG, 27 April 2009.

12. Jamison, Lê Trọng Cúc và Ramboo, 1999. Những khó khăn trong công cuộc phát triển
miền núi ở Việt Nam. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 31 trang.
13. Nguyen Huu Ninh, 2007. Presentation on Climate Change Adaptation and Disaster Risk
Management in Vietnam. In: IDRC-CRES Workshop on Climate Change: Adaptation and
Implication, Hanoi, 28 November 2007.
14. Lê Duy Phong và Hoàng Văn Hòa, 1999. Kinh tế thị trường và sự phân hóa giàu nghèo ở
vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
166 trang.
15. Võ Quý, 2008. Quản lý hệ sinh thái rừng, các khu bảo tồn và các vấn đề kinh tế-xã hội
vùng đệm. Bài giảng dùng cho Khóa bồi dưỡng sau đại học “Tiếp cận sinh thái học trong
quản lý tài nguyên thiên nhiên và phát triển bền vững”. Trung tâm Nghiên cứu Tài
nguyên và Môi trường, Hà Nội, 174 trang.
16. Võ Thanh Sơn, 2004. Quan hệ giữa bảo vệ rừng và sản xuất lương thực ở huyện Na Hang
trong 40 năm qua và những thách thức về phát triển trong thời gian tới. Trong: Kỷ yếu
Hội nghị khoa học về tài nguyên và môi trường 2003-2004. Trung tâm Nghiên cứu Tài
nguyên và Môi trường, ĐHQGHN, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội: 216-230.
17. Phạm Minh Thoa và Phạm Mạnh Cường, 2008. Tác động của biến đổi khí hậu đối với
lâm nghiệp và đề xuất một số hoạt động giảm thiểu và thích ứng. Hội thảo lần 1: "Xây
dựng Kế hoạch phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó và giảm nhẹ tác động
do biến đổi khí hậu", Đồ Sơn, 14-15/8/2008.
18. Trần Thục, 2009. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Phân tích kinh
tế của biến đổi khí hậu”. Hà Nội, 26/09/2009.
19. Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia, 2009. Http://www.thoitietnguyhiem.net.
20. UNDP, 2007. Biến đổi khí hậu và phát triển con người ở Việt Nam.
21. Ủy ban Dân tộc, 2002. Miền núi Việt Nam, thành tựu và phát triển những năm đổi mới.
NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 249 trang.

232




×