Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

2Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.4 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Nếu như thế kỷ XX trong lịch sử Việt Nam là “thế kỷ của những biến
đổi to lớn và sâu sắc, thế kỷ đấu tranh gian nan oanh liệt giành lại độc lập tự
do thống nhất Tổ quốc, thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa
lịch sử và thời đại”, thì bước vào thế kỷ XXI sứ mệnh thiêng liêng của toàn
dân tộc chúng ta là phải tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Là một quốc
gia có truyền thống dựng nước và giữ nước lâu đời, có quá trình liên tục đấu
tranh để vươn lên làm chủ cuộc sống trước thiên nhiên khắc nghiệt và nhiều
thế lực ngoại xâm hung bạo, bản thân lịch sử dân tộc Việt Nam chính là
những bài học vô cùng quý báu để giáo dục cho thế hệ trẻ lòng yêu nước,
tinh thần tự lực tự cường, khát vọng vươn lên vượt khó để xứng đáng với
quá khứ hào hùng và vinh quang của thế hệ đi trước. Hơn thế nữa, sức mạnh
của tri thức lịch sử không chỉ giới hạn ở chỗ giúp cho những thế hệ hôm nay,
ngày mai có hiểu biết đầy đủ về qúa khứ, mà còn làm cho người đang sống
có ý thức về xã hội, biết suy nghĩ cảm thụ những gì đã xảy ra trong qúa khứ
để có trách nhiệm với hiện tại và trong tương lai. Sau 30 năm đổi mới thế và
lực của đất nước ta đã mạnh hơn nhiều, tuy "từng bước phát triển" nhưng
một số thành phần của kinh tế tri thức như công nghệ thông tin, in-tơ-nét,
điện thoại di động... trong giai đoạn 2001 - 2005 đã phát triển khá nhanh.
Nhiều nước phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Phần Lan, Ấn Độ... biết
kết hợp phát triển kinh tế tri thức đều đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao.
Do đó, tranh thủ thời cơ mà bối cảnh quốc tế tạo ra, kết hợp nội lực với các
thuận lợi bước đầu về phát triển kinh tế tri thức, Đảng ta đã đề ra đường lối:
"Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức".


NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH TẾ
TRI THỨC


1.1. Phát triển kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau ở
mức độ nhiều hay ít. Kinh tế nông nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng mười
ngàn năm, phải dựa nhiều vào hiểu biết về canh tác, chăn nuôi, thời tiết... tức
là những tri thức cơ bản về nông nghiệp. Nhưng lúc đó đất đai, lao động thủ
công lại quan trọng hơn, nên tri thức chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, kinh tế công nghiệp cơ giới xuất hiện
và phát triển mạnh, dựa vào các tri thức cơ học cổ điển để chế tạo ra máy
móc cơ khí phục vụ sản xuất. Nhưng để hình thành được thị trường hàng hóa
của kinh tế công nghiệp cổ điển thì tài nguyên và vốn (tư bản) lại quan trọng
hơn nên tri thức cơ học cổ điển cũng chỉ có vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm
năng phát triển và bắt đầu suy thoái, vì tài nguyên trở nên cạn kiệt, ô nhiễm
ngày càng nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt đe dọa thường xuyên... Trong
bối cảnh đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xuất hiện và phát
triển bùng nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ, rất mới và vô cùng
phong phú về thế giới vật chất vĩ mô và vi mô, với thuyết tương đối và
thuyết lượng tử. Lực lượng sản xuất mới được hình thành dựa trên nguồn lực
chủ yếu là tri thức, tạo nên hệ thống công nghệ cao với máy móc thông minh
mà điển hình là máy tính điện tử (máy điện toán) mô phỏng não người.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới một
hình thái kinh tế mới. Đó là một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức,
sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa vào ứng dụng là động lực chủ
yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất cả các


ngành kinh tế. Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri thức và
tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức của
Ngân hàng thế giới. Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri thức sản xuất chủ yếu
dựa vào nguồn lực tri thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn chỉ giữ vai

trò thứ yếu.
Như vậy, trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại con người là
động vật duy nhất có năng lực sáng tạo tri thức, do đó biết lao động sản xuất
và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri thức là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức
là một lịch sử tất yếu.
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX,
dựa trên những tri thức sáng tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi mô,
dẫn tới sự phát minh ra các máy móc, thuộc loại hoàn toàn mới, gọi là máy
móc thông minh. Điển hình là máy điện toán, mô phỏng được những chức
năng chủ yếu của não người: biết nhớ, biết tính toán kể cả các bài toán rất
phức tạp, biết thực hiện các lệnh, biết tư vấn cho người dùng trong một số
việc..., đóng vai trò chính trong các hệ tự động hóa toàn phần của sản xuất
và trong các mạng thông tin toàn cầu. Máy móc thông minh kết hợp với tri
thức sáng tạo trở thành nguồn lực của các công nghệ cao như: công nghệ
thông tin hoặc công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu tiên tiến - nano..., trong đó công nghệ thông tin và truyền
thông giữ vai trò dẫn đầu. Hệ thống công nghệ cao là cốt lõi của lực lượng
sản xuất mới. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới đã thúc đẩy
hình thành nền kinh tế tri thức trong nửa sau của thế kỷ XX.
1.2. Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội của Mác về sự vận động và phát
triển xã hội bao gồm 4 luận điểm cơ bản:
Thứ nhất: sản xuất vật chất là nền tảng cơ sở của đời sống xã hội


Thứ hai: quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Thứ ba: cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Thứ tư: sự phát triển của các hình thái xã hội là luận điểm của lịch sử
tự nhiên

Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của đất nước,
Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời
nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt đường lối cách mạng của Đảng , đồng thời cũng đưa ra những luận
điểm mang tính định hướng cho sự phát triển kinh tế đất nước đó là: xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã, lựa
chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và
công nghiệp hoá hiện đại hoá là tất yếu với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986 cùng với việc từng bước
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng lực
lượng sản xuất chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế Đảng và Nhà nước đã xác định ngày càng rõ quan
điểm mới về công nghiêp hoá, hiện đại hoá. Quan điểm mới cũng là kết quả
tổng kết thực tiễn rút ra từ những bài học của mấy thập kỷ trước đây kết hợp
với sự nghiên cứu học hỏi kiến thức và kinh nghiệm của thế giới và thời đại.
Cuối thế kỷ XX Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra CNH – HĐH không phải là
hai quá trình tuy có phần lồng vào nhau nhưng về cơ bản vẫn tách biệt và
nối tiếp nhau là một quá trình thống nhất có thể nói là công nghiệp hoá theo
hướng hiện đại hoá.
Nghị quyết đại hội Trung ượng 7 Khoá 7 của Đảng ta (năm 1994) chỉ
rõ: “ CNH –HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản , toàn diện các hoạt động


sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển
của công nghệ và tiến bộ khoa học, tạo ra năng suất lao động xã hội cao
Coi sự nghiệp CNH – HĐH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới là một
cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống

kinh tế, xã hội, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII ( năm 1996) khi
thong qua đường lối CNH – HĐH Đảng ta nhấn manh: “ mục tiêu của CNH
– HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng
văn minh”.Tại đại hội Đảng này, Đảng ta cũng xác định rõ mục tiêu: “ phấn
đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”
cùng với những thành tựu phát triển quan trọng đạt được sau 10 năm đổi
mới, sự xác định rõ ràng về chủ trương đã tạo điều kiện thuận lợi cho nước
ta đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá .
Bước vào thế kỷ 21 bối cảnh trong nước và quốc tế có những thay đổi
mau chóng. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm
2001) của Đảng nhận định: “thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi, khoa
học công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng
nổi bật, có vai trò ngày càng lớn trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất”. Trong bối cảnh ấy nhận thức của Đảng ta về CNH – HĐH đất nước
cũng có bước đổi mới quan trọng, cho rằng quá trình CNH – HĐH ở nước ta
có thể rút ngắn. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 – 2010
được thông qua tại đại hội IXxác định: “con đường CNH – HĐH của nước ta
cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước


nhảy vọt, phát triển những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để
đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn ở mức cao hơn và
phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ từng bước
phát triển kinh tế tri thức”
Như vậy ngay từ khi tiến hành đổi mới thông qua các kỳ đại hội Đảng
ta đều xác định thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá phải gắn liền với

phát triển kinh tế tri thức. Điều này đã trở thành tôn chỉ định hướng rõ ràng
sự phát triển của nước ta.
II. Những quan điểm, nhận thức của Đảng về công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thực trạng và giải pháp.
2.1. Đường lối phát triển kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam
Kinh tế tri thức bắt đầu xuất hiện vào những năm 60 - 70 của thế kỷ
trước tại các nước công nghiệp phát triển cao. Lúc đó tại những nước này
công nghiệp hiện đại công nghệ cao đã chiếm tỷ trọng với số lao động tri
thức đã vượt trên 50% tổng số lao động.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa thế giới, một số nước đang phát triển, tuy
chưa có công nghiệp hiện đại, công nghệ cao nhưng biết chủ động hội nhập
kinh tế, tranh thủ tiếp thu công nghệ cao trên cơ sở nguồn nhân lực thích
hợp, thì vẫn có thể bước đầu phát triển kinh tế tri thức.
Nước ta, tuy còn ở trong nền kinh tế nông nghiệp và là nước đang
phát triển thu nhập thấp, nhưng biết phát huy đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ có năng lực tiếp thu và ứng dụng các công nghệ cao, qua chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, vẫn có thể có cơ hội rút ngắn thời gian để tiến
nhanh hơn. Muốn vậy, phải đồng thời tiếp thu công nghệ cao của phát triển
kinh tế tri thức và vận dụng ngay vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
các lĩnh vực cần thiết. Ví dụ phát triển các phần mềm hệ điều hành máy, có


thể đem ứng dụng với sự điều chỉnh hợp lý, vào các máy trong công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Thực tế cho thấy khi chúng ta phát triển công nghệ thông tin và truyền
thông, intermet, mạng viễn thông kỹ thuật số, điện thoại di động..., tức là
phát triển một số bộ phận của kinh tế tri thức thì mặc nhiên thúc đẩy hiện đại
hóa, ở trình độ cao, nhiều lĩnh vực của công nghiệp và xây dựng, nông
nghiệp, dịch vụ. Do đó việc kết hợp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức vừa là cơ hội, vừa là yêu cầu trong đổi mới.

Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Tranh thủ thời cơ
thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút
ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố
quan trọng của nền kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết
hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của người Việt Nam với tri thức mới
nhất của nhân loại. Như vậy, lý luận và thực tiễn là căn cứ vững chắc để xây
dựng đường lối đúng đắn, tranh thủ thời cơ, rút ngắn thời gian công nghiệp
hóa, hiện đại hóa sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại.
Theo tinh thần Đại hội XII về phát triển kinh tế trong những năm tới,
Đại hội XII nhấn mạnh chủ trương:“Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
Ngày nay, tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao
năng lực cạnh tranh trên cơ sở khai thác các thành quả cách mạng khoa học công nghệ, hiện đại hóa cơ cấu và thể chế quản lý gắn với phát triển kinh tế
thị trường là cách thức phát triển chung của mọi quốc gia. Đây là một quá


trình mở, được thúc đẩy mạnh mẽ hơn trong bối cảnh các cơ hội và nguồn
lực phát triển theo chiều rộng đã tới giới hạn, trong khi các yêu cầu và điều
kiện phát triển theo chiều sâu đang ngày càng gia tăng áp lực. Việc kéo dài
cách thức đầu tư cũ, chậm đổi mới cơ chế quản lý cho phù hợp với bối cảnh
thị trường hiện đại sẽ không chỉ làm triệt tiêu động lực tăng trưởng trước đó,
mà còn giảm sút năng lực cạnh tranh và chất lượng môi trường sống, tăng nợ
xấu và nợ công, bất bình đẳng xã hội và nguy cơ bùng phát những bất ổn cả
về kinh tế và xã hội. Hơn nữa, tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng
không thể là việc làm duy ý chí, phong trào, hình thức, bất chấp các hệ lụy
và tác động hai mặt... Cần nhấn mạnh rằng, nếu như tính kinh tế thị trường

kinh tế tri thức của nền kinh tế Việt Nam được thống nhất khẳng định là nền
kinh tế tri thức hiện đại và hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật và tuân thủ đúng quy trình của kinh tế thị trường, thì tính định
hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước lại được
thể hiện ở mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”và
được bảo đảm bởi sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Sự kết hợp hiệu quả giữa tính kinh tế thị trường và tính định hướng
XHCN cũng chính là đáp ứng xu hướng mới mang tầm vóc thời đại, đòi hỏi
có sự kết hợp tất yếu của bàn tay thị trường với vai trò của nhà nước trong
một mô hình quản lý xã hội mới đang dần định hình trên thế giới, nhất là từ
sau những cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội liên tiếp xảy ra trong những
thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI trên quy mô toàn thế giới và trong
bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Sự kết hợp này
vừa là mục tiêu, vừa là động lực gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát
triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường; tạo môi trường thuận lợi cho phát
huy dân chủ, sáng tạo và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo đảm


kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ
mô, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân,
bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công
cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước...
Vì vậy, Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ, trong thời gian tới, quá trình
tái cơ cấu, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam cần tiến hành
theo hướng: Kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú
trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh
tranh trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ; nâng cao năng suất
lao động, chất lượng nguồn nhân lực; phát huy lợi thế so sánh và chủ động

hội nhập quốc tế; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa
phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển văn hóa, tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Triển khai tái cơ cấu đồng bộ, tổng thể nền kinh tế,
các ngành, các lĩnh vực, sản phẩm, thị trường và các yếu tố sản xuất; tập
trung tái cơ cấu đầu tư công, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức
tài chính; các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và ngân sách nhà
nước; kiểm soát nợ xấu, nợ công sở hữu chéo; Phát triển nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ
và tạo giá trị gia tăng cao, bảo đảm chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm;
Phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công
nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hóa chất, công nghiệp
xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh; phát triển khu vực dịch
vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất
và cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế, ưu tiên một số ngành dịch
vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao; Phát triển mạnh kinh


tế biển và các vùng kinh tế động lực, một số đặc khu kinh tế và ưu tiên tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế vùng cao, vùng sâu, vùng xa và địa
bàn khó khăn, dân tộc thiểu số...
Theo kinh nghiệm của nhiều nước, phát triển kinh tế tri thức phải tập
trung nguồn lực vào bốn hướng chính sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước phải xây dựng thể chế xã hội và chính sách kinh
tế năng động, rộng mở, khuyến khích sáng tạo và ứng dụng có hiệu quả
những tri thức mới. Thúc đẩy kinh doanh, tác động cho nở rộ doanh nghiệp
mới làm ăn phát đạt. Phải tạo dựng một nền hành chính có hiệu quả, tránh
phiền hà, tham nhũng. Giảm mạnh các chi phí hành chính, góp phần tăng
sức cạnh tranh.
Thứ hai, đào tạo nguồn nhân lực tài năng sáng tạo, biết phối hợp

và chia sẻ ứng dụng những thông tin, tri thức thành sản phẩm có sức
cạnh tranh cao.
Thứ ba, xây dựng một hệ thống đổi mới hiệu quả bao gồm: các
doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức
tư vấn và các tổ chức khác liên kết, trao đổi thông tin, tri thức với nhau
theo những mục tiêu đã xác định. Họ phải thường trực tiếp cận các kho
thông tin, tri thức của thế giới được liên tục chất đầy, để tích cực "tiêu
hóa" chúng và thích nghi hóa cho các nhu cầu của mình và từ đó sáng
tạo ra công nghệ cao mới.
Thứ tư, tích cực xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và
truyền thông, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển ngành công nghệ cao dẫn
đầu này. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá, phổ biến và sáng tạo tri
thức.
2.1. Thực trạng và giải pháp về phát triển kinh tế ở nước ta
2.1.1. Thực trạng


CNH - HĐH ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung và hình
thức,quy mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến lược. Những nét đặc thù
này được thể hiện khái quát ở một số điểm:
Thứ nhất: Quá trình CNH - HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn
phức tạp, toàn diện, có nghĩa là nó diễn ra trong tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước nhảy
vọt,kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết
hợp giữa biến đổi về lượng và biến đổi về chất… của các tác nhân tham gia
quá trình. mục tiêu của CNH - HĐH mang tính bao trùm rất cao, theo đó đến
năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại,nhưng mục tiêu sâu xa hơn là nước ta trở thành một nước dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng dân chủ, văn minh”
Thứ 2: Trong bối cảnh toàn cầu hoá và cách mạng khoa học công

nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ thực hiện xong công
nghiệp hoá rồi mớitiến hành hiện đại hoá,mà phải thực hiện đồng thời và
đồng bộ cnd và hđh như một quá trình thống nhất. về đại thể, riêng về mặt
kinh tế, có thể nhìn nhận quá trình này từ hai mặt thốngnhất với nhau: thứ
nhất đó là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại,cũng có nghĩa là tạo
nền tảng vật chất - kỹ thuật( lực lượng sản xuất) của nền kinh tế; thứ hai, đó
là quá trình cải cách hệ thống thể chế và cơ chế kinh tế,từ nền kinh tế kế
hoạc hoá tập trung,quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường hội nhập.
CNH gắn với HĐH là cách làm đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến
kịp các nước trong khu vực, hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực
và thế giới.
Thứ ba: quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể được rút
ngắn,việc cần được rút ngắn ở đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ thoát


khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. bên cạnh đó bối cảnh mới trong nước cũng
như trên thế giới cho phép nước ta có khả năng “rút ngắn” quá trình CNH,
HĐH. Về cơ bản, cách để nước ta thực hiện được công nghiệp hoá, hiện đại
hoá rút ngắn bao gồm hai mặt: thứ nhất, đạt và duy trì một tốc độ tăng
trưởng cao hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn
khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó(thực chất là tăng tốc
để đuổi kịp) và thứ hai, lựa chọn và áp dụng một phương thức công nghiệp
hoá , hiện đại hoá cho phép bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo kiểu
phát triển tuần tự, để đạt tới nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn( thực
chất là lựa chọn con đường, bước đi và giải pháp công nghiệp hoá để đi
nhanh tới hiện đại). Hai mặt này không đối lập mà có thể thống nhất với
nhau và đang tiếp tục được làm rõ để định hình sang tỏ hơn con đường đẩy
mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta
2.1.2. Các giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn

với phát triển kinh tế tri thức
Vấn đề quan trọng hàng đầu là, chúng ta phải chủ động phát huy năng
lực sáng tạo tri thức ở trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp
thu tri thức của thế giới toàn cầu hóa.
Thực vậy, trong điều kiện chưa có đủ nguồn lực để phát triển kinh tế
tri thức lên ngay trình độ cao, ta phải coi trọng chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế nhằm đẩy mạnh hợp tác về công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực, trên
cơ sở cùng có lợi. Qua hội nhập và hợp tác cùng với việc gửi đi nâng cao
trình độ ở nước ngoài, các chuyên gia Việt Nam từng bước trưởng thành, có
thể chủ động trong ứng dụng các công nghệ cao và tiến tới sáng tạo tri thức
mới rất cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở trình độ cao. Nhiều ví
dụ trong công nghiệp điện tử, trong thiết lập mạng viễn thông quốc gia,


trong công nghiệp chế biến nông sản phẩm, trong chế tạo trang thiết bị cơ điện tử... đã cho thấy kết quả tốt và đạt bước tiến nhanh rõ rệt.
Để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh, nông nghiệp phải gắn kết với
phát triển ứng dụng tri sáng tạo mới, cụ thể là: phải chuyển giao tri thức về
công nghệ sinh học, tri thức về giống cây, con chất lượng và năng suất cao,
về canh tác và chăn nuôi hiện đại cho nông dân. Đồng thời phải cung cấp tri
thức về tổ chức sản xuất gắn với thị trường và về xây dựng nông thôn mới
và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong mọi hoạt
động hiện đại hóa nông nghiệp.
Trong công nghiệp và xây dựng thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ
gắn kết thuận lợi với phát triển kinh tế tri thức vì công nghiệp trong kinh tế
thị trường là rất hiện đại dựa vào các công nghệ cao. Trước hết công việc
thiết kế của công nghiệp và xây dựng ở mọi cấp phải chuyển nhanh từ thiết
kế thủ công sang thiết kế dùng máy tính sẽ rất chính xác và nhanh chóng,
tranh thủ khai thác các phần mềm thiết kế và thư viện các thiết kế sẵn có.
Ngành chế tạo cũng phải chuyển nhanh sang sử dụng máy thông minh có
"nhúng" máy điện toán tự động hóa hoàn toàn hoặc robot, hoặc các dây

chuyền máy tự động hóa toàn phần.
Việc tiếp thu nắm vững công nghệ cao trong công nghiệp và xây dựng
sẽ là điểm tựa để chúng ta có thể sáng tạo thêm nhiều tri thức mới trong lĩnh
vực này. Chúng ta bước đầu đã đạt được một số kết quả khích lệ trong hiện
đại hóa nền công nghiệp và xây dựng kết cầu hạ tầng. Nhưng nhìn chung
vẫn còn tụt hậu về công nghiệp công nghệ cao. Gần đây, sau khi gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), số dự án công nghệ cao đã tăng nhanh
với vốn đầu tư lớn hứa hẹn triển vọng tốt.
Dịch vụ là một lĩnh vực rất lớn của kinh tế tri thức, có khi chiếm đến
trên 70% GDP, bởi vậy gắn kết với phát triển kinh tế tri thức sẽ có thuận lợi


đẩy mạnh hiện đại hóa nhanh dịch vụ ở nước ta. Các ngành dịch vụ quan
trọng như thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch, y tế, giáo dục, pháp
luật... bắt buộc phải nhanh chóng chuyển sang ứng dụng công nghệ thông
tin, mạng in-tơ-nét, viễn thông toàn cầu... Thời gian qua một số ngành dịch
vụ nước ta đã có tiến bộ đáng kể trong hiện đại hóa, nhưng nhìn chung chưa
khai thác hết tiềm năng, đáng lý còn có thể đóng góp cho tăng trưởng kinh tế
nhiều hơn nữa.
Về mặt xã hội có nhiều loại dịch vụ quan trọng cần hiện đại hóa theo
hướng kinh tế tri thức. Tuy nhiên, đối với một nước đang phát triển như
nước ta, có định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cần tập trung vào dịch vụ hành
chính điện tử (hoặc chính phủ điện tử). Đây là một cuộc cách mạng thực sự
hướng tới chủ nghĩa xã hội, vì nó, nếu được xây dựng đúng đắn và đầy đủ,
sẽ khách quan bảo đảm được công khai, minh bạch, không tham nhũng,
công bằng, dân chủ, văn minh. Đáng tiếc là thời gian qua có quyết tâm cao,
nhưng dùng người chưa đúng nên kết quả yếu kém, cần rút kinh nghiệm để
sắp tới làm tốt hơn. Khi đó sẽ có một nền hành chính điện tử được hiện đại
hóa nhanh dẫn tới rút ngắn được thời kỳ quá độ.



KẾT LUẬN
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, lao
động thủ công là chủ yếu, trải qua hơn 30 năm đổi mới và phát triển đến nay
nền kinh tế của nước ta đã có những đổi thay đáng kể và đạt được nhiều
thành tựu quan trọng. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, đời
sống dân cư thấp Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước có nền kinh tế
khá ổn định, tiếp cận được với nhiều nền kinh tế phát triển mà đáng kể là
việc trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là một
bước tiến lớn lao khẳng định sự phát triển của nền kinh tế nhưng đồng thời
cũng tạo ra không ít thách thức đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực không ngừng để
bắt kịp xu thế thời đại và để không bị tụt hậu. Gắn với phát triển kinh tế, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính
trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.Trong điều kiện hiện nay việc đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức là một
bước đi đúng đắn để tạo nội lực mạnh cho kinh tế trong nước đồng thời tăng
ngoại lực để chúng ta có thể hoà nhập với các nền kinh tế trên thế giới.Nghị
quyết đại hội IX đã chỉ ra: “ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2001 – 2010 nhằm: đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao
rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm
lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta
trên trường quốc tế được nâng cao”. Chiến lược này đã được Đảng ta vận


dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của đất nước để vạch ra

đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cho sự
nghiệp thúc đẩy nền kinh tế vươn lên mạnh mẽ mà không gì khác là phải :
“công nghiệp hoá hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức”.



×