Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

CHI TIÊU CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ: MỘT PHÂN TÍCH TÁCH BIỆT TẠI CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.88 KB, 27 trang )

Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

CHI TIÊU CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ:
MỘT PHÂN TÍCH TÁCH BIỆT TẠI CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN

Niloy Bosea,b, M Emranul Haque a, and Denise R Osborn a
a Trung tâm Nghiên cứu Tăng trưởng và chu kỳ kinh doanh, Trường nghiên cứu
Kinh tế, Đại học Manchester, Manchester, M13 9PL, Anh Quốc.
b Khoa Kinh tế, Đại học Wisconsin, Hoa Kỳ.
Tháng 6 năm 2003
Tóm tắt: Bài viết này xem xét các tác động của chi tiêu chính phủ lên tăng trưởng
với bảng dữ liệu bao gồm ba mươi quốc gia đang phát triển trong thập kỷ những
năm 1970 và 1980, với trọng tâm là chi tiêu theo ngành (sectoral expenditures).
Phương pháp nghiên cứu của chúng tôi hoàn thiện nghiên cứu trước đây về chủ đề
này bằng cách nhận ra một cách rõ ràng vai trò của giới hạn ngân sách của chính
phủ và những chênh lệch (biases) có thể phát sinh từ các biến bị bỏ qua. Những kết
quả chính của chúng tôi có hai mặt. Thứ nhất, tỷ lệ chi tiêu của Chính phủ trong
GDP là tương quan một cách tích cực và đáng kể đến sự phát triển kinh tế, nhưng
chi tiêu thường xuyên thì không đáng kể. Thứ hai, ở cấp độ ngành, đầu tư của chính
phủ và tổng chi tiêu trong trong giáo dục là các nguồn chi tiêu duy nhất có liên quan
đáng kể đến sự tăng trưởng chỉ khi giới hạn ngân sách và các biến bị bỏ qua được
xem xét.
1. Giới thiệu:
Sự quan tâm đối với lý thuyết tăng trưởng khôi phục gần đây đã khơi lại
niềm hứng khởi cho những nhà nghiên cứu trong việc xác minh và hiểu được mối
liên kết giữa những chính sách tài khoá và tăng trưởng kinh tế. Qua 15 năm, một số
lượng đáng kể nghiên cứu thực nghiệm đã trực tiếp hướng tới việc nhận biết các
nhân tố của chi tiêu công (ở mức độ thống nhất và tách biệt) có mối liên hệ đáng kể
đối với tăng trưởng kinh tế. Tài liệu thực nghiệm này thay đổi theo từng bộ dữ liệu,


các kỹ thuật toán kinh tế, và thường mang lại những kết quả mâu thuẫn1. Sự giải

1

Ví dụ, xem xét sự liên quan giữa quy mô chính phủ (được đo bằng mức tổng chi tiêu công hoặc bởi mức độ
chi tiêu công) và tăng trưởng kinh tế. Theo một số nghiên cứu, mối liên hệ như vậy là đáng kể và tích cực
(Ram, 1986; Romer, 1989, 1990a, 1990b). Sự kết hợp tương tự đã được tìm thấy có ý nghĩa và tiêu cực trong
nghiên cứu khác (ví dụ như Landau năm 1983, 1985, 1986; Grier và Tullock 1989; Alexander năm 1990;
Barro 1990, 1991). Tuy nhiên, các nghiên cứu khác đã tìm thấy sự kết hợp này là không đáng kể hoặc mong
manh (ví dụ Kormendi và Meguire 1985; Levine và Renelt 1992). Một biến thể tương tự trong kết quả cũng

1
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

thích đưa ra nhằm diễn giải những kết quả khác biệt và gây tranh cãi này đại thể có
thể được chia ra hai trường hợp. Trường hợp đầu tiên, có sự khác biệt trong bộ các
biến điều kiện và những điều kiện đầu tiên xuyên suốt nghiên cứu, chúng là nguyên
nhân gây ra sự thiếu thống nhất trong kết quả (Levine và Renelt 1992). Ngược lại,
trường hợp thứ hai gồm có một nhóm những nghiên cứu (Helms 1985; Mofidi và
Stone 1990; Kneller và cộng sự 1999) chỉ ra rằng biến thiên trong kết quả, ít nhất,
phản ánh xu hướng lan tỏa rộng rãi giữa các nhà nghiên cứu nhằm bỏ qua ảnh
hưởng của giới hạn ngân sách chính phủ trong hàm hồi quy của họ. Đặc biệt, một
xem xét sau đó nhấn mạnh sự cần thiết xem xét cả nguồn và việc sử dụng các quỹ

đồng thời cho một đánh giá đầy ý nghĩa về các tác động của các loại thuế và chi
chiêu đối với tăng trưởng kinh tế.
Ngoài việc đưa ra những quan điểm xung đột, những tài liệu hiện có hiển thị
một xu hướng đáng lo ngại. Hầu hết các kết luận rút ra gần đây liên quan đến các
tác động của chi tiêu công đối với tăng trưởng được dựa trên kinh nghiệm của một
số nước phát triển hoặc dựa trên một cơ sở mẫu lớn bao gồm một tổ hợp các nước
phát triển và đang phát triển. Theo đó, vẫn còn tồn tại một ít bằng cách tìm hiểu quá
trình mà các chính sách chi tiêu công định hướng triển vọng tăng trưởng kinh tế cho
các nước đang phát triển. Xu hướng này vẫn tiếp tục bất chấp quan điểm tồn tại từ
lâu giữa các chuyên gia phát triển rằng tồn tại không chỉ có một sự khác biệt đáng
kể trong thành phần của chi tiêu công giữa các nước phát triển và đang phát triển,
nhưng sự khác biệt cũng đáng kể trong cách thức mà chi tiêu công định hướng kết
quả đầu ra trong hai nhóm dữ liệu các quốc gia này2. Ngoại lệ duy nhất của những
xu hướng kể trên mà chúng ta biết là những đóng góp của Landau (1986),
Devarajan và cộng sự (1996), và Miller và Russek (1997). Mặc dù mục tiêu đáng
khen ngợi, tuy nhiên, những nghiên cứu này, chia sẻ một trong những điểm yếu nói
trên đó là phổ biến trong các tài liệu hiện có. Đặc biệt, không bao gồm giới hạn
hoàn toàn ngân sách của chính phủ trong phân tích. Theo đó, ước lượng tham số
trong những nghiên cứu này dễ bị thiên lệch có hệ thống3.

có thể được quan sát thấy trong các nghiên cứu, mà tìm kiếm những tác động tăng trưởng của chi tiêu công ở
mức độ tách biệt.

2

Vui lòng tham khảo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (1988) để biết chi tiết

3

Khả năng của biến thiên bỏ sót xuất hiện trong bài viết của Landau (1986) và Devarajan và cộng sự (1996)

do thực tế là những nghiên cứu này chỉ tập trung vào mặt chi tiêu của ngân sách hạn hẹp và bỏ qua mặt
doanh thu. Ngược lại, nguồn gốc biến thiên bỏ sót theo Miller and Russek (1997) nằm trong mục đích của
chính nó – đó là, để chứng minh rằng tác động tăng trưởng của chi tiêu công là phụ thuộc vào phương thức
tài trợ. Theo lập luận của họ, mục tiêu này đạt được tốt nhất bằng cách chạy hồi quy dựa trên các thông số kỹ

2
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

Mục tiêu hàng đầu của bài viết này là nhằm để kiểm tra những tác động lên tăng
trưởng của chi tiêu công theo ngành cho một bảng dữ liệu 30 quốc gia đang phát
triển, chú ý đến vấn đề “nhạy cảm” nổi lên từ những điều kiện ban đầu và các biến
điều kiện trong khi vẫn tránh đi những biến thiên bỏ sót mà có thể dẫn đến việc
phớt lờ hàm ý đầy đủ của sự giới hạn ngân sách chính phủ. Một mặt, bằng việc tập
trung chú ý một cách có chọn lọc các nước đang phát triển và mặt khác bằng cách
thừa nhận tình trạng giới hạn của ngân sách chính phủ, bài nghiên cứu này lấp một
khoảng trống quan trọng đang tồn tại trong lý thuyết.
Cụ thể, mục đích của chúng tôi trong bài viết là xác định rõ những thành phần cụ
thể của chi tiêu công tác động một cách đáng kể đến tăng trưởng kinh tế. Ở đây,
chúng tôi không quan tâm đến việc tài trợ của việc chi tiêu, nhưng chúng tôi có cân
nhắc đến những biến tài chính quan trọng (sự thặng dư ngân sách chính phủ/ sự
thâm hụt và nguồn thu từ thuế) để tránh hệ số chênh lệch là kết quả rút ra từ sự bỏ
sót của chúng (Kneller và cộng sự, 1999). Hơn nữa, nơi mà các thành phần của chi
tiêu công được tìm thấy trở nên có ý nghĩa một cách riêng lẻ, chúng tôi bao gồm

chúng cùng nhau để nghiên cứu dù vai trò cá thể rõ ràng của chúng là đúng hay
không đúng trong hoàn cảnh của việc có thể quy cho những thành phần khác mà
chúng có liên quan. Nói cách khác, từ góc độ toán kinh tế chúng tôi kiểm soát lại
khả năng chênh lệch do bỏ sót biến sẽ dẫn đến những thành phần chi tiêu công
quan trọng cho sự tăng trưởng bị loại trừ khỏi mô hình.
Phân tích tách biệt của chúng tôi cũng giá trị từ góc nhìn chính sách. Kết quả chúng
tôi đưa ra về tác động lên tăng trưởng của chi tiêu công theo những khu vực riêng
biệt của hệ thống kinh tế mang lại sự gia tăng về thông tin hữu dụng một cách đặc
biệt cho những quốc gia đang phát triển, nơi mà tài nguyên có giới hạn và sự phân
bổ của nguồn lực công có giới hạn giữa các vùng là một vấn đề quan trọng tột bậc.
Về mặt này, đóng góp chủ yếu của chúng tôi là sự phát hiện rằng giáo dục là bộ
phận then chốt mà chi tiêu công nên được hướng tới để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Kết quả này là mới và đảo lộn những phát hiện trước đó về những tác động tiêu
cực hay tích cực không đáng kể của chi tiêu cho giáo dục đối với tăng trưởng ở các
quốc gia đang phát triển (Landau 1986; Devarajan và cộng sự 1996; Miller và
Russek 1997). Tuy nhiên, như đã lập luận ở trên, phân tích của chúng tôi thỏa đáng
hơn từ góc độ toán kinh tế so với những nghiên cứu trước đây.
Hai kết quả thực nghiệm chủ yếu của chúng tôi có thể tóm tắt như sau:

thuật loại trừ thặng dư ngân sách/ thậm hụt ngân sách - một biến số được thiết lập trong những nghiên cứu
trước đây (ví dụ, Fischer 1993) để có một sự liên kết đáng kể và mạnh mẽ với phát triển kinh tế.

3
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế


Tài Chính Công

(1) Tỷ lệ chi tiêu vốn Chính phủ trong GDP là liên quan một cách tích cực và có
ý nghĩa đến tăng trưởng kinh tế, trong khi tác động lên tăng trưởng của chi
tiêu thường xuyên là không đáng kể cho nhóm các quốc gia của chúng tôi.
(2) Ở cấp độ ngành, đầu tư của chính phủ và tổng chi tiêu cho giáo dục là nguồn
chi tiêu duy nhất mà vẫn liên kết một cách đáng kể đến tăng trưởng trong
suốt phân tích.
Những phát hiện khác trong phân tích của chúng tôi là:
(3) Mặc dù đầu tư công và chi tiêu công trong những ngành khác (vận tải và
truyền thông, quốc phòng) ban đầu có liên hệ đáng kể với tăng trưởng,
những mối liên hệ này không tồn tại khi chúng tôi kết hợp với giới hạn ngân
sách Chính phủ và những chi tiêu trong ngành khác vào mô hình phân tích.
(4) Tỷ lệ đầu tư tư nhân trong GDP có liên quan đến tăng trưởng kinh tế trong
một ngữ cảnh tích cực và có ý nghĩa.
(5) Có bằng chứng mạnh mẽ mà sự thậm hụt ngân sách chính phủ tạo ra hiệu
ứng tăng trưởng ngược.
Phần còn lại của bài nghiên cứu được tổ chức như sau. Phần 2 bàn luận về dữ liệu
của chúng tôi và nguồn của chúng. Phần 3 giới thiệu một phân tích cơ bản về tác
động của các danh mục chi tiêu công đến tăng trưởng, mà được mở rộng trong phần
4 nhằm kiểm tra tác động của độ lệch từ biến bị bỏ sót và giới hạn ngân sách của
Chính phủ. Phần 5 là kết luận.
2. Dữ liệu và các biến
Dữ liệu của chúng tôi về chi tiêu công của các chính phủ gồm 30 quốc gia
đang phát triển4 bao gồm chi tiêu thường xuyên trong năm tài khóa“current
expenditure” và chi đầu tư cho dài hạn“capital expenditure”5 trong giai đoạn 19701990 (ở mức độ tổng hợp và ngành). Mặc dù có một vài hạn chế đã được biết đến,
nhưng Bảng thống kê tài chính chính phủ “Government Financial Statistics (GFS)”Một ấn phẩm được IMF công bố hàng năm - được xem như là một nguồn tài liệu
chính cho các dữ liệu về chi tiêu Chính phủ. Tuy nhiên, trong trường hợp của chúng
tôi, sự hữu ích của nguồn dữ liệu này là có giới hạn. Ngoài tổng chi thường xuyên
và chi đầu tư của chính phủ, chúng tôi còn muốn nghiên cứu sự tác động của chúng

4

Các quốc gia được liệt kê ở phụ lục.

5

Chúng tôi đã đi theo hướng dẫn Niên giám thống kê tài chính chính phủ (được xuất bản bởi IMF) để phân
loại chi tiêu thành chi tiêu thường xuyên và chi tiêu đầu tư.

4
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

theo các lĩnh vực (như: quốc phòng, giáo dục, y tế, nông nghiệp, giao thông vận tải
và thông tin liên lạc, và sản xuất). Đối với các quốc gia đang phát triển, thông tin về
các biến mới không có sẵn trong chuỗi dữ liệu của GFS. Do đó, để khắc phục khó
khăn này, chúng tôi đã xây dựng một tập hợp dữ liệu sau khi tham khảo một khối
lượng lớn các Báo Cáo Về Kinh Tế và Đánh Giá Chi Tiêu Công ở các quốc gia của
Ngân hàng Thế giới6. Và từ đây những thông tin về tổng chi tiêu chính phủ trung
ương, chi thường xuyên và chi đầu tư theo từng lĩnh vực đã được tập hợp từ năm
1970-1990 cho ba mươi nước đang phát triển, và do đó các quốc gia này cấu thành
dữ liệu mẫu cho nghiên cứu của chúng tôi.
Dữ liệu các biến còn lại được rút ra dựa trên hai nguổn dữ liệu khác nhau. Các biến
thu nhập bình quân đầu người ở kỳ gốc, dân số, nguồn nhân lực kỳ gốc, tuổi thọ, sự

bất ổn chính trị, đầu tư tư nhân, tỷ lệ thương mại ở kỳ gốc, phần bù của thị trường
chợ đen và các điều kiện thương mại được trích ra từ bộ dữ liệu của Barro and Lee
(1994). Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người, tỷ trọng đóng góp của nông
nghiệp trong GDP, và lượng tiền mạnh (M2) được trích ra từ bộ dữ liệu CDROM
của Ngân hàng Thế giới. Sự sẵn có số liệu về tài khóa và các biến khác làm cho
việc thực hiện một phân tích thường xuyên hàng năm trở nên khả thi. Vì vậy, trừ
khi chúng tôi nêu rõ cách thức khác, tại một điểm dữ liệu của một biến sẽ phù hợp
với giá trị trung bình của thập kỷ (1970-1979, 1980-1989) của biến đó. Chi tiết của
các biến và các nguồn dữ liệu được trình bày trong các phụ lục.
3. Kết quả cơ bản – Baseline Results
Bắt đầu, chúng tôi phân loại các biến thành ba bộ dữ liệu riêng biệt: I, M và
Z. Bộ dữ liệu I bao gồm các biến thường xuất hiện như là biến điều kiện trong mô
hình hồi quy tăng trưởng. Bộ dữ liệu Z bao gồm các biến thường được sử dụng
trong các nghiên cứu trước đây như các chỉ số về chính sách tiền tệ, chính sách
thương mại và sự bất hoàn hảo của thị trường. Cuối cùng, bộ M bao gồm các biến
được quan tâm đặc biệt đối với nghiên cứu này, đó là các chi tiêu của Chính phủ
Trung ương và các thành phần chính của chúng ở mức độ tổng hợp và mức độ
ngành. Các biến này được thể hiện theo tỷ lệ phần trăm của GDP. Tóm lại, 20 biến
6

Trong một nghiên cứu trước đó, Easterly và Rebelo (1993) đã thu thập dữ liệu về đầu tư công theo ngành.
Chúng tôi khác biệt so với dữ liệu hiện có thiết lập trên hai nền tảng. Đầu tiên, tập hợp dữ liệu của chúng tôi
có thông tin về cả chi phí đầu tư công và chi tiêu phân theo khu vực. Thứ hai, các biện pháp đầu tư công
được sử dụng bởi Easterly và Rebelo cũng bao gồm đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Ngược lại, chúng tôi
nghiêm ngặt thực hiện theo các hướng dẫn GFS và loại trừ các khoản đầu tư doanh nghiệp nhà nước. Chúng
tôi thừa nhận rằng định nghĩa hẹp này có thể dẫn đến một số sai lệch trong kết quả. Đồng thời (như thừa nhận
của các tác giả) các biện pháp được sử dụng bởi Easter và Rebelo (1993) tạo ra một xu hướng phóng đại đầu
tư công bằng cách bao gồm đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước có các hoạt động và mục tiêu tương tự
như của khu vực tư nhân. Bộ dữ liệu của chúng tôi và các thong tin chi tiết về các nguồn dữ liệu có sẵn theo
yêu cầu từ các tác giả.


5
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

chúng tôi xem xét được thể hiện chi tiết trong phụ lục. Để những bảng kết quả dễ
dàng được thông hiểu, chúng tôi không thể hiện kết quả các biến mà không có liên
quan đáng kể đến sự tăng trưởng trong giai đoạn cơ bản nhất trong phân tích của
chúng tôi, được thể hiện bằng phương trình hồi quy số (1) bên dưới.
Chúng tôi thiết lập một bảng dữ liệu trong đó các biến phụ thuộc (tốc độ tăng
trưởng GDP thực trên bình quân đầu người GRit) được quan sát hai lần ở mỗi quốc
gia trong hai giai đoạn 1970-1979 và 1980-1989 (Các biến được xem như là giá trị
trung bình trong một thập kỷ). Chuỗi dữ liệu này bao gồm một hằng số độc lập, B0t,
cho mỗi thập kỷ. Các hệ số khác thì bị giới hạn để giống nhau cho cả hai giai đoạn
nghiên cứu. Việc ước lượng dữ liệu được thực hiện bằng mô hình hồi quy dường
như không quan hệ (SURE method), với hai phương trình cho mỗi quốc gia (mỗi
thập kỷ một phương trình). Vì vậy, các thành phần gây nhiễu, uit, của quốc gia i tại
thời điểm t, được phép có tương quan với uit’ cho cùng một quốc gia tại một thời
điểm khác t’. Phương sai của uit thay đổi theo thời gian t nhưng không thay đổi theo
quốc gia i. Trong thực tế, tương quan các sai số được ước lượng thay đổi theo
khoảng thời gian là nhỏ và không đáng kể (xem các bảng bên dưới).
3.1 Các hồi quy cơ bản
Đầu tiên, chúng tôi kiểm tra liệu các biến quan tâm (các thành phần trong tập dữ
liệu M) có tương quan đáng kể với tăng trưởng sau khi kiểm soát các biến trong tập

I. Để thực hiện điều này, chúng tôi chạy một loạt các hồi quy cơ bản, mỗi hồi quy
bao gồm tất cả các biến điều kiện trong tập I và một biến chi tiêu chính phủ trong
tập M:

Theo Levine và Renelt (năm 1992) và Barro (1991, 1995, 1999), chúng tôi đưa vào
logarit của GDP bình quân đầu người kỳ gốc, tỷ lệ nhập học kỳ gốc 7, tỷ lệ đầu tư tư
nhân trong GDP, logarit của tuổi thọ trung bình và một chỉ số của sự ổn định chính
trị tập dữ liệu I8. Điều này đã được nhấn mạnh trong một số nghiên cứu (ví dụ
Cashin, 1995; Kocherlakota và Yi, 1997) trong khi cung cấp các hàng hóa công có
7

Chúng tôi cũng xem xét số năm đi học trung bình như một đại diện cho vốn con người. Tuy nhiên, chúng
tôi đã bỏ biến này ra khỏi phân tích của chúng tôi do không có số liệu cho một phần tư của các nước trong
mẫu.
8
Levine và Renelt (1992) cũng bao gồm tốc độ tăng trưởng dân số trung bình hàng năm trong tập dữ liệu I,
nhưng chúng tôi đã loại nó ra khỏi phân tích vì nó luôn không đáng kể, có lẽ do thiếu sự biến đổi trong giá trị
của nó. Tuy nhiên, chúng tôi đã xác minh rằng tất cả các kết quả của chúng tôi vẫn không thay đổi gì khi biến
này được đưa vào phân tích.

6
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công


vai trò tạo động lực cho sự tăng trưởng, thì cần phải gia tăng các loại thuế bóp méo
cho việc cung cấp các hàng hóa công tương tự để có thể có tác dụng trung hòa sự
tăng trưởng. Do vậy, cần phải kiểm soát nguồn thu thuế để thực hiện một đánh giá
thích đáng về tác động của chi tiêu công lên sự tăng trưởng. Với quan điểm này và
mục tiêu chính của bài nghiên cứu, chúng tôi cũng đã đưa biến nguồn thu từ thuế
theo phần trăm của GDP vào trong tập I. Theo đó, tập I của hồi quy cơ bản (1) thể
hiện một ý tưởng chính về một lý thuyết tăng trưởng mới, cụ thể là nguồn nhân lực
và các yếu tố thể chế là nhân tố quan trọng quyết định sự tăng trưởng kinh tế. Ngoài
ra, thông qua sự bao hàm của GDP kỳ gốc, mô hình trên cũng kiểm soát khả năng
phát sinh sự cộng hưởng hội tụ tác động lên kết quả đầu ra của sự tăng trưởng.
Bảng 1 tóm tắt các kết quả từ hồi quy cơ bản (1). Trong số hai mươi loại chi tiêu
công được kiểm định, chúng tôi chỉ báo cáo kết quả sáu loại chi tiêu (tổng vốn đầu
tư, đầu tư vào giáo dục, đầu tư cho giao thông vận tải (GTVT) và viễn thông, tổng
chi cho giáo dục, tổng chi cho vận tải, viễn thông và tổng chi tiêu về quốc phòng)
mà chúng ta thấy thể hiện một sự liên kết quan trọng với sự tăng trưởng, với mức ý
nghĩa 10%.

BẢNG 1: Các hồi quy tăng trưởng với các chi tiêu của Chính phủ

Chi tiêu của
Chính phủ

Đầu tư
dài hạn

Đầu tư
giáo dục

Đầu tư cho
GTVT và

viễn thông

Chi phí
cho giáo
dục

Chi phí cho
GTVT và
viễn thông

Chi phí
cho quốc
phòng

0.171***
(0.056)

1.516***
(0.431)

0.389*
(0.206)

0.681***
(0.239)

0.394**
(0.191)

0.257*

(0.135)

Các biến trong tập I
Tổng nguồn thu
từ thuế

-0.030
(0.055)

0.041
(0.052)

-0.020
(0.062)

-0.096
(0.068)

-0.044
(0.067)

-0.003
(0.064)

Đầu tư tư nhân

0.265***
(0.053)

0.242***

(0.053)

0.246***
(0.059)

0.283***
(0.055)

0.249***
(0.058)

0.294***
(0.058)

GDP bình quân
đầu người kỳ

0.005
(0.003)

0.004
(0.003)

0.003
(0.003)

0.005
(0.003)

0.003

(0.003)

0.004
(0.003)

gốc

7
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

Vốn con người
kỳ gốc

-0.012*
(0.007)

-0.011*
(0.006)

-0.014**
(0.007)

-0.009

(0.007)

-0.016**
(0.007)

-0.013*
(0.007)

Tuổi thọ bình
quân kỳ gốc

0.076
(0.070)

0.050
(0.068)

0.116
(0.078)

0.015
(0.075)

0.136
(0.079)

0.093
(0.070)

Sự bất ổn về

chính trị

-0.007
(0.020)

-0.006
(0.020)

-0.014
(0.020)

-0.004
(0.020)

-0.016
(0.020)

-0.025
(0.019)

R2

0.50
(0.52)

0.51
(0.57)

0.44
(0.53)


0.51
(0.56)

0.46
(0.55)

0.56
(0.64)

Số quan sát

30 (30)

29 (29)

29 (29)

28 (28)

28 (28)

25 (25)

Kết quả hồi quy
(p-value)

61.602
(0.000)


67.891
(0.000)

46.465
(0.000)

56.926
(0.000)

46.465
(0.000)

65.499
(0.000)

Hệ số tương
quan chuỗi AR
(1) (p-value)

0.018
(0.922)

0.002
(0.993)

0.176
(0.342)

0.139
(0.462)


0.162
(0.392)

0.164
(0.413)

(Ghi chú: Tiêu đề cột cho thấy hạng mục chi tiêu chính phủ cụ thể (Mit) được sử
dụng trong hồi quy. Được dự toán bởi kỹ thuật SURE (seemingly-unrelated
egression), cho phép sai số có tương quan qua hai thập kỷ và có phương sai khác
nhau trong từng thời kỳ. Biến phụ thuộc là tỷ lệ tăng trưởng trong GDP thực tế bình
quân đầu người. Sai số chuẩn của hệ số được ghi trong ngoặc đơn. R2 đầu tiên
dành cho những năm 70 và R2 trình bày trong dấu ngoặc đơn là cho những năm
80. Tương tự như vậy số đầu tiên của các quan sát là cho những năm 70 và số
lượng các quan sát trình bày trong dấu ngoặc đơn là cho những năm 80. Số các
biến quan sát khác nhau giữa các mô hình do thiếu tính khả dụng của một số biến
giải thích cho các quốc gia cụ thể. Hệ số tương quan nối tiếp là giá trị AR (1) trong
một hàm hồi quy của các số dư cho những năm 1970 và cho những năm 1980, với
giá trị p được cung cấp bởi phương pháp kiểm định Breusch-Pagan, trong đó đề
cập đến giả thuyết cho rằng các số dư của các phương trình cho hai thập kỷ không
tương quan. Kiểm định hồi quy là một kiểm định Wald χ2. Đối với các hệ số, * chỉ
có ý nghĩa ở mức 10 phần trăm, ** chỉ có ý nghĩa ở mức 5 phần trăm và *** chỉ có
ý nghĩa ở mức 1 phần trăm).
Chúng tôi mở cuộc thảo luận về các kết quả của mà chúng tôi tìm được trong các
biến của bộ dữ liệu I. Trong số các biến này, chỉ có đầu tư tư nhân cho thấy một
liên kết quan trọng với tăng trưởng. Điều này phù hợp với các dự đoán cơ bản của
lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển, và được hỗ trợ bởi một số nghiên cứu thực
nghiệm trước đó (ví dụ như Levine và Renelt 1992, Mankiw, Romer và Weil 1992,
8
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22


GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

DeLong và Summers 1991). Tuy nhiên, một số kết quả khác thì không phù hợp với
các dự đoán theo lý thuyết. Ví dụ, phân tích của chúng tôi cho thấy không có dấu
hiệu của sự hội tụ giữa các quốc gia. Chúng tôi cho rằng điều này có thể là do mẫu
của chúng tôi bao gồm một số các nước nghèo (ví dụ như các nước cận Sahara),
thành quả kinh tế nghèo nàn trong khoảng thời gian dài (thường là tốc độ tăng
trưởng âm). Điều đáng ngạc nhiên là nguồn nhân lực ban đầu được tìm thấy là có
một tác động tiêu cực đối với sự tăng trưởng, ảnh hưởng này đôi khi là đáng kể. Các
mối quan hệ giữa tăng trưởng và hai biến còn lại phù hợp với các dự đoán về mặt lý
thuyết, nhưng những sự liên kết này không quan trọng đối với nhóm các quốc gia
này.
Như đã đề cập, phân tích sơ bộ của chúng tôi cho thấy tỉ trọng trên GDP của sáu
trong hai mươi loại chi tiêu công thể hiện sự ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, Bảng 1 cho thấy mức độ ý nghĩa của các biến này dễ bị thay đổi. Những
ảnh hưởng đáng kể nhất là từ tổng chi đầu tư dài hạn, tổng chi tiêu trong lĩnh vực
giáo dục và chi đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. Mối liên hệ đáng kể giữa tỉ trọng của
chi đầu tư dài hạn của Chính phủ Trung ương trên GDP và tăng trưởng kinh tế là
không hoàn toàn đáng ngạc nhiên trong các kết luận rút ra từ những nghiên cứu
trước đó (ví dụ, Easterly và Rebelo năm 1993; Cashin 1995; Fuente 1997) được dựa
trên một vài nước phát triển hoặc một nhóm lớn các nước phát triển và đang phát
triển. Tuy nhiên, theo kiến thức của chúng tôi, Landau (1986) là người duy nhất
nghiên cứu bảng dữ liệu bao gồm tổng chi đầu tư trong mô hình hồi quy của các
nước đang phát triển, nhưng đã tìm thấy liên kết của nó với sự tăng trưởng là không

đáng kể. Như vậy, kết quả của chúng tôi ở đây mang lại thông tin mới.
Kết quả của chúng tôi về tổng chi cho giáo dục khác với những kết luận rút ra từ
các nghiên cứu trước đây, không quan tâm liệu những kết quả này dựa trên dữ liệu
từ một nhóm các quốc gia đã phát triển (ví dụ như Barro 1995, 1999) hay đang phát
triển (ví dụ như Landau năm 1986; Devarajan 1996). Những kết quả gần đây chỉ ra
rằng sự liên kết của biến này với tăng trưởng hoặc không đáng kể hoặc là không
mạnh mẽ. Kết quả của chúng tôi về mối liên hệ giữa chi đầu tư cho lĩnh vực giáo
dục và tăng trưởng kinh tế cũng xứng đáng một vài bình luận. Do thiếu các dữ liệu
thích hợp có sẵn, việc phân tích các tác động của biến này đối với tăng trưởng gần
như không tồn tại trong các tài liệu nghiên cứu trước đây. Theo kiến thức chúng tôi
đã có, ngoại lệ duy nhất là trường hợp của Easterly và Rebelo (1993), đã nghiên cứu
trên một nhóm lớn các nước phát triển và đang phát triển. Chúng tôi nhận thấy việc
đầu tư vào giáo dục không chỉ có ý nghĩa cao, mà mức độ ảnh hưởng của biến này
đối với tăng trưởng còn đáng kể: tăng tỷ lệ 1% đầu tư chính phủ cho giáo dục trên
GDP tương ứng sẽ kéo theo sự gia tăng trong tỉ lệ tăng trưởng trung bình của GDP
9
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

thực bình quân đầu người là 1,5%. Mặc dù không có ý nghĩa trong trường hợp của
họ, Easterly và Rebelo (1993) tìm thấy ảnh hưởng lớn tương tự cho đầu tư giáo dục.
Sự giải thích cho ảnh hưởng này có thể nằm trong những ngoại tác mạnh mẽ của
việc đầu tư cho giáo dục với sự nâng cao hiệu quả của cả vốn con người và vật chất.
Dẫn chứng lý thuyết cho quan điểm này có sẵn trong các nghiên cứu mới về tăng

trưởng.
Các kết quả cho ba biến chi tiêu khác rút ra từ nhiều nguồn tài liệu hiện có. Ví dụ,
mối liên hệ tích cực và đáng kể giữa tổng chi tiêu cho lĩnh vực giao thông vận tải và
viễn thông với sự tăng trưởng được tìm thấy trong nghiên cứu của Aschauer (1989).
Về mối liên hệ tích cực giữa chi tiêu đầu tư trong lĩnh vực giao thông vận tải và
viễn thông với sự tăng trưởng có thể tìm được trong nghiên cứu của Easterly và
Rebelo (1993). Tuy nhiên, chúng tôi tìm thấy mối liên hệ này chỉ ở mức ý nghĩa
10%. Cuối cùng, phân tích sơ bộ của chúng tôi cho thấy một mối liên hệ tích cực và
đáng kể (ở mức 10%) giữa chi tiêu quốc phòng và tăng trưởng. Trong các tài liệu
hiện có, mối liên kết này đôi khi được xem là tích cực và đáng kể (Benoit 1978;
Frederiksen và Looney 1982). Đồng thời, các nghiên cứu khác lại xem mối liên hệ
này là trái chiều (Deger và Smith 1983; Knight và cộng sự 1996), trong khi các
nghiên cứu khác về hiệu quả của chi tiêu quốc phòng với tăng trưởng mang lại kết
quả trung tính (Biswas và Ram 1986).
3.2 Kiểm định tính bền vững - Robustness checks
Độ mạnh của các kết quả từ hàm hồi quy cơ bản (1) đến các biến trong tập dữ
liệu Z được kiểm tra bây giờ, chỉ tập trung vào các biến trong tập M có liên quan
đến sự tăng trưởng một cách đáng kể và nằm trong Bảng 1. Phân tích này được thực
hiện trong hai giai đoạn. Đầu tiên, theo như nghiên cứu của Easterly và Rebelo
(1993), chúng tôi mở rộng tập hợp các hàm hồi quy bao gồm tỷ lệ tiền mạnh (M2)
so với GDP trong năm 1970 và tỉ trọng thương mại trong GDP vào năm 1970 (TR):

Mục đích của việc bao gồm các biến này là để kiểm soát các tác động của chính
sách tiền tệ và mức độ minh bạch của nó, mà theo những nghiên cứu trước đây (ví
dụ, Levine và Renelt năm 1992; King và Levine 1993), là tương quan đáng kể với
tăng trưởng kinh tế. Tiếp theo, chúng tôi mở rộng tập hợp các hàm hồi quy để bao
gồm các biến khác:

10
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22


GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

Cụ thể hơn, chúng tôi tính đến phần bù cho thị trường chợ đen (BMP) và tỷ lệ tăng
trưởng của các điều khoản thương mại (TT) trong phương trình (3). Những yếu tố
này kiểm soát sự biến dạng thị trường và nắm bắt được ảnh hưởng bất lợi của biến
động thương mại mà một số quốc gia trong mẫu của chúng tôi đã trải qua trong thời
kỳ phân tích. Hai biến này cũng đã cho thấy có tương quan đáng kể với tăng trưởng
trong các nghiên cứu trước đó (ví dụ, Fischer năm 1993, Deverajan et al. 1996 và
Barro và Sala-i-Martin, 1999). Các kết quả được trình bày trong bảng 2.
Theo quan điểm của Levine và Renelt (1992), chúng tôi xác nhận rằng biến được
xem xét có sự liên kết mạnh mẽ với sự tăng trưởng kinh tế nếu hệ số của biến M
vẫn còn đáng kể và tương tự như trong bảng 1 sau khi xem xét các biến bổ sung.
Các kết quả đã cho thấy, không cái nào trong sáu biến chi tiêu thất bại với việc kiểm
tra độ phù hợp. Thực tế, trong nhiều trường hợp, chúng tôi quan sát thấy một sự cải
thiện về mức ý nghĩa. Ngược lại, đối với các quốc gia trong mô hình của chúng tôi,
trong bốn biến của tập Z thì chỉ có sự tăng trưởng của các thời kỳ thương mại mới
chỉ ra sự liên quan đáng kể với tăng trưởng kinh tế trong một số trường hợp.
Vì vậy, kết quả của các hồi quy cơ sở trong Bảng 1 đã không bị bóp méo quá mức
bởi sự thiếu sót của các biến phản ánh chính sách tiền tệ, chính sách thương mại
hoặc sự biến dạng của thị trường.
Bảng 2: Kiểm tra độ mạnh các ảnh hưởng của chi tiêu Chính phủ

11
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22


GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

Tổng đầu tư
Chi tiêu của
chính phủ
Các biến trong tập I

Đầu tư giáo dục

0.201*** 0.201*** 1.803***
(0.057)
(0.060)
(0.446)
-0.036
(0.069)

Doanh thu từ thuế

-0.068
(0.072)

0.014
(0.064)


0.270*** 0.276*** 0.229***
(0.053)
(0.055)
(0.053)

Đầu tư tư nhân
GDP bình quân
đầu người kỳ gốc
Vốn con người
kỳ gốc
Tuổi thọ bình quân kỳ
gốc
Sự bất ổn về chính trị

Đầu tư GTVT và viễn
thông

Chi tiêu cho giáo dục

Chi tiêu cho GTVT và
viễn thông

Chi tiêu cho quốc
phòng

1.997***
(0.446)

0.431**
(0.213)


0.471**
(0.220)

0.679***
(0.245)

0.675***
(0.248)

0.471**
(0.198)

0.515**
(0.205)

0.324**
(0.149)

0.372**
(0.149)

-0.033
(0.067)

-0.011
(0.074)

-0.041
(0.077)


-0.072
(0.081)

-0.096
(0.083)

-0.057
(0.079)

-0.088
(0.082)

-0.017
(0.062)

-0.040
(0.086)

0.220***
(0.053)

0.255***
(0.062)

0.252***
(0.063)

0.296***
(0.058)


0.289***
(0.060)

0.255*** 0.254*** 0.332*** 0.350***
(0.060)
(0.061)
(0.062)
(0.064)

0.007**
(0.003)
-0.014
(0.008)
0.038
(0.081)
0.003
(0.020)

0.006*
(0.003)
-0.014**
(0.008)
0.069
(0.084)
-0.008
(0.021)

0.007**
(0.003)

-0.015**
(0.007)
0.009
(0.079)
0.021
(0.020)

0.006*
(0.003)
-0.019**
(0.007)
0.060
(0.080)
0.011
(0.021)

0.005
(0.004)
-0.014
(0.009)
0.084
(0.095)
-0.009
(0.023)

0.004
(0.004)
-0.019**
(0.009)
0.126

(0.097)
-0.017
(0.023)

0.006
(0.004)
-0.006
(0.008)
-0.026
(0.089)
-0.000
(0.021)

0.004
(0.004)
-0.009
(0.008)
0.002
(0.092)
-0.005
(0.022)

0.006
(0.004)
-0.018**
(0.009)
0.112
(0.094)
-0.008
(0.021)


0.005
(0.004)
-0.022**
(0.009)
0.151**
(0.096)
-0.018
(0.023)

0.004
(0.003)
-0.017**
(0.008)
0.145
(0.087)
0.021
(0.020)

0.004
(0.003)
-0.020**
(0.008)
0.180**
(0.088)
-0.045**
(0.021)

0.024
(0.026)

0.002
(0.026)

0.017
(0.026)
0.004
(0.014)
0.001
(0.002)
0.028
(0.052)

0.026
(0.025)
0.014
(0.014)

0.018
(0.025)
0.020
(0.014)
0.001
(0.002)
0.089*
(0.048)

0.019
(0.028)
-0.004
(0.016)


0.013
(0.028)
0.000
(0.017)
0.002
(0.003)
0.064
(0.055)

0.018
(0.029)
-0.009
(0.014)

0.014
(0.029)
-0.005
(0.015)
0.001
(0.002)
0.085
(0.051)

0.019
(0.027)
0.002
(0.016)

0.019

(0.028)
0.004
(0.017)
0.002
(0.003)
0.044
(0.056)

-0.030
(0.030)
-0.002
(0.014)

-0.039
(0.030)
0.002
(0.014)
0.003
(0.002)
-0.010
(0.061)

0.56
(0.51)
72.220
(0.000)
-0.076
(0.688)

0.56

(0.55)
84.546
(0.000)
-0.155
(0.412)

0.62
(0.54)
91.711
(0.000)
-0.154
(0.423)

0.47
(0.53)
49.005
(0.000)
0.115
(0.544)

0.49
(0.54)
50.304
(0.000)
0.138
(0.472)

0.52
(0.57)
57.553

(0.000)
0.132
(0.494)

0.53
(0.54)
51.182
(0.000)
0.177
(0.366)

0.51
(0.54)
55.232
(0.000)
0.064
(0.741)

0.53
(0.55)
56.7317
(0.000)
0.064
(0.745)

0.58
(0.66)
73.,073
(0.000)
0.088

(0.667)

Các biến trong tập Z
M2 kỳ gốc
Tỷ lệ giao dịch kỳ gốc
Tiền lãi từ chợ đen

-

Tỷ lệ tăng trưởng của
thời hạn giao dịch
R2

-

Số quan sát
Kết quả hồi quy
(p-value)
Hệ số tương quan chuỗi
AR (1) (p-value)

0.56
(0.49)
72.009
(0.000)
-0.086
(0.643)

-


-

-

-

-

0.54
(0.72)
75.940
(0.000)
0.088
(0.672)

4. Các biến bị bỏ sót và sự giới hạn ngân sách của Chính phủ
4.1 Sự giới hạn ngân sách của Chính phủ

Trong phần giới thiệu của bài nghiên cứu này, chúng tôi đã lưu ý là hầu hết
những nghiên cứu trước đây về mối liên hệ giữa chi tiêu Chính phủ và sự tăng
trưởng tiềm ẩn độ lệch, vì những nghiên cứu đó bỏ sót các biến nằm trong giới hạn
ngân sách của Chính phủ. Đây cũng chính là trường hợp hồi quy (1) đến (3) ở trên,
với kết quả đã được tóm lược trong Bảng 1 và 2.
Kneller(1999) trình bày tính quan trọng của việc giới hạn ngân sách Chính phủ
trong bối cảnh ảnh hưởng chính sách tài khóa tăng trưởng lên các nước đang phát
triển. Nghiên cứu của chúng tôi về cơ bản cũng đi theo nghiên cứu của Kneller
(1999)10. Khái quát hóa các ký hiệu của Phần 3, đặt Mj,it là biến tài khóa j của
quốc gia i tại thời điểm t. Nếu có m chi tiêu chính phủ hoặc yếu tố ngân sách khác
nhau, thì giới hạn ngân sách Chính phủ được xem là đồng nhất:


12
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

Cho phép mỗi yếu tố đều tác động đến sự tăng trưởng nên dẫn đến tổng quát hóa
của hồi quy tăng trưởng (1) như sau:

(4)
So sánh (4) với phương trình (1) – (3), cần chú ý rằng nguồn thu từ thuế xuất hiện là
một biến điều kiện, hoặc I, trong các phương trình trước đó. Tuy nhiên, vì đây là
một yếu tố của giới hạn ngân sách, chúng tôi đưa nó vào trong (4) như là một biến
trong tập M. Do đó, hiện tại có 5 thay vì 6 yếu tố của I.
Phương trình (4) không thể được ước tính bởi vì sự cộng tuyến hoàn hảo giữa m yếu
tố Mj,it phát sinh từ sự đồng nhất của giới hạn ngân sách. Kết quả là, (ít nhất) một
yếu tố Mj,it sẽ bị bỏ sót. Để đơn giản hơn, chúng ta giả định Mm,it là yếu tố duy
nhất bị bỏ sót, lúc này mô hình được ước tính sẽ trở thành:
(5)
Trong đó, xét trong mối quan hệ với (4), γj = βjM – βmM . Từ những kết quả tiêu
chuẩn của phân tích hồi quy tuyến tính, các biện pháp tổng quát liên quan đến hồi
quy được ước tính (bao gồm R2, số dư,…) và các hệ số βjI không thay đổi trong
trường hợp yếu tố giới hạn ngân sách của Chính phủ được loại trừ. Tuy nhiên, tầm
quan trọng và ý nghĩa của γj = βjM – βmM phụ thuộc vào cả βjM và βmM , và do đó phụ
thuộc vào yếu tố bị loại trừ. Tuy nhiên, nếu Mm,it bị loại trừ có hệ số βmM = 0, nên γj
= βjM và hệ số của mỗi biến tài khóa bao gồm trong phương trình (5) vẫn giữ lại

được giải thích tương tự như trong phương trình (4).
Mỗi mô hình được trình bày ở Phần 3 bao gồm một loại chi tiêu của Chính phủ,
cùng với nguồn thu từ thuế. Vì vậy, trong việc gắn hệ số ước tính cho một thành
phần chi tiêu cụ thể, chúng tôi ngầm giả định là tất cả biến loại trừ βjM = 0. Bây giờ
chúng tôi muốn thừa nhận khả năng rằng mối liên hệ đáng kể giữa tăng trưởng và
mỗi trong số 6 thành phần của chi tiêu Chính phủ được trình bày trong phần 3 có
thể bị ảnh hưởng bởi xu hướng bỏ sót biến. Thật vậy, bằng cách xem xét từng cái
một, sự liên kết của tăng trưởng với một loại có thể là giả mạo trong nội dung phân
bổ tới những thành phần khác của chi tiêu công mà nó có tương quan. Để loại bỏ
khả năng này, chúng ta nên bao hàm tất cả các yếu tố của hạn chế chi tiêu Chính
phủ, ngoại trừ một danh mục mà hệ số chúng ta ước tính bằng 0. Đối với qui mô
mẫu của chúng ta, cơ hội để thực hiện điều này, tuy vậy, bị giới hạn gần như hoàn
toàn.
13
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

Trong một phương án thay thế, chúng tôi cân nhắc 6 thành phần chi tiêu của Chính
phủ được tìm thấy có ảnh hưởng đáng kể lên tăng trưởng trong phân tích gần đây
của chúng tôi trong hoàn cảnh ba nhóm phụ (tổng chi tiêu, tổng chi tiêu theo ngành
và chi tiêu đầu tư theo khu vực). Thành phần của mỗi nhóm phụ được đặt trong mô
hình bên cạnh giới hạn ngân sách. Cụ thể, mô hình như sau:

(6.1)


(6.2)
(6.3)

Trong mô hình (6.1), các biến CUR và CAP đại diện lần lượt cho tổng chi thường
xuyên khu vực công và tổng chi tiêu đầu tư công. Các biến IED và ITC trong (6.2)
đại diện lần lượt cho chi tiêu đầu tư trong giáo dục và lĩnh vực giao thông vận tải và
thông tin liên lạc. Cuối cùng, EDU, TC và DF trong mô hình (6.3) đại diện cho tổng
chi tiêu tương ứng trong lĩnh vực giáo dục, giao thông -viễn thông, và khu vực quân
đội. Do đó, chúng tôi không bao gồm các biến này trong mô hình (6.1) - (6.3) dựa
trên yêu cầu

trọng. Bảng 3 tóm tắt kết quả của chúng tôi.

Phương trình (6.1) - (6.3) rõ ràng bao gồm tất cả các chi phí có liên quan trong một
nhóm nhỏ mà xét thấy chúng có ý nghĩa trong Bảng 1. Vì vậy, bằng cách xem xét
chúng cùng nhau, chúng tôi ngăn ngừa ý nghĩa thống kê giả mạo có thể phát sinh do
sự tương quan giữa các yếu tố được đưa vào phương trình và bỏ sót. Biến OTHEXP
đại diện cho tất cả các chi tiêu khác của chính phủ . Định nghĩa của biến này khác
nhau giữa các mô hình. Trong trường hợp mô hình (6.1), nó đo lường tất cả chi tiêu
ròng của chi tiêu trên tổng số chi thường xuyên và chi tiêu vốn(nói cách khác, chi
phí không được phân loại là thường xuyên hoặc vốn). Đối với (6.2), tương tự, biến
đại diện cho tổng chi phí trừ đi các khoản chi cho đầu tư trong lĩnh vực giáo dục và
giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Cuối cùng, trong mô hình (6.3) nó thể hiện
tổng chi tiêu ròng khu vực công chi cho lĩnh vực giáo dục, giao thông vận tải, quốc
phòng. Tất cả các biến chi tiêu được thể hiện theo phần trăm GDP.
14
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành



Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

Một số nhận xét cần thiết trước khi chúng ta chuyển sự chú ý tới các kết quả. Khi
xem xét các mô hình (6.1) - (6.3), chúng ta đã thấy rằng cộng tuyến hoàn hảo phải
được tránh né bằng cách loại trừ một yếu tố trong giới hạn ngân sách. Lý tưởng
nhất, ta nên bỏ qua một thành phần, mà theo lý thuyết, có tác dụng trung hòa sự
tăng trưởng. Bằng cách bao gồm biến OTHEXP, chúng tôi tính đến khía cạnh chi
tiêu trong ngân sách có giới hạn, và rõ ràng chúng tôi cũng bao gồm nguồn thu thuế
(TX) và thặng dư ngân sách / thâm hụt (GD), cả hai đều là tỷ lệ phần trăm của
GDP. Vì vậy, yếu tố chúng tôi lựa chọn để loại trừ từ các mô hình là nguồn thu
không từ thuế. Sự loại bỏ này được dựa trên các dự đoán lý thuyết (ví dụ, Barro
1990) rằng sự thay đổi trong các khoản thu không gây bóp méo có thể tạo ra hiệu
ứng tăng trưởng không đáng kể. Cuối cùng, các phân tích trước đây của chúng tôi
chỉ ra rằng việc thêm vào biến Z không có bất kỳ tác động đáng kể nào lên trên hệ
số chi tiêu của chính phủ. Kết quả, chúng tôi không tính đến các biến này trong
phương trình (6.1)- (6.3). Bảng 3 tóm tắt kết quả của chúng tôi.
Những ảnh hưởng của việc tính đến giới hạn ngân sách, cũng như cân nhắc kết hợp
các thành phần chi tiêu có ý nghĩa, gây ấn tượng rõ ràng trong Bảng 3 khi so sánh
với Bảng 1 và 2. Cụ thể, trong 6 biến chi tiêu đã được phát hiện ở phần trước là có
liên kết đáng kể với tăng trưởng, thì chỉ có 3 biến tồn tại trong phân tích hiện tại.
Đó là tổng chi tiêu vốn, tổng chi cho giáo dục, và chi đầu tư cho giáo dục. Kết quả
của chúng tôi vì thế chỉ ra rằng giáo dục là khu vực quan trọng đối với tăng trưởng.
Ngược lại, không có biến nào liên kết đáng kể với tăng trưởng liên quan đến quốc
phòng, giao thông và viễn thông. Trong mô hình tổng chi tiêu (6.1), chúng tôi tính
đến chi tiêu thường xuyên để kiểm tra xem yếu tố này đóng vai trò nào khi kết hợp
với chi phí vốn, nhưng kết quả là không. Cần lưu ý cả hai mô hình tổng chi tiêu

ngành và chi tiêu đầu tư ngành (hai cột cuối cùng của Bảng 3), các chi phí khác có
hệ số ý nghĩa và tích cực ( mức độ ý nghĩa5 %). Tuy nhiên, trong thiết lập mô hình
của chúng tôi, chúng tôi không thể tính đến các thành phần một cách riêng biệt vì lý
do thực tế, và vì thế chúng tôi không thể xác định những lĩnh vực mang lại đóng
góp này.
Các kết quả về mức độ ảnh hưởng của tăng trưởng lên kinh phí về vận tải và thông
tin liên lạc cho chúng ta một số ý kiến đáng bổ sung. Có một sự thống nhất chung
giữa các nghiên cứu thực nghiệm rằng mối quan hệ giữa chi tiêu đầu tư công trong
lĩnh vực giao thông vận tải liên lạc với sự tăng trưởng là đặc biệt mạnh mẽ và có ý
nghĩa. Ví dụ, Aschauer (1989) nhận thấy rằng đầu tư công trong lĩnh vực giao thông
có liên quan mật thiết với năng suất khu vực tư nhân ở Hoa Kỳ cho giai đoạn 19491985. Tương tự như vậy, Easterly và Rebelo (1993) nhận thấy rằng đầu tư công
15
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

trong lĩnh vực này là nhất quán và tương quan thuận với tăng trưởng. Tuy nhiên,
trong Bảng 3, bằng chứng này chưa có.
Chúng ta giải thích điều này dựa trên cơ sở hai quan sát sau. Đầu tiên, sự khác biệt
này có thể là do thực tế là, không giống như các nghiên cứu trước đây, phân tích
này của chúng tôi chỉ xem xét ở các nước đang phát triển. Thứ hai, và có lẽ thuyết
phục nhiều hơn, sự khác biệt này có thể do sự có mặt của những định kiến vắng mặt
trong các nghiên cứu trước đây do thất bại của chúng trong việc xem xét giới hạn
ngân sách và cân nhắc nhiều hơn một lĩnh vực cùng một lúc.
Hồi quy chi tiêu cho


Hồi quy đầu tư cho

từng lĩnh vực

từng lĩnh vực

-

-

-

-

1.582***

0.658***

-

(0.554)

(0.223)

-

-0.001
(0.237)


0.049
(0.191)

-

-

0.021
(0.111)

Chi tiêu khác

-0.059
(0.719)

0.087**
(0.040)

0.121**
(0.054)

Nguồn thu từ Thuế

-0.006

-0.009

-0.209***

(0.054)


(0.059)

(0.070)

0.146**
(0.062)

0.153**
(0.063)

0.156***
(0.057)

0.214***
(0.055)

0.209***

0.312***
(0.056)

0.004
(0.003)

0.006**
(0.003)

Hồi quy tổng chi tiêu


Biến quan sát:
Đầu tư

0.151**
(0.059)

Tiêu dùng

0.093
(0.057)

Chi tiêu giáo dục
Chi tiêu vận tải và
thông tin liên lạc
Chi tiêu quốc phòng

Thặng dư ( Thâm hụt
)
Biến ngoại sinh:
Đầu tư tư nhân

GDP bình quân đầu
người

(0.052)

0.010***
(0.003)

16

Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

Nguồn nhân lực

-0.013**

-0.011*

-0.016***

(0.006)

(0.006)

(0.005)

0.089

0.034

0.055

(0.067)


(0.070)

(0.063)

Tính ổn định chính
trị

-0.016
(0.019)

0.000
(0.020)

-0.012
(0.016)

R2

0.59

0.70

0.64

(0.55)

(0.50)

(0.89)


Số quan sát

30 (30)

28 (28)

21 (21)

Kiểm định hồi quy
(p-value)

80.8(0.000)

105.1(0.000)

177.3(0.000)

AR(1)

-0.019(0.918)

-0.129(0.495)

-0.092

Tuổi thọ

(p-value)


(0.673)

Ngoài ra, phân tích của chúng tôi sẽ đưa vào các hiệu ứng tăng trưởng bất lợi do
thâm hụt ngân sách nhà nước. Chúng tôi nhận thấy rằng những tác động bất lợi đối
với các quốc gia này có ý nghĩa và tầm quan trọng đáng kể: 1% gia tăng trong thặng
dư chính phủ (như là 1% GDP) có liên quan với sự gia tăng tốc độ tăng trưởng GDP
thực tế bình quân đầu người trung bình là 0,15%. Tất nhiên, sự gia tăng thâm hụt
ngân sách có tác động tiêu cực tương ứng.
4.2. Kiểm định biến nội sinh.
Trong việc đo lường mức độ chi tiêu chính phủ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế,
người ta nhận ra rằng biến số tài khóa và các biến số kinh tế khác phải tham gia
cùng nhau: không chỉ chi tiêu của chính phủ có ảnh hưởng đến các hoạt động kinh
tế, mà các quan hệ nhân quả đảo ngược cũng có khả năng. Vì vậy, bây giờ chúng tôi
chuyển sang kiểm định liệu rằng kết quả của chúng tôi ở bảng 3 có thể là biểu hiện
của quan hệ nhân quả đảo ngược hay không. Đối với điều này, chúng tôi ước tính
hồi quy tăng trưởng bằng việc sử dụng mô hình Ước lượng bình phương nhỏ nhất 3
giai đoạn (3SLS).
Trong việc lựa chọn các công cụ cho 3SLS, chúng tôi thực hiện giống Barro và
Sala-i-Martin, (1995, 1999). Trong việc lựa chọn các công cụ cho 3SLS, chúng tôi
thực hiện theo cách của Barro và Sala-i-Martin, (1995, 1999). Đặc biệt, chúng tôi
tập hợp các công cụ bao gồm một số các biến ban đầu và độ trễ của các biến khác.
17
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công


Trong trường hợp không có dữ liệu cho các biến chi tiêu chính phủ trước năm 1970,
chúng tôi lựa chọn chạy hồi quy cho các giai đoạn 1971-1979 và 1981 - 89, thay vì
những năm 1970 ,1980, để chúng tôi có được ít nhất một tập quan sát các biến chi
tiêu chính phủ đã được quy định cho từng phương trình của hệ thống. Theo đó,
công cụ cho các biến chi tiêu chính phủ là những quan sát tương ứng của chúng
trong năm 1970 và 1980. Giá trị độ trễ khá hợp lý cho các công cụ vì mối tương
quan giữa số dư trong hồi quy tăng trưởng trong hai thập kỷ qua khá nhỏ và không
đáng kể (Bảng 1-3). Đưa ra các biến ban đầu (GDP bình quân đầu người, nguồn
nhân lực, và tuổi thọ) là nhân tố ngoại sinh cho đến mô hình, các biến này gia nhập
với công cụ riêng của chúng. Cuối cùng, các công cụ cho đầu tư tư nhân và bất ổn
chính trị là con số trung bình trong 5 năm trước một thập kỷ cụ thể. Các kết quả
được trình bày trong Bảng 4:
Bảng 4: Kiểm định Biến nội sinh (3SLS).

Đầu tư

Đầu tư cho giáo dục
Đầu tư cho Giao thông
và Vận tải
Chi tiêu cho Quốc
phòng

Hồi quy tổng chi

Hồi qui chi tiêu

Hồi qui đầu tư

tiêu


theo ngành

từng ngành

0.159***
(0.063)

-

-

-

2.245***
(0.541)

1.093***
(0.297)

-

-0.258
(0.227)

0.013
(0.206)

-


-0.144
(0.224)

-

Vì mục tiêu ngắn gọn, chúng tôi chỉ báo cáo kết quả các hệ số trong sáu biến chi
tiêu chính phủ mà chúng tôi xem xét. Một so sánh đơn giản của kết quả này với
những báo cáo trong Bảng 3 cho thấy là có dấu hiệu các hệ số và mức ý nghĩa của
ba biến chi phí có giá trị đáng kể (tức là, tổng chi tiêu đầu tư, đầu tư trong lĩnh vực
giáo dục và tổng kinh phí trong ngành giáo dục ) vẫn không thay đổi gì. Theo đó,
hiệu ứng tăng trưởng của ba biến chi tiêu mà chúng tôi thu được trong phần trước
không phải là do nội sinh. Hơn nữa, như trong Bảng 3, không biến nào ngoài ba
biến chi tiêu này có ý nghĩa, với một vài hệ số của chúng có nghĩa tiêu cực.
18
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

5. Kết luận
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm ước lượng các tác động tăng trưởng của chi
tiêu công thông qua mức độ tổng hợp và chia tách 30 nước đang phát triển. Nghiên
cứu đóng góp hai nội dung quan trọng. Đầu tiên, trong quá trình xem xét những hệ
quả của việc cố định ngân sách chính phủ ( bao gồm, tính khả thi ở đâu, phân loại
các thành phần chi tiêu), chúng tôi tin rằng nghiên cứu này đánh dấu một bước cải
tiến đáng kể so với các nghiên cứu trước đây. Thứ hai, điều khác biệt quan trọng

trong nghiên cứu này là tập trung vào các nước đang phát triển, vì vai trò của chi
tiêu công cho sự tăng trưởng kinh tế có thể khác nhau sâu sắc giữa các nước phát
triển và đang phát triển.
Phân tích của chúng tôi ủng hộ mạnh quan điểm hiện đang phổ biến trong lý thuyết
tăng trưởng hiện đại, rằng giáo dục là chìa khóa quan trọng cho sự thịnh vượng của
nền kinh tế. Điều này là hiển nhiên cho dù chúng ta xem xét tổng chi tiêu cho giáo
dục (xem xét tổng chi tiêu của ngành trong suy thoái) hay đầu tư cho giáo dục (
trong mô hình tập trung vào chi tiêu đầu tư ngành). Bằng chứng vững chắc như vậy
vẫn chưa được đề cập đến trong các tài liệu thực tiễn hiện có. Theo đó, từ góc nhìn
chính sách, phân tích của chúng tôi ưu tiên phân bổ nguồn lực khan hiếm của chính
phủ hướng tới ngành giáo dục. Hơn nữa, phân tích này cũng cho thấy chi tiêu tổng
hợp hiện tại không tác động lên tăng trưởng, trong khi chi tiêu tổng hợp cho vốn có
tác dụng tích cực. Điều này chỉ ra rằng, đối với nước đang phát triển, các quyết định
về chi tiêu thường xuyên so với chi tiêu vốn cần (ít nhất là trong tổng hợp) nghiêng
về yếu tố thứ hai nhằm thúc đẩy tăng trưởng.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này không nên hiểu theo hướng là chi phí cho giáo
dục hoặc các dự án vốn phải được tăng lên bất kể nguồn tài chính có như thế nào.
Trên thực tế, phân tích của chúng tôi vô cùng cẩn trọng trong việc xem xét vai trò
của nguồn ngân sách bị giới hạn của chính phủ. Vì nguồn thu từ thuế có tác động
tiêu cực (mặc dù không phải luôn có ý nghĩa đáng kể) lên sự tăng trưởng, cùng lúc
đó gia tăng thâm hụt ngân sách có tác động tiêu cực cao đáng kể, việc nâng cao hỗ
trợ về tài chính sẽ giảm bớt các tác động tích cực của giáo dục hoặc chi tiêu cho
vốn. Sự quan trọng của kết quả nghiên cứu này có thể được xem xét rõ ràng nhất
trong bối cảnh của một chuyển giao, cho rằng, một phần trăm của chi tiêu chính phủ
so với GDP từ một ngành khác hướng tới giáo dục, hoặc từ hiện tại đến chi phí vốn,
khi đó kết quả của chúng tôi ngụ ý rằng như vậy một cuộc chuyển giao sẽ gia tăng
sự tăng trưởng.

19
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22


GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

PHỤ LỤC
Dữ liệu

A.1 Bao gồm các nước
Bahamas, Bangladesh, Botswana, Burundi, Congo, Ethiopia, Ghana, Guatemala, Ấn
Độ, Indonesia, Jamaica, Kenya, Madagascar, Malawi, Malaysia, Mauritius, Morocco,
Nepal, Nigeria, Pakistan, Rwanda, Sierra Leone, Sri Lanka, Sudan, Syria, Tanzania,
Thái Lan, Tunisia, Zaire, Zambia.
A.2 Định nghĩa và Nguồn dữ liệu
Định nghĩa tất cả các biến và Nguồn dữ liệu được thể hiện trong Bảng A.1.

Bảng A.1 Định nghĩa các biến và Nguồn dữ liệu

Biến

Nguồn dữ liệu

20
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành



Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công
Dữ liệu GDP
gr
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người
lgc Đăng nhập( log of) GDP bình quân đầu người
Các loại chi tiêu của chính phủ
cur Chi tiêu hiện hành của chính phủ(% of GDP)

cap Chi tiêu vốn của chính phủ (% of GDP)
cdf Tiêu dùng của chính phủ cho quốc phòng (% of GDP)
ced Tiêu dùng của chính phủ cho giáo dục(% of GDP)
chl Tiêu dùng của chính phủ cho y tế(% of GDP)
cag Tiêu dùng của chính phủ cho nông nghiệp(% of GDP)
cmf Tiêu dùng của chính phủ cho sản xuất(% of GDP)
ctc
Tiêu dùng của chính phủ cho giao thông và thông tin liên
idf
Đầu
phủ cho quốc phòng (% of GDP)
lạc(%tưofchính
GDP)
ied Đầu tư chính phủ cho giáo dục (% of GDP)
ihl
Đầu tư chính phủ cho y tế(% of GDP)
iag Đầu tư chính phủ cho nông nghiệp(% of GDP)
imf Đầu tư chính phủ cho sản xuất(% of GDP)
itc

Đầu tư chính phủ cho giao thông và thông tin liên lạc(% of
df
Chi
tiêu chính phủ cho quốc phòng (% of GDP)
GDP)
edu Chi tiêu chính phủ cho giáo dục(% of GDP)
hl
Chi tiêu chính phủ cho y tế(% of GDP)
ag
Chi tiêu chính phủ cho nông nghiệp(% of GDP)
mf
Chi tiêu chính phủ cho sản xuất(% of GDP)
tc
Chi tiêu chính phủ cho giao thông và thông tin liên lạc(% of
Một sôGDP)
biến khác
p
Tỷ lệ nhập học tiểu học
s
Tỷ lệ nhập học trung học
h
Tỷ lệ nhập học đại học
psh Sự kết hợp tuyến tính của p, s và h (xem bên dưới)
life Tuổi thọ dự tính
as
Số vụ ám sát trên một triệu dân mỗi năm
rev No. of revolutions per year
coup Số cuộc đảo chính mỗi năm
pinst Sự kết hợp tuyến tính của như, rev, và cuộc đảo chính (xem
bmp Phí

hiểm thị trường chợ đen
bên bảo
dưới)
m2 Tiền (M2) (% GDP)
tr
Tỷ lệ thương mại (xuất khẩu + nhập khẩu theo% GDP)
tt
Tốc độ tăng trưởng về thương mại
tx
Nguồn thu từ thuế (% GDP)
gsd
pviw
agr
pop

Thặng dư/ Thâm hụt của chính phủ (% of GDP)
Đầu tư tư nhân (% of GDP)
Giá trị gia tăng của nông nghiệp (% of GDP)
Đăng nhập( log of) dân số

Ngân hàng thế giới CDROM
Ngân hàng thế giới CDROM
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF

Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Báo cáo Ngân hàng thế giới và IMF
Barro-Lee (1994)
Barro-Lee (1994)
Barro-Lee (1994)
Barro-Lee (1994)
Barro-Lee (1994)
Barro-Lee (1994)
Barro-Lee (1994)
Barro-Lee (1994)
Barro-Lee (1994)
Barro-Lee (1994)
World Bank CDROM
Barro-Lee (1994)
Barro-Lee (1994)
Phân tích tài chính của chính phủ
(GFS), IMF
Ngân hàng thế giới CDROM
Barro-Lee (1994)
Ngân hàng thế giới CDROM

Barro-Lee (1994)

Nguồn lực con người (PSH):
Theo Landau (1983), chúng tôi xây dựng biến Nguồn nhân lực ban đầu là tổng trọng số
của tỷ lệ nhập học ban đầu(%) của các trường tiểu học, trung học và bậc đại học. Trọng
số là 1 cho tỷ lệ nhập học tiểu học, là 2 cho trung học và 3 cho tỷ lệ nhập học bậc đại học.
Các trọng số xấp xỉ với các giá trị tương đối của ba loại hình giáo dục. Biến PSH là cần
thiết vì các milticollinearity cao giữa tỷ lệ nhập học của từng bậc học. Trong mẫu nghiên
21
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

cứu, một phần tư trong số các nước trên còn thiếu dữ liệu cho số năm đi học trung bình,
do đó, tỷ lệ nhập học có lẽ là biện pháp có sẵn khá tốt khi tính đầu tư vào giáo dục. Lý
do cơ bản khác cho việc dùng tỷ lệ nhập học là chúng được sử dụng khá thường xuyên
trong đề tài nghiên cứu [xem Easterly và Rebelo (1993), Barro và Sala-i-Martin (1995,
1999) trong số những nhà nghiên cứu khác].
Bất ổn chính trị (PINST): Theo Barro và Sala-i-Martin (1995, 1999), chúng tôi lấy số
trung bình mỗi thập kỷ của các cuộc cách mạng và đảo chính mỗi năm và các vụ ám sát
chính trị trên một triệu dân mỗi năm.
A.3 Tóm tắt thông tin thống kê
Bảng A.3 trình bày tóm tắt các biến được sử dụng trong kết quả nghiên cứu được trình
bày trong nghiên cứu này. Dữ liệu được sử dụng chủ yếu là số trung bình trong thập
kỷ, của những năm 1970 và 1980. Tuy nhiên, đối với 3SLS, chúng tôi lấy số trung

bình cho khoản thời gian từ 1971 – 80 và 1981 – 90 thay vì 1970 – 80 và 1980 – 90 tương
ứng. Hâu tố hai con số sau tên mỗi biến là để chỉ ra một năm cụ thể ( Ví dụ, P70 là tỷ lệ
nhập học bậc tiểu học năm 1970), trong khi đó một con số đơn lẻ lại nhằm chỉ khoản
thời gian trung bình cụ thể; ví dụ, gr1 là tỷ lệ tăng trưởng trung bình của GDP bình quân
trên đầu người năm 1970 – 80, gr2 là cho những năm 1980 – 90, gr3 là cho những năm
1971 –80 and gr4 là cho những năm 1981 – 90.
Bảng A.2 Phân tích tổng hợp

Biến
gr1
gr2
lgc70
lgc80
psh70
psh80
life70
life80
pinst1
pinst2
bmp1
bmp2
m270
m280
tr70
tr80
tt1
tt2
tx1
tx2
gd1


Obs
30
30
30
30
30
30
30
30
30
30
29
30
30
30
29
30
28
28
30
30
30

Ý nghĩa
0.0242
0.011507
3.378233
3.490367
1.0823

1.500733
1.694333
1.728833
0.097233
0.097417
0.421517
0.837366
0.238933
0.320267
0.444793
0.6003
0.014
-0.02132
0.144267
0.150433
-0.05213

Tiêu chuẩn.
0.028085
Dev.
0.022997
0.816354
0.818446
0.598587
0.649766
0.068113
0.067238
0.115842
0.154524
0.473344

1.423522
0.106714
0.141969
0.241678
0.332593
0.069645
0.027295
0.049878
0.062003
0.033452

Nhỏ nhất
-0.0221
-0.0229
2.087
2.222
0.246
0.368
1.535
1.581
0
0
0
0
0.085
0.079
0.077
0.157
-0.085
-0.106

0.045
0.056
-0.139

Lớn nhất
0.111
0.0708
5.295
5.518
2.821
3.248
1.827
1.853
0.4449
0.7297
2.024
7.185
0.435
0.775
0.925
1.333
0.176
0.011
0.257
0.284
0.002

22
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22


GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công
gd2
pvi1
pvi2
cur1

30
30
30
30

-0.0565
0.118913
0.109433
0.140097

0.044555
0.058493
0.049225
0.059672

-0.132
0.026
0.034
0.0121


0.114
0.316
0.217
0.2512

cur2
cdf1
cdf2
ced1
ced2
chl1
chl2
cag1
cag2
cmf1
cmf2
ctc1
ctc2
cap1
cap2
idf1
idf2
ied1
ied2
ihl1
ihl2
iag1
iag2
imf1

imf2
itc1
itc2
te1
te2
df1
df2
edu1
edu2
hl1
hl2
ag1
ag2
mf1
mf2
tc1
tc2
agr70
agr80
pop70
pop80
popgr70
popgr80

30
29
28
30
29
30

29
30
30
23
23
28
28
30
30
28
25
30
29
30
29
30
30
28
28
29
29
30
30
28
25
30
28
30
28
30

30
23
23
28
28
29
29
29
29
30
30

0.159017
0.024945
0.028586
0.024793
0.025845
0.00967
0.009976
0.007533
0.00699
0.002209
0.003083
0.006582
0.004132
0.072057
0.085897
0.002846
0.002536
0.006207

0.0067
0.00236
0.003831
0.011177
0.0144
0.007736
0.010061
0.016438
0.017052
0.212127
0.246013
0.027129
0.02654
0.031827
0.033482
0.0121
0.014136
0.01871
0.02139
0.0104
0.013848
0.023489
0.021875
0.330828
0.292103
4.005483
4.118931
2.572233
2.5749


0.068689
0.025821
0.030493
0.014776
0.015858
0.006789
0.007613
0.005962
0.004863
0.001884
0.006639
0.005015
0.003045
0.037766
0.048786
0.005497
0.004708
0.005097
0.005781
0.001774
0.005107
0.006995
0.011995
0.012527
0.011694
0.011852
0.01424
0.086696
0.102958
0.023882

0.022557
0.015562
0.015824
0.006722
0.008227
0.010777
0.014023
0.013645
0.014103
0.014706
0.01577
0.163018
0.143508
0.655401
0.656377
0.586422
0.658353

0.0109
0.0005
0.0019
0.0022
0.0019
0.0011
0.0008
0.0009
0.0006
0
0
0.0006

0
0.0043
0.0061
0
0
0.0004
0.0005
0.0001
0.0002
0.0008
0.0007
0.0001
0
0.0009
0.0009
0.0166
0.0186
0.0003
0.0019
0.0036
0.0036
0.0012
0.0012
0.0022
0.0022
0.0001
0
0.0019
0.0016
0.066

0.082
2.794
2.955
1.315
0.976

0.3037
0.1359
0.1417
0.056
0.0614
0.0257
0.0321
0.0292
0.021
0.0076
0.0328
0.022
0.0109
0.1602
0.1722
0.0177
0.018
0.0194
0.0215
0.0086
0.0274
0.0283
0.0503
0.0663

0.0469
0.0459
0.0659
0.3899
0.4427
0.1159
0.0999
0.0583
0.0669
0.027
0.0353
0.0493
0.0594
0.0669
0.0496
0.069
0.0738
0.669
0.579
5.744
5.838
3.609
3.577

23
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành



Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

24
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành


Chi Tiêu Công Và Tăng Trưởng Kinh Tế

Tài Chính Công

Danh mục tham khảo:

Alexander, W. R. (1990): “Growth: Some Combined Cross-Sectional and Time-Series
Evidence from OECD Countries”, Applied Economics, 22, 1197-1204.
Aschauer, D. (1989): “Is Government Spending Productive?”, Journal of Monetary
Economics, 23, 177-200.
Azariadis,

C.

and

Drazen (1990): “Threshold

Externalities


in Economic

Development”, Quarterly Journal of Economics, Vol 105, Issue 2 (May), 501 – 526.
Barro, R.J. (1990): “Government Spending in a Simple Model of Endogenous
Growth”, Journal of Political Economy, 98, 5 (October), Part II, S103-S125.
Barro, R.J. (1991): “Economic Growth in a Cross Section of Countries”, Quarterly
Journal of Economics, CVI (May 1991), 407-444.
Barro, R.J. and Lee, J-W (1994): “Sources of Economic Growth”, CarnegieRochester Conference Series on Public Policy.
Barro, R.J. and Xavier Sala-i-Martin (1995), “Economic Growth”, McGraw-Hill,
Boston, Mass.
Barro, R.J. and Xavier Sala-i-Martin (1999), “Economic Growth”, First MIT Press
Edition.
Benoit, E. (1978): “Growth and Defense in Developing Countries”, Economic
Development and Cultural Change, Vol. 26 (January 1978), pp. 271 – 280.
Biswas, B. and Ram, R. (1986): “Military Expenditures and Economic Growth in Less
Developed Countries: An Augmented Model and Further Evidence”, Economic
Development and Cultural Change, Vol. 34 (January), p. 362 – 372.
Cashin, P. (1995): “Government Spending, Taxes, and Economic Growth”, IMF Staff
Papers, Vol. 42, No. 2 (June), p. 237 - 269.
Deger, S. and Smith, R. (1983): “Military Expenditure and Growth in Less Developed
Countries”, Journal of Conflict Resolution, Vol. 27 (June), p. 335 – 353.
DeLong, J. B. and Summers, L. H. (1991): “Equipment Investment and Economic
Growth”, Quarterly Journal of Economics, 106, 2 (May), 445 – 502.
25
Nhóm TH: 03 TCDN Ngày K22

GVHD: P.GS TS Sử Đình Thành



×