Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

Về sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 171 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN SƠN

VỀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA
QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN SƠN

VỀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA
QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. TRẦN NGỌC LINH
2. PGS.TS. VŨ HỒNG SƠN



HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
đúng quy định.
Tác giả

Nguyễn Văn Sơn


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng sự biến đổi của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát triển quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố liên
quan đến đề tài và những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết
Chương 2: QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG


2.1. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và vai trò của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
2.2. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Chương 3: THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời
kỳ đổi mới ở Việt Nam
3.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Chương 4: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT
HUY NHỮNG BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC, HẠN CHẾ NHỮNG BIẾN ĐỔI TIÊU
CỰC CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

4.1. Phương hướng chủ yếu để phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế
những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
4.2. Một số giải pháp chủ yếu để phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế
những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

5
5
18
27
35
39
39
62

75
75
117

127

127

132
149
151
152


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CNXH : Chủ nghĩa xã hội
HTX


: Hợp tác xã

LLSX

: Lực lượng sản xuất

QHSX

: Quan hệ sản xuất

XHCN : Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 3.1: Cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế

101

Bảng 3.2: Cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế năm 2010-2014

110

Bảng 3.3: Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các
doanh nghiệp

113



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các quy luật xã hội thì quy luật: “quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi
vì đây là quy luật cơ bản, xuyên suốt, chi phối quá trình phát triển của xã hội
loài người.
Ở Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
đã được xác lập một cách nôn nóng, chúng ta đã xóa bỏ các loại quan hệ sản
xuất khác; trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, quan hệ sản
xuất mới đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất, đã dẫn đến cuộc khủng hoảng về kinh tế -xã hội.
Trong những năm đổi mới, chúng ta đã có sự nhận thức lại, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo quy luật: “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất”, điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, bằng cách phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất,
trong đó có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, từ đó tạo ra bước ngoặt căn
bản của kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn
còn yếu kém, bất cập, quan hệ sản xuất còn có mặt chưa phù hợp, hạn chế
trong việc giải phóng lực lượng sản xuất. Do đó, cần tiếp tục, điều chỉnh quan
hệ sản xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất để giải phóng lực lượng sản
xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hiện nay, có nhiều nhân tố tác động đến quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, cùng với xu thế toàn cầu hóa, hợp tác hóa, khu vực hóa đang
diễn ra mạnh mẽ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu điều chỉnh quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa để thúc đẩy sản xuất phát triển làm cho nước ta hòa nhập với
xu thế của thời đại là hết sức cần thiết.
Trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, còn tồn tại nhiều loại
quan hệ sản xuất khác nhau như: quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, quan

hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa… trong đó,


2
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta luôn được xác định đóng vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với quá trình đổi mới đất nước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng không ngừng được đổi mới, hoàn
thiện. Đảng khẳng định xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ
ở nước ta rất cần thiết song cũng rất khó khăn, phức tạp, vì đây là con đường
đi chưa có tiền lệ, vừa phải xây dựng, vừa phải tìm tòi thử nghiệm. Do đó,
qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, phải điều chỉnh quan hệ sản xuất để thúc đẩy
sản xuất phát triển và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn thực hiện
được điều này cần phải nghiên cứu sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa từ khi được hình thành đến nay, nhất là thời kỳ đổi mới.
Chính vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Về sự biến đổi của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam”
để nghiên cứu.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu của luận án
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta, luận án góp phần đưa ra một số phương
hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế
những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, để thúc đẩy
sản xuất phát triển.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Nghiên cứu một số quan điểm lý luận cơ bản về quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa và các nhân tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã

hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.


3
- Góp phần đưa ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để phát
huy những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước về quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Luận án còn kế thừa những quan điểm lý luận của các nhà khoa học về
những nội dung có liên quan.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận giải các nội dung đặt
ra, trong đó chú trọng các phương pháp: lịch sử-logic, phân tích, tổng hợp,
so sánh, quy nạp - diễn dịch…để triển khai nhiệm vụ đặt ra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới được xác định trong hai thành phần
là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu sự vận động, biên đổi của kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể từ 1986 đến nay.

Trong kinh tế nhà nước, luận án không nghiên cứu toàn bộ thành phần
kinh tế này, mà đi sâu vào nghiên cứu, khảo sát về các doanh nghiệp nhà
nước, bộ phận nòng cốt của kinh tế nhà nước. Trong thành phần kinh tế tập
thể, luận án tập trung khảo sát các hợp tác xã, bộ phận trụ cột của kinh tế tập
thể, để từ đó góp phần đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy biến


4
đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
5. Những điểm mới của luận án
Luận án nghiên cứu tổng hợp những nhân tố tác động đến sự biến đổi
của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
Luận án nghiên cứu vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ trong thời
kỳ đổi mới ở nước ta.
Luận án làm rõ thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
Luận án góp phần phân tích những vấn đề còn tồn tại của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Luận án bước đầu đề xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của quan hệ sản xuất
nói chung và vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói
riêng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy và những người quan tâm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Những quan điểm và giải pháp được luận án đề xuất có thể gợi mở cho
các cơ quan quản lý, những người lãnh đạo có những điều chỉnh phù hợp để
phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học đã
công bố của tác giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo,
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.


5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN
CHUNG VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI
MỚI Ở VIỆT NAM

Trong quá trình nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, chúng tôi nhận thấy đã có
nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ sản xuất (QHSX) xã hội
chủ nghĩa (XHCN). Các công trình này, nghiên cứu QHSX XHCN trên các
bình diện khác nhau. Điển hình là những công trình nghiên cứu dưới đây.
Với công trình: “Quan niệm của C.Mác về sở hữu và một vài suy nghĩ
về sở hữu ở nước ta hiện nay” [125] của Vũ Hồng Sơn. Đây là một bài báo
khoa học, tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm của C.Mác về vấn đề sở hữu.
Theo tác giả, từ trước đến nay, khi nói về sở hữu chúng ta thường hiểu đó là
một hình thức chiếm hữu nhất định về của cải vật chất của xã hội trong từng
thời kỳ lịch sử. Cách hiểu này là đúng đắn nhưng chưa thấu đáo. Theo quan
niệm của chủ nghĩa C.Mác; sở hữu thực chất là mối quan hệ giữa người với
người trong việc chiếm hữu của cải xã hội. Sở hữu là biểu hiện về mặt xã hội
của sự chiếm hữu trong một hình thái kinh tế - xã hội, gắn liền với một tổ

chức nhất định. Do vậy, khi bàn về sở hữu chúng ta phải đề cập đến đối tượng
của sở hữu, đối tượng của sở hữu luôn luôn biến đổi, vì vậy cần phải xác định
rõ đối tượng sở hữu trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh cụ thể. Khi nghiên
cứu phạm trù sở hữu, chúng ta cần phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng.
Quyền sử dụng có nghĩa là dùng đối tượng sở hữu theo công dụng của nó và
theo chủ trương mong muốn của người sử dụng. Quyền sở hữu và quyền sử
dụng có thể được tập trung trong tay một chủ thể sở hữu, hoặc phân chia giữa
các chủ thể khác nhau ví dụ như: Giám đốc và công nhân là người sử dụng tư
liệu sản xuất trong chủ nghĩa tư bản (CNTB) nhưng không sở hữu chúng. Do
sự phát triển của lực lượng sản xuất, của xã hội hóa mà dẫn đến quyền sử
dụng tách khỏi quyền sở hữu. Việc tách quyền sở hữu và quyền sử dụng là cơ


6
sở lý luận để đổi mới quan hệ sản xuất trong các doanh nghiệp thuộc sở hữu
nhà nước. Điều này có nghĩa là: cần tách rời quyền sở hữu của nhà nước và
quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Tách rời quyền sở hữu và quyền
sử dụng là thực sự cần thiết để hình thành nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là một bài báo khoa học có giá trị khi nghiên
cứu về sở hữu theo quan niệm của C.Mác và vận dụng vào quá trình đổi mới
ở Việt Nam. Quan hệ sở hữu là quan hệ cốt lõi của quan hệ sản xuất, nhưng
ngoài quan hệ sở hữu thì quan hệ sản xuất còn có các mối quan hệ khác chưa
được đề cập đến như: quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ trong phân phối kết
quả lao động. Mặc dù vậy, đây là tài liệu có giá trị với chúng tôi và gợi mở
cho chúng tôi nhiều điều trong quá trình viết luận án.
Trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [99] của Phùng Hữu Phú và
các cộng sự, các tác giả đã khái quát về lý luận nhận thức của Đảng về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa trong 30 năm đổi
mới. Trong đó, có mảng các tác giả có nói về quá trình đổi mới quan niệm về

kinh tế thị trường trong việc đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo các tác giả, từ khi
đổi mới năm 1986 Đại hội VI đến năm 2000 chúng ta sử dụng khái niệm:
Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, chúng ta đã
thừa nhận kinh tế thị trường nhưng chưa coi đó là nền kinh tế mà chỉ là một
cơ chế. Đến đại hội IX năm 2001 chúng ta đã chính thức sử dụng khái niệm:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và coi đây là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Nội hàm của định hướng xã hội
chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ngày càng được làm rõ. Điều đó
được thể hiện:
Một là, về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Mục tiêu ở đây là vì con
người chứ không phải vì mục tiêu lợi nhuận. Kinh tế thị trường không phải là
mục tiêu, mà chỉ là công cụ để đi đến chủ nghĩa xã hội (CNXH).


7
Hai là, về phương hướng phát triển. Phát triển nền kinh tế nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân
Ba là, về phân phối. Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Thực hiện
phân phối theo lao động là chủ yếu, ngoài ra có phân phối theo mức đóng góp
vốn các nguồn lực khác và theo phúc lợi xã hội
Bốn là, về quản lý. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền
kinh tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng pháp luật, kế hoạch bảo đảm mục
đích định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế…
Có thể nói, đây là cuốn sách phân tích chuyên sâu lý luận về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các tác giả, đã phân tích tư duy đổi mới lý

luận kinh tế thị trường trong 30 năm đổi mới đất nước, vai trò của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các vấn đề mà tác giả nêu ra còn chung
chung, khái quát ở tầm vĩ mô, chưa đi sâu phân tích cụ thể, chi tiết về quan hệ
sản xuất XHCN, về vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta
trong quá trình đổi mới. Mặc dù vậy, đây là tài liệu tham khảo cần thiết, có
giá trị đối với chúng tôi.
Trong tác phẩm: “Về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở việt Nam” [78] của Nguyễn Đức Luận. Đây là một bài báo khoa học,
tác giả đã chỉ ra; kinh tế thị trường có nhiều mô hình khác nhau, như mô hình
kinh tế thị trường Mỹ, mô hình kinh tế thị trường Đức, như mô hình kinh tế
thị trường Nhật,… Đặc điểm chung của các mô hình kinh tế thị trường là nền
kinh tế đa sở hữu, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự can thiệp của nhà
nước ở mức độ khác nhau. Ở Việt Nam, là mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình đổi mới ở nước ta, từ Đại hội VI đến Đại
hội IX mới xác định được mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình của nước ta. Đại hội XII tiếp tục khẳng định, thống nhất


8
nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội XII
có những điểm mới;
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường.
- Nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Theo tác giả, khi khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là
nét đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, cho phép chúng ta phân biệt với nền kinh tế thị trường ở phương Tây.
- Là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Theo tác giả, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
vừa có sự tương đồng, vừa có sự khác biệt với nền kinh tế thị trường phương

Tây. Tương đồng ở chỗ, “vận hành đầy đủ đồng bộ, theo quy luật của kinh tế
thị trường”, là “nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”, là nền
kinh tế đa thành phần, đa sở hữu. khác biệt ở chỗ dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản, quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo còn ở các nước tư bản là kinh tế tư bản tư nhân, mục tiêu là
CNXH còn mục tiêu của các nước tư bản là phát triển chế độ TBCN.
Có thể nói, tác giả đã bàn về những điểm mới của mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chứ không chỉ bàn riêng về
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, khi bàn về vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước chỉ nói về mặt lý luận và sự khác biệt của nó với các nước tư
bản, hoàn toàn không đề cập tới sự vận động, biến đổi của thành phần kinh tế
nhà nước. Mặc dùy vậy, đây là tài liệu tham khảo cần thiết cho chúng tôi khi
viết luận án.
Với đề tài: “Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận
về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” [97] của Trần Văn Phòng.
Công trình này đã tổng kết làm sáng tỏ những vấn đề lý luận còn bỏ ngỏ chưa
được giải đáp một cách thỏa đáng trong quá trình phát triển xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chẳng hạn như: vấn đề xây


9
dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở nước ta, cùng với đó là xây dựng quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với lực lượng sản xuất đó. Theo các tác giả thì lực
lượng sản xuất hiện đại phải được thể hiện trên 2 tiêu chí; trình độ phát triển
cao của người lao động: người lao động phải có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
nhiều kinh nghiệm, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần hợp tác… thứ hai là
tính hiện đại của tư liệu sản xuất nó được thể hiện ở tính hiện đại của công cụ
lao động phải là công nghệ, dây chuyền máy móc hiện đại để có năng suất lao
động cao; tính hiện đại của lực lượng sản xuất còn được thể hiện ở tính hiện

đại của đối tượng lao động và phương tiện lao động. Hiện nay, do ứng dụng
thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất nên đối tượng lao động
trở nên “nhân tạo” phổ biến hơn đối tượng lao động tự nhiên. Các phương
tiện lao động cũng ngày càng trở nên hiện đại thuận tiện cho sản xuất và lưu
thông. Do vậy, tính hiện đại của lực lượng sản xuất còn được thể hiện ở tính
ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, vì khoa học ngày càng
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Khi xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại, thì quan hệ sản xuất tương
ứng với nó cũng phải hiện đại. Ở đây đề tài đã phân tích, làm rõ tính hiện đại
của quan hệ sản xuất XHCN ở nước ta mà trong các văn bản trước đây chưa
được làm rõ đó là: Tính hiện đại của quan hệ sản xuất phải được thể hiện trên
cả 3 mặt; quan hệ trong sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quan
lý sản xuất, và quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.Tiêu chí đánh giá
tính hiện đại thể hiện ở chỗ phù hợp với xu thế phát triển của lực lượng sản
xuất (LLSX) của nhân loại, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và thúc
đẩy LLSX phát triển, tạo ra môi trường lao động lành mạnh thúc đẩy cổ vũ
người lao động sáng tạo cống hiến để đem lại năng suất lao động cao. Biểu
hiện của tính hiện đại của QHSX là năng suất lao động xã hội tăng, đời sống
người lao động không ngừng được nâng cao, điều kiện làm việc được bảo
đảm và thường xuyên cải thiện, phương tiện lao động thường xuyên đổi mới
hiện đại hóa… Đồng thời đề tài cũng làm rõ khái niệm tiến bộ, phù hợp của
quá trình xây dựng QHSX XHCN ở nước ta. Sự tiến bộ của quan hệ sản xuất


10
ở nước ta là tiêu chí căn bản để đánh giá sự khác biệt của QHSX ở ta và
QHSX TBCN, theo các tác giả thì QHSX TBCN có sự phù hợp nhất định với
trình độ của LLSX. Nếu không có sự phù hợp với LLSX thì QHSX TBCN
không phát triển được. Tuy nhiên, QHSX TBCN không có sự tiến bộ vì nó
dựa trên cơ sở bóc lột người lao động và theo nguyên tắc lợi nhuận tối đa cho

giới chủ, không vì con người nói chung, vì người lao động nói riêng. Còn
QHSX XHCN ở nước ta xây dựng tính tiến bộ của nó phải được thể hiện ở
mục đích của nền sản xuất xã hội, phải vì người lao động, phục vụ người lao
động chứ không phải lợi nhuận tối đa.
Tuy nhiên, đề tài chỉ đi sâu vào tổng kết nhiều về mặt lý luận, không đi
sâu nghiên cứu thực trạng về QHSX XHCN ở nước ta, hơn nữa trong đề tài
thì thành phần kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã còn ít được đề cập nghiên
cứu. Mặc dù vậy, đây là đề tài có giá trị tham khảo rất lớn đối với chúng tôi
trong quá trình nghiên cứu.
Trong cuốn “Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay một số vấn đề nhận thức về lý luận và thực tiễn” [16] của Lương Minh Cừ,
Vũ Văn Thức. Trong công trình này, các tác giả đặc biệt quan tâm đến đặc
điểm của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển lịch sử thế
giới và Việt Nam; sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, công trình này có
giá trị tham khảo rất lớn. Bởi lẽ, các tác giả đã làm rõ được một số vấn đề lý
luận về sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN; quá trình đổi mới tư duy của Đảng ta về sở hữu tư nhân, kinh
tế tư nhân; đặc điểm của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân và vai trò của nó đối
với sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới; các tác giả
cũng đưa ra những cơ sở và lập luận lôgic khi nhận định xu hướng xã hội hóa
sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, do
phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn ở sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, cho nên
công trình này không thể đem đến cái nhìn toàn diện, đầy đủ của mối quan hệ


11
giữa quá trình đổi mới, điều chỉnh sở hữu với sự phát triển của LLSX, ít quan
tâm đến vấn đề QHSX XHCN.
Với bài: “Phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu
trong giai đoạn hiện nay” [76] của Nguyễn Đức Luận. Trong bài báo này,

bên cạnh việc khái quát các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu,
tác giả cũng khẳng định sự cần thiết phải có những bổ sung, phát triển hợp lý
các quan điểm này trong điều kiện của thời đại ngày nay.
Trong cuốn "Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam" [155] của Nguyễn Kế Tuấn. Công trình này tập
trung vào 3 vấn đề cơ bản sau: những vấn đề lý luận cơ bản về sở hữu trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; thực trạng vấn đề sở hữu, các thành
phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp trong quá trình đổi mới kinh tế ở
Việt Nam; quan điểm, xu hướng và giải pháp đối với vấn đề sở hữu, các thành
phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đây là một công trình rất công
phu, và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Các tác giả đã hệ thống hóa,
khái quát hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của nhiều
nhà nghiên cứu khác về sở hữu, qua đó đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận về
sở hữu, chẳng hạn như về các chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu trong
nền kinh tế thị trường; sự phát triển các chế độ sở hữu trong các phương thức
sản xuất xã hội; mối quan hệ giữa sở hữu với các hình thức tổ chức kinh tế
trong nền kinh tế thị trường.
Trong quá trình tìm hiểu công trình này, chúng tôi nhận thấy có một số
vấn đề cần phải trao đổi thêm, chẳng hạn như khi bàn về chế độ sở hữu, các
tác giả cho rằng “chế độ sở hữu là khái niệm mang tính tổng quát chỉ sở hữu ở
khía cạnh bản chất nhất” cách hiểu chế độ sở hữu như vậy rất khác so với các
giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin hiện nay. Bên cạnh đó, mối quan hệ
giữa sở hữu đối với LLSX được thể hiện rất mờ nhạt, chưa thực sự làm rõ
được tính đa dạng của các hình thức sở hữu là do sự đa dạng về trình độ của
LLSX điều quy định.


12
Bàn về vấn đề sở hữu có cuốn “Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở

Việt Nam và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI” [45] của Lương
Việt Hải. Công trình này là một tập hợp các bài viết của nhiều tác giả khác
nhau.Các bài viết đều tập trung vào việc khái quát và chỉ ra cơ sở khoa học
của những quan điểm, chủ trương mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng
Cộng sản Trung Quốc về sở hữu, nhất là chủ trương đa dạng hóa các hình
thức sở hữu trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, cải cách ở 2 nước.
Tuy nhiên, các vấn đề được trình bày trong các tham luận phần nhiều còn
dừng lại ở mức độ chung chung, khái quát, chưa thực sự phân tích một cách
chi tiết về sở hữu ở Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.
Viết về kinh tế tập thể có cuốn “Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” [61] của Chử
Văn Lâm. Công trình này gồm có 3 nội dung cơ bản sau: 1) Sở hữu tập thể và
kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn trên thế giới; 2) Một số vấn đề lý luận và thực trạng phát triển sở hữu tập
thể và kinh tế tập thể trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam; 3) Định hướng và các khuyến nghị chính sách phát triển
sở hữu tập thể và kinh tế hợp tác trong thời gian tới. Với việc tập trung nghiên
cứu những nội dung cơ bản trên, các tác giả đã góp phần làm rõ sở hữu tập
thể và kinh tế tập thể theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và theo
quan điểm của nhiều học giả khác, trên phương diện lý luận cũng như thực
tiễn (thực tiễn trong nước và thực tiễn một số nước trên thế giới, thực tiễn
ở các nước XHCN, hoặc các nước trước đây là XHCN và thực tiễn ở các
nước TBCN). Chính vì vậy, công trình của tác giả Chử Văn Lâm và các
cộng sự, đã cung cấp những cách nhìn đa chiều với nguồn tư liệu rất phong
phú, đa dạng về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể. Xuyên suốt công trình
này, các tác giả đã tập trung làm rõ bản chất và các hình thức sở hữu tập
thể; sự khác nhau giữa sở hữu tập thể và và sở hữu hỗn hợp; sự cần thiết
của sở hữu tập thể và kinh tế tập thể cũng như vai trò, vị trí của nó trong
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;… Có thể khẳng định



13
rằng, công trình này đã góp phần làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể; một số quan điểm đột phá về
đường lối phát triển sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam; thực trạng phát triển sở hữu
tập thể và kinh tế tập thể ở nước ta sau khi Luật Hợp tác xã (năm 1996) ra
đời;… Tuy nhiên, một số nội dung quan trọng chưa thực sự được các tác
giả làm rõ, chẳng hạn như mối quan hệ giữa những chủ trương, chính sách
mới về sở hữu tập thể đối với sự phát triển LLSX.
Cũng bàn về vấn đề sở hữu, Nguyễn Văn Thức có cuốn: “Sở hữu: lý
luận và vận dụng ở Việt Nam” [137]. Công trình gồm những nội dung cơ bản
sau: lý luận về sở hữu; các loại hình sở hữu và vai trò của chúng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay; vấn đề cải tạo và xây dựng
các hình thức sở hữu trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Dưới góc độ lý luận, với việc phân tích quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và nhiều nguồn tư liệu khác nhau, tác giả Nguyễn Văn
Thức đã nêu lên được quan niệm có tính thuyết phục về sở hữu. Cũng trong
công trình này, tác giả Nguyễn Văn Thức đã đề cập đến nhiều vấn đề khác
nhau liên quan đến sở hữu, chẳng hạn như các vấn đề: sự chiếm hữu, chủ thể
sở hữu và đối tượng sở hữu, sở hữu cá nhân và sở hữu tư nhân, quyền sở hữu
và chế độ sở hữu, loại hình sở hữu và hình thức sở hữu,…trong quá trình
phân tích các vấn đề này, tác giả cũng đã có những khái quát, nhận xét có
giá trị, chẳng hạn như những nội dung nói về quyền sở hữu, chế độ sở
hữu,… (từ trang 53-58). Dưới góc độ thực tiễn, về cơ bản, tác giả của “Sở
hữu: lý luận và vận dụng ở Việt Nam” đã làm rõ được tính tất yếu của sự tồn
tại nhiều hình thức sở hữu và vai trò của chúng đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay; tác giả cũng chỉ ra được một số nội dung cải tạo
và xây dựng các hình thức sở hữu trong quá trình chuyển sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, do sự chi phối của mục đích
nghiên cứu nên tác giả chỉ nói về vai trò của các hình thức sở hữu đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội một cách chung chung, không bàn nhiều đến tác



14
động của quá trình đổi mới quan hệ sở hữu đối với việc giải phóng, phát
triển của LLSX.
Trong cuốn “Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay” [129] của
Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Hữu Đạt. Trong công trình này, các tác giả tập
trung nghiên cứu các vấn đề: nhận thức vấn đề sở hữu ở Việt Nam - Lý luận
và thực tiễn”; thực trạng sở hữu doanh nghiệp nhà nước và sở hữu đất đai ở
Việt Nam”; quan điểm và phương hướng cơ bản định hướng cho việc giải
quyết vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay. Với trọng tâm nghiên cứu như vậy,
các tác giả đã khái quát một số quan điểm về sở hữu trên thế giới; hệ thống
hóa các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về sở hữu thời kỳ trước đổi mới
và trong đổi mới (tính đến năm 2004); đặc biệt là các tác giả đã tập trung sự
nghiên cứu của mình vào những vấn đề bức thiết liên quan đến sở hữu là thực
trạng sở hữu doanh nghiệp nhà nước và sở hữu đất đai ở nước ta, trên cơ sở
đó các tác giả đã đưa ra quan điểm, phương hướng cơ bản cho việc giải quyết
vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay. Mặc dù các tác giả chưa tập trung nhiều
vào việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu; các số
liệu có tính cập nhật không cao (chủ yếu từ năm 1980-1999); các phương
hướng còn ở mức chung chung, chưa mang tính đột phá, nhưng đây vẫn là
một công trình có sự nghiên cứu rất công phu về sở hữu, góp phần vào việc
giải quyết những vướng mắc liên quan đến sở hữu ở Việt Nam.
Cuốn sách “Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa
và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam” [119] của Lương Xuân
Quỳ. Trong công trình này, tác giả bàn về các vấn đề cơ bản sau: 1) Nhận
thức về QHSX định hướng XHCN và sự tiến bộ, công bằng xã hội; 2) Những
biến đổi của QHSX và tác động của chúng tới sự phát triển của LLSX, thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong 15 năm đổi mới (1986 - 2001) ở Việt
Nam; 3) Phương hướng xây dựng QHSX định hướng XHCN và thực hiện tiến

bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam.
Đề tài mà Lương Xuân Quỳ và tập thể tác giả đề cập đến, là một vấn
đề rất rộng lớn, phức tạp, còn có những ý kiến khác nhau. Các tác giả đã


15
làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. Trong đó, nổi bật là các tác
giả đã góp phần làm rõ nội dung và những đặc trưng cơ bản của QHSX
định hướng XHCN; vai trò của QHSX với phát triển LLSX và tiến bộ,
công bằng xã hội theo học thuyết Mác - Lênin; những mâu thuẫn nảy sinh
trong quá trình phát triển LLSX và hoàn thiện QHSX theo định hướng
XHCN; đặc điểm của LLSX trong thời đại ngày nay và tác động của nó đối
với QHSX; đường lối của Đảng ta về việc xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay;
thực trạng biến đổi QHSX và những tác động chủ yếu của QHSX đối với
việc tăng trưởng kinh tế, giải phóng LLSX, thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội; phương hướng xây dựng QHSX định hướng XHCN, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội.
Tuy nhiên, trong công trình của tác giả Lương Xuân Quỳ và các cộng
sự còn có một số nội dung chưa thực sự sáng tỏ, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên
cứu. Chẳng hạn như ở phần thứ nhất của công trình, nội dung bàn về vai trò
của QHSX đối với phát triển LLSX và tiến bộ, công bằng xã hội theo học
thuyết Mác - Lênin rất mờ nhạt, chưa rõ; ở phần thứ hai, các tác giả có đề cập
đến một nội dung rất quan trọng là tác động của những biến đổi QHSX đối
với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải phóng LLSX, tuy nhiên cách
trình bày vấn đề này có phần đơn giản, vắn tắt, do vậy tính thuyết phục không
cao; ở phần thứ ba, những phương hướng xây dựng QHSX định hướng
XHCN và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam mà các tác giả đưa
ra còn rất chung chung, rất khó để có thể vận dụng vào thực tiễn;…
Trong cuốn "Những quan niệm của Mác - Ăngghen và Lênin về sở hữu

trong chủ nghĩa xã hội" [17] của Lương Minh Cừ. Luận án này tập trung
nghiên cứu các vấn đề: khái niệm sở hữu, vị trí và vai trò của sở hữu trong
CNXH; xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất;
sở hữu trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước
ta hiện nay. Nhìn chung, luận án đã có những phân tích sâu sắc và hệ thống
hóa được các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu trong CNXH.


16
Tác giả cũng đã lập luận một cách khoa học về việc xóa bỏ chế độ tư hữu,
thiết lập chế độ công hữu là một quá trình lâu dài và phải gắn với sự phát triển
của LLSX. Luận án này cũng chỉ ra được một số sai lầm chủ quan dễ mắc
phải, đồng thời làm rõ được những vấn đề có tính nguyên tắc liên quan đến
việc thiết lập chế độ sở hữu trong quá trình xây dựng CNXH.
Trong cuốn “Sự tồn tại đồng thời nhiều loại hình sở hữu đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay” [136] của Nguyễn Văn Thức.
Trong công trình này, tác giả đặc biệt quan tâm làm rõ lý luận về sở hữu; các
loại hình sở hữu và vai trò của chúng đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở
Việt Nam hiện nay; vấn đề cải tạo và xây dựng các quan hệ sở hữu trong quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Luận án này được
hoàn thành trong thời điểm Đảng và Nhà nước ta có những đổi mới mạnh mẽ
về sở hữu, nhất là chủ trương cổ phần hóa các nguồn lực thuộc sở hữu nhà
nước để khai thác, quản lý, sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực của nền sản
xuất. Chính vì vậy, xuyên suốt luận án này là tinh thần đổi mới mạnh mẽ quan
hệ sở hữu nhằm khai thác, phát huy tối ưu LLSX. Bên cạnh đó, tác giả cũng
có những đánh giá xác đáng về vai trò của các hình thức sở hữu trong nền sản
xuất của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, khi bàn đến thực tiễn Việt Nam, do sự
chi phối của mục đích nghiên cứu nên tác giả không bàn nhiều đến một số
vấn đề phức tạp, bức xúc liên quan đến sở hữu ở Việt Nam hiện nay. Hơn
nữa, các số liệu thực tiễn được sử dụng trong quá trình lập luận, phân tích về

thực tiễn Việt Nam chưa thực sự phong phú.
Về mặt cơ bản thứ hai của QHSX - quan hệ giữa người với người trong
tổ chức, quản lý sản xuất - cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều công trình
nghiên cứu, điển hình là các công trình sau:
Phú Giang với bài “Đổi mới quản lý, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước nhằm nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động” [40]; Võ Đại
Lược “Kinh tế Việt Nam lý luận và thực tiễn” [79]; Nguyễn Cảnh Nam:
“Quản lý doanh nghiệp nhà nước - Bất cập và đề xuất đổi mới” [88]; Nguyễn
Thành Nam với bài “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: kinh nghiệm


17
từ Viettel” [89]; Phạm Quang Trung với cuốn sách “Mô hình tập đoàn nhà
nước ở Việt Nam đến năm 2020” [152]… Nhìn chung, các công trình trên đều
quan tâm làm rõ vai trò của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế ở nước
ta hiện nay, tác động của quá trình hội nhập quốc tế đối với các hoạt động tổ
chức, quản lý sản xuất, điều tiết nền kinh tế. Các công trình này cũng đã hệ
thống hóa quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta,
chỉ ra những thành tựu và hạn chế của quá trình đó, đồng thời đưa ra các giải
pháp khắc phục những hạn chế, thiếu sót của thể chế kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay. Các tác giả trên đều khẳng định sự cần thiết phải nhanh chóng
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN để nâng cao hiệu quả
quản lý của nhà nước, tạo môi trường thuận lợi cho quá trình sản xuất, kinh
doanh của người dân và doanh nghiệp.
Quan hệ giữa người với người trong việc phân phối sản phẩm cũng là
là một trong những mặt cơ bản của QHSX. Tuy nhiên, trong quá trình tìm
hiểu, sưu tầm tài liệu, chúng tôi nhận thấy không có nhiều công trình nghiên
cứu chuyên sâu về vấn đề này. Dưới đây, là một số công trình nghiên cứu mà
chúng tôi đã tiếp cận, tìm hiểu.
Trong cuốn“Lý luận chung về phân phối của chủ nghĩa xã hội” [8],

của Lý Bân người Trung Quốc. Trong công trình của mình, tác giả Lý Bân
đã nêu lên những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân
phối. Đồng thời, tác giả đã làm sáng tỏ những điều kiện kinh tế ràng buộc
phân phối, trong đó nhấn mạnh đến sự phát triển của LLSX và tình hình
kinh tế - xã hội của đất nước. Khi bàn về những nhân tố thể chế kiềm chế
phân phối, tác giả đã đề cập đến chế độ sở hữu, thể chế kinh tế hàng hóa có
kế hoạch, hệ thống điều hành vĩ mô và phương thức kinh doanh của xí
nghiệp. Theo tác giả, đây là những nhân tố kiềm chế phân phối mà thực
chất đó là những nhân tố quy định, chi phối việc phân phối sản phẩm, lợi
ích. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi thay đổi trong các nhân tố đó đều có
những ảnh hưởng đến phân phối. Khi bàn về những đặc điểm cơ bản của
phân phối XHCN, tác giả nhấn mạnh đến tính công bằng trong phân phối,


18
đồng thời cho rằng cần phải nghiên cứu những đặc điểm này ở trạng thái
động, không nên vì khoảng cách giữa phân phối thực tế và yêu cầu của đặc
trưng cần thể hiện mà phủ nhận tính hợp lý của phân phối XHCN cũng như
triển vọng thực tiễn của nó. Với công trình này, tác giả Lý Bân đã có đóng
góp rất lớn trong việc làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận chung về phân phối
của CNXH. Tuy nhiên, khi bàn đến những vấn đề thực tiễn, do sự chi phối
của mục đích và phạm vi nghiên cứu, nên tác giả chỉ đề cập đến thực tiễn ở
Trung Quốc. Vì vậy, khi tìm hiểu công trình này, người đọc không có cơ
hội để biết về thực trạng cũng như những vấn đề đang đặt ra đối với việc
phân phối sản phẩm ở Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Đức Luận với bài “Vấn đề phân phối sản phẩm trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay” [77]. Đây là một bài báo
khoa học, đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông. Công trình này
khái quát quá trình đổi mới quan hệ phân phối sản phẩm ở nước ta từ năm
1986 đến nay. Tuy nhiên, do đây chỉ là một bài báo khoa học, vì vậy nội dung

của nó còn khái quát, sơ lược, chưa đi vào những vấn đề cụ thể, chi tiết của
vấn đề phân phối sản phẩm ở nước ta hiện nay.
Tóm lại, Các công trình trên đã bàn nhiều về lý luận quan hệ sản xuất
XHCN, nhưng chưa có công trình nào bàn cụ thể, chi tiết về sự biến đổi của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC
TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

Trong những năm qua, đã có nhiều công trình, bài viết nói về thực
trạng biến đổi về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở các góc độ và khía cạnh
khác nhau. Sau đây là những công trình tiêu biểu.
Trong cuốn “Kinh tế Việt Nam 30 năm chuyển đổi” [133] của tác giả
Phạm Quý Thọ đã đánh giá thực trạng quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước
ta từ khi tiến hành đổi mới năm 1986 đến năm 2016 qua 30 năm đổi mới đất
nước. Đây là cuốn sách đánh giá quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta trên


19
nhiều lĩnh vực như: vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của nền kinh
tế nước ta những thành tựu và hạn chế, vấn đề sở hữu trong nền kinh tế, vai
trò của thị trường và vai trò của kinh tế nhà nước… Các vấn đề được tác giả
trình bày, thuộc lĩnh vực rộng lớn bao trùm toàn bộ nền kinh tế, trong đó có
đề cập về kinh tế nhà nước.
Tác giả đã trình bày thực trạng quá trình chuyển biến nền kinh tế nước
ta qua các giai đoạn khác nhau chẳng hạn như: giai đoạn 1986-1990 đây là
giai đoạn chuyển đổi về tư duy kinh tế chuyển từ mô hình kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần. Giai đoạn 1991-2001, chúng ta tiếp tục sự nghiệp đổi mới đất nước như
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội và khẳng định kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế. Giai đoạn từ 2001-2016 chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình đổi mới đất nước ta giành được nhiều
thành tựu nhưng còn có những hạn chế như: kinh tế phát triển chưa vững
chắc, chất lượng tăng trưởng chưa cao…
Về vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế tác giả cho rằng: kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo tiếp tục được khẳng định trong hiến pháp sửa
đổi năm 2013.Vai trò của kinh tế nhà nước là cần thiết nhằm khắc phục các
khuyết điểm của kinh tế thị trường, song cũng cần khắc phục các yếu kém của
các doanh nghiệp nhà nước. Đây là cuốn sách, đã đánh giá thực trạng đổi mới
về tư duy lý luận của Đảng ta về chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam và là tài
liệu tham khảo cần thiết cho chúng tôi. Tuy nhiên, tác giả chỉ chú trọng khái
quát thực trạng về quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng, các số liệu
thực tế chưa nhiều, hơn nữa trong quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thì quan
hệ quản lý, quan hệ phân phối còn ít được bàn đến.
Bàn về thực trạng doanh nghiệp nhà nước có bài "Nợ của các doanh
nghiệp nhà nước: mối đe dọa nợ công của Việt Nam" [1] của Phạm Thế Anh.
Đây là một bài báo khoa học tác giả đã phân tích thực trạng nợ của các doanh


×