I. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển và
tính chất của lực lợng sản xuất
1. Lực lợng sản xuất
Định nghĩa: lực lợng sản xuất và một kết cấu vật chất, bao gồm ngời lao
động với kỹ năng lao động của họ và t liệu sản xuất, trớc hết là công cụ lao
động, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con ngời.
Trình độ phát triển của t liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao động là
thớc do trình độ chinh phục tự nhiên của loài ngời, là cơ sở xác định trình độ
phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời
đại kinh tế.
Năng suất lao động xã hội là thớc đo trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất. Xét đến cùng nó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật
tự xã hội.
2. Quan hệ sản xuất
Quan hẹ sản xuất là mối quan hê giữa ngời với ngời trong quá trình sản
xuất bao gồm quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất; quan hệ về tổ chức quản lý;
quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên của Quan hệ sản xuất có quan hệ hữu cơ với nhau, trong
đó quan hệ sở hữu t liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định. Bản chất của bất kỳ
Quan hẹ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào việc những t liệu sản xuất chủ
yếu trong xã hội thuộc về ai. Có hai hình thức sở hữu cơ bản về t liệu sản xuất,
sở hữu t nhân và sở hữu xã hội.
3) Quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với trình độ phát triển và
tính chất của lực lợng sản xuất
Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phơng thức sản
xuất, chúng tồn tại tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau, hình thành
quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ xã hội loài ngời: quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển và tính chất của lực lợng sản xuất.
Quy luật này vạch rõ sự phụ thuộc khách quan của Quan hệ sản xuất vào sự
phát triển của Lực lợng sản xuất, đồng thời Quan hệ sản xuất cũng tác động trở
lại lực lợng sản xuất. Sự hình thành, biến đổi, phát triển của quan hệ sản xuất đ-
ợc quyết định bởi trình độ của lực lợng sản xuất. Trình độ của lực lợng sản xuất
thể hiện ở trình độ phát triển của công cụ lao động, kỹ thuật, kinh nghiệm, kỹ
năng của ngời lao động, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động xã hội.
Trình độ lực lợng sản xuất càng cao thì phân công lao động càng tỉ mỉ. Cùng
với sự phát triển của lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và
biến đổi cho phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lợng sản xuất.
Sự phù hợp đó là động lực cho lực lợng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Nhng lực
lợng sản xuất phát triển nhanh, còn quan hệ sản xuất có xu hớng tơng đối ổn
định. Khi lực lợng sản xuất phát triển len một trình độ mới, quan hệ sản xuất cũ
không còn phù hợp nữa, trở thành chớng ngại đối với sự phát triển của lực lợng
sản xuất, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt bằng của phơg thức sản
xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu sẽ dẫn đến việc xóa bỏ Quan hệ sản
xuất cũ, thay thế quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển lực lợng
sản xuất. Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tơng đối và tác động trở lại sự
phát triển của lực lợng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản
xuất, tác động đến thái độ con ngời trong lao động sản xuất, đến phát triển và
ứng dụng công nghệ do đó tác động đến phát triển lực lợng sản xuất. Quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lợng sản xuất là
động lực thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển. Ngợc lại, quan hệ sản xuất lỗi
thời, hoặc tiên tiến một cách giả tạo với trình độ phát triển lực lợng sản xuất sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất. Sớm hay muộn nó cũng bị thay
thế. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển và tính
chất của lực lợng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Sự tác
động của quy luật này đã đa xã hội loài ngời trải qua các phơng thức sản xuất
kế tiếp nhau từ thấp đến cao: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, t bản chủ nghĩa, và cộng sản tơng lai.
II. Ba phơng thức sản xuất trớc chủ nghĩa t bản (CNTB)
1. Phơng thức sản xuất chiếm hữu nô lệ
Lúc này, loài ngời đã tích luỹ đợc nhiều kinh nghiệm sản xuất, biết luyện
sắt và chế tạo công cụ bằng sắt, biết dùng súc vật kéo nên năng suất lao động
cao hơn, tạo ra nhiều sản phẩm hơn, không những đủ ăn mà còn có nhiều sản
phẩm d thừa. Các yếu tố đó cho thấy trình độ phát triển của lực lợng sản xuất đã
bớc lên một tầng cao mới. Quan hệ sản xuất cũ đã trở thành chiếc áo chật chội
đối với lực lợng sản xuất. Tất yếu, lực lợng sản xuất cần một quan hệ sản xuất
mới giúp nó phát triển nhanh hơn nữa. Đó là phơng thức sản xuất chiếm hữu nô
lệ.
Trong phơng thức chiếm hữu nô lệ, công cụ đợc cải tiến thúc đẩy nghề
nông và nghề chăn nuôi phát triển dẫn đến sự phân công lao động lần đầu tiên:
nghề chăn nuôi tách ra khỏi nghề nông nghiệp nhờ phát minh ra công cụ bằng
kim khí, các nghề thủ công cũng phát triển rất mạnh nh nghề dệt, rèn, đồ gốm
đến lợt nghề thủ công tách ra khỏi nghề nông. Đó là phân công lao động lần thứ
hai. Phân công lao động lần thứ hai làm cho sản xuất hàng hoá, tức là nền sản
xuất nhằm mục đích trao đổi, ra đời. Phân công lao động xã hội làm cho năng
suất lao động nâng cao, do đó, ngời ta sản xuất ra không những đủ ăn mà còn
thừa ra ít nhiều. Các tù trởng đứng ra trao đổi sản phẩm của bộ lạc mình với các
bộ lạc khác, rồi sau đó họ sử dụng sản phẩm ấy nh là tài sản của riêng. Sự giao
lu kinh tế giữa các bộ lạc đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển, hàng
hoá trao đổi ngày càng nhiều, khu vực càng mở rộng. Đẻ ra sự cần thiết phải có
môi giới giữa ngời mua và ngời bán: giai cấp thơng nhân xuất hiện. Đó là sự
phân công lao động xã hội lớn lần thứ ba. Đồng thời nó cũng kéo theo những
cuộc xâm chiếm giữa các bộ lạc. Trớc đây, sản phẩm làm ra chỉ đủ ăn, nên tù
binh bị giết đi vì chẳng làm gì. Nay đã khác, công việc sản xuất lúc bấy giờ
đang mở rộng và đòi hỏi thêm nhiều nhân lực, vì vậy tù binh đã đợc sử dụng
vào trong sản xuất và họ trở thành nô lệ. Và chiến tranh trong lịch sử, xã hội
loài ngời chia thành hai giai cấp: giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Sự thay
đổi lớn trong xã hội loài ngời, lúc đó, đã làm thay đổi mối quan hệ giữa ngời với
ngời trong một xã hội. Công cụ đợc cải tiến cho năng suất cao, mỗi gia đình có
thể tự cầy riêng một mảnh đất mà vẫn đảm bảo cuộc sống của họ. Lao động
chung không còn cần thiết, vì khi lao động chung, ngời làm tốt, ngời thì làm
không tốt nhng cả hai lại đợc nhận phần bằng nhau, lại không chuyên môn hoá
nên không khuyến khích đợc ngời lao động. Tất nhiên, nền kinh tế riêng của
từng gia đình sẽ thay thế nó. Thế là chế độ sở hữu t nhân về t liẹu sản xuất thay
thế cho chế độ sở hữu công xã. Kéo theo sự phân biệt giữa ngời giàu và ngời
nghèo, bên cạn sự phân biệt giữa dân tự do và dân nô lệ. Đặc điểm nổi bật nhất
của quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ là chủ nô chiếm hữu t liệu sản xuất mà
còn chiếm hữu cả những ngời sản xuất, là nô lệ. Nô lệ là tài sản riêng của chủ
nô, chủ nô có quyền đánh, giết, bắn họ. Nô lệ không có quyền làm ngời, họ chỉ
là những công cụ biết nói, mọi sản phẩm làm ra đều thuộc chủ nô. Do chủ nô và
nhà nớc của chủ nô tập trung trong tay nhiều nô lệ, cho nên sản xuất tiến hành
trên quy mô lớn. Xuất hiện những xởng thủ công có hàng chục nô lệ, những
trang trại có hàng trăm nô lệ tạo ra năng suất lao động cao hơn so với sản xuất
nhỏ. Nô lệ trở thành lực lợng sản xuất chủ yếu của xã hội chiếm hữu nô lệ. Chế
độ chiếm hữu nô lệ trong khi cỡng bức số đông ngời làm lao động chân tay giản
đơn đã cho phép số ít ngời có đặc quyền làm lãnh đạo quản lý nhà nớc, nghệ
thuật đợc phát triển. Nên trong thời kỳ này, nhiều công trình vĩ đại ra đời:
Vạn lý trờng thành ở Trung Quốc, Kim tự tháp ở Ai Cập Chính là trên cơ sở
chế độ chiếm hữu nô lệ mà loài ngời bớc vào thời đại văn minh rực rõ: Hy Lạp,
La Mã, Ai Cập, ấn Độ, Trung Quốc
So với chế độ công xã nguyên thuỷ thì chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo khả
năng lớn hơn cho sự phát triển của lực lợng sản xuất cả về số lợng và chất lợng.
Vì nô lệ không bị giết đi mà đợc sử dụng trong sản xuất, công cụ phát triển hơn,
quy mô sản xuất mở rộng, năng suất cao, nhiều ngành mới ra đời. Thêm một
chứng minh nữa cho thấy tầm quan trọng của quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển và tính chất của lực lợng sản xuất.
3. Phơng thức sản xuất phong kiến
Chế độ chiếm hữu nô lệ càng mở rộng thì lao động càng bị coi là hèn hạ,
chỉ dành riêng cho nô lệ không xứng với công việc của dân tự do. Nô lệ là lực l-
ợng sản xuất cơ bản của xã hội chiếm hữu nô lệ lại bị khinh rẻ và bạc đãi nên
nô lệ không còn quan tâm tới sản xuất, họ còn phá hoại sản xuất, nổi dậy chống
lại chủ nô. Còn dân tự do đi lính thì quá mệt mỏi với những cuộc chiến tranh
liên miên. Thợ thủ công bị các thơng nhân và bọn cho vay nặng lãi bóc lột
không cạnh tranh nổi với sản xuất lớn của bọn chủ nô, thuế khoá nặng nề nên
họ bị phá sản. Tất cả những nguyên nhân đó đã làm cho nền kinh tế nhà nớc
chiếm hữu nô lệ bị suy yếu, sản xuất bị đình đốn, nhng quan trọng hơn lực lợng
sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Điều đó chứng tỏ quan hệ sản xuất chiếm
hữu nô lệ đã lỗi thời, nó kìm hãm sự phát triển hơn nữa của lực lợng sản xuất.
Lực lợng sản xuất đòi hỏi phải thay thế nó.
Trớc tình hình đó, một cách tự phát, bọn chủ nô đem chia đất đai của họ
cho nô lệ cầy, đổi lại nô lệ phải đóng địa tô cho chủ nô. Chế độ nô lệ đợc xoá
bỏ, nô lệ đợc giải phóng. Sự thay đổi dẫn đến những thay đổi lớn trong xã hội.
Nô lệ biến thành nông nô, nông dân tự do bị đẩy xuống địa vị ấy. Xã hội chia ra
làm hai giai cấp lớn: địa chủ và nông dân thay cho chủ nô và nô lệ; chiếm hữu
phong kiến thay thế cho chiếm hữu nô lệ. Thiết lập quan hẹ sản xuất phong kiến
trong đó toàn bộ t liệu sản xuất thuộc về chúa phong kiến và giao những t liệu
đó cho những ngời nông dân cày cấy rồi nộp địa tô cho chúng. Sau khi nộp địa
tô, số sản phẩm còn lại sẽ thuộc về ngời nông dân. Đây là điểm tiến bộ hơn so
với quan hệ chiếm hữu nô lệ. Điểm này đã thúc đẩy nông dân chăm chỉ lao
động, tìm mọi cách tăng năng suất lao động, đồng nghĩa với việc họ có nhiều
sản phẩm thuộc về họ hơn sau khi nộp địa tô. Lao động sản xuất đợc coi trọng
nên các hoạt động sản xuất trở lại bình thờng và phát triển. Cầy sắt đợc truyền
bá rộng rãi, kỹ thuật canh tác đợc cải tiến, phân công lao động trong nội bộ
nông nghiệp mở rộng hơn, các nghề thủ công cũng chuyên môn hoá hơn, cải
tiến cách nấu gang, chế biến sắt dẫn tới cải tiến hơn nữa công cụ, nhiều phát