Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Die Krise but not La Crise? The Financial Crisis and the Transformation of German and French Banking Systems

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.53 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CAO HỌC KHÓA 22 – LỚP NGÀY 4

MÔN HỌC: TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

“Die Krise but not La Crise? The Financial Crisis and the
Transformation of German and French Banking Systems”

Nhóm thực hiện – Nhóm 5:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Hà Huy Hoàng
Nguyễn Công Tiến
Chương Minh Luân
Nông Đức Đạt
Phan Nguyễn Kim Ngân
Lâm Thúy Nhi
Võ Trung Nhân

Giảng viên hướng dẫn:
TS. Phạm Quốc Hùng

UEH, ngày 10 tháng 11 năm 2012



MỤC LỤC
Phần A: Bài Nghiên Cứu
Tổng Quan
Giới Thiệu
I.Hệ Thống Ngân Hàng Đầu Những Năm 2000
II.Tài Chính Hóa Và Khủng Hoảng Tín Dụng
III.Phản ứng Của Chính Phủ
IV.Kết Luận
Phần B: Mở Rộng Bài Nghiên Cứu
B1.Bài Học Rút Ra Cho Chính Sách Khu Vực Châu Âu
B2.Tái Cấu Trúc Hệ Thống Ngân Hàng Việt Nam – Những Vấn Đề Đặt Ra Và Giải Pháp


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DN: Doanh Nghiệp
NH: Ngân Hàng
NHTM: Ngân Hàng Thương Mại
NHTMNN: Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước
NHTMCP: Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
NHNN: Ngân Hàng Nhà Nước
NHVN: Ngân Hàng Việt Nam
HTTC: Hệ Thống Tài Chính
HTNH: Hệ Thống Ngân Hàng
HTNHVN: Hệ Thống Ngân Hàng Việt Nam
HTNHTM: Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại
TTTC: Thị Trường Tài Chính
TCTD: Tổ Chức Tín Dụng
VN: Việt Nam




TÓM TẮT
Bài luận nghiên cứu khủng hoảng tài chính tác động đến những thay đổi trong hệ thống ngân hàng
Đức và Pháp, hai hệ thống ngân hàng lớn nhất tại Châu Âu. Chúng ta sẽ đi làm nổi bật quá trình
“Financialiation” - được định nghĩa là sự gia tăng trong các rủi ro giao dịch. Chúng tôi tập trung vào việc làm
sáng tỏ mâu thuẫn: “ Tại sao hệ thống ngân hàng bảo thủ và bảo hộ ở Đức lại phải chịu sự thiệt hại nặng hơn
so với hệ thống ngân hàng tự do ở Pháp. Bài nghiên cứu này cũng xem xét phản ứng của những ngân hàng và
chính phủ ở Đức và Pháp đối với khủng hoảng và đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế “Financialization”
và sự đổ vỡ trong hệ thống ngân hàng trong nước.

GIỚI THIỆU
Những thiệt hại trong các công cụ tài chính phức tạp khiến cho một số ngân hàng lớn của Đức bị yếu
đi và kéo theo nguy cơ đổ vỡ. Những thiệt hại của các ngân hàng Pháp ít hơn nhưng vẫn rất đáng kể. Cụ thể
vào tháng 8/2008, 12 Ngân hàng Đức và 6 Ngân hàng Pháp đã ghi bút toán giảm hơn 1 tỷ USD, Tổng cộng
những Ngân hàng ở Đức giảm giá trị 55,9 tỷ USD, những Ngân hàng ở Pháp giảm 23,3 tỷ USD
(Bloomberg) . Số liệu từ IMF cho thấy sự bút toán giảm tại Đức gấp 3 lần so với tại Pháp ( 9% của Đức so
với 3% tại Pháp). Tại 2 quốc gia trên, những ngân hàng được biết đến với mảng dịch vụ bán lẻ và cho vay
thương mại, đáng kể nhất là Land được sở hữu bởi chính phủ Đức Landesbanken (LB) và những ngân hàng
tương hỗ tại Pháp – đã bộc lộ những thiệt hại lớn thông qua những hoạt động chính của mình. Bài nghiên cứu
này cho thấy cuộc khủng hoảng ngân hàng dẫn đến sự thay đổi gì trong hệ thống ngân hàng Đức và Pháp, hai
hệ thống ngân hàng lớn nhất tại Châu Âu. Chúng ta sẽ đi làm nổi bật quá trình “Financialization” - được định
nghĩa là sự gia tăng trong rủi ro giao dịch. Chúng ta tập trung vào việc làm sáng tỏ mâu thuẫn: “ Tại sao hệ
thống ngân hàng bảo thủ và bảo hộ của Đức lại phải chịu sự thiệt hại nặng hơn so với hệ thống ngân hàng tự
do của Pháp. Bài nghiên cứu này cũng xem xét phản ứng của những ngân hàng và chính phủ hai nước Đức
và Pháp đối với khủng hoảng và việc đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế “Financialization” và sự đổ vỡ
trong hệ thống ngân hàng.
Tài chính hóa - được định nghĩa là sự gia tăng trong các giao dịch thể hiện sự rủi ro. Nó được định
nghĩa bằng các cách thức khác nhau ( see Epstein, 2005; Krippner, 2005). Cách định nghĩa ở đây giống như
của Aglietta and Breton (2001, p. 437). Họ cũng liên kết sự thay đổi từ một ngân hàng làm cơ sở đến hệ
thống thị trường tài chính, đến sự tự do hóa tài chính và cải thiện tài chính được liên kết với công nghệ tiên

tiến. Họ cũng nhận ra cách thức mà những ngân hàng thêm vào danh mục thị trường mới đến danh mục tín
dụng truyền thống. (Aglietta and Breton, 2001, p. 441). Tầm quan trọng của “thị trường” tăng lên có liên
quan đến danh mục tín dụng, và có quan hệ mật thiết đến hoạt động của những ngân hàng đầu tư tại Đức và
Pháp, đây là phần quan trọng trong việc phân tích của chúng ta. Tài chính hóa thực tế bao hàm luôn cả quốc
tế hóa. Chúng ta hiểu tài chính hóa của hệ thống ngân hàng ở đây trong giới hạn hoạt động của nó, từ dịch vụ


bán lẻ quốc tế ( liên quan không nhiều đến rủi ro), đến giao dịch tài chính phái sinh, và việc đầu tư chứng
khoán phức tạp.
Hệ thống tài chính của Đức và Pháp bao hàm việc tăng lên số lượng tổ chức tài chính phi ngân hàng,
nhưng ngân hàng vẫn chiếm phần lớn. Khoản tiền gửi tại Đức chiếm 78,3% tài sản vào tháng 12/2002, chỉ
một sự giảm xuống năm 1980, và cổ phần đảm bảo đến năm 2007. Tại Pháp điều này làm cho suy giảm có ý
nghĩa hơn so với các thập kỷ trước. Nhưng trong tháng 12/2003 tổ chức tín dụng chiếm 64%. Con số này đã
tăng lên 70% vào năn 2007. Tài chính hóa tại những ngân hàng Đức và Pháp, thay vì tăng hoạt động của các
yếu tố trên thị trường tài chính, sự thay đổi tại hệ thống tài chính của 2 Quốc gia qua 2 thập niên trước, đặc
biệt chúng ta sẽ thảo luận ở phần dưới, những năm trước khi khủng hoảng xảy ra.
Chúng ta làm nổi bật tất cả các ngân hàng tại Đức và Pháp, tầm quan trong được tăng lên qua 2 khía
cạnh đó là quốc tế hóa và hoạt động giao dịch trong những năm 2000. Ý nghĩa của sự thay đổi này trong hệ
thống ngân hàng tại Đức và Pháp trong bản chất của hoạt động ngân hàng, do đó sẽ mang lại lợi ích cho
tương lai.
Cuộc tranh luận về những thực tại, bản chất, yếu tố quyết định và nhịp độ của sự thay đổi trong ngân
hàng Đức thì lâu dài (Theo Deeg, 1999; Krahnen and Schmidt, 2004). Công việc của chúng ta trong cuộc
tranh luận này rất tỉ mỉ theo Hackethal (2004) trong việc xem xét sự thay đổi trong hoạt động của những
ngân hàng, qua việc đánh giá bản cân đối kế toán của Ngân hàng. Chúng ta so sánh giữa các ngân hàng Đức
và Pháp, để thấy được những sự thay đổi lúc trước thì rất ít.
Những sự thay đổi trong hệ thống ngân hàng có sự liên hệ mật thiết đến mô hình của CN Tư Bản của
Đức và Pháp. Đặc biệt với hệ thống tại Đức, ở đó những ngân hàng được cung cấp vốn là chủ yếu. Đặc biệt
những hoạt động của ngân hàng có cuộc khủng hoảng tín dụng, ở đó doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong
vấn đề tiếp cận vốn vay, chứng tỏ tầm quan trọng trong sự phát triển gần đây của chủ nghĩa tư bản tài chính,
đó là tập trung phần lớn vốn vào những tập đoàn nhà nước. Trong khi đó sự mở rộng của những sự thay đổi

này thì nó vượt quá phạm vi nghiên cứu của bài báo này, chúng tôi sẽ thảo luận tóm tắt này trong phần tổng
kết.

I.HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRƯỚC 2000
Mặc dù cả hai hệ thống Ngân hàng Đức và Pháp đã trải qua quá trình tài chính hóa từ những năm
1980 và 1990, nhưng quá trình này vẫn tiếp tục tăng một cách nhanh chóng từ năm 2002 đến 2007. Mô hình
truyền thống tại Đức được miêu tả là một trong ba trụ cột của hệ thố ng ngân hàng (Zysman, 1983; Deeg,
1999) với những ngân hàng tư nhân lớn, và những ngân hàng khu vực công (Sparkassen and regional LB).


Có 3 yếu tố chính: Cấu trúc tài chính, tình trạng pháp lý, chính phủ. Có một thời gian dài có sự can thiệp của
chính phủ về vấn đề cho vay và quyền sở hữu khu vực công vượt xa so với những nền kinh tế khác.(IMF,
2003). Trong những năm 1990 có 40 ngân hàng thương mại bán lẻ hoạt động tại đức thuộc sở hữu nhà nước,
đặc biệt là ngân hàng Mittelstand, tổ chức kinh doanh có quy mô vừa và nhỏ tại đức. Ở khu vực thương mại
được chi phối bởi 3 ngân hàng lớn: Deutsche, Dresdner and Commerzbank. Deeg (1999) and Krahnen and
Schmidt (2004) nhấn mạnh sự tiếp tục tập trung vào mảng nội địa của những ngân hàng khu vực công. Tuy
nhiên thị trường nội địa bị hạn chế sự về cạnh tranh và lợi nhuận. Do đó cả những ngân hàng tư nhân và
Ngân hàng khu vực công mở rộng đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm lợi nhuận.
Trước đây, những ngân hàng lớn của Pháp thuộc sở hữu của chính phủ, thì đều đã được tư nhân
hóa từ năm 1987 đến năm 2002, vơi sự gia tăng nhanh chóng những năm 2002. Hệ thống các ngân hàng
thương mại này được chi phối bởi 2 ngân hàng thương mại lớn BNP Paribas and Société Générale và 4 ngân
hàng Crédit Agricole, Banque Populaire, Caisse d’Epargne and Crédit Mutuel. Những ngân hàng tương hỗ
(Hỗ tương) hầu hết được chi phối bởi những người gởi tiền, ít nhất là về nguyên tắc, hoạt động vì lợi ích của
họ. Thay vì những ngân hàng thương mại lớn như BNP Paribas and Société Générale thì được sở hữu bởi các
cổ đông tư nhân. Các ngân hàng có thể lựa chọn để trở thành những ngân hàng hoạt động trên lĩnh vực bán
lẻ, hợp tác và đầu tư. Vào khoảng giữa năm 1980 những quy định được cân đối qua kiểu ngân hàng, sự
chuyên môn về tín dụng, hạn chế việc loại bỏ sự cạnh tranh. Những mối quan hệ của những ngân hàng tại
Pháp với các công ty phi tài chính có khoảng cách ngày càng xa ( Bertero, 1994; O’Sullivan, 2007) không
giống như với các ngân hàng tại Đức, để Pháp chuyển từ một mạng lưới tài chính đến thị trường tài chính
hình thức của Chủ Nghĩa Tư Bản ( Morin, 1998, 2000). Tầm quan trọng của tài chính ngân hàng tạ i Pháp đã

giảm rõ rệt, và những ngân hàng lớn tại Pháp đã được bù đắp bằng sự phát triển của những ngân hàng đầu tư,
như tại Đức. Tuy nhiên điểm mạnh của ngân hàng tại Pháp đó là ngân hàng bán lẻ nội địa, và sự sụt giảm lợi
nhuận cũng dẫn đến xu hướng mở rộng dịch vụ bán lẻ ra nước ngoài. Điều này dẫn đến sự quốc tế hóa, và
điều ngược với các ngân hàng tại Đức. Sự quốc tế hóa của chúng hầu hết là sự hợp tác của ngân hàng đầu tư
và cho vay. Sự trái ngược này có ý nghĩa quan trong dẫn đến những sự tác động khác nhau giữa 2 quốc gia,
và là một phần quan trọng trong lịch sử của hệ thống ngân hàng Đức.
Hệ thống ngân hàng Pháp là một trong những hệ thống tập trung nhất tại Châu Âu, còn tại Đức nằm
trong số hệ thống ngân hàng ít tập trung nhất. Vào cuối năm 1990 thì 4 ngân hàng tại Pháp được xếp vào Top
15 ngân hàng có quy mô tài sản lớn, nhưng tại Đức chỉ có 1: Deutchebank. Những số liệu gần đây đã chỉ ra
rằng 5 ngân hàng lớn nhất tại Pháp chiếm 52,3%/Tổng tài sản, so với 22% tại Đức, 26% ở Ý, 36% ở Anh,
40% ở Tây Ban Nha.(ECB 2006).


Hệ thống ngân hàng tại Đức thì có nhiều sự bảo hộ và hạn chế sự cạnh tranh hơn tại Pháp. Từ năm
2005, sự bảo hộ để chống lại sự phá sản cho phép LB (Ngân hàng địa phương) cho vay với lãi suất rẻ hơn so
với đối thủ kinh doanh. Hơn nữa LB và Sparkassen không có sự cạnh tranh với nhau, mỗi tổ chức chiếm lĩnh
một khu vực riêng. Chính phủ Đức, hiệp hội ngân hàng Đức, Ủy ban châu âu, Ngân hàng trung ương Đức hỗ
trợ nhằm loại bỏ 3 trụ cột lớn trong hệ thống tại Đức, nhưng sự thay đổi này gặp phải sự kháng cự lớn từ
Chính quyền địa phương. Với một khung pháp lý đơn giản, và cạnh tranh công bằng, hệ thống ngân hàng
Pháp tương đối mở. Tuy nhiên những quy định và thuế suất của một số sản phẩm tiết kiệm được sự ưu đãi
(Candida, 2000).
Việc cung cấp dịch vụ ngân hàng bán lẻ Pháp cũng khiến việc thâm nhập của những ngân hàng nước
ngoài gặp khó khăn. Việc thâm nhập nước ngoài vào thị trường ngân hàng tại Đức và Pháp thấp nhất tại Châu
Âu. Tại Pháp vào cuối năm 2003 những ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm 12% tài sản ngân hàng (IMF, 2004,
p. 103), với mức tương tự tại Đức. Quyền sở hữu cổ phần tại các ngân hàng thương mại Pháp và Đức thể hiện
những bức tranh khác nhau. Bởi vì sở hữu chéo và đặc biệt trong trường hợp của Pháp, đã cảm nhận được sự
ác cảm của chính phủ đến sự sở hữu nước ngoài, trong khoảng những năm 1990, cả 2 hệ thống ngân hàng
Pháp và Đức đã tăng sự sở hữu nước ngoài mặc dù các cổ đông trong nước đã duy trì để ngăn chặn sự gia
tăng sơ hữu nước ngoài. Vào năm 2002 các cổ đông nước ngoài đã sở hữu 67% cổ phần của ngân hàng BNP
Paribas và 50,8% Société Générale Developments, tại Đức tương tự sở hữu nước ngoài tại Deutsche Bank là

46% trong năm 2002, và của Commerzbank là 35%. Dresdner được mua lại bởi hãng bảo hiểm khổng lồ
Allianz, 32 % vốn được sở hữu bởi nước ngoài. Những ngân hàng công tại Đức và ngân hàng tương hỗ tại
Pháp hầu như không tăng vốn, nhưng Crédit Agricole – Một trong những ngân hàng bán lẻ lớn nhất tại Châu
Âu đã mở rộng vốn đến cổ đông tư nhân, như là LB Berlin and HSH Nordbank tại Đức. Sự phát triển vào
cuối năm 1980 giải thích sơ bộ về một sự thay đổi trong lĩnh vực ngân hàng tại Đức và Pháp. Vì những ngân
hàng trước đây thường tập trung vào sự bảo thủ, chống lại rủi ro, tìm kiếm đến những hoạt động của những
ngân hàng đầu tư và tăng lợi nhuận. Ngân hàng Đức đầu tiên đã tham gia vào ngân hàng đầu tư ở London
Deutsche Bank đã mua Morgan Grenfell của London vào năm 1989. Sau đó ngân hàng công Westdeutsche
LB đã mua West Merchant Bank Ltd, một công ty tư vấn tại London về tư nhân hóa và sáp nhập. Trong năm
1999 Deutsche Bank đã được xếp hạng đầu, Dresdner xếp thứ 2, Commerzbank xếp thứ 4 trong số những
ngân hàng trong liên minh châu âu EU. Có những điều khoản một phần trong vốn cổ phần được phân bổ đến
nhà bán buôn, và ngân hàng đầu tư (Hackethal, 2004, p. 77). Trong năm 1987 Société Générale đã tiến hành
giao dịch các công cụ phái sinh trong vòng 2 tháng, đâu tiền được nhà nước sở hữu sau đó chuyển qua tư
nhân hóa. Những ngân hàng tương hỗ tại Pháp tham gia vào ngân hàng đầu tư tương đối trễ, với việc Banque
Populaire tiếp quản Natexis vào năm 1999, gây ra những thay đổi trong lĩnh vực ngân hàng đầu tư, và trong


năm 2006 cuộc sáp nhập của nó với Caisse d’Epargne’s IXIS một trong những ngân hàng đầu tư lớn nhất ở
Pháp. Trong năm 2004 Crédit Agricole đã thiết lập ngân hàng hợp tác và đầu tư chi nhánh Calyon.
Hai điểm quan trọng từ sự phát triển này. Đầu tiên là những ngân hàng đầu tư đã được phát triển và
mở rộng bởi cả những ngân hàng trên với sự tăng lên những cổ đông cá nhân, và có thể không phải những
ngân hàng đó, vào giữa những năm 2000 những ngân hàng tương hỗ tại Pháp hoạt động không có sự phân
biệt với những ngân hàng thương mại. LB tại Đức, với những cổ đông chính phủ lớn, đã được quan tâm để
gia tăng lợi nhuận, LB có lẽ là một tổ chức việc không hoàn toàn có thể tối đa hóa lợi nhuận, nhưng điều này
không có ý nghĩa quan trọng đến hành vi của họ trong vấn đề này. Thứ 2, Bản chất của những tổ chức mà gọi
là ngân hàng đầu tư thì thay đổi qua thời gian. Sự thúc đẩy ban đầu về việc mở rộng ra những ngân hàng đầu
tư nước ngoài, cỏ thể thu được những kỹ năng để hỗ trợ về phục vụ khách hàng nội địa. Những công ty nước
ngoài đã thu được phần lớn các phí tư vấn, kinh doanh không độc quyền, nó sẽ được thảo luận một cách chi
tiết hơn phần dưới, giao dịch độc quyền bị chi phối ngày càng tăng bởi ngân hàng đầu tư.


II. TÀI CHÍNH HÓA VÀ CÁC CUỘC KHỦNG HOẢNG TÍN DỤNG
Dưới đây chúng tôi phân tích các báo cáo và các tài khoản của các ngân hàng chính ở Pháp và Đức.
Đầu tiên chúng ta xem xét sự thay đổi trong các hoạt động của ngân hàng từ năm 2002 đến 2007. Chúng tôi
đưa ra những thay đổi quan trọng trong những hoạt động giao dịch nói chung cũng như những giao dịch trên
thị trường phái sinh nói riêng. Thứ hai, chúng tôi tập trung vào những thua lỗ của các ngân hàng bởi các cuộc
khủng hoảng. Chúng tôi tập trung vào giai đoạn khi mà các hoạt động của ngân hàng vẫn còn minh bạch thể
hiện trên phân tích bảng cân đối kế toán của các ngân hàng. Những thua lỗ do khủng hoảng cho thấy các hoạt
động phái sinh này không được thể hiện trên bảng cân đối kế toán. Mặc dù những phần đầu tư phái sinh này
không nhất thiết phải được che giấu (LB Baden-Württemberg, for example, discusses its Structured
Investment Vehicles [SIVs; see Deutsche Bundesbank, 2007, p. 24] in its 2004 accounts), tuy nhiên nhưng
hiện nay các chi tiết lớn hơn của các hoạt động này đã đựơc làm sáng tỏ.
Từ những dữ liệu có được, chúng tôi đã rút ra được ba kết luận. Thứ nhất, các hoạt động giao dịch đã
gia tăng đáng kể, đặc biệt tại các ngân hàng ở Đức cũng như ở Pháp. Trong đó, số lượng giao dịch phái sinh
tăng rất mạnh, điển hình là tại Đức. Các giao dịch phái sinh được sử dụng để giảm thiểu rủi ro cả cho những
khoản tín dụng (ví dụ, Krahnen và Schmidt, 2004, p.510) và trong những lệch kỳ hạn lãi suất (Memmel and
Schertler, 2009), nhưng hầu hết tại các ngân hàng khối lượng sản phẩm phái sinh được giao dịch một cách ồ
ạt vượt quá các mục đích phòng ngừa rủi ro. Hầu hết các ngân hàng đều xem các giao dịch phái sinh như
mục đích giao dịch chính. Thứ hai, tuy vậy, không có sự liên quan nào giữa việc sử dụng sản phẩm phái sinh
và những tác động của những khoản lỗ đã được thông báo. Một trong những nạn nhân lớn nhất của cuộc


khủng hoảng, Bayerische LB, Industrie Kreditbank (IKB) va LB Sachsen, không phải là những ngân hàng
giao dịch sản phẩm phái sinh với số lượng rất lớn, tuy nhiên họ tham gia vào những hoạt động không có lợi
nhuận khổng lồ nhưng lại được xem là an toàn, đáng chú ý là việc đầu từ vào AAA và những chứng chỉ có
giá liên quan đến ABCP và SIVs. Thứ ba, các ngân hàng Pháp đã tham gia trong nhiều hoạt động tương tự
như các ngân hàng của Đức và gánh chịu đáng kể những tổn thất (nhưng nhỏ hơn). Trong khi những ngân
hàng chịu ít tổn thất hơn có lẽ được xem như là “những nhà giao dịch khôn ngoan hơn”, thực sự sự khác biệt
chính nằm ở một trong những mức độ chứ không phải là việc thực hành nhiều hơn. Rõ ràng nhất là, những
ngân hàng Pháp là những nhà đầu tư nhỏ hơn rất nhiều vào các tài sản mà sau này trở nên độc hại, và ít tham
gia vào việc thiết lập những công cụ ngoài bảng cân đối. Ngoài ra, một bộ phận lớn các ngân hàng bán lẻ

trong số các ngân hàng ở Pháp đã làm giảm bớt tác động tổng thể của cuộc khủng hoảng tài chính.

1.Sự thay đổi trong hoạt động của ngân hàng trước cuộc khủng hoảng: những hoạt động giao dịch
Các báo cáo của ngân hàng không chỉ đưa ra chỉ một cách để theo dõi sự gia tăng của những hoạt
động giao dịch, nhưng tất cả các cuối cùng đều chỉ cùng một hướng. Các dữ liệu có sẵn bao gồm cả phần
trăm tổng tài sản dưới dạng tài sản giao dịch, hay một cách hẹp hơn, là tỷ lệ chứng khoán được dùng cho
“mục đích giao dịch”. Bảng 1 tóm tắt lại các dữ liệu của các ngân hàng tại Pháp vá Đức.
Đối với German LB, những con số cho thấy mức độ tập trung tăng cao trong giao dịch, mặc dù không
có sự nhất quán trên toàn bộ LB. Khối lượng sản phẩm phái sinh trung bình ở German NordLB cũng tăng từ
3.5 lần tài sản vào năm 2002 lên 4.3 lần trong năm 2006 và 2007. Như dự kiến, tầm quan trọng của việc giao
dịch nói chung cũng như phái sinh nói riêng đối với Deutsche và Dresdner cao hơn những ngân hàng Đức
khác, tài sản giao dịch của Commerzbank lại thấp hơn rất nhiều so với những con số của LB; như là một dấu
hiệu cho thấy nhiều thay đổi hoạt động LB cũng như những cảnh báo tương đối của Commerzbank. Mặc dù
Deutsche và Dresdner đã gia tăng những giao dịch phái sinh nhưng lại không đại diện cho khối ngân hàng tư
nhân và không đáng kể nhưng bản chất của các ngân hàng đầu tư như Deutsche và Dresdner tập trung hơn rất
nhiều trong việc tự doanh (đầu tư vào phái sinh) hơn là vào việc cung cấp nhiều dịch vụ cho khách hàng. Các
số liệu cho LB là rất lớn. Cả Hackethal (2004) và IMF (2009a,p.18) đều lưu ý tầm quan trọng của chi phí bán
buôn cho các LB. Tuy nhiên, việc kiểm tra phía bên tài sản của bảng cân đối cũng cho thấy một lỗ hổng gia
tăng đối với biến động của thị trường. Lúc bấy giờ ngân hàng tại Đức thường được xem như đang tiến dần
đến mô hình Anglo-Saxon. Những dữ liệu cho thấy rằng trong những năm gần đến khủng hoảng, sự thay đổi
đã diễn ra từng bước một. Trong giai đoạn đó, đây là một chiến lược thành công. Kết quả kinh doanh điều
chỉnh rủi ro lớn nhất các ngân hàng được xem là cải thiện từ năm 2005 cho đến giữa năm 2007. Tuy nhiên,
sau đó, những thua lỗ nặng nề đã diễn ra (Deutsche Bundesbank, 2007, p. 67).


Ngân hàng Pháp nhìn chung không tham gia quá nhiều vào các giao dịch so với tổng tài sản mà chủ
yếu tham gia các hoạt động bán lẻ; cũng giống như tại Đức cũng không ghi nhận được sự gia tăng trong hoạt
động giao dịch. Chỉ có một trường hợp đặc biệt là BNP Paribas nhưng hoạt động của sản phẩm phái sinh của
nó so với tổng tài sản trong năm 2007 cũng thấp hơn so với 2003 và số lượng giao dịch phái sinh trong năm
2007 chỉ chiếm 60% trong tổng lượng giao dịch của Deutsche Bank. Tuy nhiên, ở những nơi khác thì không

như vậy. Société Générale (nơi chịu thua lỗ khá lớn trong giao dịch phái sinh) có tổng lượng tài sản giao dịch
thấp hơn, và những hoạt động phái sinh so với tổng tài sản thì gần Commerzbank hơn và ít hơn 1/3 của
Deutsche. Crédit Agricole được so sánh với cả WestLB và DZ Bank. Vấn đề ở Natixis thì nghiêm trọng,
nhưng tài sản được giao dịch ở Caisse d’Epargne thì thấp (mặc dù những hoạt động phái sinh thì cao hơn hầu
hết LB). Crédit Mutuel có rất ít tài sản giao dịch, và hoạt động phái sinh giảm mạnh trước cuộc khủng hoảng.
Trong khi những ngân hàng tương hỗ Pháp đã trở thành những ngân hàng toàn cầu, họ vẫn đòi hỏi phải hoạt
động chính phải bắt nguồn từ bán lẻ và hoạt động ngân hàng thương mại hơn là những ngân hàng thương mại
Pháp hay LB.
Tuy nhiên, các ngân hàng Pháp đóng vai trò hàng đầu trong những giao dịch phái sinh nhất định. Họ
đã trải qua khoảng 2 thập kỷ nắm giữ khoảng ¼ các giao dịch phái sinh toàn cầu (Fédération Bancaire de
France, 2007). Trong nhiều năm liền, Société Générale đã đạt được những lợi nhuận rất lớn từ những giao
dịch phái sinh so với những ngân hàng toàn cầu khác. Khi sự việc nhận tài sản thế chấp từ những khoảng tín
dụng hoán đổi bởi AIG (được chính phủ Mỹ hỗ trợ) đựơc tiết lộ, Société Générale đứng đầu danh sách, nhận
11 triệu $, chiếm 22% tổng số. Calyon, công ty con của Crédit Agricole, nhận hơn 2.3 triệu $. Những ngân
hàng tên tuổi ở Đức nhận 7.7 triệu $. Tuy nhiên, so với độ lớn của các ngân hàng Pháp, số lượng giao dịch
phái sinh ở Đức thì thấp hơn. Không giống như ngân hàng Đức, lượng giao dịch phái sinh trung bình ở Pháp
có vẻ như tăng lên từ năm 2002 đến năm 2007 (mặc dù số liệu chưa được kiểm chứng). đây là một giao đoạn
mở rộng rất nhanh của BNP Paribas và Société Générale, nhưng sự mở rộng các hoạt động giao dịch phái
sinh ít nhất cũng bằng so với trong hoạt động ngân hàng bán lẻ quốc tế.
Table 1: Increased Bank Trading Activity
Commerzbank

Trading assets peaked at 24.0 per cent in 2004 and fell thereafter.
Notional derivatives volume* 10.9 times total assets in 2007 (9.6 times in 2003).

Deutsche

Trading assets 45.9 per cent of total assets in 2006 (30.9 per cent in 2000).

Dresdner


Notional derivatives volume 24.5 times total assets in 2007 (35.4 times in 2006,19.3 times in 2002).
Trading assets 32.0 per cent of total assets in 2007 (21.4 percent in 2000).
Notional derivatives volume 13.4 times total assets in 2007 (7.7 times in2002).

Bayerische LB

93.7 per cent of derivatives activity for trading purposes in 2007 (76.4 percent in 2003).
Notional derivatives volume 3.3 times total assets in 2007(3.3 times in 2002).

Helaba

Notional derivatives volume 3.4 times total assets in 2007 (3.1 times in 2003).

HSH Nordbank

Proportion of securities held for trading purposes 55.7 per cent in 2006 (11.0 percent in 2002).
Trading assets 13.4 per cent of total assets in 2006.
Notional derivatives volume 3.7 times total assets in 2007 (1.5 times in2002).

LBBW

Proportion of securities held for trading purposes 30.9 per cent in 2006 (12.5 percent in 2002).


Notional derivatives volume 4.4 times total assets in 2007 (2.1 times in 2002).
LB Sachsen

Proportion of securities held for trading purposes 15.3 per cent in 2007, more than triple 2003 figure.
Notional derivatives volume 0.7 times total assets in 2007(1.1 times in 2003).

Derivatives mostly to hedge.

NordLB

Notional derivatives volume 1.7 times total assets in 2007 (1.7 times in 2002).

WestLB

Proportion of securities held for trading purposes 41.7 per cent in 2006 (28.4 per cent in 2000).
Trading assets 32.5 percent of total assets in 2007.
Securities held for trading purposes peaked in 2002 at 51.3 per cent.

DZ Bank

Notional derivatives volume 9.0 times total assets in 2007 (8.5 times in 2002). Peak 10.3 times in 2005.
Proportion of securities held for trading purposes 58.0 per cent in 2007 (21.2 percent in 2002).
Trading assets 30.1 per cent of total assets in 2007.
Notional derivatives volume 3.2 times total assets in 2008 (2.0 times in 2002).

Hypo Real Estate

Notional derivatives volume 2.8 times total assets in 2007 (1.6 times in 2003).

IKB

Notional derivatives volume 1.0 times total assets in 2007 (0.8 times in 2004).

BNP Paribas

Trading assets 51.8 per cent of total assets in 2007 (14.2 per cent in 2002).

Notional derivatives volume 17.4 times total assets in 2007 (23.4 times in 2003).

Société Générale

Trading assets peaked at 31.9 per cent of total assets in 2006 (more than double 2002).
Fall to 28.6 per cent in 2007.
Notional derivatives volume 15.0 times total assets in 2007 (10.4 times in 2002).

Crédit Agricole

Trading assets 30.2 per cent of total assets in 2007.
Notional derivatives volume 11.1 times total assets in 2007 (7.8 times in 2002).

Caisse d’Epargne

Trading assets 10.5 per cent of total assets in 2007.
Notional derivatives volume 5.3 times total assets in 2007.

Crédit Mutuel

Trading assets 13.8 per cent of total assets in 2008 (3.1 times total assets in 2007).
Notional derivatives volume 1.5 times total assets in 2007 (3.6 times in 2004).

Source: Bank annual reports.
Note: * Notional volumes indicate only the absolute volume of derivative transactions
undertaken. They do not represent risk taken. The positive value of derivative contracts
appears in the bank’s assets, and, where they have been entered into for trading purposes, this
positive value will be included in trading assets (see Banking Commission, 2007, p. 56).

2.Sự quốc tế hóa

Sự quốc tế hóa tại ngân hàng Đức cũng giải thích cho sự thay đổi nhanh chóng trong những năm gần
đây. Bản chất của sự quốc tế hóa một phần bị che khuất bởi sự trình bày trên các báo cáo tài chính, đặc biệt là
khi các báo cáo này không tách Đức ra khỏi phần còn lại của Tây Âu. Chúng ta tập trung vào rủi ro tín dụng
(bao hàm trong các báo cáo rủi ro trên các báo cáo thường niên) hơn là tập trung vào thu nhập,bởi vì thu nhập
được phân loại bởi các thực thể địa lý mà rủi ro thực sự được ghi nhận. Rủi ro dưới chuẩn tại Mỹ của LB
Sachsen phần lớn được phát sinh bởi một công ty con của Dublin.
Dữ liệu có sẵn hỗ trợ cho 2 quan sát. Thứ nhất, sự quốc tế hóa trên mục tài sản của bảng cân đối ngày
càng quan trọng và đang tăng nhanh trong những năm gần đây. Thứ hai, mặc dù hội nhập tài chính ở Châu
Âu được dự báo sẽ làm gia tăng mức độ bao phủ ở ngoài khu vực Châu Âu, nhưng tăng trửơng cho vay ở khu
vực Euro lại cao hơn so với ngoài khu vực Euro, đặc biệt là ở Bắc Mỹ. Các dữ liệu có sẵn được thể hiện ở
Bảng 2.


Table 2: Bank Internationalization
Commerzbank

25.3 per cent of international exposure outside Europe in 2004 (with Turkey included in Europe).
Later figures not available.

Deutsche

Exposure outside western Europe from 25.8 per cent of total in 2000 to44.7 per cent in 2007.

Dresdner

18 per cent loan portfolio outside Europe in 2004. Later figures notavailable.

Bayerische LB

International exposure 50.4 per cent of total in 2007 (exposure outside Europe 34.9 per cent of international).


Helaba

International exposure 52.2 per cent of total in 2007.

HSH Nordbank

Country exposure outside western Europe from 32.7 per cent in 2002 to 41.0 per cent in 2007.

LBBW

Exposure outside Europe 29.9 per cent of total in 2006, before falling significantly.

LB Berlin

Credit risk outside Germany 41.2 per cent of total in 2006, up from 31.7 per cent in 2002.

LB Sachsen

2004-07 on balance sheet credit exposure to its ‘home’ Land of Saxony never exceeded 16.9 per cent of total exposure.

NordLB

Exposure outside western Europe 15.0 per cent of total in 2007 (8.7 percent in 2003).

WestLB

In 2007 71.3 per cent of exposure outside Germany, 20.3 per cent to ‘industrialized America’.

DZ Bank


In 2007 exposure outside Germany 40.2 per cent of total.

Hypo Real Estate

In 2007, country risk outside Germany 76.9 per cent of total. In 2003, 38 per cent of loan portfolio outside Germany.

IKB

In 2005 exposure outside Germany 67 per cent of total.

BNP Paribas

57.2 per cent of assets in France in 2007, 20.9 per cent outside Europe.

Société Générale

Commitments in France 50 per cent of total in 2007 (65 per cent in 2003). Exposure outside Europe from 10 per cent in 2003 to 19
percent of total in 2007.

Crédit Agricole

In 2007, 48 per cent of commercial lending exposure in France, 24 per cent outside western Europe. In 2002, 84.8 per cent in
France, and 10.1 per cent outside EU.

Banque Populaire

83.6 per cent of assets in France in 2007.

Caisse d’Epargne


Over 90 per cent of customer risks in France in 2007.

Crédit Mutuel

95 per cent of customer risks in France in 2007.

Source: Bank annual reports.

Trong số các ngân hàng tư nhân lớn, các giới hạn dữ liệu đã gây cản trở cho một sự so sánh đầy đủ.
Commerzbank và Dresdner tập trung vào các hoạt động của họ nhiều hơn tại Châu Âu, nhưng Deutsche có
gần một nửa bảo phủ bên ngoài Tây Âu thể hiện ở sự bảo phủ tại Đức phải ít hơn 50% bao phủ trên toàn thế
giới.
Trường hợp của Société Generale cũng tương tự, nhưng hơn 50% tài sản của BNP Paribas vẫn còn ở
Pháp. Sự quốc tế hóa của các ngân hàng Pháp đã bao hàm sự mở rộng trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ, đặc
biệt là ở Ý, trong các trường hợp này là Credit Agricole và Societe Generale. BNP Paribas với 6000 chi
nhánh bên ngoài nước Pháp cũng sở hữu BNL – ngân hàng lớn thứ 6 tại Ý and BancWest – một ngân hàng
bán lẻ ở Mỹ. Credit Agricole đã coi Hy Lạp và Ý là các thị trường “nội địa” từ khi họ tiếp quản phần lớn thị
trường ngân hàng bán lẻ tại đây năm 2006. Như là kết thúc năm 2008, thị trường ngân hàng bán lẻ quốc tế
của Societe Generale bao gồm 40 thực thể khác nhau với 3700 chi nhánh. Hoạt động ngân hàng bán lẻ ở
Pháp đặc biệt là hoạt động ngân hàng quốc tế tiếp tục sự tăng trưởng nhanh chóng của họ trong suốt giai
đoạn khủng hoảng (IMF 2009b p.11). Theo hướng ngược lại, sự mở rông quốc tế ở các ngân hàng Đức lại tập
trung vào lĩnh vực ngân hàng đầu tư (mặc dù Commerzbank cũng tham gia vào lĩnh vực ngân hàng bán lẻ ở
Trung và Đông Âu). Sự tập trung ngày càng nhiều hơn của các ngân hàng Pháp trong hoạt động bán lẻ không
loại trừ các vấn đề trong tương lai, đặc biệt là ở Tây Âu nhưng mức độ tổng thể tài chính hóa
(financialization) trong sự quốc tế hóa này là thấp hơn.


Một lần nữa, những thay đổi mạnh mẽ nhất là ở LB (mặc dù có sự đa dạng hóa đáng kể). Cho vay đối
với their home Land không thể bị biệt lập ngoại trừ LB Sachsen có những bất quy tắc, nhưng các số liệu sẵn

có lại cho thấy quá trình quốc tế hóa tăng trưởng đáng kể. Những điểm nổi bất trong quá trình quốc tế hóa
Deeg (1994) vẫn tiếp tục tăng tốc. Những số liệu này một lần nữa cho thấy rất khó để phù hợp với bối cảnh
của LB như là dành ưu tiên cho các nhu cầu nội địa. Những điều đó cũng khó khăn song song với rất nhiều
các hoạt động được nhấn mạnh ở đây để phù hợp với LB như “các thực thể không hoàn toàn tối đa hóa lợi
nhuận” “not strictly profit maximizing entities” (Hackethal, 2004, p.74). Sự thiếu vắng của áp lực đến từ các
cổ đông là cá nhân không cản trở LB Sachsen 2003 thiết lập một mục tiêu lợi nhuận trên vốn chủ sỡ hữu cao
hơn so với sau khi đã đạt được bởi Ngân hàng Deutsche (Kirchfeld và Simmons 2008). Cũng không có bất
kỳ lý do nào để xem xét các ngân hàng tương hỗ của Pháp như một tổ chức không tối đa hóa lợi nhuận nhưng
các ngân hàng này vẫn áp đảo các tổ chức trong nước.
Phân tích này cho thấy sự bảo thủ của các ngân hàng Đức (hệ thống tài chính dựa trên một ngân hàng
là không còn giá trị nữa). Các ngân hàng Đức ít nhất đã được tài chính hóa hơn so với tài chính hóa tại các
ngân hàng Pháp, do đó tài chính hóa ở Pháp chỉ được coi như là một sự bãi bỏ quy định hơn là hệ thống dựa
trên thị trường. Đòn bẩy cao ở các ngân hàng Đức đã được dẫn chứng bởi những số liệu và khoảng cách giữa
đòn bẩy và các yêu cầu vốn là cao nhờ vào thuận lợi của các tài sản giá trị cao và các vị thế của phái sinh
(IMF, 2009a, p. 14). Đòn bẩy cao tự nó tạo ra các lỗ hỗng trong khủng hoảng hiện tại. Tuy nhiên, những phân
tích trên sẽ đưa điều này đi xa hơn. Các ngân hàng cũng có tham gia nhiều hơn vào các giao dịch phái sinh
chứ không phải chỉ cho vay và các ngân hàng này cũng đóng góp đáng kể vào quá trình quốc tế hóa. Hiện
nay có một xu hướng toàn cầu trong lĩnh vực ngân hàng đầu tư đến kinh doanh đầu cơ, nhưng chính LB có
nghĩa là “the same as everyone else”, các thách thức của chính nó đến với nhận thức truyền thống của nó
Chúng ta đã tập trung nhiều hơn vào các thay đổi trong các hoạt động ngân hàng như được thể hiện
trên bảng cân đối của các ngân hàng. Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính cho thấy nhiều rủi ro nằm ẩn dưới
bảng cân đối hoặc hoàn toàn không hiện diện trên bảng cân đối. Trong khu vực này, sự khác biệt giữa ngân
hàng Pháp và Đức cũng được đánh dấu.

3.Phân tích thua lỗ của các ngân hàng
Gần đây thua lỗ của các ngân hàng ở Châu Âu tạo ra một cơ hội để kiểm tra bản chất của các ngân
hàng. Rõ ràng, cuộc khủng hoảng là một bất ngờ quá lớn, nhưng “các ngân hàng Đức bảo thủ truyền
thống”đó đã thực hiện gần 1/4 bút toán giảm ở Châu Âu lại một cú sốc hơn nữa. Bảng 3 cho thấy thiệt hại
của các ngân hàng Đức và Pháp cho đến cuối tháng 8 năm 2008 và công bố các thiệt hại của các ngân hàng
này ở nhiều khu vực, nguồn từ các báo cáo và các tài khỏan của các ngân hàng. Do đó các nguồn này cho



thấy các ngân hàng nghĩ rằng đã có đủ số liệu để làm nổi bật. Các số liệu này có thể chỉ là một phần, nhưng
rất có khả năng làm nổi bật thua lỗ của các lĩnh vực chính. Rõ ràng, các con số có thể chỉ cho thấy một cái
nhìn sơ bộ. Bị rò rỉ số liệu bởi cơ quan quản lý của Đức, Bafin, gợi ý rằng vẫn có các thiệt hại cao hơn trên
“các tài sản độc hại” và các ngân hàng Pháp vẫn tiếp tục công bố thua lỗ. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng đã
tiết lộ quá nhiều về các hoạt động của ngân hàng, nó cũng có khả năng mang lại những thay đổi đáng kể.
Cuộc khủng hoảng đã không đánh đòn mạnh nhất vào các ngân hàng lớn nhất hay các ngân hàng
phức tạp nhất. Sự ảnh hưởng nặng nề nhất, Hypo Real Estate (HRE), IKB và LB Sachsen (tất cả tổ chức này
đều đã sụp đổ hoàn toàn) đều là tương đối nhỏ và được đo lường bởi các hoạt động của họ trên thị trường
phái sinh, ít tham gia vào việc giao dịch các mặt hàng phức tạp nhất. HRE có thể là một trường hợp điển
hình, bởi vì nhiều vấn đề của nó xuất phát từ sự tài trợ của ngân hàng Depfa, nhưng hai thiệt hai chủ yếu
khác của nó lại đến từ ABCP và SIVs (xem Deutsche Bundesbank, 2007, p. 49; Tett, 2009). Đây là một lĩnh
vực mà các ngân hàng Pháp không có kinh nghiệm phải gánh chịu các thiệt hại đáng kể nhất (mặc dù BNP
Paribas có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực phái sinh). Mặc dù không bao gồm LB Sachsen, thiệt hại trung
bình của LB bao gồm 0.645% tổng tài sản, cao hơn đáng kể so với các ngân hàng tư nhân lớn của Đức hoặc
Pháp (lần lượt là 0.4% và 0.28%). Các dữ liệu đánh dấu phạm vi hoạt động của ngân hàng trên cả 2 quốc gia.
Nhiều nguồn thua lỗ ở các ngân hàng thương mại lớn là hiển nhiên nhưng tiếp tục chứng minh rằng “ngân
hàng đầu tư” ngày càng giao dịch đầu cơ. Điều này là đúng ở các ngân hàng thương mại của Pháp nhưng
thiệt hại của Pháp lại thấp hơn đáng kể. Đôi khi, các ngân hàng Pháp xuất hiện trên đầu cuộc khủng hoảng ở
Châu Âu. 8/2007 BNP Paribas đóng băng ba quỹ đầu tư. 1/2008 Societe Generale đã công bố khoản thua lỗ
lớn nhất trong lịch sử ngân hàng 4.9 tỷ euro thông qua các giao dịch phái sinh giả mạo. Tuy nhiên trong 2008
cả BNP Paribas và Societe Generale đều báo cáo lợi nhuận. Tổng tổn thất ngân hàng của Pháp 8/2008 thấp
hơn nhiều so với tổn thất của Citigroup (55.1 tỷ USD) và UBS (44.2 tỷ USD) (Bloomberg, 2008). Đó là tổn
thất của LB mà đặt dấu hỏi nhiều nhất trên nhiều quan điểm chuẩn, và hơn nữa củng cố cho các đòi hỏi về sự
thay đổi. Tổn thất được tạo ra trong lĩnh vực này rõ ràng cao hơn so với nếu chỉ dựa vào lĩnh vực cho vay.
Một ước tính LB ra khỏi bảng cân đối tổng cộng là 45.3 tỷ USD 10/2006. Phần lớn chúng là từ thị trường vay
thế chấp ở Mỹ. Ngược lại, mặc dù các ngân hàng Pháp chịu tổn thất qua một loạt các hoạt động cộng thêm
vấn đề ở Natixis gây tác động sâu sắc, thiệt hại cho đến khi được báo cáo lại thấp hơn. Điều này là phù hợp
so với các mong đợi từ việc tài chính hóa thấp hơn. Các ngân hàng Pháp (hoặc bất kỳ ngân hàng nào) không

dự báo khủng hoảng là tốt hơn, nhưng rủi ro đã được đa dạng hóa, đặc biệt là sự tham gia nhiều hơn vào lĩnh
vực ngân hàng bán lẻ, làm giảm tác động tổng thể (IMF 2009b). Trong khi đó, các ngân hàng Đức không tập
trung vào cho vay trong nước nhưng thực tế lại cho thấy những chuyển động thị trường của các ngân hàng
Đức này là lớn hơn so với các đối tác Pháp của họ. Thay đổ i trong các hoạt động của họ thậm chí rõ rệt hơn
so với được công nhận.


Table 3: Bank Losses

Commerz
Deutsche
Dresdner
HRE
IKB
DZ
BayLB
Helaba
HSH Nord
LBBWc
LB Sachsen
NordLB
WestLB
BNPP
SocGen
Credit Ag
Credit Mutuel
Caisse d’Ep
Banque Pop

Total Write-down

to 8/08 ($ billion)

Write-down/
Total Assets (end
2007, %)

CDO/MBS

2.2
10.6
3.7
1.1
15.0
2.5
7.0
0.5
2.0
4.5
2.4
0.6

0.26
0.38
0.56
0.17
20.71
0.32
1.05
0.20
0.93

0.58
2.84
0

X
X
X
X
X
X
X
X
X
X

4.3
4
6.8
8
No figure
1.2 + impact of Natixis
Impact of Natixis

1.11
0.16
0.43
0.38
0.14
No figure


No items
highlighted
X
X
X
X
X
X
X

LBOs Mono- ABCP/ Other
linea
SIVsb Trading

X
X

X
X

X
X

X
X

Iceland/Lehman/
Washington
Mutual


Madoff

X

X

X
X

X

X

X
X
X

X
X

X
X

X

X

X
X
X

X

X
X
X

X
X
X
X

X

X
X
X
X

X
X
X
X
X

X
X

Source: Bloomberg, 2008 for write-down figures. Bank annual reports for other data.
Notes: a Exposure to insurance companies that provided guarantees for various types of securities; b Asset Backed Commercial Paper
Conduits. These vehicles, generally off balance sheet, bought longer-term assets, frequently CDOs and MBS, and issued short-term

commercial paper. They were often backed by credit commitments from one or more sponsoring banks if the commercial paper could
not be sold. This is the main source of problems at IKB and LB Sachsen;
element of double counting.

c

LBBW took over LB Sachsen, and so there may be an


III. HÀNH ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ
Vực dậy những ngân hàng yếu và gia tăng sự tin tưởng, lạc quan vào khu vực ngân hàng, Đáp ứng
sự bảo lãnh tín dụng, cứu trọ thông qua các khoản vay,mua một phần hay quốc hữu hoá hoàn toàn, phối
hợp hoặc bắt buộc sáp nhập, quy định về trả công, sự điều tiết chặt hơn và thúc đẩy việc tăng cường
khuôn khổ quản lý ở chuẩn Châu Âu và quốc tế là những biện pháp can thiệp của chính phủ, trong trường
hợp của Đức và Pháp, họ chưa từng sử dụng biện pháp nào.
Hành động chính phủ Pháp thì chủ động hơn, giống như chủ nghĩa can thiệp trước đó ở Pháp. Một
vài trường hợp ngoại lệ, phương pháp của Đức đến nay thì tự nguyện hơn, nhưng cũng có thể chuyển theo
hướng bắt buộc. Bất châp những lời lẽ của sự quay lại “đạo đức chủ nghĩa tư bản” (tại Pháp), sự điều tiết
được đẩy mạnh ở cả hai quốc gia và các biện pháp can thiệp, tác động của hành động của chính phủ lên
sự tài chính hoá dường như bị giới hạn.
Giống như các nước châu Âu khác, Pháp và Đức cũng tiến hành bảo lãnh tín dụng và cung cấp các
khoản vay nhằm làm dịu thị trường. Đức cho phép các ngân hàng tự quyết định tài chính và sử dụng quỹ
ổn định thị trường (FMSF) được thành lập từ tháng 11 năm 2008. Nhưng rất nhiều ngân hàng có vấn đề
đã tìm đến các cổ đông và do đó, việc sử dụng FMSF bị hạn chế. Nhưng các LB vẫn sẵn sàng sử dụng kế
hoạch “bad banks” của chính phủ nếu các thỏa thuận có thể đạt được. Các thương vụ đạt được đáng chú ý
như Comerzbank và HRE. Chính phủ Pháp quyết định vốn hóa lại tất cả các ngân hàng nội địa có quy mô
lớn vào tháng 11 năm 2008, ép họ chấp nhận vốn và tăng cho vay một cách hiệu quả. Đợt cấp vốn thứ hai
đi cùng các điều kiện như: hạn chế chi trả cổ tức, cấm thưởng cho quản lý cấp cao (2008), và tăng cho
vay xuất khẩu. Tuy nhiên, không có điều kiện nào hạn chế được hoạt động của các ngân hàng Pháp.
Cả hai chính phủ đều mở rộng sở hữu ở một vài ngân hàng. Ở Đức, tổ chức thuộc sở hữu chính

phủ, KfW trở thành cổ đông lớn trong IKB và phối hợp cứu trợ liên quan đến các ngân hàng khác.
Comerzbank đã sử dụng FMSF hai lần để tránh khỏi sáp nhập với ngân hàng Dresdner , tổng vốn và nợ
đảm bảo lên đến 33.2 tỷ EUR. Một sự quốc hữu hoá bằng một cái tên khác, với một nguyên tắc là, bằng
giá trị, sự nắm giữ lớn nhất liên quan đến cuộc khủng hoảng của bất kì chính phủ dẫn đầu Châu Âu nào
trong ngân hàng tư nhân và các gói cứu trợ đưa đến chính phủ 25% +1 cổ phần trong thực thể mới và
quyền phủ quyết trong một vài quyết định quan trọng. Chính phủ Đức chọn cách quốc hữu hoá toàn phần
HRE, chống lại ưu tiên của các nhà đầu tư Mỹ trong HRE, JC Flowers, nhưng tình hình của HRE nghiêm
trọng khác thường, và chính phủ cung cấp giá mua cổ phần trên giá thị trường hiện hành.
Tuy nhiên, với ngoại lệ của HRE – một tổ chức tương đối nhỏ - sự tham gia của chính phủ Đức
vào quản lý ngân hàng không đáng kể, và cổ đông tư nhân đã không phải đối mặt với sự pha loãng như là
kết quả của hành động của chính phủ liên bang ở Anh. Trong nhiều tác phẩm tài chính, phương pháp tự
do và tự nguyện được chính phủ Đức thực hiện được nhấn mạnh và đánh giá tốt. Chính phủ Đức thích
hành động theo một kiểu mẫu. Ở Pháp, gia tăng sở hữu của chính phủ ở các ngân hàng ít nhắm đến giải


cứu ngân hàng đó mà muốn gia tăng cho vay trong nước nhiều hơn.Tháng 4 năm 2009, gia tăng sở hữu
cảu chính phủ tại BNP Paribas hơn 17% trong khi bỏ đi quyền biểu quyết. . Văn phòng chính phủ cũng
điều hành việc sáp nhập Caisse d’Epargne và Banque Populaire và nắm giữ cổ phần trọng yếu
(substaintial share holding). Những nhà tư vấn chính phủ chịu trách nhiệm ở ngân hàng mới. Bất chấp
việc chính phủ can thiệp trực tiếp vào phương hướng của ngân hàng mới, hiệu quả của việc làm này vẫn
không thể biết trước được.
Uỷ ban châu âu dựa trên quy tắc cưỡng ép thay đổi ở một số ngân hàng. Uỷ ban đánh mất nhu cầu
ban đầu rằng các ngân hàng Pháp giảm các hoạt động ngoại hối để có vốn theo đuổi sự đảm bảo rằng tiền
của chính phủ được sử dụng chỉ để gia tăng cho vay để giảm vỡ nợ (Credit crunch). Tuy nhiên, quan điểm
của uỷ ban về các gói hỗ trợ ở vùng gồm 4 LB:WestLB, Bayerische LB, HSH Nordbank and LBBW và
của Commerzbank có thể là không đạt được hiệu quả. Tháng 5 năm 2009, uỷ ban đồng ý kế hoạch tái cấu
trúc đối với WestLB, việc này sẽ chia đều tài sản vào tháng 3 năm 2011 bao gồm cả tài sản quốc tế hay
trong nước. Thực tế tác động của việc tái cấu trúc là những việc quan trọng có liên quan đến hoạt động
ngân hàng đầu tư sẽ bị hạn chế. WestLB không bị bắt buộc phải tập trung vào mức độ trong nước
(domestic level). Ba ngân hang còn lại gặp phải kế hoạch tái cấu trúc như nhau.

Cả hai sử dụng khủng hoảng như một bàn đạp để tiếp tục hợp nhất và sự xay dựng thành công
ngân hang quốc gia.Chính sách này đưa đến sự thất bại của vụ hợp nhất Caisse d’Epargne and Banque
Populaire không có sự giải thích cuối cùng của chính phủ. BNP Parisbas mua lại khu vực Belgian (Bỉ) và
Luxembourg của ngân hàng Fortis dưới sự hỗ trợ của chính phủ (not directly) làm nó trở thành ngân hang
lớn nhất khu vực châu âu. Sự ổn định tương đối mà hợp nhất mang lại có thể khuyến khích tài chính hóa,
tuy nhiên Paribas cũng tang hoạt động bán lẻ của nó. Ở Đức, chính sách tự nguyện mang tên “ngân hàng
xấu” để xử lý các tài sản xấu bao gồm các điều kiện lỏng lẻo ép các LB giảm các hoạt động và sáp nhập
lại còn một vài ngân hàng. Tuy nhiên vấn đề đối lập chính trị ở cấp liên bang có thể làm suy yếu những
nỗ lực này. Tháng 3 năm 2009, văn phòng lien bang thông qua dự thảo cải cách – được nghị viện thông
qua 10/7/2009. Nội dung: Nâng cao vốn yêu cầu đối với chứng khoán hóa. Hạn chế liên kết nguy hiểm
liên ngân hàng. Tăng báo cáo về các khoản rủi ro không trên bảng cân đối kế toán. Tăng báo cáo về tỷ lệ
đòn bẩy – nhằm khắc phục điểm yếu của Basel II.(bao gồm cả những tài sản không nằm trên bảng cân đối
kế toán). Hạn chế cho vay liên ngân hàng và luật dự trữ mới hạn chế tài chính hóa. Cho phép hạn chế về
vốn đối với tài sản có xếp hạng tín dụng cao.
Điều này cho phép nhiều ngân hàng, cụ thể là ở Đức, và ở bất cứ đâu trong châu âu, trở nên có
đòn bẩy cao mặc dù đáp ứng các quy tắc an toàn vốn quốc tế. Tuy nhiên, luật mới ở Đức chấm dứt việc
thiếu sự đạt được tỷ lệ đòn bẩy thuần (gross-leverage ratio), thứ mà hạn chế kích cỡ của bảng cân đối kế
toán liên quan đến vốn của ngân hàng, giống như đã tồn tại ở Canada. Lựa chọn này tăng sự ưa thích của
các nhà ngân hàng trung ương châu âu như một cơ chế đơn giản để kiềm chế nhận lấy những rủi ro vượt
quá (excessive risk-taking). Hơn nữa, yêu cầu chặt chẽ hơn ở quốc gia về vốn để đạt được yêu cầu của


Basel II. Luật lệ ở Đức và Pháp ở mức độ Châu Âu và quốc tế tập trung vào báo cáo nghĩa vụ và những
liên quan lớn (greater regulatory co-operation), hoặc là EU (European systemic Risk Council ra đời) hoặc
là 1 cách song phương giữa các nhà quản lý quốc gia, nhưng không tìm thêm các hạn chế bổ sung trên
hoạt động kinh doanh cho mỗi gia nhập (per se). Về dài hạn, Pháp và Đức tập trung vào các điều chỉnh
quỹ phòng ngừa (hedge fund).

IV.KẾT LUẬN
Qua hai thập kỷ, xếp hạng của các ngân hàng Pháp và Đức đã tăng trong các ngân hàng đầu tư và

quốc tế. Hệ thống tài chính vẫn phụ thuộc chủ yếu vào ngân hàng. Không có sự vượt lên đáng kể của khu
vực tư nhân, quỹ phòng hộ mặc dù là những thực tể này tồn tại. Những thay đổi trong hệ thống tài chính
gần đây của họ,nhiều lúc là thay đổi để tăng phạm vi họ điều chỉnh hệ thống tài chính.
Ở Pháp, quỹ phòng hộ lớn nhất là công ty con của ngân hàng. Hệ thống ngân hàng Đức chịu ảnh
hưởng từ cuộc khủng hoảng nhiều hơn so với hệ thống ít tài chính hóa – Pháp, những ngân hàng dẫn đầu
ít chịu đựng mất mát đáng kể. Sự giảm sút một vài hoạt động giao dịch trong bối cảnh lý lẽ của chính phủ
và nhiều ngân hàng quay lại với hoạt động ngân hàng truyền thống, một thời huy hoàng, đáp ứng cho vấn
đề của doanh nghiệp. Sự rút lui về định hướng cẩn trọng của ngân hàng là khó xảy ra trong tất cả, trong
thời gian ngắn khi mà những cơ hội trong nước bị giới hạn và cái bẫy rủi ro – lợi nhuận vẫn còn đó, cả
ngân hàng thương mại, cổ phần, tương hỗ ở Đức và Pháp đều tìm kiếm mở rộng hoạt động ở nước ngoài
để tăng lợi nhuận từ sau nhưng năm khó khan 1990.
Cuộc khủng hoảng không mang lại thay đổi đáng kể trong bản chất của hệ thống ngân hàng Pháp.
Nhà nước nổi lên như một cổ đông lớn và không có quyền biểu quyết trong trường hợp BNP Paribas.
Việc sáp nhập Caisse d’Epargne và Banque Poplulaire xuất hiện một điều gì đó thụt lùi của chủ nghĩa can
thiệp nhà nước. Cuộc sáp nhập tốt hơn là được xem như chủ nghĩa cơ hội để đi đến tập trung hơn cho hệ
thống ngân hàng sau đó – đến 2008 còn 450 tổ chức tín dụng tiếp tục hoạt động, giảm từ số 975 năm
2002. Ở Đức, bất cứ tác động nào của tài chính hóa dường như chỉ trong ngắn hạn với sự quay lại các
hoạt động xuyên suốt toàn hệ thống, rõ ràng nhất là sự rút bớt hoạt động nhất định của Natixis và Calyon.
Tuy nhiên, việc mở rộng mô hình kinh doanh ở Pháp đã được chứng minh, trong khi những ngân hàng
như BNP Paribas, Crédit Mutuel đã khai thác thuận lợi từ cuộc khủng hoảng để quốc tế hóa, đây vẫn còn
là một sự mở rộng mang nặng tính bán lẻ.
Ở Đức, bức tranh vẫn còn không rõ ràng. Chính phủ liên bang đã nắm phần lớn Comerzbank
nhưng vẫn không can dự vào quản lý. Kế hoạch “ngân hàng xấu” của chính phủ để loại bỏ những tài sản
xấu vẫn còn đó là một sự tự nguyện. Chính phủ muốn sở hữu HRE để các thực thể này gọn hơn. Tuy
nhiên, càng nhiều sự can thiệp trực tiếp của chính phủ bao gồm hai đảng chính, cho dù là phản ứng với
cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất năm 1930 (khi chính phủ cổ phần hầu hết các ngân hàng thương mại) hay


dù là động lực cho lựa chọn bầu cử ngắn hạn, sẽ đại diện cho sự thay đổi đáng kể trong hệ thống tài chính
Đức.

Những tác động về lâu dài là không rõ ràng. Sự không chắc chắn của hệ thống tài chính Đức và ba
trụ cột là ảm đạm theo Standard and Poor’s vào 09/06/2009. Cổ đông của ngân hàng tiết kiệm hỗ trợ việc
hợp nhất, liên bang chính phủ đóng vai trò củng cố theo đúng kế hoạch (“bad bank” scheme), và cả Ngân
hàng Bundesbank và nhà quản lý Bafin được báo cáo để ưu tiên cho việc sáp nhập. Lander chính phủ tìm
cách để giữ nguyên sự ảnh hưởng và sự liên quan nặng nề trong các tái cơ cấu LB đã làm gia tăng tổng
nắm giữ chi phí của ngân hàng tiết kiệm. Tuy nhiên, khả năng tiếp tục can thiệp đang bị xem xét. Thêm
sức ép đến từ EU, nơi thông qua các khoản hỗ trợ. Sự sáp nhập đã là một kịch bản bất biến từ cuối những
năm 1960.
Chiến lược của rất nhiều LB gần đây liên quan sự quay lại năng lực cốt lõi, tập trung vào vùng
miền và SMEs (Mittlestand) ở chi phí của những tham vọng giao dịch quốc tế. Chúng ta có lý do để thấy
rõ sự đáp ứng “quay về cơ bản” trong ngắn hạn. Nó phản ánh rõ sự đáp trả của WestLB với những vấn đề
trong tài chính chính yếu ở những năm đầu 2000. WestLB 2003 báo cáo hàng năm hứa rằng không dính
líu tới những thương vụ cho vay lớn gắn liền với rủi ro và tổn thất. Tuy nhiên, tháng 6 năm 2009, WestLb
thông báo nó đã bán 80 tỷ EUR tài sản xấu trên bản cân đối kế toán. Vẫn còn những thay đổi quan trọng
trong mô hình kinh doanh của gần như tất cả các LB trong những năm gần đây bất chấp sự thay đổi luật
lệ theo hướng yêu cầu chặt chẽ hơn về vốn, nó hiện ra như là sẽ có tài chính hóa lớn hơn trong trung hạn
với sự quốc tế hóa – một phần quan trọng của tiến trình này. . Hợp nhất, bất chấp sự phản đối của Lander,
dường như chỉ đi theo một hướng duy nhất. LB lớn hơn, thậm chí với những mỗi quan hệ lỏng lẽo ở
những vùng cụ thể, dường như chỉ để tăng tốc tài chính hóa.
Bài nghiên cứu đã xem xét sự tài chính hóa đã thay đổi hệ thống ngân hàng Đức và Pháp từ 2002.
Những đòi hỏi rông hơn cũng có thể được tạo ra về tác động của tài chính hóa lên nhiều loại chủ nghĩa tư
bản ở hai quốc gia. Sự tài chính hóa của các ngân hàng thương mại và LB Đức đã phá hoại vị thế trung
tâm của các ngân hàng trong mô hình chủ nghĩa tư bản Đức. Trong khi các ngân hàng Đức tìm kiếm lợi
nhuận ở nước ngoài, phần lớn các công ty Đức lại gia tăng sử dụng các ngân hàng nước ngoài và cổ đông
thay thế. Deeg (1999) đã đưa ra bức tranh của sự phát triển này từ những năm 1990s và tranh luận rằng
mối liên hệ SMEs (Mittelstand) không bị ảnh hưởng. Sự tài chính hóa của các LB sau 2000 đã ảnh hưởng
đến những liên kết này: hoạt động cho vay thật thì ảm đạm và giảm đáng kể trong mối quan hệ với tổng
tài sản. Năm 1997, 45% tài sản của LB là cho vay các công ty phi tài chính trong nước và chỉ 4% đi đến
các công ty nước ngoài. Tháng 01/2002, con số là 34% VÀ 10% và đến 2009 là 28% và 17%. Ở điểm
này, nắm giữ của chứng khoán phi ngân hàng nước ngoài là thêm vào 6% của tài sản. Trong khi ngân

hàng Sparkassen và Co-operative cố gắng để lấp đầy chỗ trống, sự thay đổi trong hoạt động của LB đại
diện cho một sự lẩn quẩn. Mittlestand gần đây đã cảm thấy tác động của sự vỡ nợ (credit crunch) mang
lại bởi vấn đề trong hệ thống ngân hàng của Đức. Đến nay, Mittlestand vẫn chưa quay về vốn chủ sở hữu


và sự xâm nhập của các nhà cho vay nước ngoài trong hệ thống ngân hàng Đức, trong khi gia tăng đến
cuối năm 2008, để lại một sự hạn chế và có thể co lại như là kết quả của cuộc khủng hoảng tài chính. Vì
vậy, không nên không nên cường điệu ý nghĩa của xu hướng này.
Sự tài chính hoá ở các ngân hàng Pháp có thể đóng góp tháo gỡ nhóm sở hữu chéo được tạo ra vào
những năm 1990 và tập trung vào 3 ngân hàng lơn nhất, nhưng sự biến đổi cốt yếu ở Pháp vẫn để lại con
đường đi đến dạng “thị trường tài chính” của chủ nghĩa tư bản, giống như các công ty lớn ở Pháp tìm đến
thị trường vốn để có tài chính còn các ngân hàng thì lại đầu tư hoạt động ra nước ngoài và một số hoạt
động khác để bù lại. Tài chính hoá dù sao cũng đã làm suy yếu vốn làm nền cho các nhóm sở hữu chéo.
Cùng thời gian đó, doanh nghiệp Pháp không chuyển sang các ngân hàng nước ngoài. Quốc gia thì mở
cửa cho ngân hàng nước ngoài, tuy nhiên, gần như toàn bộ những hoạt động này đều trong thị trường
riêng (niche maket). Việc mua lại CCF của HSBC và hoạt động bán lẻ của nó vào năm 2000 chứng tỏ một
vấn đề khác thường hơn là bắt đầu một xu hướng mới. Banque Populaire’s mua lại hoạt động bán lẻ của
HSBC Pháp vào năm 2008 đưa quốc gia theo hướng đối ngược. Hệ thống ngân hàng Pháp dường như ít
bị ảnh hưởng liên quan của cuộc khủng hoảng tài chính và không có tác động đáng kể bởi vì chiến lược
của ngân hàng hay sự can thiệp của chính phủ. Hệ thống của Pháp sẽ tiếp tục quỹ đạo hiện tại và gia tăng
tài chính hoá và dần dần hợp nhất. hệ thống ngân hàng Đức dường như không bị ảnh hưởng và cuộc
khủng hoảng đẩy nhanh một vài xu hướng đã được khuyến khích bởi tài chính hoá. Đáng chú ý là những
sáp nhập LB và nới lỏng các mối quan hệ trong khu vực. LB và chính phủ có thành công hay không vẫn
còn phải xem xét, như trong quá khứ, chỉ chậm quá trình thay đổi hệ thống.


PHẦN B: MỞ RỘNG
PHẦN B1:
BÀI HỌC CHO CÁC CHÍNH SÁCH CAN THIỆP CỦA CHÍNH
PHỦ TỪ CÁC QUỐC GIA CHÂU ÂU

Phần này sẽ mở rộng phần bình luận về một số chính sách can thiệp của chính phủ đối với hệ thống ngân
hàng ở các quốc gia Châu Âu, từ đó rút ra những hàm ý cho một cấu trúc hệ thống tài chính trong tương
lai.

I.GIẢI QUYẾT TÀI SẢN CÓ VẤN ĐÊ
Trong suốt cuộc khủng hoảng, chính phủ các quốc gia và ngân hàng trung ương đã thông qua
nhiều phương pháp khách nhau để đối phó với các tài sản có vấn đề trên bảng cân đối kế toán của ngân
hàng và các ngân hàng có nhu cầu tái cấp vốn. Chính phủ Anh đã dành ra 700 tỉ bảng anh từ ngân sách để
mua lại các các tài sản có vấn đề, thông qua Chương Trình Cứu Trợ Tài Sản (TARP). Tuy nhiên, một khó
khăn mới đã xuất hiện trong việc định giá các tài sản kém thanh khoản. Các tài sản được định giá theo
phương pháp thị trường đã bị giảm đáng kể so với giá trị ban đầu trên bảng cân đối kế toán, do đó nhiều
ngân hàng không muốn bán. Trước tình hình đó, TARP đã chuyển thành một tổ chức tài trợ công cộng để
thực hiện tái cấp vốn cho các ngân hàng. Chính phủ Anh quyết định giữ lại các tài sản xấu trong ngân
hàng, đồng thời cung cấp các khoản bảo hiểm tín dụng với một mức phí. Điều này lại làm tăng thêm mối
lo ngại vì chính sách này có thể đi theo vết xe đổ của Nhật trong những năm 90, khi những tài sản có vấn
đề được giữ lại trên bản cân đối và các ngân hàng phải tiến hành giảm bớt nợ bằng các chính sách cho
vay hạn chế. Kết quả là, nền kinh tế Nhật Bản bước vào một vòng xoáy giảm phát kéo dài.
Một mô hình xử lý tài sản xấu rất thành công ở Thụy Điển là phân tách ngân hàng yếu thành một
ngân hàng tốt và một ngân hàng xấu. Chẳng hạn, một ngân hàng A với tổng giá trị tài sản là 100 đô la,
trong đó 40% là tài sản xấu sẽ được phân loại thành một ngân hàng tốt và một ngân hàng xấu. Ngân hàng
tốt có 60 đô la trị giá tài sản tốt, ngân hàng xấu có 40 đô la trị giá tài sản xấu. Việc phân bổ các khoản nợ
của ngân hàng cũ cho hai ngân hàng mới dựa trên cơ sở tỷ lệ tài sản xấu. Do đó, ngân hàng xấu phải đối
mặt với nguy cơ phá sản rất cao. Trong khi đó, ngân hàng tốt lúc này với việc không còn tài sản độc hại,
sẽ khôi phục lại lòng tin của người dân và thu hút được các khoản tiền gửi. Nguồn tiền này lại được ngân
hàng tốt bắt đầu cho vay trở lại, từ đó khôi phục lại nền kinh tế. Mô hình ngân hàng tốt/ ngân hàng xấu
này cũng đã được sự ủng hộ của các nhà nghiên cứu và đang được một số quốc gia áp dụng trong quá
trình tái cơ cấu ngân hàng, và họ đã thu được những thành công nhất định.
Thụy Sĩ – Phân tách UBS thành ngân hàng tốt và ngân hàng xấu



Tại Thụy Sĩ, ngân hàng UBS đã thực hiện được việc chia tách với sự hỗ trợ của Chính phủ Thụy
Sĩ. UBS có 60 tỷ USD tài sản xấu. Điều kiện cần để UBS có thể chuyển giao số tài sản này sang ngân
hàng xấu mới thành lập là ngân hàng mới này phải có tiền chi trả cho những tài sản xấu. Số tiền quá lớn
và việc đầu tiên UBS đã làm là bán 9% cổ phần cho Chính phủ Thụy Sĩ để thu về 6 tỷ USD. UBS đầu tư
số tiền này vào ngân hàng xấu – số tiền này trở thành vốn của ngân hàng xấu. Tiếp đó, NHTW Thụy Sĩ
cho ngân hàng mới này vay 54 tỷ USD (khoản cho vay này gần như không có lợi nhuận để bình ổn hệ
thống tài chính). Như vậy, UBS chỉ chịu 6 tỷ USD tổn thất đầu tiên (UBS đã pha loãng 9% cổ phiếu của
mình, có 6 tỷ USD đầu tư vào ngân hàng xấu gần sẽ không thể thu hồi) và bất kỳ khoản lỗ nào sau đó sẽ
do Chính phủ Thụy Sĩ trang trải. Điều quan trọng nhất trong lần phân tách này là UBS đã loại trừ được 60
tỷ USD tài sản độc hại ra khỏi bảng cân đối của mình và chỉ chịu một phần tổn thất.
Ngoài ra, các quốc gia này có thể áp dụng mô hình ngân hàng xấu tổng hợp: chính phủ thành lập
ngân hàng này để các ngân hàng yếu kém trút bỏ gánh nặng tài sản xấu và độc hại sang cho một ngân
hàng. Mô hình này cũng đã được áp dụng thành công tại Malaysia.

II.RỦI RO HỆ THỐNG
Một trong những bài học quan trọng của cuộc khủng hoảng tài chính đó là các quy chế tài chính
của các quốc gia Châu Âu trong quá khứ đã nhấn mạnh quá mức các biện pháp bảo vệ của từng ngân
hàng mà không tính đến sự liên kết của các tổ chức tài chính và những tác động của nó đối với sự ổn định
của hệ thống. Các nguyên nhân chính gây bất ổn hệ thống bao gồm: rủi ro đối tác, rủi ro vỡ nợ trên một
phần của các đối tác trên thị trường giao dịch phi chính thức, và rủi ro bán tháo khi một tổ chức sắp phá
sản.
Do đó, các ngân hàng trung ương cần phải có quy định cụ thể để giám sát sự ổn định của hệ thống,
bên cạnh các giải pháp bảo vệ từng ngân hàng. Các hình thức giám sát nên bao gồm: thu thập và phân tích
thông tin về vị thế tài sản và đề ra những chuẩn mực để so sánh với các ngân hàng khác nhằm đánh giá
mức độ rủi ro hệ thống, công bố giữ liệu, chuẩn bị các báo cáo hàng năm về sự ổn định hệ thống và các
rủi ro.

III.THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG PHÁI SINH
Sau cuộc khủng hoảng, thị trường phái sinh tín dụng đã đặt ra những yêu cầu về tính minh bạch
cao và hệ thống giám sát chặt chẽ để phục hồi lại niềm tin công chúng. Phái sinh tín dụng được giao dịch

phi trên thị trường phi chính thức và rủi ro đối tác đã trở thành mối quan tâm nghiêm trọng trong suốt thời
kỳ khủng hoảng. Sự hạn chế về cơ sở hạ tầng đã dẫn đến sự chậm trễ trong thương mại, sự thiếu minh
bạch trong các giao dịch và giá cả, thủ tục khoá sổ hợp đồng, việc xác định giá trị và các vấn đề tín dụng
trực tiếp và gián tiếp với các đối tác.
Do vậy, để phục hồi lại niềm tin công chúng, thị trường tín dụng phái sinh đòi hỏi phải có một hợp
đồng chuẩn hoá và phải được thanh toán tập trung. Những lợi thế của một hệ thống thanh toán bù trừ tập


trung cho thị trường phái sinh tín dụng sẽ có ý nghĩa cho sự ổn định hệ thống tài chính, loại bỏ được rủi
ro đối tác. Vừa qua, nhóm các nước có nền kinh tế lớn G20 đã có đề xuất thành lập thị trường thanh toán
tập trung cho tín dụng phái sinh.

IV.GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG ĐA QUỐC GIA
Về nguyên tắc, các ngân hàng hoạt động đa quốc gia có được những lợi thế cạnh tranh và phân bổ
nguồn vốn hiệu quả hơn ở trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của các ngân hàng này đã
làm tăng vấn đề phức tạp khi giám sát tại các quốc gia Châu Âu. Bằng chứng là trong suốt cuộc khủng
hoảng diễn ra, giá trị thị trường của các tập đoàn ngân hàng xuyên quốc gia đã giảm nhiều hơn so với các
ngân hàng trong nước.
Cơ cấu pháp lý của các ngân hàng xuyên quốc gia được phân công trách nhiệm giữa các cơ quan
quốc gia giám sát: chi nhánh chịu sự giám sát của quốc gia, trong khi các công ty con phải thuộc thẩm
quyền giám sát của nước chủ nhà. Giám sát quốc gia trở nên khó khăn khi sự thất bại và đổ vỡ mang tính
hệ thống đến từ các nước mà ngân hàng mở rộng hoạt động. Sự sụp đổ của ngân hàng Iceland là một điển
hình, khi các ngân hàng ở quốc gia này phát triển quá lớn ra bên ngoài, gây nên nghịch lý “quá lớn để cứu
trợ”. Kinh nghiệm ở Châu Âu cho thấy trong giai đoạn khủng hoảng, sự hợp tác giám sát giữa các quốc
gia diễn ra hoàn toàn không hiệu quả. Tranh chấp giữa các quốc gia có thể trì hoãn hành động trong các
tình huống cần nhanh chóng giải quyết, và sự đối xử công bằng cho các chủ nợ ở các quốc gia khác nhau
sẽ rất khó khăn để đạt được.
Vấn đề này đòi hỏi Liên Minh EU phải thiết lập một cơ chế chung, giám sát toàn bộ hệ thống và
giám sát rủi ro ở cấp vĩ mô. Nguyên tắc nhất quán cần được triển khai trong quản lý khủng hoảng.


V.Kết luận
Các quy định ngân hàng không thể ngăn chặn cuộc khủng hoảng tài chính, nhưng sự thay đổi
khung pháp lý sẽ định hình cho sự phát triển hệ thống ngân hàng trong nhiều năm tới. Tuy nhiên, chính
phủ cần thận trọng khi thực hiện các biện pháp chữa cháy như mua lại nợ xấu, tái cấp vốn ngân hàng vì
nó có thể gieo những hạt giống cho cuộc khủng hoảng tiếp theo bằng cách gửi sai tín hiệu cho các nhà
đầu tư ngân hàng và giám đốc điều hành, những người đã cư xử khinh suất trong quá khứ. Các chính sách
giải quyết trong khủng hưởng tài chính ở Châu Âu được đánh giá là chưa tốt với các biện pháp xử lý vẫn
còn chưa hiệu quả. Hiện nay, các ngân hàng ở Châu Âu vẫn còn rất bất ổn.


PHẦN B2:
TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
NHỮNG VẤN ĐÊ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP
Hệ thống tài chính (HTTC), với đặc trưng là sự hiện diện của các định chế tài chính và thị trường
tài chính (TTTC) (bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng - ngân hàng, thị trường chứng
khóan (thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu)), có vai trò quan trọng trong huy động và phân bổ có
hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự phát triển lành mạnh của HTTC là một nhân tố thiết yếu
đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, và góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bền vững.
Từ những năm 1986 khi bắt đầu thực hiện đổi mới hệ thống ngân hàng từ hệ thống ngân hàng một
cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, tính đến nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những bước phát
triển vượt bậc cả về quy mô và chất lượng. Quy mô tổng vốn và tài sản của các ngân hàng đã tăng lên
gấpnhiều lần. Trình độ quản trị và hiệu quả điều hành được nâng lên hơn hẳn một bước và ngày càng gần
với các thông lệ quốc tế. Với sự phát triển như vậy, hệ thống ngân hàng đã đóng góp một phần không
nhỏ trong thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và ổn định.Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đó, hệ
thống ngân hàng Việt Nam cũng đã trải qua các giai đoạn cần phải tái cấu trúc như một tất yếu đối với
một hệ thống ngân hàng ở hầu hết các quốc gia do những yếu kém bên trong hệ thống và những
thay đổi trong môi trường kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế.
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế tại nhiều nước trên thế giới và suy giảm
tăng trưởng kinh tế trong nước chưa chấm dứt,rủi ro tài chính – tiền tệ gia tăng, vấn đề tiếp tục cải cách,

tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở Việt Nam càng trở nên bức thiết.

I.NHỮNG RŨI RO, YẾU KÉM CHỦ YẾU CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
1.Nợ Xấu Tăng Cao
Nợ xấu của các NHTM Việt Nam chủ yếu xuất phát từ việc thiếu/không giám định chặt chẽ các
khoản vay có liên quan tới: (1) cho vay chính sách (theo chỉ định chính thức của Chính phủ và
chỉ định ngầm); (2) cho vay các dự án/doanh nghiệp của các thành viên hội đồng quản trị/lãnh đạo các
ngân hàng thương mại hoặc vay theo chủ nghĩa thân quen (cánh hẩu); (3) các khoản vay bất động
sản/chứng khoán (chính thức, hoặc „đội mũ“ cho vay sản xuất – tiêu dùng).
Rủi ro khoản vay còn liên quan đến các khoản thế chấp có giá trị có thể sụt giảm mạnh khi ‚bong
bóng tài sản’xì hơi và hoặc/và được định giá quá cao (có chủ ý) (ví dụ, bất động sản) , hoặc do rủi ro
chính sách. Ngoài ra, việc chưa áp dụng đầy đủ các chuẩn mực phân loaị nợ quốc tế có thể tạo tâm lý xem
nhẹ nợ xấu và các rủi ro kèm theo.


×