Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thành tựu trên lĩnh vực văn học của văn minh Ai Cập cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.34 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Trong lịch sử, nền văn minh Ai Cập cổ đại là một trong những nền văn minh
cổ xưa nhất và rực rỡ nhất của nhân loại. Nó là một trong sáu nền văn minh phát
sinh một cách độc lập trên thế giới và là một trong những ngọn nguồn của văn
minh thế giới. Nói đến Ai Cập là người ta nhớ tới Kim Tự Tháp, Tượng Nhân
sư, là nhắc tới những thành tựu về các mặt chữ viết, lịch pháp, nghệ thuật, tri
thức khoa học… và người ta cũng không thể không nhắc tới những thành tựu
nổi bật trong lĩnh vực văn học. Để làm rõ hơn về vấn đề này chúng em xin chọn
chủ đề: “Thành tựu trên lĩnh vực văn học của văn minh Ai Cập cổ đại” làm đề
tài bài tập nhóm.

NỘI DUNG
I. Khái quát về nền Văn
1. Điều kiện ra đời của

học văn minh Ai Cập cổ đại.
văn học văn minh Ai Cập cổ đại.

Nhờ những điều kiện tự nhiên, xã hội và kinh tế thuận lợi nên Ai Cập dễ
dàng tạo ra một nền văn minh lớn và có ý nghĩa to lớn. Và cũng chính nhờ nền
văn minh mà những quốc gia đầu tiên trong lịch sử ra đời, tạo tiền đề cho sự
phát triển của những nền văn minh khác nhau trong đó có văn học.
Văn học Ai Cập bắt nguồn từ các sáng tác dân gian, phát triển từ rất sớm,
ngay từ gia đoạn đầu thời Cổ vương quốc. Đến thời Trung vương quốc, văn học
phát triển mạnh và thời kì này được gọi là thời hoàng kim “cổ điển” của văn học
Ai Cập.


Bên cạnh đó, chữ viết cũng chính là một phần tạo nên văn học. Có chữ
viết thì ta có thể biểu lộ rõ hơn những gì ta nghĩ, ghi chép lại những gì ta đã làm,
hay ngồi viết những gì cho tương lai. Trong nền văn học Ai Cập cổ đại cũng vậy,

2


nhờ có sự ra đời của chữ viết mà giúp cho văn học ra đời. Chữ viết ra đời từ rất
sớm ở Ai Cập với các hình thức như chữ tượng hình, chữ thảo.
Tiếp theo đó là nhờ đời sống xã hội và hệ tư tưởng khác nhau. Người dân Ai
Cập cổ chịu ảnh hưởng và chi phối bởi điều họ nghĩ là thần linh, vì thế văn học
ra đời giúp họ có thể làm giàu thêm đời sống tinh thần bằng những sử thi, thần
thoại hay truyền thuyết. Và văn học còn ra đời nhờ tôn giáo. Như ta biết Ai Cập
là một quốc gia có nhiều tôn giáo khác nhau vì thế văn học ra đời đặc biệt là
trong thể loại thơ ca có các tác phẩm mang tính tôn giáo.
Từ những điều kiện trên, ta có thể thấy văn học của văn minh Ai Cập cổ
đại được ra đời và có sự phát triển rất đồ sộ.
2. Đặc

điểm của lĩnh vực văn học của nền văn minh Ai cập cổ đại

Văn học Ai Cập là một phần của văn hóa Ai Cập và cùng mất đi với nó,
đã trải qua một cuộc sống lâu hơn nhà nước độc lập Ai Cập. Dựa vào đặc điểm
bên ngoài và phát xuất từ sự phân kỳ lịch sử ngôn ngữ và lịch sử đất nước có
các nền văn học Cổ vương quốc, Trung vương quốc, Tân vương quốc và văn học
demotic. Bên cạnh đó, văn học Ai Cập cổ đại có những đặc điểm:
Đời sống văn học của người Ai cập vô cùng phong phú và đa dạng: trong
mấy ngàn năm phát triển của lịch sử, cư dân Ai Cập đã sáng tạo nền văn học
phong phú về nội dung, đa dạng về thể loại mang lại cho Ai Cập một kho tàng
văn học vô cung phong phú, bao gồm tục ngữ, thơ ca trữ tình, các câu truyện

mang tính chất đạo lí, giáo huấn, trào phúng, truyện thần thoại,...
Văn học cổ đại Ai Cập gắn liền với đời sống xã hội và hệ tư tưởng của xã
hội: đến thời Trung và Tân vương quốc, văn học phản ánh những mâu thuận xã
hội, phê phán bọn quan lại và nói lên nỗi khổ của những người lao động. hay
phê phán tầng lớp quan lại ức hiếp dân và phản ánh sự khốn khổ của những Tiêu
biểu cho nền văn học trên là các tác phẩm: Truyện kể của Ipouer đề cập đến
cuộc đấu tranh quyết liệt của quần chúng nghèo khổ; Truyện Sinouhe viết về

3


cuộc phiêu lưu của sinouhe từ Ai Cập đến Syria rồi lại về Ai Cập. Tập truyện
Người nông phu biết nói những điều người lao động.
Văn học chịu ảnh hưởng chủ yếu của tôn giáo: ở giai đoạn đầu văn học
mang đậm tính tôn giáo như ca ngợi các vị thần, miêu tả nghi lễ thờ cúng và
tang lễ. Trong dạng văn học mang tính triết lí, tiêu biểu là cuốn Đối thoại của
một người thất vọng với linh hồn của mình, miêu tả sự suy sụp của người Ai Cập
trước sự đổ vỡ của các giá trị truyền thống, chán nản cuộc đời.
Qua quá trình phát triển của văn học Ai Cập cổ đại, chúng ta thấy những
bước tiến của nền văn học đã khá rõ rệt: từ những tác phẩm thô sơ mang nhiều
tính tôn giáo, đến chỗ xuất hiện nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại phản ánh
tính xã hội, qua đó thể hiện sức sáng tạo kỳ diệu của người Ai Cập cổ đại. Tuy
nhiên không nên từ đó mà cho rằng văn học Ai Cập chỉ là những văn bản tôn
giáo hay thần thoại.
II.

Những thành tựu của văn học văn minh Ai Cập cổ đại.

Trải qua 3000 năm lịch sử hình thành và phát triển, văn học Ai Cập cổ cũng
đã phát triển không ngừng với sự ra đời của rất nhiều thể loại đa dạng và vô

cùng phong phú như văn học truyền miệng, văn viết, thơ ca,…. Để tìm hiểu rõ
nhất được các thành tựu trên lĩnh vực văn học của văn minh Ai Cập cổ đại,
chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu các thành tựu văn học trong từng thời kì lịch sử của
Ai Cập cổ đại.
1.

Văn học thời kì Cổ vương quốc.

Ở thời kì này, có sự ra đời sớm nhất của tác phẩm : Những văn bản Kim tự
tháp”. Những điều được nói trong “Những văn bản kim tự tháp” về tôn giáo của
Ai Cập đủ để đưa ra kết luận: “ điều quan trọng nhất trong các bản văn này là
phản ánh ước muốn người chết trở thành bất tử, niềm tin ngây thơ của con
người thời bấy giờ vào khả năng thắng được cái chết và trở thành giống như
các thần linh bất tử”. Để tăng hiệu quả ma thuật, người Ai Cập vận dụng những
thủ pháp tiêu biểu cho thơ ca nghi lễ – láy âm, đối ngẫu, chơi chữ. Nhiều đoạn
4


trong “Những văn bản kim tự tháp” nổi bật sức biểu đạt nghệ thuật và sự rõ ràng
của các hình tượng. Chẳng hạn như trong tụng ca hướng về nữ thần bầu trời Nut,
bản thân nữ thần được ca tụng:
Ôi, Người là cả bầu trời vĩ đại …
Vẻ đẹp của Người tràn khắp mọi nơi
Mặt đất nằm soải trước Người – Người ôm choàng lấy nó
Người bao bọc đất và vạn vật trong đôi cánh tay mình.
Ngoài ra còn có các văn bia của quan lại quý tộc mang nội dung giáo huấn.
Những văn bia của các quan lại cho chúng ta biết về một dạng chuẩn mực đạo
đức của giới thượng lưu trong xã hội Ai Cập – dù chuẩn mực đó có thành hiện
thực hay chỉ là ảo vọng, thì nó cũng phản ánh những tìm tòi đạo đức của xã hội
đó.

Tác phẩm tiêu biểu trong thời kì này là : Lời khuyên dạy của Imhotep, Lời
khuyên dạy của Plahotep, Lời khuyên dạy của Đơ-gia–đe–pho–đơ, Châm ngôn
của Châm ngôn Ptahhotep. Trong số đó, “Châm ngôn của Ptahhotep” là một tác
phẩm rất khó hiểu và khó dịch, và việc giải thích một số chỗ trong tác phẩm cho
đến nay vẫn còn những tranh cãi. Điều này không mâu thuẫn với một nhận định
khác: “Châm ngôn” được viết bằng một ngôn ngữ súc tích, giàu hình tượng;
người xuất bản nó lần sau cùng – học giả người Czech Z.Jaba – đã gọi Ptahhotep
là nhà phong cách học kiệt xuất.
Có thể thấy, văn ăn học thời đại Cổ Vương quốc không chỉ phản ánh những
lý tưởng nhân sinh quan và thẩm mỹ của thời đại, mà chính trong nền văn học
này đã xuất hiện và khẳng định những truyền thống quy định diện mạo cho văn
học thời kỳ sau, và các tác giả cổ đại hoàn toàn xứng đáng được thế hệ kế thừa
xem là những người sáng lập nên những kiểu mẫu của đạo lý, tạo nên những tác
phẩm văn chương hoàn hảo.
2.

Văn học thời trung vương quốc.

5


Văn học Ai Cập thời kỳ Trung Vương quốc thường được gọi là văn học cổ
điển. Các tác phẩm thời đại này còn lưu giữ được đến nay nhiều hơn và phong
phú hơn rất nhiều so với thời Cổ Vương quốc. Đây là thời kì phát triển rực rỡ
nhất của văn học cổ đại Ai Cập. Với nội dung gắn liền với đời sống xã hội, chịu
ảnh hưởng của tôn giáo. Thể loại phong phú và đa dạng: truyện cổ dân gian, văn
bia, truyện thần thoại, ngụ ngôn, thơ tình yêu.
Các tác phẩm tiêu biểu đáng kể đến trong thời kì này là các tác phẩm với
nội dung:
Ẩn chứa yếu tố huyền thoại, thần kì như: Người bị đắm tàu, Tụng ca dâng

thần Osiris.
Phổ biến nhất là văn học giáo huấn dưới dạng các lời khuyên dạy: Lời
khuyên dạy của vua thành Hêrácnêôpôlít, Lời khuyên dạy của Amenemkhat.
Bên cạnh đó là sự xuất hiện của những tác phẩm đề cao cuộc sống trần
gian, tỏ thái độ ngờ vục đối với những tín điều về thế giới bên kia như: Bài ca
của người chơi đàn hạc. Tiêu biểu là bài thơ: Cuộc đối thoại của một kẻ thất
vọng với linh hồn của mình. Bài thơ nói về nỗi bi oan sâu sắc của một người khi
thấy cuộc đời toàn những điều đau khổ. Người này muốn tìm tới cái chết, coi đó
là một sự giải thoát khỏi những khổ đau nhưng lại không hoàn toàn tin rằng có
“thế giới bên kia”. Trong bài thơ, những lời lẽ nghi ngờ về sự tồn tại của một
cuộc sống vĩnh hằng ở “thế giới bên kia” tương phản sâu sắc với thế giới quan
tôn giáo truyền thống. Có thể nói toàn bộ hệ thống các quan niệm tôn giáo – ma
thuật thống trị lúc đó đã được trình bày trong sự hoài nghi của tác giả bài thơ
độc đáo này.
Các tác phẩm có tính chất chính luận như Tiên tri của Nerferty, Châm ngôn
Amenemkhat I; Truyện về Sinuhet .Trong đó, truyện về Sinuhet là một tác phẩm
văn học lí thú. Truyện kể về một viên đại thần chạy trốn khỏi Ai cập vì sợ bị liên
lụy trong một âm mưu thoán đoạt ngôi báu. Sinuhet tới sa mạc Xinai và suýt bị
chết vì đói và khát ở đó. Được những người du mục cứu thoát, Sinuhet đi tiếp

6


tới Palextin. Ở đó, Sinuhet kết bạn với tù trưởng của một bộ lạc và lấy con gái
của ông này. Sau khi giành chiến thắng sau một cuộc đấu kiếm với một người
bản xứ giầu, Sinuhet trở lên giàu có. Mặc dù đã có gia đình êm ấm nhưng
Sinuhet lại bị nỗi nhớ quê hương giày vò. Sinuhet đã gửi đơn xin pharaong tha
thứ và quay trở về Ai cập. Rất có thể đây là một câu chuyện có thật đã được cải
biến. Truyện về Sinuhet đã trở thành một tác phẩm cổ điển của văn học Ai Cập.
Về nội dung phản hiện thực lịch sử thì có tác phẩm nổi bật là Hùng biện của

Ipuwer (bức tranh mô tả bạo lực đảo lộn xã hội và tác giả nhin nó từ quan điểm
giới quý tộc).
3.

Văn học thời kì tân vương quốc trở đi

Tân Vương quốc là thời kỳ phát triển thịnh vượng đối nội và đối ngoại của
Ai Cập. Tất cả đều được phản ánh cả trong tôn giáo lẫn trong văn hóa với nghĩa
rộng nhất của từ này, và trong văn học. Vì vậy văn học thời kỳ này phong phú và
đa dạng hơn văn học thời Trung Vương quốc rất nhiều, và các tác phẩm cũng
được lưu giữ tốt hơn. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là những truyền thống
cổ đại đã bị mất đi và mọi thành tựu trước kia bị quên lãng. Ngược lại, chúng
được vận dụng thành công trong những điều kiện lịch sử mới.
Thời kì này phát triển nhiều thể loại, nhưng nổi bật nhất là thơ và truyện kể:
Thơ ca tụng thần Aton. Việc thờ Amon bị bãi bỏ, và thần tối cao trở thành Aton,
tượng trưng cho mặt trời. Tụng ca không có những ngoại đề thần thoại, không
nhắc đến những thần linh khác. Theo tụng ca, Aton là thần của người Ai Cập và
của các dân tộc khác, một vị thần ân nhân, cội nguồn của ánh sáng thể chất và
ánh sáng tinh thần. Sau khi Akhnaton chết và các vua kế vị kề sau cũng chết, thì
việc thờ thần Aton bị bãi bỏ hoàn toàn, và vị thần cổ đại Amon lại trở thành chúa
tể trong hệ thống thần linh của Ai Cập , tuy nhiên nhiều phẩm chất của Aton
được gán vào cho Amon, và trong tụng ca dành cho Amon ta có thể thấy những
hình dung từ rất gợi nhớ đến tính cách của Aton: “chúa tể của chân lý, cha của

7


các thần, đấng sinh thành của con người, người tạo nên súc vật, cỏ cây […],
người mà mọi thần linh đều tỏ lòng tôn kính”, v.v..
Bên cạnh những tụng ca, một kiệt tác của văn chương tôn giáo Ai Cập thời

đại Tân Vương quốc là chương thứ 125 của cuốn sách có tên “Tử thư”. “Tử thư”
là tên của một tuyển tập lớn các tác phẩm dành cho những người chết với những
nội dung khác nhau, sáng tác nhằm mục đích bảo đảm cho sự bất tử không chỉ
cho vua như :“Những văn bản kim tự tháp”
Trong thời đại Tân Vương quốc một số cốt truyện thần thoại trở thành cốt
truyện của những tác phẩm cổ tích được sáng tác để giải trí. Các tác phẩm thời
kì này thường ghi lại cuộc sống, tiểu sử , lời lẽ của quý tộc quan lại hoặc phản
ánh đời sống hoặc khát vọng của nhân dân lao động, đề cập đến nhiều mặt của
đời ống xã hội. Thể loại thơ thì ngày càng thịnh hàng, xuất hiện thơ tình yêu.
Chẳng hạn như thần thoại về Osiris và Isis, Truyện về hai anh em, Truyện chân
và giả, Truyện về chàng hoàng tử phải chết, Truyện bóng ma, ….
Quả thực, văn học của văn minh Ai cập Cổ đại đã có biết bao nhiêu thành
tựu văn học ra đời, nhưng cho đến giờ chỉ còn lại số nhỏ trong kho tàng văn học
đó được tìm thấy, được lưu lại, nhưng nó đã chứng tỏ được khả năng sáng tạo
lớn lao của người Ai Cập cổ xưa. Tuy nhiên, trong nội dung văn học Ai Cập cổ
đại cũng nổi lên một hạn chế đáng chú ý, đó là tư tưởng tôn giáo, triết lí thần bí
thấm đượm trong hầu hết các tác phẩm.

KẾT LUẬN
Qua mốt số phân tích trên, nhóm em đã học hỏi thêm được rất nhiều về
thành tựu văn học của Ai Cập cổ đại nói riêng cũng như của nền văn minh Ai
Cập cổ đại nói chung. Có thể thấy Ai Cập cổ đại có một kho tàng văn học khá
phong phú. Các câu chuyện đều có ý nghĩa tích cực, nhân văn, mang tính chất
răn đe, giáo huấn, dạy dỗ con người phải sống sao cho tốt đẹp, đúng đạo lí và
khuyến khích tinh thần vươn lên của con người trong xã hội. Bên cạnh đó cũng
có những tác phẩm phản ánh hiện thực, biến động lớn trong xã hội thời đó.

8



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1.
2.
3.
4.

Giáo trình Lịch sử Văn minh thế giới
Lịch sử thế giới cổ đại- NXB giáo dục Việt Nam
Lịch sử Văn hóa thế giới cổ trung đại – nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
/>
5.

ai-cap-co-dai-2013221101323347.chn
s/documents/van-minh-ai-cap-thoi-ky-trung-vuong-

6.

quoc.html
/>
7.

9


PHỤ LỤC
1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế
Ai Cập là vùng đồng bằng dài và hẹp, ở vùng đông bắc châu Phi, nằm dọc
theo vùng hạ lưu của lưu vực sông Nin. Sông Nin, bắt nguồn từ vùng xích đạo
châu Phi, là một trong những con sông lớn nhất trên thế giới, dài 6497 km, với

bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải, nhưng phần chảy qua Ai Cập chỉ dài khoảng
7000 km. Miền đất đai do sông Nin bồi đắp chỉ rộng khoảng 15 – 25 km, ở phía
bắc có nơi rộng đến 50 km vì ở đây sông Nin chia làm nhiều nhánh trước khi đổ
ra biển. Hàng năm từ tháng 6 đến tháng 11, nước sông Nin dâng cao đem theo
một lượng phù sa rất phong phú, bồi đắp cho vùng đồng bằng hai bên bờ ngày
càng thêm màu mỡ. Mặt khác, sông Nin cung cấp nguồn thực phẩm thuỷ sản dồi
dào cho cư dân. Bên cạnh đó, con sông này là một trong những con đường giao
thông quan trọng nhất của vùng này. Do đó, nền kinh tế ở đây sớm phát triển.
Nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp đều phát triển từ rất
sớm, tạo điều kiện cho Ai Cập có thể bước vào xã hội văn minh sớm nhất thế
giới. Chính vì vậy, nhà sử học Hêrôđôt đã nói rằng:” Ai Cập là tặng phẩm của
sông Nin”.
Nhờ có đất đai màu mỡ, các loại hình thực vật như đại mạch, tiểu mạch, sen,
cây papyrus... sinh sôi nảy nở quanh năm. Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, quần
thể động vật đồng bằng và sa mạc rất phong phú và đa dạng, gồm có trâu bò,
hươu cao cổ, tê giác, hà mã, cá sấu, voi, hổ, báo, chim và cả các loài thuỷ sản.
Bên cạnh đó, Ai Cập còn có rất nhiều loại đá quý như đá vôi, đá badan, đá hoa
cương, đá mã não...; kim loại thì có đồng, vàng, còn sắt thì phải đưa từ bên
ngoài vào.
Về mặt địa hình, Ai Cập là một đất nước tương đối bị đóng kín, phía Bắc là
Địa Trung Hải, phía Đông giáp biển Đỏ, phía Tây giáp sa mạc Xahara, phía
Nam giáp Nubi, nơi giáp ấy là một vùng núi hiểm trở khó qua lại, chỉ có ở Đông
Bắc, vùng kênh đào Xuyê sau này, người Ai Cập mới có thể qua lại với vùng

10


Tây Á. Ai Cập chia làm hai miền rõ rệt theo dòng chảy của sông Nin từ Nam lên
Bắc. Miền Thượng Ai Cập ở miền Nam là một dải lưu vực hẹp, miền Hạ Ai Cập
nằm ở nằm ở miền Bắc là một đồng bằng hình tam giác. Hơn 90% đất đai của Ai

Cập là sa mạc. Phần lớn cư dân Ai cập sống ở châu thổ sông Nin. Khí hậu mùa
đông ôn hoà, mùa hạ nóng và khô. Vùng ven biển Alêchxanđơria có lượng mưa
lớn nhất: 200mm. Vùng cạnh biển Đỏ hầu như không có mưa. Nhiệt độ trung
bình tháng giêng ở miền bắc là 12 độ, miền nam là 15 – 16 độ; tháng bảy từ 25 –
26 độ và 30 – 34 độ.
Ai Cập nằm ở một vị trí địa lý đặc biệt nên có vị trí địa – chính trị quan
trọng. Ai Cập là nơi giao nhau của 3 châu lục: Á, Phi, Âu. Tại đây, 3 châu lục
hoà nhập quanh một biển trung gian - Địa Trung Hải – nơi có thể nối liền hoặc
chia cắt 3 đại dương: Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương. Đó là
vị trí thuận lợi cho việc đi lại, giao lưu với các châu lục khác. Nhờ đó, các hoạt
đông trao đổi thương mại, kinh tế, văn hoá... rất phát triển và luôn được cải
thiện.
Cư dân chủ yếu của Ai Cập ngày nay là người Arập, nhưng thời cổ đại, cư
dân ở đây là người Libi, người da đen và có thể có cả người Xêmit di cư từ châu
Á tới. Con người đã xuất hiện và sinh sống ở lưu vực sông Nin từ thời đồ đá cũ.
Những tài liệukhoa học hiện đại đã xác minh rằng người Ai Cập thời cổ là
những thổ dân châu Phi, hình thành trên cơ sở hỗn hợp rất nhiều bộ lạc. Những
thổ dân này đi lại săn bắn trên lục địa, khi đến vùng đồng bằng sông Nin, họ
định cư ở đây và theo nghề trồng trọt và chăn nuôi từ rất sớm. Về sau chỉ có một
chi của bộ tộc Hamit từ Tây Á xâm nhập hạ lưu sông Nin, chinh phục thổ dân
người châu Phi ở đây. Trải qua một quá trình hỗn hợp lâu dài, người Hamit và
thổ dân ở đây đã đồng hoá với nhau, hình thành ra một bộ tộc mới, chính là
người Ai Cập. Họ thuộc chủng tộc Môngôlôit và Nêgrôit. Người Ai Cập chỉ có
một ngôn ngữ chính là tiếng Arập. Cấu trúc làng theo chiều dọc. Các thành viên
trong xã hội không được bình đẳng. Thức ăn của họ là lúa mì, lúa mạch, đậu, trái
cây : táo, quả hạnh, quả đấu là thức ăn phụ; thịt gia súc, thịt thú hoang : hươu,
lợn, lừa rừng, các loại sữa, trứng và thuỷ sản. Người Ai Cập ưa phục tùng, thích

11



ra lệnh. Họ cần cù chăm chỉ. Sống bên cạnh sa mạc và sông Nin nên họ có tính
cách chịu đựng, kiên nhẫn, dũng cảm, liều lĩnh. Họ là những người tháo vát và
lanh lợi.
Hình 1: Kim Tự Tháp và tượng nhân sư nổi tiếp khắp thế giới của Ai Cập.

2. Người Ai Cập bị ám ảnh bởi cái chết

Tìm hiểu về Ai Cập cổ đại với các kim tự tháp, xác ướp và các vị thần, thật
dễ dàng để đi đến kết luận họ bị ám ảnh bởi cái chết. Cách thức mà người Ai
Cập mai táng thực sự là một cách để tôn vinh cuộc sống. Ví dụ, những hoạ tiết

12


minh họa bên trong các ngôi mộ là buổi lễ thờ cúng nông nghiệp, săn bắn và câu
cá. Hơn nữa, các đồ trang sức đắt tiền được chôn cùng với người Ai Cập đã giúp
họ tiếp cận với thế giới bên kia, nơi họ tiếp tục công việc hiện tại của họ mà
không gặp bất kỳ khó khăn nào. Ướp xác là một cách để giữ cho xác chết sống
động như thật, sẵn sàng cho hình thức lý tưởng hóa cuộc sống hàng ngày. Rõ
ràng là người Ai Cập bị ám ảnh bởi cuộc sống, không phải là cái chết
3. Hình ảnh tử thư

13


Hình 4. Những phát minh của người Ai Cập

14



15



×