Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Thiết kế và thương mại hóa hai chương trình du lịch về đêm dành cho khách du lịch nội địa tại công ty TNHH du lịch kết nối huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 82 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

Lời Cảm Ơn
Bài báo cáo khóa luận tốt nghiệp này là thành quả của quá
trình nỗ lực, phấn đấu và rèn luyện của tôi khi học tập tại mái
trường Khoa Du Lịch - Đại Học Huế.
Để hoàn thành bài báo cáo này, ngoài sự cố gắng của bản
thân còn là sự giúp đỡ từ phía gia đình, thầy cô, bạn bè và đơn vị
thực tập.
Đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn chân thành nhất đến quý
Thầy giáo, Cô giáo giảng dạy tại Khoa Du Lịch - Đại Học Huế đã
tận tình dạy dỗ tôi trong suốt thời gian qua. Xin cảm ơn Lãnh đạo
Khoa Du Lịch - Đại Học Huế, toàn thể thầy cô bộ môn Lữ Hành đã
tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành tốt bài báo cáo của mình.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến Th.s Hoàng Thị
Mộng Liên, là người đã trực tiếp hướng dẫn, nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình làm bài báo cáo khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin cảm ơn công ty TNHH Du lịch Kết nối Huế đã tạo
điều kiện thuận lợi để tôi làm quen với thực tiễn và nghiên cứu,
cảm ơn các anh chị làm việc tại công ty đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo
điều kiện cho tôi thực tập, điều tra, thu thập số liệu, tài liệu phục
vụ cho việc nghiên cứu đề tài khóa luận.
Mặc dù đã có sự cố gắng song đề tài không thể tránh khỏi
những thiếu sót.
Kính mong quý Thầy Cô giáo góp ý để đề tài được hoàn thiện
hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 5 năm 2017
Sinh viên thực hiện



Nguyễn Thị Thúy

LỜI CAM ĐOAN
1

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

1

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

Tôi cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập
và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề tài
nghiên cứu khoa học nào.
Ngày … tháng … năm …
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thúy

2

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

2


K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên
MỤC LỤC

3

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

3

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ THUẬT NGỮ

TPP

Trans - Pacific Partnership Agreement
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

ACE


ASEAN Economic Community
Cộng đồng Kinh tế ASEAN

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TCDL

Tổng cục du lịch

TP

Thành phố

CP

Chính phủ

ĐVT

Đơn vị tính

%

Phần trăm

4


SVTH: Nguyễn Thị Thúy

4

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

DANH MỤC CÁC BẢNG

5

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

5

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

6


SVTH: Nguyễn Thị Thúy

6

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa, du lịch đã được ghi nhận như là một sở thích, một hoạt
động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã trở thành
một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa, xã hội ở các
nước. Về mặt kinh tế, du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh
tế quan trọng của nhiều nước. Các lợi ích kinh tế mà du lịch mang lại là
điều không ai có thể phủ nhận. Du lịch Việt Nam trong thời gian qua
cũng đã đóng góp rất nhiều cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của
đất nước. Tốc độ tăng trưởng hơn 14% một năm, gần gấp hai lần tốc độ
tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.
Trong thời gian qua, loại hình du lịch về đêm đang nhận được
nhiều sự chú ý của các nhà quy hoạch du lịch. Các chương trình, các
hoạt động du lịch về đêm lần lượt được khai thác tại nhiều địa phương
trong cả nước. Huế luôn được biết đến là một thành phố du lịch, thành
phố Festival của cả nước. Hằng năm lượng khách du lịch tới Huế luôn
duy trì ổn định và đang có xu hướng tăng trưởng trong những năm gần
đây. Tuy nhiên với thời hạn chương trình du lịch chỉ kéo dài trong ngày,
và thường kết thúc ngay vào buổi chiều, thì khoảng thời gian du khách

rảnh vào buổi tối ở Huế là rất lớn. Vào khoảng thời gian này, du khách
không có lịch trình, cũng không có cơ hội để chi tiêu. Các hoạt động
tham quan, vui chơi giải trí về đêm ở Huế khá ít và rời rạc, gây nên khó
khăn cho du khách khi muốn tham quan tìm hiểu khám phá Huế.
Ngành du lịch phát triển mạnh mẽ kéo theo đó là sự xuất hiện của
hàng loạt các công ty kinh doanh du lịch. Sự phát triển về số lượng cũng
như quy mô các doanh nghiệp du lịch nói chung và các công ty lữ hành
nói riêng đã tạo nên sự phát triển và hình ảnh chuyên nghiệp của du lịch
Việt Nam. Nhưng đồng thời cũng tạo ra áp lực cạnh tranh rất lớn giữa
các công ty lữ hành. Để có thể tồn tại và phát triển, các công ty lữ hành
luôn phải nổ lực hết mình đổi mới sản phẩm, tạo ra sự khác biệt để thu
hút khách. Điều đó lại càng trở nên quan trọng và bức thiết hơn đối với
SVTH: Nguyễn Thị Thúy

7

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

một công ty kinh doanh lữ hành còn khá mới như công ty TNHH Du lịch
Kết nối Huế.
Xuất phát từ những vấn đề đó cũng như nhận thức được tầm quan
trọng và nhu cầu bức thiết trong việc tạo ra những sản phẩm du lịch mới
tại công ty TNHH Du lịch Kết nối Huế. Nên tôi đã chọn đề tài “ Thiết
kế và thương mại hóa hai chương trình du lịch về đêm dành cho
khách du lịch nội địa tại công ty TNHH Du lịch Kết nối Huế” làm đề

tài nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung
Thiết kế và thương mại hóa hai chương trình du lịch về đêm dành
cho khách du lịch nội địa tại công ty TNHH Du lịch Kết nối Huế.
2.2 Mục tiêu cụ thể
-

Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về các vấn đề liên quan

đến thiết kế và thương mại hóa chương trình du lịch tại công ty lữ hành.
- Thiết kế và thương mại hóa hai chương trình du lịch về đêm
dành cho khách du lịch nội địa tại công ty TNHH Du lịch Kết nối Huế.
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng thiết kế và
thương mại hóa chương trình du lịch về đêm tại công ty TNHH Du lịch
Kết nối Huế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài thiết kế và thương mại hóa hai chương trình du lịch về đêm
tại công ty TNHH Du lịch Kết nối Huế.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung
Đề tài tập trung thiết kế và thương mại hóa hai chương trình du lịch
về đêm tại công ty TNHH Du lịch Kết nối Huế thông qua số liệu sơ cấp
được thu thập thông qua khảo sát khách du lịch nội địa của công ty dựa
trên những nhận xét, nhu cầu của khách du lịch và những tiềm năng hiện
có tại Thành phố Huế .

SVTH: Nguyễn Thị Thúy


8

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

- Về thời gian
Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 06/02/2017 đến
06/05/2017.
- Về không gian
Đề tài tập trung nghiên cứu trong phạm vi thành phố Huế
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
4.1 Phương pháp thu thập số liệu
- Số liệu thứ cấp: Thu thập từ các bộ phận của công ty, đó là các
tài liệu, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, cơ cấu tổ chức, tình hình
hoạt động …. của công ty qua 3 năm (2014 - 2016) do bộ phận kế toán
tài chính của công ty cung cấp, bên cạnh đó còn thu thập một số số liệu,
thông tin liên quan từ sách, báo, tạp chí và Internet.
- Số liệu sơ cấp: Điều tra phỏng vấn khách du lịch nội địa của
công ty. Sử dụng thang đo Likert theo năm mức độ:
1) Rất không quan trọng
4) Quan trọng
2) Không quan trọng
5) Rất quan trọng
3) Bình thường
- Các loại thông tin thu thập: Những đặc điểm thông tin tiêu dùng

của khách du lịch nội địa. Những đánh giá, mong muốn, nhu cầu của
khách du lịch đối với các yếu tố: Mức giá, các hoạt động trong chương
trình du lịch về đêm...
- Xác định kích cỡ mẫu
Xác định kích cỡ mẫu theo công thức tính kích cỡ mẫu của Linus
Yamane

Trong đó:
n: là kích cỡ mẫu
N: kích thước của tổng thể
e: sai số tiêu chuẩn
Ta có, N là số lượng khách du lịch của công ty năm 2016 là 1 412
lượt khách. Với khoảng tin cậy là 90%, nên ta có sai số tiêu chuẩn e =
0.1
SVTH: Nguyễn Thị Thúy

9

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

 Quy mô mẫu của đề tài là 94 mẫu.

4.2 Phương pháp phân tích so sánh
Tiến hành phân tích so sánh giá trị tương đối và giá trị tuyệt đối của
các chỉ tiêu qua các năm.

4.3 Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Phương pháp phân tích thống kê bằng phần mềm SPSS 20.0 để
đảm bảo độ tin cậy và chính xác cao thông qua thống kê về tần suất
(Frequency), phần trăm (Percent), trung bình (Mean)
Kiểm định mối liên hệ giữa hai biến định tính Crosstab
Xem xét sự khác nhau về ý kiến đánh giá của khách hàng thông
qua phân tích phương sai một yếu tố (Oneway ANOVA)
Đánh giá độ tin cậy của thang đo Likert.
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và
phụ lục, khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tài liệu về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thiết kế và thương mại hóa hai chương trình du lịch về
đêm tại công ty TNHH Du lịch Kết nối Huế.
Chương 3: Giải pháp và định hướng về thiết kế và thương mại hóa
chương trình du lịch về đêm tại công ty TNHH Du lịch Kết nối Huế.
6. Hạn chế của đề tài.
Hạn chế lớn của đề tài chưa phân tích sâu vào hoạt động của công
ty, chưa đánh giá được hiệu quả hoạt động kinh doanh, lợi nhuận của
công ty. Nguyên nhân là do giới hạn thời gian thực tập, hạn chế về mặt
nguồn thông tin.
Một hạn chế nữa là do chỉ là một sinh viên thực tập, chưa có đủ
trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong việc thiết kế cũng như
thương mại hóa chương trình du lịch. Đề tài hầu như chỉ dựa trên lý
thuyết để xây dựng, số bảng hỏi phát ra cho du khách còn hạn chế, chưa
có đủ trình độ để phân tích sâu vào ý kiến của du khách.

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

10


K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VỀ VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU

1.1 Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Khái niệm du lịch
Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng phổ biến, một nhu
cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa - xã hội của các nước. Tuy
nhiên, từ khi xuất hiện đến nay, do sự khác biệt về hoàn cảnh và góc độ
nghiên cứu nên đã có các định nghĩa khác nhau về du lịch được đưa ra.
Tại hội nghị liên hợp quốc về du lịch họp tại Roma - Italia (21/8 05/9/1963), các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về du lịch: “Du lịch là
tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hiện tượng kinh tế bắt
nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên
ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa
bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”. [9]
Theo Pirogionic, 1985 khái niệm về du lịch được xác định như sau:
“Du lịch là hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan đến sự di
chuyển của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi,
chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức
–văn hóa hoặc thể thao kèm theo đó là việc tiêu thụ các giá trị về tự
nhiên, kinh tế, văn hóa lịch sử”[9]
Tổ chức du lịch thế giới WTO đưa ra khái niệm về du lịch năm
1993: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt

động kinh tế bắt nguồn từ những cuộc hành trình và lưu trú của con
người ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ với mục đích hòa bình”.
[9]
Theo các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội
đơn thuần mà nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Nhà kinh tế học
Picara - Edmod đưa ra định nghĩa: “Du lịch là việc tổng hoà việc tổ chức
và chức năng của nó không chỉ về phương diện khách vãng lai mà chính
về phương diện giá trị do khách chỉ ra và của những khách vãng lai

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

11

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

mang đến với một túi tiền đầy, tiêu dùng trực tiếp hoặc gián tiếp cho các
chi phí của họ nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết và giải trí.”[9]
Khác với quan điểm trên, các học giả biên soạn bách khoa toàn thư
Việt Nam đã tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng
biệt. Theo các chuyên gia này, nghĩa thứ nhất của từ này là “một dạng
nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với
mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh…”. Theo định
nghĩa thứ hai, du lịch được coi là “một ngành kinh doanh tổng hợp có
hiệu quả cao về nhiều mặt nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền
thông lịch sử và văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu

đất nước, đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình, về
mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có
thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.
Mặc dù có nhiều quan điểm, định nghĩa về du lịch được đưa ra, tuy
nhiên tại nước ta, khái niệm du lịch được đông đảo mọi người công nhận
đó là định nghĩa du lịch được nêu ra trong Luật du lịch được Quốc hội
thông qua năm 2005: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến di
chuyển của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm
đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định”.[3]
1.1.2. Khách du lịch
1.1.2.1. Khái niệm khách du lịch
o Theo khoản 1 điều 4 luật du lịch Việt Nam cũng đã quy định
“Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ
trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi
đến”[3]
o Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO ) thì khách du lịch có những
đặc trưng sau:
- Là người đi khỏi nơi cư trú của mình.
- Rời khỏi nơi cư trú trên 24 giờ.
- Không đi du lịch với mục đích kinh tế.

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

12

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

- Khoảng cách tối thiểu từ nhà tới điểm đến (từ 40 - 50 dặm) tùy
vào khái niệm của từng nước.
1.1.2.2. Phân loại khách du lịch
Khách du lịch gồm 2 nhóm: khách du lịch nội địa và khách du lịch
quốc tế.
o Khách du lịch quốc tế
Khoản 3, Điều 34, Luật Du lịch Việt Nam (2005) đã khái niệm
khách du lịch quốc tế như sau: “Khách du lịch quốc tế là người nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch; công
dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài
du lịch.”[3]
Theo tổ chức du lịch thế giới ( WTO): “Khách du lịch quốc tế là
một người lưu trú ít nhất một đêm nhưng không quá một năm tại một
quốc gia khác với quốc gia thường trú với nhiều mục địch khác nhau
ngoài hoạt động để được trả lương ở nơi đến.”[9]
o Khách du lịch nội địa
Khoản 2, Điều 43 Luật Du lịch Việt Nam quy định “Khách du lịch
nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam
đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ tại Việt Nam”[3]
Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO): “Khách du lịch nội địa là
người đang sống trong một quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi đến một
nơi khác không phải là nơi cư trú thường xuyên trong quốc gia đó, trong
thời gian ít nhất là 24 giờ và không quá một năm với các mục đích có
thể là giải trí, công vụ, hội họp, thăm gia đình ngoài hoạt động làm việc
để lĩnh lương ở nơi đến.”[9]
1.1.3. Nhu cầu du lịch
1.1.3.1. Khái niệm nhu cầu

Từ lâu nhu cầu đã là đối tượng nghiên cứu của hầu hết các ngành
khoa học nghiên cứu sinh học và xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế - xã
hội vấn đề về nhu cầu được tìm thấy trong nghiên cứu của các nhà khoa
học tên tuổi như Jeremy Bentham, Benfild, William Stanley Jevons, John
SVTH: Nguyễn Thị Thúy

13

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

Ramsay McCulloch, Edward S. Herman. Đó là hiện tượng phức tạp, đa
diện, đặc trưng cho mọi sinh vật. Sự hiện diện của nhu cầu ở bất kì sinh
vật nào, ngay cả ở bất kì xã hội nào được xem như cơ thể sống phức tạp,
là đặc điểm để phân biệt chủ thể đó với môi trường xung quanh.
Cho tới nay chưa có một định nghĩa chung nhất cho khái niệm nhu
cầu. Các sách giáo khoa chuyên ngành hay các công trình nghiên cứu
khoa học thường có những định nghĩa mang tính riêng biệt.
Theo Từ điển tóm tắt xã hội học tiếng Nga: “Nhu cầu là đòi hỏi
điều gì đó cần thiết để đảm bảo hoạt động sống của cơ thể, của nhân
cách con người, của nhóm xã hội hoặc toàn xã hội nói chung; là nguồn
thôi thúc nội tại của hành động”.
Theo các chuyên gia tâm lý học, nhu cầu là cái tất yếu, tự nhiên, nó
là thuộc tính tâm lý, là sự đòi hỏi tất yếu của con người để tổn tại và phát
triển. Nếu được thoả mãn sẽ gây cho con người những xúc cảm dễ chịu,
thoải mái (xúc cảm tích cực); trong trường hợp ngược lại, sẽ gây nên

những xúc cảm khó chịu, bực bội (xúc cảm tiêu cực).
Theo định nghĩa của Philip Kotler: Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt
một cái gì đó mà con người cảm nhận được. Như vậy cảm giác thiếu hụt
một cái gì đó mà con người cảm nhận được đó là một trạng thái đặc biệt
của con người, nó xuất hiện khi con người tồn tại, sự thiếu hụt ấy đòi hỏi
phải được thoả mãn, bù đắp. [11]
1.1.3.2. Phân loại nhu cầu
Xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống của con người ngày càng
được nâng cao, thì các loại nhu cầu càng đa dạng.
Có thể chia nhu cầu thành 3 dạng cơ bản: Nhu cầu vật chất, nhu
cầu tình cảm và nhu cầu xã hội.
o Nhu cầu vật chất:
Nhu cầu vật chất của con người có liên quan chặt chẽ với hoạt
động của cơ thể để sống, còn gọi là nhu cầu sơ đẳng hay sinh lý, bẩm
sinh, ăn uống, nuôi dưỡng kể cả nhu cầu nước, oxy bài tiết, nhu cầu mặc,

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

14

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

nhu cầu có nhà ở, có chỗ núp để cơ thể được bảo vệ, ấm áp, nhu cầu hoạt
động, nghỉ ngơi và hoạt động tình dục …
o Nhu cầu tình cảm

Nhu cầu này được thể hiện phổ biến nhất là ở việc được yêu và
được yêu người khác, được tán thành, được thừa nhận, được coi trọng và
kính trọng. Nhu cầu cảm thấy mình là xứng đáng, được người khác
muốn, được người khác cần; nhu cầu được làm việc, được sáng tạo.
Mỗi người đều thấy rằng mình có ít nhất vài nét mà xã hội cho là
đáng giá, mình được coi trọng và tôn trọng và từ đó có lòng tin, tự trọng
và khẳng định mình.
o Nhu cầu xã hội
Nảy sinh từ trong nền văn hoá, trong xã hội mà người đó là thành
viên. Phổ biến là nhu cầu đồng nhất hoá, theo hình ảnh của bố mẹ và các
thành viên trong gia đình, đồng hoá với bạn cùng lứa ở tuổi thanh thiếu
niên, thuộc về một đoàn thể, một nhóm nào, chấp nhận một số giá trị từ
cách mặc quần áo, đầu tóc, nói năng.... nếu không, có thể bị cách biệt, xa
lánh trong quan hệ. Từ lúc còn rất bé, người mẹ trong khi thoả mãn nhu
cầu vật chất, ăn uống, vệ sinh, bế bồng, cũng là người thầy dạy cho bé
phong tục tập quán quan trọng trong gia đình, họ hàng, trong xã hội,
hành trang đi vào cuộc sống lao động của người lớn. Được khuyến khích
sống trong xã hội, con người có nhu cầu được học tập, giáo dục để chuẩn
bị, ban thưởng vì thành tích học tập làm cho bé cảm thấy an toàn, hứng
thú để phát triển mở rộng nhu cầu học tập, nắm thêm kiến thức, càng
cảm thấy vững vàng hơn. Nếu thường xuyên bị chế diễu, bị mắng trong
học tập dẫn đến mất can đảm, có thể có quan niệm sai về kiến thức, giáo
dục, đi đến sợ hãi, coi khinh hoặc ghen tỵ với những người khác thành
công hơn mình.

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

15

K47 QLLH



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

Nhu cầu tôn giáo và tín ngưỡng cũng quan trọng, vì đặc điểm của
con người là tin ở những sức mạnh, lực lượng bên ngoài mình, mạnh
hơn mình (Chúa trời, Thánh Allah, Đức Phật....). Từ bé đã học niềm tin
và sự thực hành tôn giáo, nghi lễ trong gia đình.
Nhu cầu giải trí, kết hợp với vui đùa thích thú cũng là khía cạnh cốt
yếu. Từ bé, trẻ có nhu cầu giải trí được thoả mãn bằng cách chơi với
những người khác, vui thú theo một cách xã hội chấp nhận được, để
được hài lòng. Nếu một người không được phép chơi, thì quá nghiêm
nghị làm người khác tránh. Nếu được phép chơi quá nhiều, có thể không
trở thành đủ nghiêm nghị đóng vai trò xã hội, trong gia đình. Nếu bị phạt
do chơi, có thể cảm thấy tội lỗi, lo lắng khi cố gắng để giải trí.[11]
1.1.3.3. Nhu cầu du lịch
Nhu cầu du lịch là sự mong muốn của con người đi đến một nơi
khác với nơi ở thường xuyên của mình để có được những xúc cảm mới,
trải nghiệm mới, hiểu biết mới, để phát triển các mối quan hệ xã hội,
phục hồi sức khoẻ, tạo sự thoải mái dễ chịu về tinh thần.
Về cơ bản, nhu cầu du lịch được phân làm 3 nhóm: nhu cầu thực tế,
nhu cầu bị kìm chế và nhu cầu không xuất hiện.
o Nhu cầu thực tế
Nhu cầu thực tế là nhu cầu du lịch được thoả mãn, được thực hiện
trong thực tế. Nhu cầu thực tế được thể hiện qua chỉ tiêu: số lượt khách
đi du lịch trong một khoảng thời gian nào đó.
o Nhu cầu bị kìm chế
Nhu cầu bị kìm chế là nhu cầu của một bộ phận dân cư muốn đi du

lịch nhưng không thực hiện được vì một lý do nào đó.
Tùy thuộc vào nguyên nhân, nhu cầu bị kìm chế được chia làm 2
bộ phận:
- Nhu cầu tiềm tàng: bao gồm những người thích đi du lịch nhưng
chưa có khả năng thực hiện do những nguyên nhân chủ quan. Những

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

16

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

người này sẽ đi du lịch trong tương lai khi thu nhập của họ tăng lên hoặc
họ có thời gian rảnh rỗi nhiều hơn.
- Nhu cầu bị trì hoãn: bao gồm những người đã có nhu cầu đi du
lịch nhưng chuyến đi của họ bị hoãn lại do các nguyên nhân khách quan
xuất hiện trong một thời gian ngắn như: hoàn cảnh gia đình, khó khăn
trở ngại từ phía cung (thiếu phòng ngủ, thiếu phương tiện vận chuỵển,
thời tiết xấu,....) hoặc do cơ chế chính sách của nước nơi khách du lịch
cư trú. Nhu cầu thuộc bộ phận này sẽ trở thành nhu cầu thực tế trong
tương lai gần khi các nguyên nhân khách quan được loại trừ.
o Nhu cầu không xuất hiện (Không có nhu cầu)
Gồm những người có đủ điều kiện nhưng không muốn đi du lịch và
những người trong suốt cuộc đời không thể đi du lịch vì lý do hoàn cảnh
gia đình, sức khỏe, lối sống, văn hóa, …

Ngoài ra, nhu cầu trong du lịch còn có thể được phân loại theo một
số cách thức khác. Chẳng hạn, nó được phân chia thành 3 nhóm: nhu cầu
có khả năng thay thế, nhu cầu được định hướng lại và nhu cầu mới phát
sinh. [11]
1.1.4. Công ty lữ hành
1.1.4.1. Khái niệm công ty lữ hành
Theo Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 09/CP của Chính
phủ về tổ chức và quản lý các doanh nghiệp du lịch TCDL –Số
715/TCDL ngày 9/7/1994), doanh nghiệp lữ hành được định nghĩa:
“Doanh nghiệp lữ hành là đơn vị có tư cách pháp nhân, hoạch toán độc
lập được thành lập nhằm mục đích sinh lợi bằng giao dịch, kí kết các
hợp đồng du lịch và các tổ chức thực hiện chương trình Du lịch đã bán
cho khách du lịch”.
Theo giáo trình quản trị lữ hành của Th.s Nguyễn Thị Ngọc Cẩm
định nghĩa: “Công ty lữ hành là một loại doanh nghiệp đặc biệt, kinh
doanh chủ yếu trong lĩnh vực tổ chức xây dựng, bán và thực hiện các
chương trình du lịch trọn gói hay từng phần cho khách du lịch. Ngoài ra
các công ty lữ hành còn có thể tiến hành các hoạt động trung gian bán

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

17

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên


sản phẩm của nhà cung cấp du lịch hoặc thực hiện các hoạt động kinh
doanh tổng hợp khác đảm bảo phục vụ các nhu cầu du lịch khác từ khâu
đầu tiên đến khâu cuối cùng”[6]
1.1.4.2. Phân loại công ty lữ hành
Theo Tổng cục Du lịch, doanh nghiệp lữ hành bao gồm 2 loại:
Doanh nghiệp lữ hành quốc tế và doanh nghiệp lữ hành nội địa.
- Doanh nghiệp lữ hành quốc tế: Là doanh nghiệp có trách nhiệm
xây dựng bán các chương trình du lịch trọn gói hoặc từng phần theo yêu
cầu của khách để trực tiếp thu hút khách đến Việt Nam và đưa công dân
Việt Nam, người nước ngoài cư trú ở Việt Nam đi du lịch. Thực hiện các
chương trình du lịch đã bán hoặc ký hợp đồng uỷ thác từng phần, trọn
gói cho các doanh nghiệp lữ hành nội địa.
- Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa: Là doanh nghiệp có
trách nhiệm xây dựng bán và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch
nội địa, nhận uỷ thác để thực hiện dịch vụ, chương trình du lịch cho
khách nước ngoài đã được các doanh nghiệp lữ hành quốc tế đưa vào
Việt Nam.
1.1.4.3. Vai trò của công ty lữ hành
o Đối với khách du lịch.
Hiện nay đi du lịch trở thành một hiện tượng phổ biến, một nhu cầu
thiết yếu với mọi người, du khách đi du lịch sẽ được tiếp cận, gần gũi
với thiên nhiên hơn, được sống trong môi trường tự nhiên trong sạch,
được tận hưởng không khí trong lành, đi du lịch giúp du khách được mở
mang thêm tầm hiểu biết về văn hoá, xã hội cũng như lịch sử của đất
nước, doanh nghiệp lữ hành sẽ giúp khách hàng thoả mãn nhu cầu đó.
- Khi mua các chương trình du lịch trọn gói, khách du lịch đã tiết
kiệm được cả thời gian và chi phí cho việc tìm kiếm thông tin, tổ chức
sắp xếp bố trí cho chuyến du lịch của họ.
- Khách du lịch sẽ được thừa hưởng những tri thức và kinh
nghiệm của chuyên gia tổ chức du lịch tại các công ty lữ hành, các


SVTH: Nguyễn Thị Thúy

18

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

chương trình vừa phong phú hấp dẫn vừa tạo điều kiện cho khách du lịch
thưởng thức một cách khoa học nhất.
- Một lợi thế khác là mức giá thấp của các chương trình du lịch:
các doanh nghiệp lữ hành có khả năng giảm giá thấp hơn rất nhiều so với
mức giá công bố của các nhà cung cấp dịch vụ du lịch, điều này đảm bảo
cho các chương trình du lịch luôn có giá hấp dẫn đối với khách.
- Một lợi ích không kém phần quan trọng là các doanh nghiệp lữ
hành giúp cho khách du lịch cảm nhận được phần nào sản phẩm trước
khi họ quyết định mua và thực sự tiêu dùng nó.
o Đối với nhà cung ứng sản phẩm du lịch.
- Doanh nghiệp lữ hành cung cấp các nguồn khách lớn, đủ và có
kế hoạch. Mặt khác trên cơ sở hợp đồng đã ký kết giữa hai bên các nhà
cung cấp đã chuyển bớt một phần rủi ro có thể xảy ra với các doanh
nghiệp lữ hành.
- Các nhà cung cấp thu được nhiều lợi ích từ các hoạt động quảng
cáo khuyếch trương của các doanh nghiệp lữ hành. Đặc biệt đối với các
nước đang phát triển như Việt Nam, khi khả năng tài chính còn hạn chế
thì các mối quan hệ các doanh nghiệp lữ hành trên thế giới là phương

pháp quảng cáo hữu hiệu thị trường du lịch quốc tế.
o Đối với người dân địa phương.
Khi lữ hành phát triển sẽ mở ra nhiều tuyến điểm du lịch, đặc biệt
là các điểm đến các địa phương. Điều này sẽ giúp dân cư địa phương mở
mang tầm hiểu biết, giúp họ có cơ hội kinh doanh và quan trọng hơn là
vấn đề giải quyết công ăn, việc làm cho người dân ở đây.
1.1.4.4. Hệ thống sản phẩm của công ty lữ hành
Sự đa dạng trong hoạt động lữ hành du lịch là nguyên nhân chủ yếu
dẫn tới sự phong phú, đa dạng của các sản phẩm cung ứng của công ty lữ
hành. Căn cứ vào tính chất và nội dung, có thể chia các sản phẩm của
công ty lữ hành thành 3 nhóm cơ bản:
o Các dịch vụ trung gian:
- Đăng ký đặt chỗ và bán vé máy bay

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

19

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

- Đăng ký đặt chỗ và bán vé trên các loại phương tiện khác: tàu
thuỷ, đường sắt, ôtô....
- Môi giới cho thuê xe ôtô và bán bảo hiểm.
- Đăng ký đặt chỗ và bán các chương trình du lịch
- Đăng ký đặt chỗ trong khách sạn

- Các dịch vụ môi giới trung gian khác.
o Các chương trình du lịch trọn gói.
- Các công ty lữ hành liên kết các sản phẩm của các nhà sản xuất
riêng lẻ thành một sản phẩm hoàn chỉnh và bán cho khách du lịch với
một mức giá gộp.
o Các hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành tổng hợp:
- Các công ty lữ hành có thể mở rộng phạm vi hoạt động của
mình, các công ty lữ hành lớn hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực có
liên quan đến du lịch.
- Kinh doanh khách sạn, nhà hàng.
- Kinh doanh các dịch vụ vui chơi, giải trí.
- Kinh doanh vận chuyển du lịch: hàng không, đường thuỷ....
- Các dịch vụ ngân hàng phục vụ khách du lịch.
1.1.5. Cơ sở thiết kế và thương mại hóa chương trình du
lịch
1.1.5.1. Chương trình du lịch
a. Khái niệm chương trình du lịch

“Chương trình du lịch là lịch trình, các dịch vụ và giá bán chương
trình được định trước cho chuyến đi của khách du lịch từ nơi xuất phát
đến điểm kết thúc chuyến đi” [6]
Theo nhóm tác giả Bộ môn Du lịch, Đại học Kinh tế Quốc dân
trong giáo trình “Quản trị kinh doanh lữ hành” thì định nghĩa chương
trình du lịch được định nghĩa như sau:
“ Chương trình du lịch trọn gói là những nguyên mẫu để căn cứ
vào đó, người ta tổ chức các chuyến du lịch đã được xác định trước. Nội
dung của chương trình du lịch thể lịch trình thực hiện chi tiết các hoạt
động từ vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí tới tham quan…
Mức giá của chuyến bao gồm giá của hầu hết các dịch vụ và hàng hóa
phát sinh trong quá trình thực hiện du lịch”.

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

20

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

b. Phân loại chương trình du lịch

Theo giáo trình “Quản trị lữ hành” của Th.s Nguyễn Thị Ngọc Cẩm
thì chương trình du lịch được phân loại như sau:
o Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh có 3 loại là các chương trình
du lịch chủ động, bị động và kết hợp.
Các chương trình du lịch chủ động: là loại chương trình mà doanh
nghiệp lữ hành chủ động nghiên cứu thị trường, xây dựng các chương
trình du lịch, ấn định các ngày thực hiện, sau đó mới tổ chức bán và thực
hiện chương trình. Chỉ có các doanh nghiệp lữ hành lớn, có thị trường ổn
định mới tổ chức các chương trình du lịch chủ động do tính mạo hiểm
của chúng.
Các chương trình du lịch bị động: là loại chương trình mà khách tự
tìm đến với doanh nghiệp lữ hành, đề ra các yêu cầu và nguyện vọng của
họ. Trên cơ sở đó doanh nghiệp lữ hành xây dựng chương trình. Hai bên
tiến hành thoả thuận và thực hiện sau khi đã được sự nhất trí thoả thuận
giữa hai bên. Chương trình du lịch theo loại này thường ít tính mạo
hiểm. Nhưng số lượng khách ít, doanh nghiệp bị động trong kinh doanh.
Các chương trình du lịch kết hợp: là sự hoà nhập của chương trình

du lịch chủ động và bị động. Doanh nghiệp lữ hành chủ động nghiên cứu
thị trường, xây dựng chương trình nhưng không ấn định ngày thực hiện.
Thông qua các hoạt động tuyên truyền quảng cáo, khách du lịch (hoặc
các công ty gửi khách) sẽ tìm đến với doanh nghiệp lữ hành. Trên cơ sở
các chương trình du lịch sẵn có, hai bên tiến hành thoả thuận và sau đó
thực hiện chương trình. Thể loại này tương đối phù hợp với điều kiện thị
trường không ổn định và có dung lượng không lớn. Đa số các doanh
nghiệp lữ hành tại Việt Nam áp dụng loại chương trình du lịch kết hợp.
[6]
o Căn cứ vào mức giá có ba loại là chương trình du lịch trọn gói,
cơ bản và tự chọn.
Chương trình du lịch theo mức giá trọn gói: bao gồm hầu hết các
dịch vụ, hàng hóa phát sinh trong quá trình thực hiện chương trình du

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

21

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

lịch và giá của chương trình là giá trọn gói. Đây là hình thức chủ yếu của
các chương trình du lịch do các công ty lữ hành tổ chức.
Chương trình du lịch theo mức giá cơ bản: chỉ bao gồm một số
dịch vụ chủ yếu của chương trình du lịch với nội dung đơn giản. Hình
thức này thường do các hãng hàng không bán cho khách du lịch công vụ.

Giá chỉ bao gồm vé máy bay, một vài tối ngủ tại khách sạn, và tiền taxi
từ sân bay tới khách sạn.
Chương trình du lịch theo mức giá tự chọn: với hình thức này
khách du lịch có thể tùy ý lựa chọn các cấp độ chất lượng phục vụ khác
nhau với các mức giá khác nhau. Cấp độ chất lượng được phục vụ trên
cơ sở thứ hạng khách sạn, mức tiêu chuẩn ăn uống hoặc phương tiện vận
chuyển. Khách có thể tự lựa chọn từng thành phần riêng lẻ của chương
trình hoặc công ty lữ hành chỉ đề nghị lựa chọn các mức khác nhau của
cả một chương trình tổng thể. Chương trình này thường ít gặp phải khó
khăn trong công việc thực hiện.
o Căn cứ vào mục đích và nội dung của chuyến du lịch.
- Chương trình du lịch nghĩ ngơi, giải trí và chữa bệnh.
- Chương trình du lịch theo chuyên đề: văn hóa, lịch sử, phong tục
tập quán,...
- Chương trình du lịch tôn giáo, tín ngưỡng.
- Chương trình du lịch thể thao, khám phá và mạo hiểm: leo núi,
lặn biển, tham quan các bản làng dân tộc.
- Chương trình du lịch đặc biệt, ví dụ như tham quan chiến trường
xưa cho các cựu chiến binh.
- Các chương trình du lịch tổng hợp là sự tập hợp của các thể loại
trên đây.
o Ngoài những tiêu thức nói trên, người ta còn có thể xây dựng
các chương trình du lịch theo các tiêu thức và thể loại sau đây:
- Các chương trình du lịch cá nhân và du lịch theo đoàn.
- Các chương trình du lịch dài ngày và ngắn ngày
- Các chương trình du lịch tham quan thành phố (City Tour) với
các chương trình du lịch xuyên quốc gia.
- Các chương trình du lịch quá cảnh.
- Các chương trình du lịch trên các phương tiện giao thông đường
bộ (ôtô, xe ngựa, xe máy, xe đạp,…), đường thủy (tàu thủy, thuyền

buồm,…), hàng không, đường sắt.
SVTH: Nguyễn Thị Thúy

22

K47 QLLH


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

Trong kinh doanh lữ hành quốc tế, người ta sử dụng một số thuật
ngữ đặc biệt nhằm thể hiện phạm vi cũng như phương thức tổ chức của
các chương trình du lịch.
- Căn cứ vào sự có mặt của hướng dẫn viên có hai loại: chương
trình du lịch có hướng dẫn (Escorted Tour) và không có hướng dẫn
( Unescorted Tour).
- Căn cứ vào số lượng khách trong đoàn có các chương trình du
lịch Quốc tế độc lập cho khách đi lẻ (Foreign Independent Tour - FIT) và
các chương trình du lịch trọn gói cho các đoàn (Group Inclusive Tour GIT).
- Căn cứ vào phạm vi du lịch có các chương trình du lịch Quốc tế
và du lịch nội địa. [6]
1.1.5.2. Thiết kế chương trình du lịch
a. Quy trình thiết kế một chương trình du lịch

Chương trình du lịch khi được xây dựng phải đảm bảo những yêu
cầu chủ yếu như tính khả thi, phù hợp với nhu cầu của thị trường, đáp
ứng những mục tiêu của công ty lữ hành, có sức lôi cuốn, thúc đẩy khách
du lịch ra quyết định mua chương trình. Để đạt được những yêu cầu đó

các chương trình du lịch được xây dựng theo quy trình gồm các bước
sau:
1) Nghiên cứu nhu cầu của thị trường (khách du lịch)
2) Nghiên cứu khả năng đáp ứng: tài nguyên, các nhà cung cấp du lịch,
3)
4)
5)
6)

mức độ cạnh tranh trên thị trường.
Xác định khả năng và vị trí của Công ty trên thị trường.
Xây dựng mục đích, ý tưởng của chương trình Du lịch.
Giới hạn quỹ thời gian và mức giá tối đa.
Xây dựng tuyến hành trình cơ bản, bao gồm những điểm du lịch chủ

yếu, bắt buộc của chương trình.
7) Xây dựng phương án vận chuyển.
8) Xây dựng phương án lưu trú, ăn uống.
9) Những điều chỉnh nhỏ, bổ sung tuyến hành trình, chi tiết hoá chương
trình với những hoạt động tham quan giải trí…
10) Xác định giá thành và giá bán của chương trình.
11) Xây dựng những quy định của chương trình du lịch.
Không phải bất cứ khi nào xây dựng một chương trình du lịch trọn
gói cũng phải trải qua lần lượt tất cả các bước trên đây. [6]

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

23

K47 QLLH



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

b. Mối quan hệ giữa nhu cầu của khách du lịch và nội dung của

chương trình du lịch

Mục đích chuyến đi
1
Yêu cầu
và chất
lượng và
thói quen

Tuyến điểm
Số lượng, cơ

5

Quỹ thời

Độ dài

cấu, chủng

Chương trình


loại dịch vụ

du lịch

tiêu dùng

thời

2

gian nhàn

gian

(CTDL)
Mức giá

Thời điểm tổ
chức

4

3

Khả năng thanh
toán

Thời điểm sử
dụng thời gian rỗi


Mô hình 1.1: Mô hình thể hiện mối quan hệ giữa nhu cầu của
khách du lịch và nội dung của chương trình du lịch. [7]
Để nắm bắt được nhu cầu của khách du lịch người ta thường phải
tiến hành các hoạt động điều tra khảo sát và nghiên cứu thị trường.
Thông thường các công ty lữ hành thường xác định nhu cầu của thị
trường khách du lịch bằng những con đường sau đây:
Nghiên cứu tài liệu: Tìm hiểu về thị trường thông qua các công
trình nghiên cứu, ý kiến chuyên gia, sách báo, tạp chí, niên giám thống
kê,…Đây là phương pháp ít tốn kém song đôi khi gặp khó khăn trong

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

24

K47 QLLH

rỗi


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Hoàng Thị Mộng Liên

việc tìm kiếm và xử lý thông tin, mức độ tin cậy, phù hợp thường không
cao.
Thông qua các công ty du lịch gửi khách và các chuyến du lịch làm
quen. Hai công ty lữ hành (gửi khách và nhận khách) sẽ trao đổi các
đoàn chuyên gia, đại diện để tìm hiểu thị trường và xác định khả năng
của mỗi bên cũng như triển vọng hợp tác. Công ty lữ hành sẽ có điều
kiện tiếp xúc trực tiếp với khách du lịch, hiểu rõ hơn nhu cầu, sở thích

của họ. Mặt khác sự trao đổi giữa hai bên sẽ làm cho các ý kiến được
đưa ra có sức thuyết phục hơn.
Các hình thức khác như điều tra trực tiếp, thuê các công ty
Marketing,…Có thể đạt hiệu quả cao, song chi phí thường khá lớn. Nội
dung của nhu cầu du lịch khá phong phú và đa dạng. Tuy vậy cũng có
thể khái quát vào các tiêu thức lớn sau đây:
Động cơ, mục đích đi du lịch của du khách: nghỉ ngơi, giải trí,
tham quan tìm hiểu, thể thao,…người ta cũng có thể đi du lịch kết hợp
nhiều mục đích.
Khả năng thanh toán nói chung và khả năng chi tiêu trong du lịch
của du khách.
Thói quen sử dụng và yêu cầu về chất lượng của các phương tiện
vận chuyển, lưu trú. Điều này phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế, xã hội và
tập quán tiêu dùng của du khách.
Các chỉ tiêu về thời gian dành cho du lịch. Có những điểm khác
biệt lớn về quỹ thời gian giữa khách du lịch công vụ thường xuyên bận
rộn với khách du lịch nghĩ ngơi tận hưởng sự bình yên an nhàn thú vị…
Những thời điểm mà khách du lịch có thể đi du lịch.
Các nội dung khác như tần số đi du lịch, thời gian trung bình cho
một chuyến du lịch, các tuyến điểm du lịch ưa thích…
1.1.5.3. Thương mại hóa chương trình du lịch
a. Giá thành của chương trình du lịch

Giá thành của một chương trình du lịch cho một chuyến cho một
khách du lịch (nếu tính cho cả đoàn khách du lịch thì gọi là tổng chi phí
của chương trình để thực hiện chuyến đi) bao gồm những chi phí trực

SVTH: Nguyễn Thị Thúy

25


K47 QLLH


×