Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Giai cấp công nhân việt nam (1975 1985) tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.14 KB, 27 trang )

A.PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Giai cấp công nhân (GCCN) là “con đẻ” của nền đại công nghiệp.
Được đại công nghiệp “tuyển lựa” từ các tầng lớp dân cư, GCCN sinh ra từ
“bào thai” dân tộc và mối quan hệ giữa nó với các giai cấp khác được hình
thành từ nguồn gốc xuất thân. Bị đẩy xuống nấc thang tận cùng của xã hội,
GCCN trở thành “tụ điểm” của mọi nguyện vọng đòi giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột mà tất cả những người lao động trong cả cộng đồng dân tộc có thể gửi
gắm, ủy thác. Nó chỉ được giải phóng khi tất cả những người lao động bị áp
bức, bóc lột trong dân tộc được giải phóng. Cuộc đấu tranh của GCCN để giải
phóng mình không tách rời cuộc đấu trang giải phóng dân tộc. Cả hai sự
nghiệp giải phóng đều hướng vào mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Vì vậy, giai cấp công nhân ngày càng cố gắng vươn lên để đảm nhận
trách nhiệm lớn lao của mình trước cả dân tộc. Từ giai cấp tự phát, giai cấp
công nhân dần đi vào có tổ chức, đấu tranh có tổ chức, có sự lãnh đạo của giai
cấp tiên phong của mình để hướng tới mục đích xóa bỏ bóc lột và thiết chế
chính trị cũ, thiết lập một chế độ xã hội mới, thiết chế mới. GCCN gắn bó với
dân tộc, gắn bó với những người bị áp bức và ngày càng hoàn thiện mình để
thông qua chính đảng của mình biến lợi ích của mình thành lợi ích dân tộc và
làm cho lợi ích dân tộc thành lợi ích của mình.
Là một bộ phận của GCCN thế giới, GCCN Việt Nam không ngừng cố
gắng để hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tiến bộ
trên thế giới. Mặt khác, GCCN Việt Nam từng bước trưởng thành để xứng
đáng với vai trò lãnh đạo. GCCN Việt Nam hòa mình với các lực lượng khác
của dân tộc, lấy sức mạnh của cả dân tộc, tập hợp các thành phần trong cả
cộng đồng quốc gia để tiến hành công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới. GCCN Việt Nam học tập lý luận, trau dồi tri thức để có đầy đủ khả năng
kết hợp những nhiệm vụ dân tộc, dân chủ trên cơ sở phát triển định hướng xã
1



hội chủ nghĩa, lãnh đạo toàn dân tộc xây dựng đất nước thực hiện dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Hoàn cảnh quốc tế đã và đang tạo ra thời cơ và thách thức mới cho sự
phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Điều quan trọng là quốc gia nào
thích nghi với tình hình mới, kịp thời điều chỉnh chiến lược phát triển cho phù
hợp với tình hình quốc tế. Trong hoàn cảnh mới, GCCN Việt Nam cũng
không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng để thích ứng với tình
hình cụ thể trong và ngoài nước. Vì vậy, hơn lúc nào hết cần phải nghiên cứu
sâu sắc hơn GCCN Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, từ đó để
hiểu quá trình phát triển và thấy được những mặt tiến bộ của GCCN nước ta.
Chính vì những lý do trên, em chọn đề tài: “Giai cấp công nhân Việt
Nam (1975-1985)” để tìm hiểu những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng giai cấp công nhân giai đoạn 1975-1985 và sự phát
triển của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn này. Đồng thời, qua đó
tìm hiểu vai trò của giai cấp công nhân trongthời kỳ đưa cả nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội .
2.Phương pháp nghiên cứu:
Trong bài tiểu luận em sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp lịch sử, Phương pháp lôgíc, Phương pháp so sánh, Phương pháp
đồng đại, phương pháp lịch đại.
3.Bố cục đề tài:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, tiểu luận còn bao gồm các chương :
Chương 1:Lý luận về GCCN Việt Nam
1.Khái niệm GCCN
2.GCCN Việt Nam
Chương 2: Sự phát triển và vai trò của GCCN Việt Nam (1975-1985)

2



1.Thực trạng GCCN Việt Nam trước 1975
2.Sự phát triển và vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam (1975-1985)
2.1.Quan điểm xây dựng giai cấp công nhân của Đảng cộng sản Việt
Nam (1975-1985)
2.2.Sự phát triển và vai trò của GCCN Việt Nam (1975-1985)
Chương 3: Một số nhận xét về sự phát triển của GCCN Việt Nam giai
đoạn 1975-1985

3


B.PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:Lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam

1.Khái niệm giai cấp công nhân:
Lênin là người có định nghĩa rõ nhất về giai cấp “Người ta gọi là giai
cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong
hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ
(thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận)
đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã
hội, và như vậy là khác nhau về cách hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít
hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn khác nhau, do chỗ
các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất
định”1.
Dưới chế độ Tư bản chủ nghĩa, GCCN là giai cấp không có tư liệu sản
xuất (vô sản ), không có vai trò gì trong tổ chức quản lý lao động xã hội, là
giai cấp làm thuê, bán sức lao động để được hưởng thụ phần của cải ít ỏi, đó
là giai cấp bị áp bức bóc lột. GCCN ra đời cùng với sự ra đời và phát triển của
nền đại công nghiệp. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848), MácĂngghen đã nhấn mạnh “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với
sự phát tiển của đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản

thân nền đại công nghiệp”2. Trong các giai cấp đương đầu với Chủ nghĩa tư
bản, chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng nhất.
GCCN là một phạm trù lịch sử, nó là con đẻ của một hoàn cảnh lịch sử
cụ thể. Cùng với tiến trình của lịch sử, sự phát triển của nền đại công nghiệp,
giai cấp công nhân cũng luôn luôn phát triển, có những đặc trưng mới.
1
2

V.I.Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, 1977, tập 39, trang 17,18
C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, tập I, trang 554

4


GCCN là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất là chủ
yếu (với trình độ trí tuệ ngày càng cao, đồng thời cũng ngày càng có nhiều
sáng chế, phát minh lý thuyết được ứng dụng ngay trong sản xuất, vì thế, giai
cấp công nhân có vai trò quyết định nhất sự tồn tại và phát triển của xã hội .
GCCN có lợi ích giai cấp đối kháng với lợi ích cơ bản của giai cấp tư
sản (giai cấp công nhân xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức bóc lột, giành
chính quyền và làm chủ xã hội , giai cấp tư sản không bao giờ tự rời những
vấn đề cơ bản đó ). Do vậy, giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt
để; là giai cấp dân tộc vừa có quan hệ quốc tế vừa có bản sắc dân tộc và chịu
trách nhiệm trước hết với dân tộc mình.
Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng riêng của giai cấp mình; đó là chủ
nghĩa Mác-Lênin phản ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời
hệ tư tưởng đó dẫn dắt giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình
nhằm giải phóng xã hội, giải phóng con người. GCCN có Đảng tiên phong
của mình là Đảng cộng sản (Đảng Mác-Lênin). Bất kỳ giai cấp công nhân
nước nào, khi đã có đảng tiên phong của nó, đều có những đặc điểm cơ bản,

chung nhất đó. Do vậy, GCCN mỗi nước đều là một bộ phận không thể tách
rời của giai cấp công nhân thế giới. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin mới
có những quan điểm lịch sử đúng đắn về sứ mệnh lịch sử của toàn thế giới của
giai cấp công nhân.
Từ những đặc điểm vốn có, giai cấp công nhân mới có 3 tính chất cơ
bản là:
a.Tính tổ chức, kỷ luật cao
b.Tính tiên phong ( về phương thức sản xuất, về tư tưởng, về đảng của
nó).
c.Tính triệt để

5


Trong xã hội Tư bản chủ nghĩa, GCCN là giai cấp bị bóc lột, bị tước
đoạt hết quyền sở hữu tư liệu sản xuất, hoặc về cơ bản không có tư liệu sản
xuất, làm thuê trong nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, bị giai
cấp tư bản thống trị, bóc lột giá trị thặng dư ,là giai cấp duy nhất trực tiếp đối
lập với giai cấp tư sản vì lợi ích cơ bản, giai cấp duy nhất có khả năng lãnh
đạo quần chúng nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ trong toàn thể dân
tộc tiến hành cách mạng thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Dưới Chủ nghĩa xã hội, GCCN là giai cấp cơ bản, là một lực lượng sản
xuất cơ bản, tiên tiến trong sản xuất của cải vật chất và cải tạo quan hệ sản
xuất, là giai cấp lãnh đạo xã hội, làm chủ công cụ, tư liệu sản xuất chủ yếu,
đại đa số làm việc trong những nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất...thuộc sở
hữu nhà nước và một bộ phận làm việc trong những thành phần kinh tế cá thể,
tư nhân, công tư hợp doanh, liên doanh...Dưới sự lãnh đạo của Đảng, GCCN
liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức thực hiện cuộc
cải biến xã hội, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

2.Giai cấp công nhân Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ nhất của thực dân Pháp. Sinh ra trong lòng dân tộc có truyền thống đấu
tranh chống giặc ngoại xâm, trong điều kiện bị kẻ thù xâm lược khiến cho ý
chí và động cơ cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam được nâng lên
gấp bội. Ngay từ khi ra đời, GCCN nước ta đã anh dũng, kiên cường đấu
tranh chống giặc ngoại xâm. Phong trào đấu tranh của công nhân từng bước
trưởng thành, phát triển từ tự phát đến tự giác và không ngừng lớn mạnh. Sự
ra đời của Công đoàn Việt Nam-tổ chức chính trị xã hội rộng lớn nhất của giai
cấp công nhân Việt Nam là kết quả tất yếu của quá trình phát triển của phong
trào công nhân nước ta cùng với việc chuẩn bị các điều kiện lý luận, tư tưởng,
chính trị tổ chức, của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
6


Do đặc điểm sự hình thành của mình, GCCN Việt Nam có những đặc
điểm riêng. Những đặc điểm riêng ấy quy định những mặt mạnh và những
mặt hạn chế của GCCN Việt Nam đồng thời cũng cắt nghĩa vì sao GCCN
nước ta còn tương đối non trẻ chưa phát triển về số lượng, trình độ nghề
nghiệp và một số về mặt chất lượng còn hạn chế nhưng vẫn giữ vị trí lãnh đạo
trong Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo
trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, những đặc điểm chủ yếu đó là:
1.Tuy sinh trưởng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến với một nền
sản xuất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển, đa số dân cư là
nông dân, song GCCN nước ta ra đời vào lúc phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ và được ảnh hưởng của cách mạng tháng
Mười Nga, cách mạng Trung Quốc, không bị ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội
hữu khuynh trong Quốc tế II và được tác động tích cực của Quốc tế cộng sản
nên GCCN Việt Nam dễ tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, sớm biết gắn vấn đề
dân tộc với chủ nghĩa quốc tế vô sản. GCCN Việt Nam từ khi có chính đảng

của mình cho đến nay vẫn giữ được truyền thống cách mạng, thống nhất về tư
tưởng, tổ chức trong phạm vi cả nước.
2.GCCN Việt Nam sinh trưởng trong lòng dân tộc có truyền thống
đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Cũng như nông dân, công nhân có hai mối
thù sâu sắc đối với đế quốc, thực dân: mối thù dân tộc do bị áp bức và mối thù
giai cấp do bị bóc lột nặng nề. Vì vậy, GCCN Việt Nam có tinh thần cách
mạng triệt để.
Nét điển hình nhất và cũng là yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh của
GCCN Việt Nam, nhân sức mạnh của nó lên là ở chỗ từ khi ra đời đến nay,
GCCN có mối liên hệ gắn bó mật thiết với dân tộc, số phận lợi ích của nó đã
gắn bó với số phận và lợi ích của dân tộc. Ý thức dân tộc và ý thức giai cấp
hòa quyện vào nhau, lòng yêu nước quyện chặt với yêu chủ nghĩa xã hội. Sự
nghiệp giải phóng giai cấp gắn bó hữu cơ với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
7


Vì thế, ngay từ đầu công nhân Việt Nam đã đại diện cho lợi ích của cả dân
tộc. Và do vậy ,vai trò lãnh đạo của nó được cả dân tộc thừa nhận.
3.GCCN Việt Nam do nguồn gốc xuất thân của nó đã sớm có mối
liên hệ tự nhiên máu thịt với nhân dân lao động. Đó là cơ sở tình cảm, là yếu
tố thuận lợi để xây dựng khối liên minh công-nông-trí thức và khối đại đoàn
kết dân tộc. Đó là điều kiện thuận lợi, là cơ sở xã hội vững chắc bảo đảm cho
vị trí lãnh đạo trong sự nghiệp cách mạng giành, giữ chính quyền và xây dựng
xã hội mới.
4. Ra đời tuy có muộn so với GCCN của các nước công nghiệp phát
triển, số lượng lúc đầu còn nhỏ bé, nhưng GCCN Việt Nam đã sớm tỏ ra là
một đội ngũ kiên cường trong quá trình đấu tranh cách mạng vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Do đó,nó chẳng những tập hợp lôi cuốn được cả dân
tộc theo mình, mà còn tạo ra được sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ to lớn của
nhân loại tiến bộ, của lực lượng chống đế quốc, thực dân, kết hợp sức mạnh

của dân tộc với sức mạnh của thời đại, trong nước và quốc tế tạo ra sức mạnh
tổng hợp nhân lên sức mạnh của giai cấp và dân tộc trong quá trình đấu tranh
cách mạng. Và do vậy, vai trò lãnh đạo của GCCN được hình thành thực tế
trong lịch sử được quần chúng nhân dân thừa nhận, chứ không phải là sự gán
ghép chủ quan của mình.
5. GCCN Việt Nam là một bộ phận của GCCN quốc tế, do vậy, nó
mang những đặc trưng cơ bản của GCCN quốc và có sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân quốc tế. GCCN Việt Nam có lãnh tụ sáng suốt, vĩ đại vừa là
lãnh tụ của giai cấp vừa là lãnh tụ của dân tộc - Hồ Chí Minh, vạch đường chỉ
lối, giáo dục, rèn luyện. Người sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và đưa vào
nước ta. Người đã sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam. Thông qua chính đảng
của mình, GCCN bước lên vũ đài chính trị giành quyền lãnh đạo sự nghiệp
giải phóng dân tộc, trong khi nhiều cương lĩnh của giai cấp và tầng lớp yêu
nước bị phá sản. Ngay từ đầu chính đảng của GCCN đã biết vận dụng sáng
8


tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đề ra cương
lĩnh cứu nước đúng đắn cho dân tộc, chỉ ra con đường duy nhất đúng đắn để
giải phóng dân tộc- con đường kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Do vậy, GCCN Việt Nam đã đóng vai trò tiên phong, giành được quyền là
giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong giai đoạn cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên
do được sinh ra và lớn lên ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nền đại công
nghiệp chưa phát triển, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp,
công nhân còn ít ỏi... nên GCCN Việt Nam cũng có những mặt hạn chế nhất
định như: tổ chức kỷ luật chưa cao, tư tưởng, tâm lý, tác phong và thói quen
của người sản xuất nhỏ còn khá nặng nề, biểu hiện rõ nhất là tính tự do, tùy
tiện, sự manh mún, tản mạn, tư tưởng cục bộ, phường hội, tác phong gia
trưởng...Điều đó thể hiện với những mức độ khác nhau trong mỗi người công

nhân.Và, trong chừng mực nhất định, thể hiện cả trong hoạt trong hoạt động
của các tổ chức chính trị, xã hội của GCCN. Những hạn chế của Đảng và nhà
nước trong lãnh đạo quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, một số biểu hiện tiêu
cực trong Đảng và Nhà nước ta hiện nay, ở một phương diện nào đấy có thể lý
giải từ nguyên nhân sâu xa của nó, đó là những hạn chế của của GCCN Việt
Nam - một trong những cơ sở xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Những hạn
chế, yếu kém ấy của GCCN Việt Nam một phần là do điều kiện kinh tế xã hội
mà GCCN Việt Nam ra đời, cũng như trong quá trình tồn tại và phát triển của
nó quy định.

9


Chương 2: Sự phát triển và vai trò của giai cấp công nhân Việt
Nam giai đoạn 1975-1985

1.Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam trước 1975.
Với chính sách khai thác thuộc địa của Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt
Nam, GCCN Việt Nam đã ra đời từ đầu thế kỷ này, trước cả sự ra đời của giai
cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp đối kháng trực tiếp đối với tư bản thực dân
Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống
trị của thực dân Pháp, một thứ chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm mấy
đến phát triển công nghiệp ở nước thuộc địa, nên giai cấp công nhân chậm
phát triển.
Từ khi Đảng cộng sản Đông Dương ra đời, phong trào “vô sản hóa”thực chất là sự tăng cường tính chất giai cấp công nhân của Đảng và qua đó
làm cho lý luận Mácxít thâm nhập vào phong trào công nhân. Nhiều đảng
viên Cộng sản vốn xuất thân từ các thành phần ngoài GCCN đã thâm nhập
vào các khu vực công nghiệp và trong khi thông qua thực tiễn để nâng cao
bản lĩnh cộng sản, họ đã mang lại cho phong trào công nhân Việt Nam những
chuyển biến mới về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Cuộc đấu tranh của GCCN

dần đi vào tự giác và có tổ chức. Sau thất bại của phong trào Cần Vương và
phong trào dân tộc yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản, cuộc đấu tranh của nhân
dân Việt Nam bước vào thời điểm bước ngoặt đầy thách thức. Ngọn cờ dân
tộc yêu nước có nguy cơ chao đảo nếu không tìm được một lực lượng xã hội
để “hóa thân”, không tìm được con đường để thể hiện trước yêu cầu mới của
lịch sử. GCCN Việt Nam đã bước lên vũ đài lịch sử và trở thành người đại
diện chân chính cho phong trào dân tộc yêu nước ở Việt Nam. Đúng như
Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, ở Việt Nam sự “chuyển giao” ngọn cờ dân
tộc từ tay giai cấp tư sản sang tay GCCN là một tất yếu lịch sử.

10


Giai đoạn 1945-1975, GCCN từ chỗ người dân mất nước đã đóng vai
trò tiên phong trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến lên thành
người làm chủ nhà nước, làm chủ nền kinh tế. Số lượng GCCN lúc đầu chỉ
chiếm khoảng 2-4% dân số, cơ cấu giai cấp công nhân còn đơn giản với 4 lớp
công nhân cơ bản: quốc doanh, tư doanh, một số ít công nhân công ty hợp
doanh và số đông là công nhân tiểu thủ công nghiệp. Quá trình công nhân hóa
cũng diễn ra từ đầu 1945 nhưng đến 1954 mới rõ nét. Một chất lượng mới đã
xuất hiện, lần đầu tiên trong lịch sử công nhân của Việt Nam trở thành người
làm chủ của sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Đường lối của sự nghiệp
công nghiệp hóa ở miền Bắc đã tạo đà thúc đẩy xu hướng công nhân hóa. Vào
đầu những năm 60 ở miền Bắc đã có tới 1,2 triệu công nhân trong tổng số 8
triệu lao động xã hội. Xu hướng này không chỉ thể hiện ở việc tăng lên về số
lượng và chất lượng của giai cấp công nhân mà chủ yếu và quan trọng nhất là
hệ tư tưởng của GCCN đang trở thành hệ tư tưởng của toàn xã hội. Hồi ấy, ở
miền Bắc là một chế độ kinh tế với một phương thức sản xuất mới mẻ dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Tuy đang ở giai đoạn đầu ở thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng một hệ tư tưởng mà người Việt Nam phấn

đấu qua bao thế hệ đã bước đầu hiện thực hóa trên miền Bắc: hòa bình, độc
lập, tự do và hạnh phúc với những biểu tượng văn hóa đầy sức thuyết phục:
Bác Hồ, Đảng, Chính phủ và con người xã hội chủ nghĩa.
Diễn ra cùng thời gian này ở miền Nam, từ 1954-1975 cũng xuất hiện
một quá trình phát triển của giai cấp công nhân tuy dựa trên một nền tảng
kinh tế-xã hội khác. Đã hình thành trên thực tế hai tác động đến phong trào
công nhân miền Nam. Tác động thứ nhất khá phức tạp: Chủ nghĩa thực dân
mới vừa tạo ra một cơ sở vật chất, kỹ thuật có nhiều điểm vượt trội so với
Chủ nghĩa thực dân cũ thời Pháp thuộc. Tác động này làm cho giai cấp công
nhân ở miền Nam có sự phát triển nhanh về số lượng (vào khoảng những năm
60 của thế kỷ XX công nhân miền Nam có khoảng 800.000 người) và cả
những khả năng làm chủ những kỹ thuật có thể coi là tiên tiến nhất ở Đông
11


Nam Á lúc bấy giờ. Mặt khác sự chi phối của Chủ nghĩa thực dân mới cũng
đã làm nảy sinh những tác động nhiều chiều. Cùng với chế độ bóc lột giá trị
thặng dư, sự chèn ép của tư bản nước ngoài lại là nhân tố hình thành ý thức
đấu tranh giai cấp, lòng yêu nước của công nhân miền Nam. Tác động thứ hai
là cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã định hướng
và phát triển đại bộ phận công nhân miền nam với sự nghiệp cách mạng
chung của cả dân tộc.Vai trò lãnh đạo, tổ chức của Đảng, của Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam, cùng với khát vọng giải phóng miền Nam của công
nhân đã tạo ra một xu hướng tích cực trong phong trào này. Trong giai đoạn
này trí thức trong công nhân chưa nhiều. Chỉ có liên minh công - nông mà
chưa có liên minh công-nông- trí thức như ngày nay. Trừ vùng tạm chiếm ra
còn vùng tự do tư sản dân tộc không phát triển. Mâu thuẫn giữa công nhân và
tư sản không gay gắt.
Từ thực trạng trên, đòi hỏi Đảng ta cần tăng cường xây dựng GCCN
vững mạnh, phát triển cho phù hợp với thực tế đất nước, làm cơ sở xã hội cho

Đảng, Nhà nước và tạo điều kiện cho GCCN hoàn thành sứ mệnh lịch sử đối
với cách mạng Việt Nam. Thực trạng đó cũng cho thấy sự phát triển có tính
đột phá trong quá trình phát triển của công nhân. Từ giai cấp tự mình, GCCN
Việt Nam trở thành giai cấp cho mình; từ người nô lệ làm thuê cho chủ tư
bản, trở thành người làm chủ đất nước, lãnh đạo nhân dân tiến hành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, xây dựng khối liên minh công nông vững
mạnh.
2.Sự phát triển và vai trò của GCCN Việt Nam (1975-1985)
2.1 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng giai cấp công nhân
(1975-1985).
Sau khi đất nước thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Công việc trước hết sau ngày thống nhất
đặt ra là hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế,
12


hàn gắn vết thương chiến tranh. Đảng lãnh đạo nhân dân hai miền Nam - Bắc
thực hiện những nhiệm vụ đặt ra và thu được thành tựu bước đầu của thời kỳ
cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với công việc phát triển kinh tế-xã hội, Đảng chú trọng và quan
tâm đến vấn đề xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn cách mạng mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) của Đảng khẳng định: “Trong
suốt quá trình xây dựng Đảng từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn
xác định Đảng là Đảng của GCCN Việt Nam và phấn đấu không ngừng để
nâng cao tính chất GCCN trong Đảng.Vấn đề có ý nghĩa nguyên tắc đầu tiên
là tăng cường phát triển Đảng và lựa chọn cán bộ trong công nhân-cơ sở giai
cấp của Đảng. Điều đó phù hợp với yêu cầu tăng cường vai trò của GCCN
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng phù hợp với bước
nhảy vọt của GCCN từ địa vị làm thuê lên địa vị làm chủ và lãnh đạo xã hội
mới, phù hợp với sự phát triển mau chóng về số lượng và chất lượng của

GCCN trong quá trình đi lên công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
trước mắt”3. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng GCCN thể hiện ở các luận
điểm:
Khẳng định lập trường của Đảng ta là lập trường của GCCN, giai cấp
gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp. Đại hội lần thứ IV của Đảng đã
nêu rõ quan điểm của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân. Đó là: “Chăm lo
xây dựng đội ngũ GCCN không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng,
xứng đáng với vai trò là giai cấp tiên phong, giai cấp lãnh đạo sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Phải hoàn thiện và từng bước thực hiện đầy đủ những
quy chế nhà nước, đảm bảo cho công nhân tham gia tích cực và có hiệu quả
vào hoạt động quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế, quản lý xã hội”4

3
4

ĐCSVN, Văn kiện đại hội IV, NXBCTQG, trang 50.
ĐCSVN, Văn kiện đại hội IV, NXBCTQG, trang 152..

13


Để tăng cường khả năng quản lý, tổ chức sản xuất và nâng cao chất
lượng GCCN, Đảng chú trọng đào tạo công nhân lành nghề. Nghị quyết đại
hội nêu rõ: Sắp xếp các lớp dạy nghề của các Bộ, các địa phương và các cơ
sở, cải biến công tác tuyển sinh, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, xác
định quy mô đào tạo công nhân gắn với yêu cầu phát triển sản xuất, rất chú
trọng việc đào tạo công nhân có tay nghề cao.
Nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp và khả năng quản lý xã hội của
GCCN. GCCN chỉ trở thành giai cấp lãnh đạo và hoàn thành sứ mệnh lãnh
đạo cách mạng khi mỗi thành viên giác ngộ về lý tưởng cách mạng, về sứ

mệnh lịch sử của giai cấp mình và được tổ chức chặt chẽ. Chính vì vậy, Đại
hội IV của Đảng chỉ rõ: để bảo đảm chất lượng của đội ngũ, Đảng ta phải tiếp
tục coi trọng kết nạp Đảng viên từ GCCN, từng bước nâng cao tỉ lệ Đảng viên
xuất thân từ công nhân, coi đó là phương hướng giai cấp chính trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội…Phải phấn đấu tăng cường thành phần công
nhân trong đội ngũ cán bộ các loại, ở các cấp, các nghành, trước hết là trong
cán bộ lãnh đạo chung, cán bộ quản lý công nghiệp, quân đội, công an, trong
đội ngũ cán bộ ở các thành phố, các khu công nghiệp và nhất là ở cấp cơ sở.
Phát huy tốt vai trò của tổ chức công đoàn nhằm thực hiện tốt đường
lối vận động giai cấp công nhân của Đảng. Từ rất sớm Đảng ta đã quan tâm
xây dựng tổ chức của công nhân, bởi đó là nơi đưa các chủ trương chính sách
của Đảng đến với công nhân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V(3/1982)
của Đảng khẳng định: Công đoàn phải cải tiến tổ chức và hoạt động tổ chức
của mình để thực hiện đầy đủ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đã ghi trong nghị quyết đại hội lần thứ IV
của Đảng và trong hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trước mắt công tác vận động công nhân của Đảng và hoạt động của Công
đoàn phải hướng vào nhiệm vụ xây dựng GCCNVN vững mạnh, giáo dục,
nâng cao ý thức giai cấp, xây dựng người công nhân mới xã hội chủ nghĩa.

14


Công đoàn phải tập trung vào thực hiện các mục tiêu kinh tế, khoa học kỹ
thuật tổ chức và đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết
kiệm của công nhân, viên chức, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học
kỹ thuật cho công nhân, góp phần tích vào việc đào tạo đội ngũ công nhân
lành nghề, đào tạo những cán bộ giỏi. Công đoàn vận động công nhân viên
chức tham gia tích cực vào việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hoàn thiện
các chính sách kinh tế, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm,

hiệu quả sản xuất kinh doanh. Công đoàn giáo dục công nhân, viên chức về
thái độ lao động, thái độ của người làm chủ xã hội.Vấn đề phát triển giáo dục
là một bước phát triển mới của công đoàn trong điều kiện GCCN đã giành
được chính quyền và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.Trong quá trình
lãnh đạo xây dựng GCCN Đảng luôn tôn trọng tính độc lập về mặt tổ chức
của công đoàn, lãnh đạo xây dựng giai cấp thông qua tổ chức của công đoàn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công đoàn đã tập hợp, vận động, giáo dục tổ chức
công nhân tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước theo con đương
chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức làm nòng
cốt cho khối đại đoàn kết dân tộc. GCCN là hạt nhân của liên minh côngnông-trí thức nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc. Xuất phát từ nguyên lý
của chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong suốt quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công-nông-trí thức thành nòng cốt
của khối đại đoàn kết dân tộc tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất.
Qua trên có thể thấy trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng luôn quan tâm đến xây dựng đội ngũ GCCN, bởi lẽ Đảng ta luôn có
nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của GCCN trong sự nghiệp cách mạng.
Những chủ trương của Đảng về xây dựng GCCN tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của GCCN, là sự chuẩn bị vững chắc cho GCCN Việt

15


Nam vững bước tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo.
2.2 Sự phát triển và vai trò hoạt động của GCCN Việt Nam (1975-1985).
a. Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam (1975-1985)
GCCN Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp giải phóng đất
nước cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sau tháng
4-1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

GCCN hòa mình vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong suốt thời
kỳ quá độ 1975-1985, GCCN Việt Nam không ngừng lớn mạnh về số lượng
và chất lượng.
Giai đoạn 1975-1985 là giai đoạn mà xu hướng công nhân hóa được
triển khai trong cả nước, trên một cơ sở chính trị, xã hội đồng nhất. Đặc biệt
là đường lối “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”5 và “ra sức xây dựng GCCN lớn mạnh
về chất lượng và số lượng”6 của Đảng đã tạo ra những điều kiện xã hôi khá
rộng lớn cho sự vận động của xu hướng này. Sự tăng trưởng của GCCN cả về
số lượng và chất lượng, sự phát triển của khu công nghiệp và ảnh hưởng của
nó tới các lĩnh vực kinh tế- xã hội khác, sự khẳng định vai trò của Đảng, địa
vị ưu thế của hệ tư tưởng GCCN trong đời sống văn hóa, tư tưởng của xã hội
đã cho thấy một chất lượng mới của xu hướng công nhân hóa.
Tháng 3/1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng khẳng
định “Giai cấp công nhân nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều. Đội ngũ công nhân
tăng 24%, công nhân kỹ thuật đạt tới 1,7 triệu người. Trình độ chính trị văn
hóa và nghề nghiệp của công nhân được nâng cao một bước. Trước khó khăn
lớn về sản xuất và đời sống, GCCN ta vẫn tỏ rõ bản chất cách mạng, giữ
vững và phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội”7.
5

ĐCSVN, Nghị quyết ĐHĐBTQ lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hn, 1977, trang 30
ĐCSVN, Nghị quyết ĐHĐBTQ lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hn, 1977, trang 69
7
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ V, Nxb Sự thật, Hn, 1982, trang 119
6

16



Đến năm 1985, lực lượng công nhân viên chức có 4,12 triệu người chiếm
khoảng 6,65% dân số và 15,32% tổng số lao động trong xã hội. Trong đó số
người làm thuê trong khu vực sản xuất vật chất là 2,76 triệu người, số công
nhân trực tiếp sản xuất là 2,2 triệu người. Số công nhân viên chức nữ chiếm
46%, số công nhân dưới 30 tuổi chiếm 53,6%, từ 30-50 tuổi chiếm 41,9%, từ
50-60 tuổi chiếm 44% và trên 60 tuổi chiếm 0,1%, năm 1985 tuổi bình quân
của công nhân Việt Nam là 31 tuổi.
Về trình độ học vấn: đến năm 1985, số công nhân có trình độ trung học
cơ sở là 77.5%, số công nhân có trình độ trung học phổ thông là 42,5%.
Về trình độ kỹ năng nghề nghiệp: năm 1985 số thợ bậc 1 và bậc 2
chiếm 40%, số thợ bậc 3 và 4 chiếm 55%, số thợ bậc 7 chiếm 1,9%. Công
nhân các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến và sản xuất dịch vụ chiếm gần 40%
số công nhân công nghiệp. Năm 1985 cả nước ta có hơn 300 trường dạy nghề
có thể đảm nhiệm việc đào tạo cho hàng vạn công nhân. Nhưng do trình độ và
thiết bị dạy nghề còn thiếu, cũ và lạc hậu nên chất lượng giáo dục đào tạo còn
hạn chế.
Về ý thức chính trị của GCCN: từ 1981-1985, đất nước ta lâm vào
khủng hoảng gay gắt về kinh tế xã hội. Đời sống của công nhân rất khó khăn,
nhiều công nhân thiếu việc làm, hiện tượng tiêu cực trong xã hội, tệ quan liêu,
ức hiếp quần chúng nảy sinh. Song GCCN vẫn giữ vững niềm tin vào sự lãnh
đạo của Đảng, nêu cao tinh thần cách mạng vượt mọi khó khăn góp phần
quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Ở nhiều ngành kinh
tế, nhiều nhà máy, xí nghiệp, công nhân nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, thi
đua sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tự giác tham gia kiểm tra,
kiểm soát các hoạt động phân phối lưu thông, phát hiện nhiều việc làm sai trái
xâm hại đến lợi ích chung.
Tỷ lệ giai cấp công nhân tham gia tổ chức Đảng, đoàn thể, theo kết quả
điều tra xã hội học, năm 1985 tỷ lệ công nhân tham gia Đoàn Thanh niên cộng
17



sản Hồ Chí Minh là 35%. Tỷ lệ đảng viên trong công nhân còn thấp, mức tăng
chậm đến năm 1985 chỉ chiếm 7.7%. Tỷ lệ cán bộ xuất thân từ công nhân có
xu hướng giảm.
Như vậy bên cạnh tính cách mạng kiên cường, đi đầu trong lao động
sản xuất và bảo vệ tổ quốc, công nhân Việt Nam còn không ít những hạn chế
như trình độ học vấn, tay nghề còn thấp, thiếu tác phong lao động công
nghiệp và chậm phát triển. 70% công nhân xuất thân từ nông dân nên còn bị
ảnh hưởng của tư tưởng tư hữu, sản xuất nhỏ, tác phong lao động chậm chạp,
khả năng chấp hành quy trình quy phạm trong sản xuất còn hạn.
Bên cạnh bước phát triển của xu hướng công nhân hóa trên thực tế vào
đầu những năm 80 của thế kỷ XX, cũng đã xuất hiện tình huống có vấn đề
trong quá trình công nhân hóa. Tình trạng lạc hậu về công nghiệp, sự khủng
hoảng của cơ chế bao cấp, nhiều biểu hiện tiêu cực mà tiêu biểu nhất có lẽ là
sự giảm sút năng suất lao động, ý thức lao động, ý thức nghề nghiệp của
nhiều bộ phận công nhân; công nghiệp đình đốn, trong đời sống tư tưởng xuất
hiện nhiều hiện tượng tiêu cực mà điển hình là sự “đắc thắng” của tâm lý sản
xuất nhỏ. Tổn hại lớn nhất đến xu thế công nhân hóa trong thời kỳ này là sự
mất mát cơ sở xã hội của nó: hàng chục vạn công nhân đã dời bỏ lao động,
công nghiệp sang lĩnh vực khác mà phần nhiều là thấp hơn về trình độ xã hội
hóa lao động. Sức hấp dẫn của xu hướng công nhân hóa suy giảm trong xã
hội. Thực tế trên lại đặt xu hướng công nhân hóa trước bước ngoặt mới.
Ở miền Nam, công nhân ở cả khu vực nhà nước lẫn tư doanh lao đao
một thời gian, một số tay nghề không được sử dụng, một số chuyển nghề, một
số di tản. Cần thấy sự xuống cấp của công nhân giai đoạn này để thấy rõ
thắng lợi lớn lao của thời kỳ đổi mới sau này.
Mặt khác, một bộ phận công nhân trẻ sống thực dụng, ngại lao động,
lười học tập, xâm hại lợi ích của công, tâm lý ỷ lại, giảm sút long tin vào

18



Đảng. Thời kỳ này điều kiện làm việc ít cải thiện, đời sống của công nhân khó
khăn.
Thực trạng trên đòi hỏi Đảng phải tăng cường lãnh đạo xây dựng giai
cấp công nhân làm cơ sở xã hội cho Đảng và tạo điều kiện cho GCCN hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình đối với cách mạng.
b.Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 1975-1985
“Vai trò lãnh đạo của một giai cấp trong xã hội là hoạt động xã hội
chính trị, là chức năng xã hội - chính trị của giai cấp ấy. Nói chung đối với
mọi xã hội có giai cấp, sự lãnh đạo có vị trí thống trị, quyết định của một giai
cấp bắt nguồn từ những vị trí thống trị hay hay tiên tiến của nó trong đời sống
xã hội. Vai trò ấy thể hiện trước hết ở chỗ giai cấp quyết định phương hướng
phát triển xã hội chính trị chủ yếu của xã hội” 8. Như vậy điều kiện quyết định
đối với vai trò lãnh đạo của một giai cấp trong xã hội là địa vị thống trị, quyết
đinh của nó trong các quan hệ sản xuất, các quan hệ sở hữu.
Vai trò lãnh đạo của GCCN Việt Nam (1975-1985) thể hiện và được
củng cố, giữ vững trong bước đầu của thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Giai cấp công nhân lãnh đạo đất nước thông qua chính đảng của mình.
Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược và các định hướng về chính
sách chủ trương công tác,… Trên thực tế, giai đoạn 1975-1985, mặc dù còn
nhiều khó khăn nhưng Đảng ta đã có nhiều cố gắng, nghiên cứu tìm tòi đường
lối. Từ một nước có nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, nhiều tàn dư chiến tranh, hậu
quả của chế độ cũ để lại đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải có đường lối
độc lập tự chủ, sáng tạo.

8


Chủ nghĩa Mác Lênin việc quản lý các quá trình xã hội dưới chủ nghĩa xã hội( tiếng Nga), Nxb Tư tưởng,
Matxcova

19


Trong thực tiễn, vai trò tiên phong của GCCN Việt Nam đã và đang
được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Về mặt sản xuất, GCCN Việt Nam là một lực lượng sản xuất quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù nền công nghiệp nước ta còn nhỏ bé, số
lượng GCCN còn ít, chỉ mới chiếm 6,56% dân số và 15,32% tổng lao động xã
hội, nhưng là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ, hiện đại,
đưa sự nghiệp công nghiệp hóa giai đoạn này phát triển hơn một bước so với
giai đoạn trước. GCCN Việt Nam thực sự có khả năng sáng tạo. Những khó
khăn chồng chất về sản xuất và đời sống trong những năm 1975-1985 không
đè bẹp được sức mạnh sáng tạo của GCCN. Trái lại trong cái khó nảy sinh
nhiều sáng tạo. Từ trong phong trào lao động sản xuất nảy sinh nhiều sáng
kiến có giá trị, hàng vạn người lao động giỏi. Trước khó khăn của cơ chế quản
lý kinh tế theo hướng tập trung quan liêu bao cấp nền kinh tế gặp khó khăn,
đời sống nhân dân không ổn định, GCCN là người đề xướng, phát hiện và
thực hiện nhiều giải pháp có hiệu quả trong việc giữ vững, ổn định và phát
triển sản xuất. Vai trò của công nhân trong sản xuất gắn liền và thể hiện rõ qua
vai trò của nền kinh tế quốc doanh, nhất là công nghiệp quốc doanh. Đội ngũ
GCCN có vai trò quan trọng góp phần làm cho kinh tế quốc doanh từng bước
thực hiện được vai trò chủ đạo.
Khó khăn về kinh tế, xã hội của đất nước, âm mưu phá hoại bằng mọi
thủ đoạn của kẻ thù trong và ngoài nước nhưng số đông công nhân, lao động
vững vàng về chính trị tư tưởng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ở mục
tiêu xã hội chủ nghĩa, kiên cường phấn đấu góp phần to lớn vào những thành
công bước đầu rất quan trọng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên

phạm vi cả nước.
Hơn ai hết, công nhân nước ta là lực lượng xã hội gánh chịu nhiều nhất
những hậu quả tiêu cực do mặt trái của việc quản lý cơ chế quản lý bao cấp và
chịu nhiều thiệt thòi trong bước đầu của sự nghiệp xây dựng đất nước do
20


những chính sách quy định chưa đồng bộ hoặc còn sơ hở. Song, họ cũng là
lực lượng kiên quyết nhất ủng hộ cách mạng, ủng hộ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc của Đảng và nhà nước.
GCCN đã và đang góp phần không nhỏ sức người sức của vào công
cuộc bảo vệ tổ quốc. GCCN có vai trò quan trọng sự nghiệp bảo vệ tổ quốc.
Trong tình hình đất nước đối đầu với hai cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc
và chiến tranh biên giới Tây Nam, GCCN đã nêu vai trò độc lập tự chủ tích
cực tham gia vào cuộc chiến để bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trước vô vàn khó khăn thử thách, GCCN vẫn giữ truyền thống đấu tranh cách
mạng, xứng đáng là giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng, là lực lượng
chính trị cơ bản, đội quân chủ lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam.
Đương nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới trong điều kiện vừa trải qua cuộc chiến tranh ác
liệt kéo dài ngót nửa thế kỷ, hậu quả nhiều mặt còn nặng nề, điểm xuất của
nền kinh tế còn thấp kém, giai cấp công nhân nước ta và chính đảng của nó
mới đi những bước đi đầu tiên trên con đướng xây dựng xây dựng xã hội mới,
kiến thức, kinh nghiệm lãnh đạo, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, quản lý
xã hội còn quá ít ỏi, do đó những sai lầm khuyết điểm, vấp váp là khó tránh
khỏi, đó cũng là bình thường và dễ hiểu. Vì vậy, Đảng ta cần quan tâm hơn
nữa và có những chính sách hợp lý để xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân
ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng.


Chương 3: Một số nhận xét về sự phát triển của giai cấp công
nhân Việt Nam giai đoạn 1975-1985
21


Thời kỳ 1975-1985 là thời kỳ mà đất nước gặp nhiều khó khăn chồng
chất, đời sống nhân dân khó khăn, đời sống chính trị có nhiều biến động. Do
hoàn cảnh tác động, giai cấp công nhân trong giai đoạn này phát triển chậm,
số lượng ít, chất lượng công nhân trong các lĩnh vực kinh tế không cao. So
với giai đoạn trước 1975, công nhân thời kỳ này có bước phát triển hơn về ý
thức chính trị cũng như trình độ. Song trong khoảng thời gian 10 năm, giai
cấp công nhân mới có bước đi ban đầu trên chặng đường phát triển của mình.
Công nghiệp còn yếu, nhỏ lẻ nên địa vị kinh tế xã hội của GCCN trong nền
sản xuất không được chú ý đúng mức.
Giai đoạn 1975-1985- đây là chặng đường đầu tiên đưa cả nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, còn gặp nhiều khó khăn, vấp váp trong quản lý. Vì vậy,
giai cấp công nhân thời kỳ này có thể đánh giá là chậm phát triển. Trình độ lý
luận: số công nhân có văn hóa thấp nên trình độ lý luận cũng thấp. Qua điều
tra xã hội học ở một số nơi phần lớn công nhân không hiểu hết vai trò, vị trí
của mình. Họ thờ ơ với thời cuộc, tình hình chính trị trong nước và quốc tế.
Trong quá trình tham gia lao động sản xuất, công nhân ít quan tâm đến năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế. Vì vậy năng suất lao
động thấp, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế kém.
Đời sống khó khăn nhưng công nhân chưa thực sự làm chủ mọi mặt đời
sống xã hội. Điều này một mặt do công nhân chưa có thói quen làm chủ, mặt
khác, cơ chế quản lý bao cấp cũng hạn chế quyền làm chủ của công nhân.
Điều này đã hạn chế nhiệt tình lao động, khả năng sáng tạo và giảm khả năng
đấu tranh cho chân lý của GCCN, và đó cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng bỏ việc, lãn công của công nhân một số xí nghiệp nhà
máy trong thời gian quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Sự phát triển của công nhân giai đoạn này kém hiệu quả là do những
nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Một là xuất phát từ bản thân
22


GCCN, do đặc điểm giai cấp công nhânViệt Nam là sinh trưởng trong một
nước nông nghiệp, công nghiệp hiện đại chưa phát triển; xuất thân từ nông
dân…Những điều này đã in đậm hàng chục năm trong cán bộ quản lý, lãnh
đạo và công nhân. Đến nay vẫn bị ảnh hưởng. Hai là, do cơ chế bao cấp và
tình trạng thiếu công bằng xã hội kéo dài đã làm giảm sút nhiệt tình lao động,
nảy sinh tư tưởng ỷ lại, thụ động, làm tha hóa một bộ phận công nhân, gây tác
hại sâu xa đến việc xây dựng đội ngũ công nhân về tư tưởng, tổ chức, đạo
đức, lối sống và phong cách làm việc. Mặt khác Đảng và Nhà nước chưa quan
tâm đầy đủ tới việc xây dựng GCCN. Nhiều chính sách kinh tế xã hội chưa
quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của GCCN. Nhiều chủ trương chính sách
đối với công nhân, đối với cơ sở sản xuất kinh doanh chưa được thể chế hóa
thành cơ chế vận hành đồng bộ, nhất quán và tổ chức thực hiện nghiêm túc.
Công tác đào tạo đội ngũ công nhân không được chú trọng đúng mức, số
lượng đào tạo không được sử dụng đúng ngành nghề.
Từ thực tiễn trên, yêu cầu đặt ra là phải có phương hướng và giải pháp
để xây dựng GCCN Việt Nam phát triển tương xứng với khả năng vốn có của
GCCN. Bằng mọi con đường, thông qua các tổ chức rộng rãi của quần chúng,
nâng cao nhận thức trong toàn dân về vai trò, vị thế của giai cấp công nhân,
nhưng trước hết và quan trọng nhất là làm cho bản thân GCCN hiểu rõ hơn ai
hết thế nào là lập trường giai cấp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung
và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng. Cần coi trọng và giữ
vững quan điểm GCCN trong việc lựa chọn cán bộ quản lý và lãnh đạo, khắc
phục chủ nghĩa thành phần, nhưng không thể xa rời các nguyên tắc cơ bản thể
hiện tư tưởng GCCN trong công tác cán bộ.
GCCN Việt Nam lãnh đạo cách mạng là nhờ xây dựng Đảng tiền phong

của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam. Mối quan hệ giữa Đảng với bản thân
GCCN là mối liên hệ quyết định tính đặc thù và bản chất cách mạng của Đảng
và giai cấp. Không có được một giai cấp đủ mạnh, có tinh thần cách mạng và

23


yêu nước, có tinh thần tập thể và tổ chức cao, được giác ngộ sâu sắc lý tưởng
cách mạng và trang bị lý luận cách mạng thì không thể xây dựng được Đảng
cách mạng mang bản chất của giai cấp công nhân. Trong sự nghiệp Cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc từ 1954 và trên cả nước từ 1975, GCCN
Việt Nam cùng với toàn dân trở thành người làm chủ đất nước, ra sức đóng
góp vào sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Lực lượng công nhân phát triển cùng với sự phát
triển của kinh tế quốc doanh cùng với sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa. Điều này chứng minh mối quan hệ giữa giai cấp công nhân
và Đảng đội tiền phong của mình là gắn kết với nhau. GCCN là cơ sở xã hội
chủ yếu của Đảng cộng sản Việt Nam, là nguồn bổ sung lực lượng của Đảng.
Đảng là một bộ phận của GCCN, nằm trong giai cấp chứ không nằm ngoài
giai cấp, đứng trên giai cấp.
Nhận thức tầm quan trọng của mối liên hệ giữa Đảng cộng sản và giai
cấp công nhân để có chiến lược và chiến sách phát triển công nhân hợp lý
ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân.
GCCN Việt Nam là lực lượng to lớn và tiên tiến trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trò của GCCN Việt Nam ngày càng
được khẳng định trong những chặng đường phát triển của đất nước. Chừng
nào trong xã hội còn giai cấp, còn các thế lực thù địch thì còn phải phân biệt
rõ quan hệ giữa Đảng và giai cấp, giữa giai cấp công nhân và các giai cấp
trong xã hội khác. Từ đó thấy được vai trò chủ đạo của giai cấp công nhân
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa.

C.PHẦN KẾT LUẬN

24


Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược bởi vì giai cấp công nhân là động lực của cách mạng. Trong chặng
đường ban đầu cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,giai cấp công nhân có
bước phát triển quan trọng nhưng hầu như số lượng và chất lượng công nhân
thời kỳ này không có bước đột phá.
GCCN Việt Nam có nhiều hạn chế xuất phát từ ý thức tiểu nông, tác
phong gia trưởng,… Song GCNN Việt Nam có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhận thức
được sứ mệnh lịch sử của GCCN, Đảng ta không ngừng tăng cường bản chất
giai cấp công nhân trong Đảng, tăng cường đào tạo chất lượng giai cấp công
nhân, làm cho GCCN không những lớn mạnh về số lượng mà cả về chất
lượng. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn đề xây
dựng đội ngũ giai cấp công nhân càng được đặt lên vị trí hàng đầu. Từ những
kinh nghiệm của giai đoạn trước, Đảng rút bài học tự đổi mới và xây dựng
giai cấp công nhân hoàn thiện hơn, bảo đảm xây dựng lực lượng công nhân
trong khu vực kinh tế nhà nước cả về phẩm chất chính trị, lý tưởng cách
mạng, cả trình độ học vấn và nghề nghiệp cao, coi đó là lực lượng nòng cốt
trong giai cấp công nhân Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

25



×