Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TIỂU LUẬN Lịch sử Báo chí: Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam trước năm 1925

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.99 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA BÁO CHÍ

TIỂU LUẬN
Môn: Lịch sử Báo chí
Đề tài: Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam trước năm 1925

Giảng viên hướng dẫn : Phạm Thị Thanh Tịnh
Sinh viên

: Vũ Thị Phương Thảo

Lớp

: Ảnh báo chí K35

Hà Nội - 2017
1


2


MỤC LỤC

3


I – LỜI NÓI ĐẦU
Báo chí Việt Nam tuy mới phát triển trên hơn 1 thế kỉ nhưng thực sự đã có
nhiều thành tựu, với những chặng đường lịch sử đáng ghi nhớ. Khoảng thời gian


giữa 2 cuộc Thế chiến từ 1918-1939 là thời kì phát triển khá thịnh vượng đầu
tiên của báo chí Việt Nam […] Thời kì trước năm 1925, báo chí phát triển với
nhiều khuynh hướng khá phức tạp. Có khuynh hướng tiến bộ đấu tranh cho công
bằng và sự phát triển của xã hội; có khuynh hướng cải lương, thỏa hiệp, xoa dịu
mâu thuẫn xã hội; và cũng có khuynh hướng nô dịch làm công cụ phát ngôn cho
chế độ thực dân thống trị[1] . Tờ báo in bằng chữ Quốc ngữ xuất hiện vào giữa
thế kỉ XIX, khởi đầu là tờ Gia Định báo (ra số đầu tiên vào ngày 1/4/1865). Đây
là phương tiện truyền thông đầu tiên hoàn toàn mới mẻ, làm cho tiếng Việt có cơ
hội phổ biến trong dân, chấm dứt thời kỳ e dè, trì trệ mấy trăm năm về trước.
Trước đó, năm 1862 đã ra đời tờ báo công khai của quân đội viễn chinh Pháp ở
Nam kỳ bằng tiếng Pháp Bulletin Officiel de I’expedition de la Cochinchine.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, và nhất là những năm 20 của thế kỉ XX, báo
chí Việt Nam đã có những sự phát triển quan trọng vượt bậc.
Báo chí Việt Nam ngày càng giữ vai trò đặc biệt trong việc nâng cao trình
độ mọi mặt của nhân dân. Báo chí đảm bảo thông tin cho nhân dân về tất cả các
vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội và đời sống xung quanh với một phạm vi
rộng lớn, tham gia vào việc hình thành dư luận đúng đắn. Mặt khác, báo chí
tham gia vào quá trình tìm tòi, phát hiện những con đường, phương pháp hợp lí
nhằm giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn của cuộc sống.
Nhìn lại nền báo chí nước nhà từ khởi thủy cho đến trước năm 1925,
chúng ta có thể thấy rằng giai đoạn khởi nguyên của Báo chí Việt Nam đã phát
triển rất phong phú với đa dạng các phong cách, khuynh hướng khác nhau. Và
nếu như quan điểm rằng: “Lịch sử báo chí như một bộ phận của lịch sử dân
tộc…Báo chí là người thư kí trung thành của cuộc sống, phản ánh toàn bộ những
biến động của lịch sử dân tộc”[2] thì giai đoạn này nền Báo chí có nhiều biến
động nhất do những nhân tố của lịch sử. Trong suốt thời kì phát triển, báo chí
4


Việt Nam trong giai đoạn này đã để lại cho những người làm báo đời sau nhiều

kinh nghiệm quý báu.

Đó là bài học về cách làm báo trong hoàn cảnh chiến

tranh, bị bọn Thực dân kiểm duyệt gắt gao; là phương pháp làm báo trong khi
những điều kiện cơ sở vật chất, khoa học kĩ thuật còn nghèo nàn lạc hậu, thậm
chí mới manh nha xuất hiện….Tất cả những lý do này cho thấy sự quan trọng
khi thực hiện khảo sát, nghiên cứu và rút ra kinh nghiệm từ giai đoạn báo chí
Việt Nam trước 1925.
Tiểu luận tìm hiểu về lịch sử báo chí Việt Nam trước 1925 giúp mọi người
có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về báo chí nước nhà trong thời kì đó, và từ
những kinh nghiệm được rút ra, những người quan tâm đến “quyền lực thứ tư”
sẽ tổng kết nên những phương pháp thích hợp cho việc xây dựng một nền báo
chí Việt Nam hiện đại thực sự phát triển. Đề tài của tiểu luận này không phải là
một vấn đề mới phát hiện mà là tổng hợp từ những điều đã có để rút ra vấn đề.
Trong quá trình nghiên cứu, triệt để sử dụng các phương pháp phân tích, hệ
thống, tổng hợp, so sánh.
Tiểu luận này mang tính tổng hợp cao. Tất nhiên còn sơ lược và phần nào
khô khan. Nhưng vẫn muốn cho người đọc thấy một điều rằng: “Về một ý nghĩa
nào đó, lịch sử báo chí còn là một khoa học bổ trợ cho lịch sử hiện đại và đương
đại. Là tư liệu lưu trữ hàng ngày….Là nhân chứng và là người trong cuộc của
đời sống quốc gia và quốc tế, báo chí là những tư liệu phong phú vô kể, song rất
khó sử dụng. Lịch sử báo chí ngoài chức năng đầu tiên là dựng lại đời sống báo
chí, làm rõ vai trò của nó đối với sự tiến hóa của xã hội, dường như còn một
chức năng phụ nữa là giúp các nhà sử học sử dụng được những gì báo chí ghi
lại”[3].
Hy vọng nhận được lời đóng góp, nhận xét của cô giáo cùng các bạn để
tiểu luận này thực sự trở thành một tài liệu học tập được sử dụng, phục vụ trong
quá trình học tập môn học.
[1] Hà Minh Đức, Cơ sở lí luận báo chí- đặc tính chung và phong cách,

Nxb Đại học Quốc Gia- Hà Nội,2000, trang 211.
[2] Phạm Hồng Duy, Lịch sử Báo Chí- phần I, Tài liệu nghiên cứu của
Khoa báo chí trường Cao đẳng Phát thanh Truyền hình, trang 24.
5


[3] Pierre albert – Lịch sử Báo chí, Nxb Thế giới, Hà Nội 2003

II – NỘI DUNG
1. Các khái niệm
- Báo chí: Báo, hay gọi đầy đủ là báo chí (xuất phát từ 2 từ "báo" - thông
báo - và "chí" - giấy), hay còn có tên gọi cũ là tân văn nói một cách khái quát là
những xuất bản phẩm định kỳ nhằm báo cáo về các sự vật, hiện tượng hay con
người nổi bật trong ngày mà xã hội cần quan tâm.
- Khái niệm báo chí Việt Nam được cho là bắt đầu từ khi tờ Gia Định báo
ra mắt vào ngày 15 tháng 4 năm 1865 tại Sài Gòn. Lịch sử báo chí Việt Nam
phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau với khá nhiều thăng trầm do tác động
của các điều kiện lịch sử, xã hội.
2. Những điều kiện cho sự ra đời của báo chí ở Việt Nam
2.1 Những biến động về chính trị – xã hội nửa cuối thế kỷ 19
* Chế độ phong kiến bắt đầu suy tàn, triều Nguyễn lạc hậu, kém cỏi cả về
kinh tế, chính trị – xã hội.
- Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, các cuộc khởi nghĩa nổ ra và nhanh
chóng bị dấm trong biển máu
- Người Pháp đến với kế hoạch xâm lược nước ta và bắt đầu bằng con
đường truyền giáo, Việt Nam mở cửa thông thương với nước ngoài.
- Giai cấp phong kiến tan rã, sự phân hoá các giai tầng trong xã hội đã làm
nảy sinh một tầng lớp người Việt Nam mới: những viên chức người Việt làm
việc trong bộ máy Nhà nước do Pháp bảo hộ. Đây là tầng lớp tri thức cấp tiến,
chịu ảnh hưởng khá sâu sắc những nếp sinh hoạt của phương Tây, đặc biệt là

thói quen tiếp nhận. Do vậy, họ đã nảy nở ý nghĩa: Phải làm một tờ báo cho
đồng bào mình đọc.
* Cùng với kế hoạch thôn tính nước ta người Pháp bắt đầu mở mang một
loạt các trung tâm, đô thị ở Việt Nam. Đây cũng chính là căn nguyên làm nảy
sinh tầng lớp thị dân mới (dân thành thị) với nhu cầu cao hơn về thông tin. Họ
trở thành độc giả đầu tiên của báo.
6


7


2.2. Những biến động về tư tưởng
* Bộ máy nhà nước phong kiến bị phân hoá thành ba phái cơ bản. Đó là:
Nhóm chủ chiến (các sĩ phu yêu nước); phái chủ hoà (vua Tự Đức); phái trung
gian (đội ngũ trí thức phong kiến). Cả 3 phái đều tìm mọi cách để tuyên truyền,
tranh thủ lực lượng. Các cuộc tranh cãi, bất hoà luôn xảy ra từ trung ương tới địa
phương. Tuy nhiên cả 3 phái đều gặp nhau ở một điểm là: Cần có phương tiện
tuyên truyền, ý thức được sức mạnh của báo chí, nên tất cả đều ủng hộ.
=> ý thức hệ phong kiến đã dần dần nhường chỗ cho ý thức hệ mới tiến
bộ hơn, phù hợp với văn minh thời đại hơn, đó là ý thức hệ dân chủ tư sản.
* Lúc này, cuối thế kỷ 19, dân tộc ta có 2 nhiệm vụ lịch sử : canh tân xứ
sở và chống xâm lăng. Để thực hiện 2 nhiệm vụ này, không thể không có báo chí
truyền thông. Có thể nói những biến động về tư tưởng là điều kiện chủ quan đối
với sự ra đời của báo chí.
2.3. Sự ra đời của chữ quốc ngữ.
- Chữ quốc ngữ xuất hiện cuối thế kỷ 17 do việc truyền đạo của các giáo
sĩ phương Tây gặp 2 khó khăn (thiếu phương tiện truyền đạt và phong trào Tả
đạo của triều Nguyễn). Vì vậy, các nhà truyền giáo đã có một sáng kiến: La tinh
hoá tiếng Việt. Công cuộc kéo dài hàng thế kỷ, chia thành 2 giai đoạn: Trước và

sau Alêch-xăng-đơ-rốt- người có công trong việc khai sinh ra chữ quốc ngữ và
ông cũng là người đầu tiên soạn từ điển tiếng Việt.
- Sau A-lếch-xăng-đơ-rốt, chữ quốc ngữ phát triển rất nhanh, trở thành
phương tiện của báo chí và văn học hiện đại. Từ đó chữ Hán và chữ Pháp bị mất
vị trí độc tôn ở Việt Nam. Các nhà báo có tinh thần dân tộc đã lãnh thêm một
trách nhiệm lịch sử : không ngừng phổ cập chữ quốc ngữ, tìm mọi cách để phát
huy tính năng của nó.4. Sự xuất hiện các phương tiện in ấn và hỗ trợ
- Những bộ chữ đúc thay thế lối in khắc bộ
- Máy in mới ra đời thay thế cho máy in thủ công
- Người Pháp mở mang một hệ thống giao thông xuyên Việt: đường bộ và
đường sắt.- 1862, đường dây điện thoại đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam, nối Sài
Gòn – Biên Hoà. 1863, Bưu điện Sài Gòn được thành lập; 1894, đường dây viễn
8


thông Bắc – Nam đã hoàn thành; 1899, hệ thống máy điện thoại được sử dụng
toàn dân…- 1929: cầu hàng không đầu tiên Sài Gòn – Pari được thiết lập, giải
thoát tình trạng bế quan toả cảng cho báo chí.
=> Đây là những điều kiện cần và đủ cho một nền báo chí ở Việt Nam
xuất hiện
3. Các giai đoạn báo chí Việt Nam trước năm 1925
3.1. Báo chí giai đoạn 1861-99: thời kỳ khởi lập:
Khởi đầu, có thể nói việc thành lập nền báo chí ở Việt Nam hoàn toàn do
ý đồ chánh trị của chánh quyền bảo hộ Pháp muốn sử dụng báo chí làm phương
tiện để cai trị.
Sau khi đặt chân được lên Gia Định, vừa nỗ lực dẹp tan các cuộc phản
kháng của người Việt và mở rộng vùng chiếm đóng, người Pháp vừa nhanh
chóng thiết lập chế độ chánh trị thuộc địa, trong đó hệ thống báo chí được hình
thành nhằm đáp ứng các mục tiêu: thông tin thời sự, phổ biến Pháp ngữ và quốc
ngữ, dùng báo chí làm công cụ tuyên truyền và phô trương nền văn minh nước

Pháp, lôi kéo thu hút đối tượng trí thức bản xứ.
Giai đoạn từ 1861 đến 1898, báo chí ở Việt Nam còn trong thời kỳ phôi
thai. Hầu hết các báo đều do người Pháp chủ trương dưới hình thức công báo
hoặc báo tư nhân do chánh quyền ngầm hỗ trợ và được hưởng qui chế luật tự do
báo chí 1881 của Pháp. Những người Pháp đứng ra kinh doanh, phụ trách hoặc
chủ trương báo chí trong thời kỳ này là Ernest Potteaux, Pierre Jeantet, Francois
Henri Schneider, Ernest Babut, Georges Ganas… Báo thường in bằng hai, ba
thứ chữ: Pháp ngữ, Hán ngữ, quốc ngữ. Độc giả rất ít, phần lớn là công chức.
Giá báo khá mắc dù đã được nhà cầm quyền tài trợ.
Về nội dung, phần lớn trang báo dùng đăng tải các nghị định, chỉ thị của
chánh quyền trung ương phổ biến xuống các cấp địa phương. Tin tức thời sự còn
ít và chưa thu hút người đọc. Thỉnh thoảng trên báo xuất hiện một số bài khảo
cứu, sưu tầm, văn nghệ, nhưng văn chương còn vụng về. Về hình thức, kỹ thuật
in ấn và trình bày còn thô sơ. Lúc đầu người Pháp đem máy in chữ Pháp sang
9


Sài Gòn, sau đó đúc thêm các mẫu chữ quốc ngữ và Hán ngữ đưa sang để in báo
quốc ngữ, Hán ngữ.
Báo chí thời kỳ khởi lập có vai trò thúc đẩy một bộ phận người Việt trí
thức và lớp trên học thông thạo chữ quốc ngữ và Pháp ngữ, sau đó ảnh hưởng
đến lớp trung lưu và thị dân, góp phần rất quan trọng hình thành nền văn chương
học thuật Việt Nam hiện đại.
Tờ báo đầu tiên phát hành ở Đông Dương là Bulletin Officiel de
L’expedition de la Cochinchine (Thành tích biểu viễn chinh Nam Kỳ), do đích
thân chuẩn đô đốc Louis Adolphe Bonard làm chủ báo. Khi từ Pháp sang Sài
Gòn, Bonard đem theo máy in, chữ in Pháp, thợ in, đến ngày 29-9-1861 bắt đầu
phát hành số công báo đầu tiên. Nhưng công báo chỉ lưu hành trong nội bộ quân
Pháp vì lúc đó ít người Việt đọc được chữ Pháp. Năm sau, Bonard phát hành tiếp
công báo Le Bulletin des Communes bằng Hán ngữ nên phổ biến hơn, phát

xuống cho chánh quyền các địa phương miền Đông Nam Kỳ. Tờ báo thứ ba là
Bulletin officiel de la Cochinchine française (Công báo Nam Kỳ thuộc Pháp),
đăng những thông tin phục vụ cuộc chiếm đóng và cai trị thời kỳ đầu tại Nam
Kỳ. Tờ báo thứ tư là Le Courrier de Saigon bắt đầu đăng thêm mỗi số một phụ
trang văn học, lịch sử và những trang tư liệu phục vụ và kêu gọi đầu tư thương
mại từ Pháp vào vùng Viễn Đông.
3.2. Báo chí giai đoạn 1900-13: thời kỳ bị hạn chế
Những năm cuối thế kỷ 19, chế độ bảo hộ thuộc địa của Pháp ở Đông
Dương đã được thiết lập tương đối hoàn chỉnh. Công cuộc khai thác thuộc địa
bắt đầu được đẩy mạnh. Báo chí trong nước và ở Pháp liên tiếp có nhiều bài
phản ánh tệ trạng hà khắc, bóc lột nặng nề của bộ máy cai trị đối với dân chúng
thuộc địa. Các cuộc phản kháng võ trang của phong trào Cần Vương và Văn
Thân hầu như bị dẹp tan, nhưng giới trí thức tiến bộ bắt đầu chuyển hướng mạnh
sang mặt trận chánh trị và văn hóa, mà trận địa là báo chí, với đội ngũ văn bút
người Việt đông đảo hơn trước.
Lo ngại với tình hình trên, toàn quyền Paul Doumer kịch liệt yêu sách
Chánh phủ Paris ngưng áp dụng Đạo luật Tự do báo chí 1881 ở Đông Dương.
10


Ngày 30-12-1898, tổng thống Pháp Félix Faure ra sắc lệnh, qui định chế độ báo
chí áp dụng đối với Đông Dương, giao cho toàn quyền Đông Dương được quyết
định cho phép hay cấm đoán các tờ báo không phải bằng Pháp ngữ và không do
người Pháp chủ trương, cùng với nhiều quyền hạn kiểm soát quản lý báo chí
rộng lớn khác, bất chấp Đạo luật Tự do báo chí 1881 được Quốc hội Pháp thông
qua.
Những năm đầu thế kỷ 20, chữ quốc ngữ phổ biến khá rộng khắp ở Việt
Nam. Bộ mặt kinh tế, xã hội, văn hóa có nhiều thay đổi nhảy vọt so với thế kỷ
trước. Rất đông trí thức tân học xuất hiện, trong đó nhiều người muốn sử dụng
văn bút và mặt trận văn học, báo chí làm phương tiện tuyên truyền, kích động

quần chúng kháng Pháp, nhất là trong phong trào vận động Duy Tân (1904-08)
và Việt Nam Quang Phục Hội (1912-16). Ngược lại chánh quyền thuộc địa Pháp
cũng muốn tiếp tục tận dụng phương tiện báo chí theo chiều hướng có lợi cho
việc cai trị và khai thác thuộc địa nên, càng nỗ lực hạn chế và cấm đoán các
hành vi phản kháng trong giới văn báo bản xứ.
3.3. Báo chí giai đoạn 1913-1924: thời kỳ phát triển
Năm 1911, Albert Sarraut sang làm toàn quyền Đông Dương. Trước khi
bước vào con đường chánh trị, Sarraut từng là một nhà báo, làm biên tập viên
thường trực tờ La Dépêche du Midi ở Toulouse, do đó muốn sử dụng báo chí
cho mục đích chánh trị. Bắt đầu thực hiện chánh sách ve vãn thuộc địa, tuyên bố
Pháp Việt đề huề, song song với việc nới lỏng chánh trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
Sarraut chủ trương nới lỏng báo chí rõ rệt từ năm 1913, mong dùng báo chí làm
công cụ phản tuyên truyền đối phó với phong trào cách mạng trong nước và sự
bành trướng ảnh hưởng của Trung Hoa và Đức sang Việt Nam thời đó.
Thời kỳ 1913-18, việc nới lỏng báo chí còn cầm chừng, có tánh cách thử
nghiệm, dò dẫm. Việc kiểm duyệt vẫn duy trì gắt gao. Trước và trong Đệ nhất
thế chiến, tại Việt Nam nổ ra nhiều cuộc bạo động võ trang như: phong trào Hội
Kín Nam Kỳ năm 1913, bạo động của Việt Nam Quang Phục Hội ở Huế và
Trung Kỳ năm 1916, cuộc nổi dậy của binh lính và tù chánh trị Thái Nguyên
năm 1917… Báo chí trong nước hầu như không tờ nào được tỏ thái độ ủng hộ
11


phong trào kháng Pháp, hoặc nhân lúc Pháp sa lầy trong thế chiến để vận động
giải phóng dân tộc. Ngược lại, có tờ báo còn hô hào Rồng Nam phun bạc đánh
đổ Đức tặc, kêu gọi góp người và của sang châu Âu giúp Pháp đánh Đức. Tin
tưởng vào sự kiểm soát có hiệu quả nền báo chí thuộc địa, các toàn quyền sau
Đệ nhất thế chiến an tâm phóng tay phát triển mạnh mẽ hệ thống báo chí Việt
ngữ.
Sau khi chiến thắng trong Đệ nhất thế chiến, kinh tế Pháp và Đông Dương

nhanh chóng khôi phục và phát triển mạnh. Giới tư sản bản xứ bắt đầu hình
thành và phát triển. Đội ngũ trí thức tân học ngày càng đông đảo. Nhiều loại
hình kinh tế, văn hóa, nghệ thuật phát triển mạnh hoặc mới xuất hiện như công
nghiệp, điện ảnh, thoại kịch, thể dục thể thao, tân nhạc, thơ mới, tiểu thuyết,
truyện ngắn…
Từ đó, xã hội hình thành nhiều tổ chức, đảng phái chánh trị, tổ chức kinh
tế, nghiệp đoàn, trường phái văn chương, nghệ thuật… Mỗi tổ chức, lãnh vực
đều muốn thể hiện tiếng nói của mình qua báo chí để thỏa mãn và hoàn thành
mục tiêu trong xã hội. Chữ quốc ngữ phổ biến rộng khắp. Sự phát triển kinh tế
làm các đô thị tập trung đông dân cư hơn. Sài Gòn – Chợ Lớn từ 200.000 dân
đầu thế kỷ, đến năm 1920 tăng lên 300.000 dân. Hà Nội năm 1920 có khoảng
120.000 dân. Các tỉnh lỵ khác mỗi nơi cũng tập trung từ 20.000 đến 100.000
dân. Điều này làm tăng đối tượng độc giả báo chí nhiều hơn trước.
Ba đối tượng quyết định sự phát triển báo chí là lực lượng độc giả, lực
lượng văn bút và hệ thống nhà in, sau Đệ nhất thế chiến đều phát triển mạnh hơn
trước. Dân chúng, nhất là ở các đô thị, ngày càng quan tâm đến thời cuộc và
thích đọc sách báo. Thành phố Sài Gòn là đô thị lớn nhất Việt Nam về mọi
phương diện. Điều kiện ra báo và chế độ kiểm duyệt ở Sài Gòn và Nam Kỳ tuy
cũng bó buộc, nhưng được xem là lãnh thổ đồng đẳng của Pháp nên vẫn không
quá gắt gao như ở Bắc và Trung Kỳ. Vì thế, ở Sài Gòn tập trung rất nhiều báo
chí, nhà in, nhà xuất bản và hầu hết báo chí chánh trị đối lập thời đó đều chỉ tập
trung ở Sài Gòn. Trung tâm báo chí thứ hai là Hà Nội cũng có nhiều báo, nhưng
đa số là báo thông tin thời sự hoặc chuyên về văn học, lịch sử, kinh tế. Các
12


thanh niên trí thức tân học và có tư tưởng cách mạng cấp tiến khắp nơi đều lần
hồi tập trung vào Sài Gòn để có cơ hội hoạt động tốt nhất.
Báo chí xuất bản ở vài ba đô thị lớn, sau đó lưu hành khắp nơi trong nước,
tới các vùng xa xôi sau một vài ngày và cộng thêm chút cước phí vận chuyển.

Trong giai đoạn thử nghiệm mở rộng báo chí dưới thời toàn quyền Albert
Sarraut, công dân Pháp xin ra báo dễ dàng, nên nhiều người Pháp nhận đứng tên
ra báo Pháp ngữ hoặc quốc ngữ, sau đó cho mướn hoặc sang lại cho người Việt
điều hành để kiếm lợi.
Sau Đệ nhất thế chiến, điều kiện mở báo dễ dàng hơn cho người Việt, mới
có nhiều chủ báo người Việt như Sương Nguyệt Anh, Nguyễn Hữu Thu, Bạch
Thái Bưởi, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn Kim Đính, Bùi Xuân Học, Diệp
Văn Kỳ, Hoàng Tích Chu… Nhiều loại báo đặc biệt chuyên nghiên cứu về một
vấn đề, dành riêng cho một giới độc giả cũng xuất hiện như báo chánh trị, phụ
nữ, thiếu nhi, tôn giáo, kinh tế, sư phạm, văn chương…
Về nội dung, báo chí giai đoạn này có bài vở phong phú, bám sát thời sự,
xuất hiện nhiều chuyên mục xã thuyết, phiếm luận, trình bày lập trường chánh
trị. Các báo do thực dân Pháp chủ trương (Đông Dương Tạp Chí, Nam Phong
Tạp Chí…) cố gắng cổ võ chánh sách ‘Pháp Việt đề huề’ và triệt hạ uy tín lực
lượng kháng Pháp. Các báo có khuynh hướng cổ võ cách mạng (La Cloche
Fêlée, Đông Pháp Thời Báo, Thần Chung…) thì vạch ra tính chất mỵ dân của
Pháp và hô hào tinh thần yêu nước kháng Pháp. Các tạp chí chuyên đề có nhiều
bài nghiên cứu sâu sắc, công phu về văn học, triết lý, khoa học, kinh tế, xã hội
có giá trị.
Về hình thức, kỹ thuật in ấn tiến bộ rõ rệt. Cách sắp chữ, chạy tít báo có
nhiều cải tiến. Bài vở trình bày sáng sủa, nhiều trang ảnh mỹ thuật. Văn chương
báo chí sáng sủa, gọn ghẽ, mạch lạc hơn trước.
Số lượng báo chí xuất bản công khai, hợp pháp tăng lên nhanh chóng.
Kể cả báo, tạp chí, kỷ yếu, niên san, năm 1932 có 318 tờ. Năm 1933 có
357 tờ. Quý 1 năm 1936 có 411 tờ, trong đó có 99 tờ báo, 166 tờ kỷ yếu và tạp
chí, 146 tạp chí xuất bản hàng năm. Ngày 31-12-1936 có 445 tờ. Riêng về báo,
13


năm 1932 có 92 tờ, trong đó có 48 báo quốc ngữ và 44 báo Pháp ngữ. Năm 1935

có 102 tờ, trong đó có 44 báo quốc ngữ và 58 báo Pháp ngữ.
Nhiều tờ báo có cuộc đời ngắn ngủi. Báo cũ chết đi và báo mới ra đời liên
tiếp xảy ra và là chuyện bình thường trong làng báo. Chỉ riêng năm 1936, cả
Đông Dương có 70 tờ báo đình bản và 96 tờ báo mới ra đời.

Ảnh: Số phát hành một số tờ báo tại Đông Dương năm 1938
Năm 1918, nhà văn Nguyễn Chánh Sắt và chủ nhà in Imprimerie de
l’Union là Nguyễn Văn Của cùng một số thân hữu đã thành lập Nam Kỳ Nhật
Báo Ái Hữu Hội tại Sài Gòn.
Thời kỳ 1913-1924 có nhiều tờ báo mới thành lập, là thời kỳ báo chí hùng
hậu nhất thời thuộc Pháp: Các báo có liên quan đến Đông Dương in bằng Pháp
ngữ, Việt ngữ hoặc song ngữ tại Pháp, Các báo Pháp ngữ (1913-1924) tại Việt

14


Nam, Các báo Hán ngữ (1913-1924) tại Việt Nam, Báo chí (1913-1924) phân
theo chủ đề, Các báo quốc ngữ (1913-1924) phân theo năm ra đời.
4. Đặc điểm nổi bật của Báo chí Việt Nam trước 1925
4.1. Là giai đoạn khởi đầu của nền Báo chí Việt Nam.
Những biến động toàn diện và sâu sắc về chính trị, tư tưởng khởi nguồn
từ cuộc xâm lược của Pháp ở Việt Nam cùng với sự ra đời của chứ Quốc ngữ, sự
xuất hiện các phương tiện in ấn, hỗ trợ đã trở thành điều kiện thúc đẩy sự ra đời
và phát triển của Báo chí Việt Nam ngay từ cuối thế kỉ XIX.
Báo chí ở Việt Nam xuất hiện sớm nhất ở Nam kỳ do 2 nguyên nhân
chính:


Vị thống đốc đầu tiên đến Nam kỳ là Bonard đã thiết lập một chế


độ chính trị mới tại đây, tất cả các quyền hành đều nằm trong tay sĩ quan quân
dội Pháp. Để đảm bảo cho một chính sách dài hạn, người Pháp thấy cần phải
thiết lập ra một nền hành chính dân sự. Chính vì lẽ đó mà Chính quyền Pháp đã
sử dụng Báo chí như một thứ vũ khí mới, khác với chính trị để nhằm thực hiện
hai mục tiêu chính: Thứ nhất là phổ biến chữ Pháp, thứ hai là phổ biến chữ Quốc
ngữ. Nhưng dụng ý của chúng vẫn là dùng báo chí để chinh phục tinh thần của
dân chúng địa phương.
Trong giai đoạn đầu, tất cả báo chí đều do người Pháp thành lập ra và
điều khiển. Chúng không ngần ngại tuyên bố mục đích của báo chí là dùng để
cách tân văn hóa xứ sở, giúp đỡ dân bản xứ. Nhưng thực chất chúng dùng báo
chí để phục vụ cho quyền lợi và ổn định tình hình chính trị vùng thuộc địa.


Chính quyền Pháp muốn dùng báo chí để phổ biến nền văn minh

của họ, và nhờ vào phương tiện mới hữu hiệu này, học có thể phô trương những
thay đổi mới mẻ mà chính quyền mới đem đến cho xứ thuộc địa, hòng làm thay
đổi toàn bộ hệ thống chính quyền tồn tại trong xã hội Phong kiến Việt Nam từ
trước đến nay.
Từ 1861-1807 là giai đoạn đầu tiên đánh dấu sự xuất hiện của Báo chí
Việt Nam với khoảng 70 tờ báo tiếng Pháp và 20 tờ báo bằng chữ Quốc Ngữ.
15


Tờ báo tiếng Pháp đầu tiên là tờ Nam kỳ viễn chinh công báo (Le Bulletin
Officiel de L’expedition De La Cochinchine) xuất bản ngày 29-9-1986. Đây là
tờ báo phát hành theo đường quân sự, được xem như là phương tiện liên lạc duy
nhất giữa chính quyền Pháp với các đạo quân viễn chinh và dân chúng vùng
thuộc địa. Là một tờ công báo chuyên đăng tải lại những công văn, nghị định…,
bên cạnh đó còn có một phần hướng dẫn binh lính Pháp làm quen với điều kiện

sống ở Việt Nam. Đây là tờ báo đầu tiên ở nước ta, tồn tại qua 27 năm với 173
số (đình bản vào năm 1888)
Tuy nhiên, tờ báo được đánh giá là khởi đầu cho nền báo chí Việt Nam
chính là tờ Gia Định Báo– tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt, ra đời vào ngày 1-41865. Tờ báo ra đời với mục đíchphổ biến những tin tức đáng lưu ý. Gia Định
báo thực sự trở thành diễn đàn chung cho giới tri thức ở miền Nam quan tâm đến
chữ Quốc Ngữ, chấn hưng cổ học, dung hòa giữa truyền thống và cái mới. Nhờ
đó mà tiếng Việt có điều kiện phát triển.
Bên cạnh đó, đây là thời kỳ xuất hiện những cái “đầu tiên” nền báo chí
Việt như:
Tờ báo quốc ngữ tư nhân đầu tiên là tờ Nguyện san Thông loại khóa trình
(báo kiểu sách đọc thêm, giải trí mang mục đích giáo dục) do Trương Vĩnh Ký
chủ trì, khuôn khổ 16 x 23,5 cm, phát hành hàng tháng tại miền Nam trong
những năm 1888-1889, là tờ báo quốc ngữ tư nhân đầu tiên. Số 1 của nó ra vào
tháng 5/1888.
Tờ báo kinh tế đầu tiên là Nông cổ mín đàm (ngồi uống trà bàn chuyện
làm ruộng và đi buôn) khuôn khổ 20 x 30 cm, phát hành vào thứ Năm hàng tuần
tại Sài Gòn, là tờ báo kinh tế đầu tiên với số 1 ra ngày 1/8/1901.
Trang quảng cáo trên báo sớm nhất: trang quảng cáo sớm nhất hiện diện
đầu năm 1882 ở số báo thứ 1 của năm 1882, Gia Định báo dành toàn bộ
trang cuối để đăng quảng cáo cho Nhà thuốc Pharmacie Reynaud. Từ đó, quảng
cáo trở thành một trang cố định, xuất hiện thường kỳ trên Gia Định báo và hoạt
động quảng cáo cũng dần phổ biến ở nhiều báo khác.
16


Tờ báo Phụ nữ đầu tiên: Báo Nữ giới chung (tiếng chuông của giới nữ)
xuất bản vào thứ Sáu hàng tuần tại Sài Gòn trong năm 1918 là tờ báo đầu tiên
chuyên về phụ nữ. Số 1 của nó ra ngày 1/2/1918. Do Lê Ðức làm Chủ nhiệm và
Sương Nguyệt Anh, con gái của Nguyễn Ðình Chiểu làm Chủ Bút
Nhà báo Việt Nam đầu tiên là Trương Vĩnh Ký (1837-1888), tên tự là Sỹ

Tải thườNg gọi là Pétrus Ký, quê ở Tân Minh-Vĩnh Long (nay thuộc Bến Tre).
Ông là một học giả lớn, thạo 26 ngoại ngữ, là tác giả của hơn 100 bộ sách, hàng
nghìn bài viết, có chân trong nhiều hội khoa học quốc tế, cống hiến xuất sắc cho
các chuyên ngành: văn hóa, ngôn ngữ, địa lý, nhân chủng học.. Ông thành lập,
làm tổng biên tập những tờ báo quốc ngữ đầu tiên, đồng thời là cây bút chủ chốt
của rất nhiều báo khác và được coi là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ
Việt Nam…
Nữ tổng biên tập đầu tiên: Nguyễn Xuân Khuê (1864-1921), bút danh là
Sương Nguyệt ánh, con gái thứ 4 của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, quê ở Ba TriBến Tre. Nhận lời mời của các đồng nghiệp, đầu năm 1918 bà lên Sài Gòn làm
Tổng Biên tập tờ Nữ giới chung và phụ trách tờ báo này trong suốt thời gian tồn
tại của nó.
Trải qua từng giai đoạn sau cho đến trước Cách mạng Tháng Tám, báo chí
Việt Nam không ngừng phát triển và có những cách tân đáng kể. Đây thực sự là
thời kì đặt nền móng cho báo chí nước nhà.
4.2.

Là thời kì hoạt động đặc biệt của Báo chí Việt Nam.
Đây là thời kì báo chí nước ta nằm trong hoàn cảnh lịch sử biến động với

nhiều bước ngoặt quan trọng. Yếu tố này tác động rất nhiều đến sự hình thành và
phương pháp phát triển nền báo chí.
Giai đoạn 1908-1918:


Sau khi Thực dân Pháp xâm lược, phong trào đấu tranh của nhân

dân ta diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt trong thời gian này là sự phát triển của phong
trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản như Đông Du, Đông Kinh
Nghĩa Thục.
17



Đông Du là phong trào sang Nhật Bản để học, du nhập Phương Đông,
phong trào bắt đầu từ Quảng Nam và kéo dài trong hai năm.
Đông Kinh Nghĩa Thục là một hệ thống giáo dục mà người ta chủ trương
học để biết với khẩu hiệu là “Giáo dục quần chúng để cách tân xứ sở” sử dụng 2
biện pháp chính đó là mở trường dạy học và giáo dục thông qua báo chí.
Mục tiêu của những nhà yêu nước là học chữ Quốc ngữ để khai hóa, xây
dựng một nền văn hóa có thể nâng cao mức sống của một xứ chậm tiến thành
một xứ phát triển bằng việc đọc sách báo. Vì vậy, đối với báo chí, các nhà hoạt
động chính trị yêu nước muốn các tờ báo tiếng Việt phải giảm giá tới mức thấp
nhất để mọi người tiếp cận thuận lợi; đồng thời chủ bút phải được lựa từ trong
hàng ngũ tri thức. Nhờ đó mà hệ thống trường học được mở rộng, phổ cập giáo
dục tiểu học, sự truyền bá chữ Quốc Ngữ được gia tăng. Đây là cách chuẩn bị
lực lượng bạn đọc cho Báo chí Việt Nam, tạo ra một lớp người trẻ tuổi có chí
tiến thủ, nhạy cảm với cái mới…


Năm 1913, Anbe Sarraut sang Việt Nam và giữ chức toàn quyền

Đông Dương. Lúc đó, Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất bùng nổ (1914-1918),
người Pháp đang phải đánh nhau với người Đức, nước Đức đang tỏ ra thắng thế
trên mọi phương diện làm cho vai trò của Pháp ở Đông Dương trở nên mờ nhạt.
A. Sarraut muốn tìm cách để lấy lại danh dự cho người Pháp. Mặt khác, cũng
vào thời điểm này, có nhiều ấn phẩm tiến bộ được đưa từ Trung Hoa vào Việt
Nam, đó là những tư tưởng của các nhà cách mạng Trung Hoa được in bằng
tiếng Hán. Những ấn phẩm vào cách mạng Việt Nam.
Chính vì những lí do đó, năm 1915, A. Saraut đã đề ra chủ thuyết mang
tên mình nhằm mục đích: Ca ngợi Thực dân Pháp, hạ thấp uy tín của nước Đức,
chống lại Đức; dùng báo chí tiếng Việt và tiếng Pháp để cắt đứt mối liên hệ của

Báo chí Việt Nam với Trung Hoa; đồng thời lôi kéo nhằm nô dịch tầng lớp tri
thức Việt Nam mà chủ yếu là tri thức Bắc kỳ.
Những đặc điểm của lịch sử đã tạo ra một diện mạo báo chí phát triển với
những khuynh hướng khác nhau, tạo đà cho sự phát triển mạnh mẽ của Báo chí
Việt Nam ở những giai đoạn sau.
18


4.3.

Báo chí hoạt động với nhiều khuynh hướng khác nhau.
Chính những ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan, cụ thể ở

đây là hoàn cảnh lịch sử đã tạo ra một thời kì phát triển của báo chí Việt Nam
với phong phú thể loại đề tài, đa dạng khuynh hướng.
Trong những giai đoạn đầu tiên của thời kì phát triển báo chí trước Cách
mạng tháng Tám, xuất hiện nhiều tờ báo bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. Nhưng
do ở những giai đoạn này, chúng ta chưa có đủ điều kiện để phát triển các tờ báo
độc lập nên chủ yếu ra báo phải phụ thuộc rất nhiều vào chính quyền thực dân.
Đồng thời, giai đoạn này, người Pháp đưa ra nhiều đạo luật, nhiều văn bản cấm
việc phổ biến tất cả các tin tức không do chính phủ cung cấp, cấm đăng tin liên
quan đến quân sự hay ngoại giao…vì thế báo chí giai đoạn này là báo chí công
khai, chưa dám đưa đấu tranh cách mạng một cách chính thức vào nội dung bài
báo, vì vậy mà nội dung các bài báo không phong phú, nhiều tờ đưa tin giống
nhau.
Trong giai đoạn này, báo chí việt nam đang còn ở trong tình trạng phôi
thai, kĩ thuật làm báo còn non nớt, kinh tế đất nước chưa phát triển. Bên cạnh
đó, số lượng độc giả giả hạn chế vì trình độ dân trí người dân còn thấp; báo chí
là một thứ hoàn toàn mới lạ với người dân bản xứ, mặt khác lại phát hành với
giá quá đắt nên gây khó khăn cho việc tiếp cận của người dân; đội ngũ nhà báo

thiếu phương tiện máy móc và kinh nghiệm làm việc, dời sống khiêm nhường
khi hoàn toàn phụ thuộc vào trợ cấp của chính phủ…Những yếu tố này cũng tạo
ra nhiều khó khăn cho sự phát triển của báo chí.
Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này đã có nhiều tờ báo xuất hiện với
phong phú thể loại và nội dung truyền tải. Có thể kể đến tờ Đông Dương Tạp chí
của Nguyễn Văn Vĩnh-1913, Nam phong Tạp chí của Phạm Quỳnh năm 1917…
Những tờ báo này đã tích cực tạo ra các diễn đàn thảo luận trên lĩnh vực văn
học, phổ biến tư tưởng, học thuyết Tây và Đông phương; tích cực truyền bá chữ
Quốc ngữ; qua đó phát hiện được nhiều cây bút mới có nhiều tài nắng và sức
sáng tạo.
19


IV – KẾT LUẬN
Báo chí Việt Nam giai đoạn trước 1925 thực sự đã có nhiều thành tựu
đáng ghi nhận trong lịch sử báo chí nước nhà. Bên cạnh đó cũng gặp những khó
khăn, những vấn đề bất cập, để từ đó người làm báo có thể rút ra được những
kinh nghiệm quý báu trong thời kì bị Thực dân Pháp kiểm duyệt (như việc cách
tân hình thức, đa dạng về khuynh hướng, chuyên biệt về nội dung và đối
tượng,...) để báo chí giai đoạn sau 1925 có nhiều điều kiện thuận lợi từ đó mà
phát triển và hoàn thiện hơn.

20


21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị số 08 CT/TW ngày 31-3-1992 của Trung ương Đảng Cộng sản

Việt Nam về tăng cường năng lực lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản.
2. Hà Minh Đức, Cơ sở lí luận báo chí- đặc tính chung và phong cách,
Nxb Đại học Quốc Gia- Hà Nội,2000
3. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 80 năm báo chí Cách mạng
Việt Nam- những bài học lịch sử và định hướng phát triển, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
4. Phạm Hồng Duy, Lịch sử Báo Chí- phần I, Tài liệu nghiên cứu của
Khoa báo chí trường Cao đẳng Phát thanh Truyền hình
5. Pierre albert – Lịch sử Báo chí, Nxb Thế giới, Hà Nội 2003
6. Tạ Ngọc Tấn- Cơ sở lý luận báo chí, NXB lý luận chính trị, Hà Nội
2000
7. Trịnh Thị Bích Liên, Đề cương bài giảng Lịch sử báo chí Việt Nam,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền ,Hà Nội 2010

22



×