Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945 ở việt nam tài liệu, ebook, giáo trình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.18 KB, 31 trang )

Đường lối CMĐCS Việt Nam

BẢNG PHÂN
HỌCÔNG
VÀ TÊN
CÔNG VIÊC
STT

Nhóm - HIS POS

MSSV

NHIỆM VỤ

NHÓM ĐÁNH
GIÁ NHIỆM VỤ

Trang
1


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

MỤC LỤC
***

Trang
2



Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

I/ MỞ ĐẦU
Việt Nam chúng ta vốn dĩ là một đất nước giàu tài nguyên thiên nhiên , lại nằm trong ngã
ba Đông Dương nên được xem như là một miếng mồi ngon và béo bở của nhiều nước trên thế
giới lúc bấy giờ. Do đó trong quá trình đi xâm lấn, mở rộng thuộc địa, tư bản phương Tây đã để
ý tới nước ta. Năm 1958, đế quốc Pháp nổ súng xâm lược nước ta, Triều đình nhà Nguyễn ký
hiệp ước Pa-Tơ -Nốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc pháp.Từ đó chúng ta là thuộc địa của
chúng, cũng kể từ đó nhân dân ta chịu đựng bao đau khổ, lầm than dưới sự bóc lột tận cùng của
thực dân Pháp đã làm hằn sâu trong tiềm thức mỗi người Việt Nam ý chí kiên cường.
Bằng sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, đánh dấu một bước ngoặt lịch
sử của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và việc chớp đúng thời cơ đã đem lại
thắng lợi có ý nghĩa hết sức to lớn, nó đã phá tan hai tầng xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp kéo
dài hơn 80 năm và của phát xít Nhật đồng thời nó còn lật đổ chế độ Phong kiến tồn tại ngót ngàn
năm trên đất nước ta, lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ

Trang
3


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cách mạng tháng Tám được xem là một sự
kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam, cũng như để lại nhiều bài học quý giá cho sự phát triển
về kinh tế, văn hóa, chính trị,.. .của đất nước ta sau này, để tìm hiểu kỹ hơn về việc chớp đúng

thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945 và sự ảnh hưởng của thời cơ đến nước ta hiện nay,
nhóm chứng em đã nghiên cứu đề tài: “ Vẩn đề thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945 ở
Việt Nam”. Do sự hạn hẹp về kiến thức và tính phức tạp của đề tài nên trong quá trình làm bài
không tránh khỏi những hạn chế và sai sót, mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ cô giáo.
II/ NÔI DUNG
1/ Lý luận chung về vấn đề thời cơ :
A /Khái niệm thời cơ:
Thời cơ là một hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, là tình thế xuất hiện
trong thời điểm nhất định có lợi nhất có lợi nhất cho việc phát huy mọi sức mạnh, đảm bảo một
việc nào đó có thể tiến hành để giành thắng lợi. Thời cơ, đó là một thành tố khách quan, hoàn
toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân nào, của một tổ chức chính trị nào.
Nó xuất hiện một cách bất ngờ và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Nói như vậy
không có nghĩa là thời cơ là một cái gì đó không thể biết trước được, không thể đoán định được.
Tuy nhiên, điều lý thú là ở chỗ, nó có mà không có và ngược lại. Vì thế, không phải ai cũng có
thể dự báo được thời cơ, theo dõi, nắm bắt nó và cuối cùng là lợi dụng nó để đạt tới cái đích của
mình.

Trang
4


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

B/ Vai trò của thời cơ:
Thời cơ là một khái niệm rất quan trọng, gắn liền với sự thành bại của mỗi cá nhân, của
các đảng phái chính trị và của mỗi cộng đồng với những quy mô khác nhau, khi ta biết tận dụng
được hết những thuận lợi để đem đến thành công.
Như đã nêu ở khái niệm ,thời cơ là một thành tố khách quan, hoàn toàn không phụ thuộc

vào ý muốn chủ quan của một cá nhân nào, của một tổ chức chính trị nào. Nó xuất hiện một cách
bất ngờ và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết dự báo,
theo dõi nắm bắt và tận dụng thời cơ một cách hợp lý thì thời cơ sẽ là bệ phóng, là một yếu tố
quan trọng mang lại thành công cho cá nhân, tổ chức cũng như cho xã hội.Thời cơ có vai trò rất
quan trọng trong rất nhiều vấn đề của rất nhiều lĩnh vực. Theo chủ nghĩa Mác – Lê nin thì có 3
nhân tố chủ yếu để hợp thành tình thế cách mạng đó là:
+Thứ nhất: Giai cấp và tầng lớp thống trị bên trên đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm
trọng, không thể kiểm soát nổi tình hình, trở nên bất lực, không còn có chế độ thống trị như cũ
nữa.
+Thứ hai: Các giai cấp và tầng lớp bị trị bên dưới cũng rơi vào tình trạng cơ cực, bị bần
cùng không thể chịu đựng được nữa, không thể sống nổi nữa. Mâu thuẩn đã gay gắt đến cực độ
và quần chúng đã sẵn sàng đi tới một hành động giải phóng.

Trang
5


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

+Thứ ba: tầng lớp, bộ phận trung gian, những người trí thức yêu nước, có tư tưởng dân
chủ, tiến bộ, những người có tinh thần dân tộc, kể cả một bộ phận trong giai cấp hữu sản nhưng
gần với quần chúng, nhận thức được xu thế lịch sử, ngả về phía cách mạng, tương quan lực
lượng có lợi cho phía cách mạng.Hội đủ những điều kiện đó, về cơ bản, tình thế cách mạng đã
chín

muồi”

.


Như vậy, một cuộc khởi nghĩa diễn ra thành công không phải dựa vào một âm mưu, một đảng
phái mà phải dựa vào cao trào cách mạng của nhân dân, dựa vào một chuyển hướng lịch sử quyết
định.Xét trên bình diện đó, chúng ta có thể nhận thấy ở Việt Nam vào đầu những năm 1940, đặc
biệt sau khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra thất bại thì vấn đề thời cơ được bàn luận đến rất
nhiều (trước đó, sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng vào đầu
tháng 2-1930 là một ví dụ điển hình về việc thời cơ chưa xuất hiện. Khi đó, những người đứng
đầu Việt Nam Quốc dân Đảng đã coi khởi nghĩa như một giải pháp tình thế, như một trò chơi “không thành công cũng thành nhân”. Thế hệ cách mạng Việt Nam tiếp theo liền rút ra bài học:
Không được đùa với khởi nghĩa). Vào tháng 5-1941, trong Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương lần thứ VIII tại Pắc Bó, Cao Bằng dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
và quyền Tổng Bí thư Trường Chinh. Nghị quyết đã dự báo một cách chính xác về cuộc chiến
tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của nó: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xô,
một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ
nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều nước thành công ” . Như vậy, thời cơ sẽ đến với nhiều nước trên

Trang
6


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

thế giới khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phần thắng nghiêng về Liên Xô và phe dân chủ.
Đó là một khả năng làm xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng nhiều nước, trong đó có cách
mạng nước ta. Hội nghị còn nhận định rằng cuộc cách mạng Đông Dương là một bộ phận của
phong trào cách mạng thế giới và lúc đó là một bộ phận của phong trào dân chủ chống phát-xít.
Vận mệnh của dân tộc Đông Dương gắn liền với vận mệnh của Liên xô, đồng thời cũng gắn liền
với cách mạng Trung Quốc. Bài học thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn là bài
học đi cùng năm tháng, nếu chúng ta muốn thành công và không muốn tụt hậu. Hồ Chí Minh đã

xác định tầm quan trọng có tính khái quát của khái niệm thời cơ qua hai câu thơ của bài thơ “Học
đánh cờ” trong tác phẩm “Nhật ký trong tù”:Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,Gặp thời, một tốt
cũng thành công.Ngày nay, khi mà đất nước chúng ta đang hội nhập toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực thì vấn đề thời cơ càng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nếu như chúng ta biết nhận biết,
theo dõi và tận dụng tốt thì thời cơ sẽ mạng lại rất nhiều lợi ích về kinh tế, chính trị - ngoại giao,
văn hóa – xã hội, Ngược lại nếu như chúng ta không vận dụng hợp lý hay bỏ sót thì sẽ gây ra
những thiệt hại đáng tiếc, thậm chí sẽ trở thành vật cản trên con đường phát triển của đất nước.
Thời cơ không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với những vấn đề của dân tôc, của đất nước, của
các tổ chức mà nó còn rất có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân, đặc biệt là trong bối cảnh bùng nổ
thông tin như hiện nay. Một cá nhân nếu biết nắm bắt thời cơ kết hợp với những kiến thức vốn có
thì sẽ sớm vươn đến thành công và ngược lại nếu chỉ có những kiến thức thôi mà không biết nắm
bắt

thời



thì

Trang
7

rất

khó

để

thành


công.


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

Xem thêm:
- Giáo trình Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB
-

Giáo

trình

Lịch

sử

Đảng

Cộng

sản

Việt

Nam




NXB

Hồng

Đức.

- Tập bài giảng Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam - Ths Từ Ánh Nguyệt,Khoa


Luận

Chính

Trị,

Đại

Học

Duy

Tân.

- Hồ Chí Minh toàn tập – NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 3
- Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn Kiện Đảng Toàn Tập, NXB.Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội,1998
-

www.google.com.vn


-

www.kilobook.com

-

www.tuyengiao.vn

- www.dangcongsan.vn
2/ Thời cơ trong cách mạng tháng tám
a/Xác định thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945:
Một cuộc khởi nghĩa hoặc tổng khởi nghĩa muốn thắng lợi đòi hỏi phải hội đủ những điều
kiện bên ừong và bên ngoài (chủ quan và khách quan) mà chứng ta thường gọi là điều kiện chín
muồi. Cách mạng tháng Tám đã hội đủ các điều kiện cần thiết. Chứng ta hãy thử quay ngược thời
gian xem Đảng Cộng sản Việt Nam, một tổ chức chính ừị mạnh mẽ và rộng lớn nhất lúc đó, đã
dự báo thời cơ cho cuộc vùng dậy xung thiên vào tháng 8-1945 từ bao giờ. Có thể từ tháng 5-

Trang
8


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

1941, trong Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám dưới sự chủ trì của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Quyền Tổng Bí thư Trường Chinh, tại Pắc Bó, Cao Bằng. Nghị quyết
đã dự báo một cách chính xác về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của nó: “Nếu cuộc
đế quốc chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến
tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều nước thành công..

Nghị quyết này được thông qua vào tháng 5-1941, khi Liên Xô chưa tham chiến; một tháng sau,
tháng 6-1941, phát-xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Như vậy, thời cơ sẽ đến với nhiều nước
trên thế giới khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phần thắng nghiêng về Liên Xô và phe dân
chủ. Đó là một khả năng làm xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng nhiều nước, trong đó có
cách mạng nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của thời cơ, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chi Minh đã sớm đưa ra những quan điểm, Người viết: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực,
người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm
khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú phải thúc đẩy cho thời cơ đến mau”. Với sự phân tích chính xác,
khoa học mâu thuẫu trong hàng ngũ kẻ thù, đã dự báo cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương
và vạch ra những kế hoạch hành động khi tình hình mới tới. Và sau khi phân tích mâu thuẫn ngày
càng tăng ừong hàng ngũ kẻ thù, Trường Chinh đã đi tới một nhận định đứng đắn là, sớm hay
muộn cuộc đấu súng giữa chúng với nhau nhất định sẽ xảy ra: “Sự xưng đột giữa Nhật - Pháp
ngày thêm sâu sắc. Cho nên Nhật gấp rút”. Đảng và phong ừào cách mạng của quần chúng chủ
động đón nhận. Vì thế, khi cuộc đảo chính của Nhật nổ ra vào đêm 9-3-1945, Đảng ta không bị

Trang
9


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

động trước thời cuộc mà ừái lại, chủ động vạch ra những nhiệm vụ chiến lược sát đứng để đưa
cách mạng tiếp tục tiến lên. Ngay trong đêm Nhật - Pháp bắn nhau, tò chập tối, Hội nghị Thường
vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, Bắc
Ninh. Sợ bị lộ, Hội nghị chuyển sang làng Đình Bảng họp tiếp. Trên đường đi, bỗng nghe tiếng
súng nổ dồn từ phía Hà Nội, các đồng chí dự Hội nghị dồn bước tới địa điểm mới, họp tiếp và ra
ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào ngày 12-3-1945. Bản Chỉ
thị đó lập tức được chuyển tới nhà in bí mật của Đảng tại làng Tráng Việt, huyện Mê Linh, Hà

Nội. Ồng Nguyễn Lương Hoàng phụ trách nhà in, đã cấp tốc cho in hàng nghìn bản và theo
những đường giây bí mật chuyển đi các nơi. Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật ở
Đông Dương đã tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực
sự chín muồi, tuy vậy cũng đã tạo ra những tiền đề cần thiết thúc đẩy cuộc khởi nghĩa chóng tới.
Trong Bản Chỉ thị đó, Ban Chấp hành Trung ương, ngoài việc xác định kẻ thù mới và đề ra khẩu
hiệu đấu tranh mới, còn dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho nhân dân ta vùng dậy
giành chính quyền trên cả nước, đó là: Quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật và Nhật
đầu hàng Đồng minh. Dưới ánh sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương
đến địa phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt ừận Thái Bình Dương. Sau khi Hồng quân Liên
Xô tiêu diệt một triệu quân Quan đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc và Mỹ ném hai quả
bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki, ngày 9-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh
của Nhật Bản đã họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pô-xđam. Sau những cuộc

Trang
10


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

thương lượng giữa Nhật Bản và Đồng minh, ngày 14-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và nội
các Nhật Bản với sự hiện diện của Nhật hoàng đã nhóm họp và thông qua quyết định đầu hàng
Đồng minh. Đứng giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng
minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng thứ hai mà
Đảng ta đã dự báo. Tin đó đến với lãnh tụ Hồ Chí Minh rất sớm qua bản tin đài BBC mà Người
nghe được ở lán Nà Lừa, Tân Trào (Tuyên Quang). Thời cơ có một không hai đã đến với dân tộc
chúng ta, bởi vậy, “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do độc
lập!” (Lời của lãnh tụ Hồ Chính Minh nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp ở lán Nà Lừa). Lập tức,
Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ủy ban khởi

nghĩa toàn quốc ra quân lệnh số 1, trong đó có đoạn viết: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội
có một cho quân, dân Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà... Chúng ta phải
hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi
hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”(2).
Tiếp đó, Hội nghị Đảng toàn quốc và Quốc dân Đại hội nhóm họp tại Tân Trào quyết định
phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước. Như trên đã nói, thời cơ xuất
hiện và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Trong Cách mạng Tháng Mười Nga, thời
cơ chỉ tồn tại trong vòng 24 giờ. Còn trong Cách mạng Tháng Tám, thời cơ tồn tại một cách
khách quan ừong vòng hai mươi hôm, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng (ngày 15-81945) và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật ừên đất nước ta theo Hiệp

Trang
11


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

định Pô-xđam (ngày 5-9-1945). Nếu phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền ừên toàn quốc
trước ngày 15-8-1945 và sau ngày 5-9-1945 đều không có khả năng thành công, bởi trước ngày
15-8-1945, quân Nhật còn mạnh và sau ngày 5-9-1945, ừên đất nước có nhiều kẻ thù (từ vĩ tuyến
16 trở ra là quân Tưởng - Mỹ và sau đó là những kẻ “theo đóm ăn tàn”, và từ vĩ tuyến 16 ừở vào
là quân Anh và sau nó là quân Pháp ừở lại xâm lược). Chỉ có thể giành chính quyền thắng lợi
trong ngưỡng thời gian khắc nghiệt này.Vì thế, vào tháng 7-1945, cho dù đang bị ốm giữa rừng
Tân Trào, khi biết tin phát xít Đức-Ý đã bại trận trên chiến trường Châu Âu. Ở Châu Á, phát xít
Nhật đang trên đường sụp đổ, Bác Hồ vẫn chỉ thị cho các đồng chí của mình: “ Lúc này, thời cơ
đã đến, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết dành cho
được độc lập!”. Sau đó hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào từ ngày 13 đến
ngày 15-8-1945 đã đi đến kết luận: “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi”,
vì vậy, phải “Kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội”, khẩn trương “Đánh chiếm ngay những

nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê, thành lập uỷ ban nhân dân ở những nơi làm
chủ”, tất cả vì mục tiêu: “Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Đen 23 giờ ngày 13-8-1945, Uỷ ban
Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: Hiệu triệu toàn dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Tiếp
đó, ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân tại Tân Trào đã thông qua 10 chính sách lớn của Việt
Minh, thông qua lệnh tổng khởi nghĩa, quyết định Quốc kỳ nền đỏ sao vàng, Quốc ca và bầu
Trung ương, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi” “Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc đã đến. Toàn thể đồng bào hãy đứng lên đem sức ta mà giải phóng cho ta!”. Dưới

Trang
12


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước ta đã đồng loạt đứng dậy, tiến hành cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền ừong khắp cả nước. Cuộc tổng khởi nghĩa bắt đầu nổ ra từ ngày 14-8-1945 và
đến ngày 18-8-1945, chứng ta đã giành thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận các
tỉnh miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An,
Quảng Nam. Ngày 19-8-1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa thắng
lợi ở Huế và các thị xã: Bắc Cạn, Hoà Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Trị, Quảng Bình, Bình
Định, Lâm Viên, Gia Lai, Tân An, Bạc Liêu. Ngày 25-8-1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn,
Chợ Lớn, Gia Định, Lạng Sơn, Kon Tum,
SÓC Trăng, Vĩnh Long, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh, Biên Hoà, Tây Ninh, Bến Tre... Chỉ
trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn. Lần
đầu tiên trong lịch sử, chính quyền cả nước thuộc về nhân dân. Cuộc Cách mạng Tháng Tám mà
Đảng và Mặt trận Việt Minh phát động, như cơn sóng thần, đã cuốn phăng chính quyền phát-xít
Nhật và tay sai. Ngày 30-8-1945, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị và tuyên bố “thà làm dân một
nước tự do, còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử,

trước cuộc mít tinh khổng lồ cảu gần 1 triệu đồng bào. Chủ tịch Hồ Chí minh thay mặt Chính
phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời. Như vậy, mọi việc được chúng ta hoàn tất trước ba ngày để ngày 5-9-1945, với tư cách là
chủ nhà, Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đón tiếp quân Đồng minh vào
tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta.

Trang
13


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

b/ Kết quả của việc chớp đúng thòi cơ của Đảng ta
Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định đứng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt lực
lượng, sẵn sàng chủ động, chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa giành
thắng lợi. Đây là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách
mạng, khôn khéo ừong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi. Cách mạng tháng Tám
đã nêu cao tinh thần quật khởi của dân tộc Việt Nam, một dân tộc có truyền thống lâu đời chiến
đấu vì độc lập tự do, quyết không chịu làm nô lệ. Là kết quả của tám mươi năm đấu tranh không
ngừng của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp. Nó cũng là một sự kiện lịch sử vĩ đại nhất của
nước ta từ khi Quang Trung đánh đuổi quân xâm lược Mãn
Thanh (1789) đến nay. Thật thế, suốt trong thời gian ấy, không có một cuộc vận động nào thể
hiện tinh thần anh dũng, quật cường và sự đoàn kết, thống nhất của dân tộc Việt Nam bằng Cách
mạng tháng Tám. Không những giật tung được xiềng xích của bọn đế quốc phát-xít, Cách mạng
tháng Tám lại lật nhào được chế độ quân chủ thành lập trên đất nước ta hàng chục thế kỷ, làm
cho nước Việt Nam thành một nước cộng hòa dân chủ, đưa dân tộc Việt Nam lên hàng các dân
tộc tiên phong. Giá trị lớn lao của Cách mạng tháng Tám chính ở chỗ đó. Và cụ Hồ Chí Minh, vị

Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người lãnh đạo Cách mạng tháng Tám,
rất xứng đáng là anh hùng dân tộc của nước ta. Cách mạng tháng Tám tỏ rõ tinh thần chống phátxít và yêu chuộng dân chủ và hòa bình của nhân dân Việt Nam. Nó kết thúc vẻ vang một cao trào

Trang
14


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

chống phát-xít Nhật, Pháp trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai. Bằng Cách mạng tháng
Tám, dân tộc Việt Nam đã nêu ra trước Liên hợp quốc điều yêu sách tổng quát của mình: Các
cường quốc phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam theo đúng các hiến
chương Đại Tây Dương và Cựu Kim Sơn. Chính thế, vì phát-xít Nhật đổ thì tất cả những dân tộc
thuộc địa Nhật phải được giải phóng, không kẻ nào có thể thay chân Nhật mà áp bức, bóc lột các
dân tộc ấy được. Nhân dân Việt Nam bị Nhật thống trị từ năm 1940, lại có công đánh Nhật bên
cạnh Đồng minh, nhất định phải được độc lập! Nhân dân Việt Nam quyết không để cho thực dân
Pháp ừở lại áp bức mình như trước, cũng không chịu chế độ "quốc tế quản trị", vì nhân dân Việt
Nam đã trưởng thành rồi! Cách mạng tháng Tám và cuộc chiến đấu chống phản động Pháp trong
ngót một năm nay của nhân dân Việt Nam đã thét lớn nguyện vọng thiết tha trên đây cho thế giới
biết. Cách mạng tháng Tám đã chọc thủng được hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ở một
trong những mắt xích yếu nhất của nó, mở đầu cho một quá trình tan rã không thể cứu vãn được
của chủ nghĩa thực dân trên thế giới. Cách mạng tháng Tám đã báo hiệu giờ giải phóng của các
dân tộc bị áp bức đến rồi.

về mặt quốc tế, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một

khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan
rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp

giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới, cổ vũ các cuộc vận động giải
phóng dân tộc của nhân dân Lào, nhân dân Cao Miên và nhân dân các nước thuộc địa khác ở
Đông-Nam châu Á. Bằng cuộc Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

Trang
15


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

hiện nay, nhân dân Việt Nam đã và đang dũng cảm gánh một phần nhiệm vụ ấy. Trong hàng ngũ
các lực lượng dân chủ, tiến bộ đấu tranh cho một thế giới tươi đẹp hơn, không vắng mặt nhân
dân Việt Nam. Dù người ta muốn hay không muốn, Cách mạng Việt Nam đã thành một bộ phận
của cuộc đấu tranh vĩ đại của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội. Nhân dân Việt Nam đã hiểu nhiệm vụ quốc tế của mình trong thời kỳ sau chiến tranh này.
Nó quyết hoàn thành nhiệm vụ ấy, bất chấp mọi trở lực.
3/ Vận dụng.
Hơn sáu thập kỷ đã ừôi qua, bài học về nhận định thời cơ và chớp thời cơ cách mạng của
Đảng trong Cách mạng Tháng Tám 1945, vẫn còn nguyên giá ừị thời sự và đi cùng năm tháng.
Nấu như trước đây, ừong Cách mạng Tháng Tám, Đảng chủ trương xây dựng lực lượng, chủ
động đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền,thì ngày nay, nhận định về thời cơ ừong bối cảnh
tình hình trong nước và quốc tế đã có những thay đổi căn bản, vấn đề hội nhập, toàn cầu hóa nổi
lên như một xu thế vận động tất yếu của thế giới hiện đại. Cho dù khó khăn do khủng hoảng kinh
tế toàn cầu, nhưng nếu biết tranh thủ thời cơ, tận dụng những yếu tố thuận lợi, những thời cơ nảy
sinh từ
CUỘC khủng hoảng, nhất định chúng ta sẽ vượt qua thách thức đưa đất nước tiếp tục tiến lên, vững

bước trên con đường Đổi mới. Để nắm bắt được thời cơ, vượt qua thách thức, trong điều kiện

khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, thời đại phát triển kinh tế tri thức, Đảng ta chỉ ra

Trang
16


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

rằng, cùng quyết tâm chính trị, thì yếu tố con người, nguồn lực con người có tri thức là yếu tố
quyết định. Trên nền tảng ổn định chính trị, Đảng ta đề ra đường lối đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa, theo phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước”.
Đường lối đối ngoại cởi mở đó đã tạo ra những cơ hội tốt đẹp, trong đó có việc thu hút vốn của
các nước vào Việt Nam, nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vị trí của Việt Nam trên
trường quốc tế ngày một cao. Việt Nam là thành viên của Liên hợp quốc, của Hiệp hội các nước
Đông Nam Á (ASEAN) và vào ngày 7-11- 2006, là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO). Những bước tiến thần kỳ của đất nước thời kỳ đổi mới có một phần là do Đảng ta nắm
vững và vận dụng bài học thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cũng như trong Cách mạng Tháng Tám và các thời kỳ cách mạng trước đây, trong công
cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng được xây dựng và chỉnh đốn, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thể hiện ừong trình độ tư duy lý luận, vận dụng đứng đắn các
quy luật khách quan để đề ra Cương lĩnh, đường lối thích hợp, tăng cường sức mạnh tổ chức, kỷ
luật và năng lực tổ chức thực tiễn. Những chủ trương, đường lối được Đảng ta đề ra kịp thời,
thiết thực, đáp ứng yêu cầu phát ừiển của thực tiễn là minh chứng sinh động cho việc kế thừa,
vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo bài học về thời cơ ừong Cách mạng Tháng Tám vào điều
kiện và tình hình cụ thể của nước ta trong từng giai đoạn phát triển đất nước. Đảng Cộng sản
Việt Nam cầm quyền thông qua việc phát huy ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân và
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không ngừng


Trang
17


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

được củng cố và hoàn thiện. Sự lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân
dân, xã hội thừa nhận, ủng hộ, được thể chế trong Hiến pháp và pháp luật và được bạn bè quốc tế
đánh giá cao. Hiện nay, đã tiến hành xong Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở, đang tiến hành Đại hội
đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI vào đầu năm 2011. Đại hội
XI có ý nghĩa trọng đại, đề ra đường lối tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo tiền đề vững
chắc để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế tuy vẫn còn những khó khăn, thách
thức và diễn biến khó lường, song Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã tranh thủ tối đa
những cơ hội thuận lợi, vượt qua mọi thách thức, phát triển đất nước. Đó là thành tựu nhiều mặt
của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ trên thế giới. Đó là thời kỳ chấm dứt chiến tranh lạnh,
đối thoại thay cho đối đầu, là quá trình toàn cầu hóa, hợp tác và hội nhập quốc tế. Đảng và Nhà
nước Việt Nam đã và đang thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và
phát triển, chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế ừên các lĩnh vực khác. Việt
Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước, là thành viên có ừách nhiệm của cộng đồng quốc tế,
tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, nhờ vào việc vận dụng thờ cơ ừong
cách mạng Tháng Tám vào thực tế ngày nay.

Trang
18



Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

Trước hết, nhận định đứng tình hình và yêu cầu phát ừiển của thực tiễn để có thể đề ra các quyết
sách hợp lý. Những năm đầu sau ngày giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nước ta còn nhiều khó khăn, đời sống nhân dân còn túng
thiếu. Đặc biệt, sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế đất
nước đến những khó khăn mới, nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Trước tình
hình trên, Đảng xác định cần tiến hành công cuộc đổi mới, chỉ rõ thách thức lớn nhất của cách
mạng nước ta là nền kinh tế từ điểm xuất phát rất thấp lại lâm vào khủng hoảng kéo dài, vừa xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện nhiệm vụ dân tộc, vừa làm nghĩa vụ quốc tế, vấn đề cấp bách
là ổn định, cải thiện đời sống nhân dân, sớm đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) khởi xướng đã mở đầu cho thời kỳ
mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cuối những năm 80 đầu những năm
90 của thế kỷ XX nước ta lại chịu tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng và sụp đổ của chế độ
xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Trong nước, có không ít ý kiến dao động, đòi
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, và cho rằng không nên tiếp tục đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa... Sớm nhận thấy những tác động tiêu cực đó, tháng 3-1989, Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đã đề ra 5 nguyên tắc chỉ đạo đổi mới, bảo đảm cho nước
ta vượt qua thách thức mới, thực hiện công cuộc đổi mới đứng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đứng trước nhiều nguy
cơ và thách thức, đặc biệt là tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, nạn

Trang
19


Đường lối CMĐCS Việt Nam


Nhóm - HIS POS

tham những, lãng phí có nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá X (tháng 7-2006) đã ra Nghị quyết

về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác phòng, chống tham những, lãng phí. Những quan điểm, chủ trương và giải
pháp mạnh mẽ phòng, chống tham những, lãng phí đã có được những kết quả quan trọng, nhằm
ngăn chặn và đẩy lùi một trong những nguy cơ lớn đối với đất nước và chế độ ta. Ngày 7- 112006, Bộ Chính trị đã có Quyết định số 06 phát động “toàn Đảng, toàn dân học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Việc học tập và làm theo đạo đức của Bác Hồ có ý nghĩa
quan trọng để đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện
nay, nhưng quan trọng hơn là xây dựng, củng cố nền tảng đạo đức cách mạng của xã hội ta, dân
tộc ta, hướng đến sự phát triển mạnh mẽ, bền vững của đất nước trong thời đại ngày nay.
Thứ hai, "dĩ bất biến, ứng vạn biến", bảo đảm và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong
hội nhập trên cơ sở kiên định con đường và mục tiêu xã hội chủ nghĩa, kiên định chủ nghĩa Mác
- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với tìm hiểu và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân, xác định đúng tình hình và yêu cầu thực tiễn của đất nước để đề ra những
quyết sách hợp lý. Tại Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng ta đã đề ra Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Chiến lược xác định: xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Từ đó, tình hình kinh tế - xã hội dần có những biến chuyển mới, đời sống người dân
có những cải thiện đáng kể, chính trị, xã hội tiếp tục ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ

Trang
20


Đường lối CMĐCS Việt Nam


Nhóm - HIS POS

vững, đường lối đối ngoại Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước ừên thế giới đã chủ động,
tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại... giúp tăng cường, củng cố lòng tin của nhân dân về vai ừò
lãnh đạo của Đảng. Sự kết thúc Chiến tranh lạnh, đối thoại thay cho đối đầu, sự mở rộng liên kết,
hợp tác giữa các nước, các khu vực, phát ừiển thị trường thế giới và thành quả của cách mạng
khoa học - công nghệ ừên thế giới đã tạo điều kiện cho nhiều nước ổn định và phát ừiển. Đó là
cơ hội thuận lợi cho
Việt Nam phát triển ở thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, tiến hành chính sách đối thoại, hợp tác và hội
nhập quốc tế: khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc (năm 1991), bình thường hoá quan
hệ với Hoa Kỳ (năm 1995), gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam á (năm 1995). Sau mười năm
đổi mới, năm 1996, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và hoàn thành những
nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đó là cơ hội thuận lợi để đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở rộng hơn quan hệ hợp tác với các nước và tích
cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Những năm cuối của thế kỷ XX đất nước phải vượt qua
thách thức mới do khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực 1997 - 1998, những khó khăn
trong nước và đã ngăn chặn có hiệu quả đà suy giảm về kinh tế.
Thứ ba, xác định đúng thời cơ, thời điểm để đưa ra đường lối phát triển phù hợp. Nghị quyết
Đại hội VI của Đảng về đường lối đổi mới, phát triển đất nước, làm cho sản xuất "bung ra" trong
điều kiện đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, lạm phát phi mã đến 774,7%, đã thực sự thổi
một luồng sinh khí vào đời sống xã hội, đem đến sự phấn chấn về tinh thần cho người dân, tạo

Trang
21


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS


những khởi sắc bước đầu cho công cuộc phát ừiển kinh tế đất nước. Khi đất nước bước vào thời
kỳ hội nhập, Đảng ta đã nhận định rõ những thời cơ và thách thức lớn, đặc biệt nhấn mạnh việc
các thế lực thù địch vẫn không ngừng tiến hành những âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình"
nhằm chống phá các thành quả cách mạng của chứng ta. Từ đó, tuỳ từng giai đoạn cụ thể, Đảng
đã đề ra các chủ trương, đường lối về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, quan điểm Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước, "hoà nhập nhưng không hoà tan",
đặc biệt là việc ban hành Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về "Xây dựng và phát ừiển nền văn
hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" trong bối cảnh nền văn hoá nước ta có nguy cơ bị
mai một, biến đổi trước những tác động của nền kinh tế thị trường thời mở cửa... thực sự là
những quyết sách được đưa ra kịp thời, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, vừa có tính
chất định hướng cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội... của đất nước. Trong công cuộc đổi
mới, Việt Nam đã chủ động đề nghị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các nước trên
thế giới cũng từng bước thừa nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam và cùng vớisự kiên trì
đàm phán qua 11 năm, ngày 7-11-2006, Việt Nam đã được kết nạp vào tổ chức này. Đó là một cơ
hội cho nước ta hội nhập kinh tế quốc tế tốt hơn, toàn diện và có hiệu quả hơn. Tại Hội nghị
Trung ương 4 khoá X họp tháng 1-2007, Đảng đã kịp thời ra Nghị quyết số 8-NQ/TW về một số
chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành
viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Trong Nghị quyết quan trọng đó Trung ương đã nêu rõ 5

Trang
22


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

cơ hội và 5 thách thức khi nước ta là thành viên của WTO, từ đó góp phần định hướng phát triển

kinh tế đất nước một cách hiệu quả. Từ cuối năm 2007, thế giới lâm vào khủng hoảng và suy
thoái kinh tế nặng nề và kéo dài suốt các năm 2008, 2009 đã tác động tiêu cực không chỉ đến các
nền kinh tế của các nước phát ừiển hàng đầu mà cả với các nước đang phát triển, ừong đó có Việt
Nam. Nần kinh tế Việt Nam đứng trước những khó khăn thách thức mới: Thị trường xuất khẩu
thu hẹp, vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh, lạm phát tăng, năm 2008 lên tới ừên 19%, lao động
thiếu việc làm, nhiều doanh nghiệp có nguy cơ phá sản, giá cả tăng, đời sống khó khăn... Để chủ
động vượt qua tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới, ngày 4-4-2008, Bộ Chính ừị
đã có kết luận số 22 và Chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Hội nghị Trung ương 7 khoá X (tháng 7-2008) đã đề ra
những chủ trương lớn để khắc phục khủng hoảng. Hội nghị Trung ương 8 (tháng 10- 2008) đã
đánh giá và đề ra giải pháp toàn diện, đưa ra Quốc hội khoá XII kỳ họp thứ 4 thảo luận và quyết
định. Chính phủ có chính sách hỗ trợ có hiệu quả cho các doanh nghiệp, các ngành, các thành
phần kinh tế, phát triển mạnh thị trường trong nước. Với những quyết sách đó, kinh tế - xã hội
của đất nước ngày càng có những bước phát triển mới; nền văn hoá dân tộc được duy trì và phát
huy, thực sự là nền tảng tinh thần, là động lực cho sự phát triển; quốc phòng, an ninh được giữ
vững; đời sống nhân dân ngày càng ổn định, ấm no; mối quan hệ hợp tác của nước ta với nhiều
nước trên thế giới được củng cố thêm, tăng cường, tạo nền tảng cho sự phát triển hoà bình, ổn
định trong khu vực và trên thế giới. Năm 2008, Việt Nam đạt thu nhập đầu người trên 1.000 USD

Trang
23


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

vượt qua ngưỡng của nước nghèo, kém phát triển là cơ hội tốt để phát triển nhanh để có thu nhập
2.000 USD vào năm 2015,
3.1USD vào năm 2020. Cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng của đất nước không ngừng

phát triển bảo đảm cho sự phát triển nhanh và vững chắc của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, ị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; về chống tham nhũng, lãng
phí...Với sự nỗ lực, cố gắng của toàn dân, của các thành phần kinh tế thực hiện các chủ
trương, biện pháp đúng đắn của Đảng và Chính phủ nên đã ngăn ngừa có hiệu quả, giảm
thiểu tác động tiêu cực của khủng hoảng đối với nền kinh tế của Việt Nam. Tăng trưởng
GDP năm 2008 đạt 6,18%, năm 2009 là 5,32%. Tổng giá ừị sản phẩm nội địa (GDP) năm
2005 là 53 tỉ USD đã tăng lên 88,7 tỉ USD năm 2008. Thu nhập bình quân đầu người năm
2009 đạt ừên 1.100 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát ừiển có thu nhập thấp. Lạm
phát được kiểm soát và đẩy lùi xuống dưới 7%. Xuất khẩu 6 ừiệu tấn gạo. Tỷ lệ hộ nghèo
năm 2006 là 15,5%, năm 2007 là 14,8%, năm 2008 là 13,1% và năm 2009 giảm xuống còn
12,4%. Năm 2010, chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt thu nhập bình quân đầu người
khoảng 1.200 USD và tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5%. Bằng việc phát huy cao độ nội
lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong điều kiện mới, tận dụng và nắm bắt thời cơ, cơ hội một cách nhanh chóng, sáng tạo,
lấy đó làm nền tảng đẩy lùi và hạn chế các nguy cơ, thách thức. Sau khi gia nhập WTO,

Trang
24


Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm - HIS POS

Đảng và Nhà nước động viên toàn dân phát huy nội lực, tranh thủ cơ hội mới để phát triển
và tích cực, chủ động đẩy lùi nguy cơ. Vì vậy, xuất khẩu hàng hoá đã tăng nhanh, vốn đầu
tư nước ngoài vẫn không ngừng tăng lên. Nen kinh tế của đất nước và từng ngành kinh tế
đứng trước yêu cầu mới, là không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao chất
lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đó là điều kiện rất quan trọng để Việt

Nam có thể vượt qua khủng hoảng kinh tế của thế giới những năm 2007
- 2009, tạo tiền đề cho bước phát triển mới trong những năm tiếp theo.
Thứ tư là thu phục lòng dân từ chính những quyết sách, định hướng phát triển đúng đắn, hợp lý
đã được đề ra để từ đó biết huy động sức dân mà vận dụng thời cơ một cách thích hợp, đẩy lùi,
hạn chế những nguy cơ, thách thức, để nhân dân tin tưởng và đoàn kết, nhất ừí một lòng thi đua
thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng. Đảng đề cao sự phát huy cao độ nội lực, đồng
thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại ừong điều kiện
mới, tận dụng và nắm bắt thời cơ, cơ hội một cách nhanh chóng, sáng tạo, lấy đó làm nền tảng
đẩy lùi và hạn chế các nguy cơ, thách thức. Sau khi gia nhập WTO, Đảng và Nhà nước động viên
toàn dân phát huy nội lực, tranh thủ cơ hội mới để phát triển và tích cực, chủ động đẩy lùi nguy
cơ. Nước ta có nội lực rất to lớn (tài nguyên, đất đai, rừng, biển, sức lao động). Kinh tế nông
nghiệp, kinh tế biển là thế mạnh.

Trang
25


×