Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.26 KB, 10 trang )

THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG
THÁNG 8/1945


Thời cơ là một khái niệm rất quan trọng, gắn liền với sự thành bại của
mỗi cá nhân, của các đảng phái chính trị và của mỗi cộng đồng với
những quy mô khác nhau. Bài học thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 vẫn là bài học đi cùng năm tháng, nếu chúng ta muốn thành
công và không muốn tụt hậu.

Hồ Chí Minh đã xác định tầm quan trọng có tính khái quát của khái
niệm thời cơ qua hai câu thơ của bài thơ “Học đánh cờ” trong tác phẩm
“Nhật ký trong tù”:

Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,

Gặp thời, một tốt cũng thành công.

Trong cuộc sống thường nhật, chúng ta còn bắt gặp một số khái niệm
khác có ý nghĩa tương tự như “vận hội”, “cơ hội”. Liên quan tới chủ đề
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đang bàn ở đây, xin được dùng khái
niệm phổ biến và thông dụng nhất là “thời cơ”.

Một cuộc khởi nghĩa hoặc tổng khởi nghĩa muốn thắng lợi đòi hỏi phải
hội đủ những điều kiện bên trong và bên ngoài (chủ quan và khách
quan) mà chúng ta thường gọi là điều kiện chín muồi. Trong lịch sử cận
- hiện đại Việt Nam, các phong trào, các cuộc khởi nghĩa không thành
công, trước hết đều bắt nguồn từ việc chưa hội đủ các điều kiện cần
thiết. Chẳng hạn, sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam
Quốc dân Đảng vào đầu tháng 2-1930 là một ví dụ điển hình về việc thời
cơ chưa xuất hiện. Khi đó, những người đứng đầu Việt Nam Quốc dân


Đảng đã coi khởi nghĩa như một giải pháp tình thế, như một trò chơi -
“không thành công cũng thành nhân”. Thế hệ cách mạng Việt Nam tiếp
theo liền rút ra bài học: Không được đùa với khởi nghĩa.

Thời cơ là một thành tố khách quan, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của một cá nhân nào, của một tổ chức chính trị nào. Nó
xuất hiện một cách bất ngờ và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất
định. Nói như vậy không có nghĩa là thời cơ là một cái gì đó không thể
biết trước được, không thể đoán định được. Tuy nhiên, điều lý thú là ở
chỗ, nó có mà không có và ngược lại. Vì thế, không phải ai cũng có thể
dự báo được thời cơ, theo dõi, nắm bắt nó và cuối cùng là lợi dụng nó để
đạt tới cái đích của mình.

Chúng ta hãy ngược dòng lịch sử xem Đảng Cộng sản Việt Nam, một tổ
chức chính trị mạnh mẽ và rộng lớn nhất lúc đó, đã dự báo thời cơ cho
cuộc vùng dậy xung thiên vào tháng 8-1945 từ bao giờ. Có thể từ tháng
5-1941, trong Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ tám dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Quyền Tổng Bí
thư Trường Chinh, tại Pắc Bó, Cao Bằng. Nghị quyết đã dự báo một
cách chính xác về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của nó:
“Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội
chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã
hội chủ nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều nước thành công…”(1). Xin
nhớ là, Nghị quyết này được thông qua vào tháng 5-1941, khi Liên Xô
chưa tham chiến; một tháng sau, tháng 6-1941, phát-xít Đức bất ngờ tấn
công Liên Xô.

Như vậy, thời cơ sẽ đến với nhiều nước trên thế giới khi chiến tranh thế
giới thứ hai kết thúc, phần thắng nghiêng về Liên Xô và phe dân chủ. Đó
là một khả năng làm xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng nhiều nước,

trong đó có cách mạng nước ta. Như chúng ta đã biết, dự báo đó hoàn
toàn chính xác, đặc biệt là đối với châu Âu. Ở đó, chủ nghĩa xã hội từ
một nước trở thành một hệ thống. Việt Nam ở châu Á đang rên xiết dưới
ách thống trị của phát-xít Nhật và thực dân Pháp, chịu ảnh hưởng bởi
chiến trường Thái Bình Dương, nơi mà cuộc chiến Mỹ - Nhật đang bước
vào giai đoạn chót.

Từ rất sớm, Đảng ta, với sự phân tích chính xác, khoa học mâu thuẫu
trong hàng ngũ kẻ thù, đã dự báo cuộc đảo chính của Nhật ở Đông
Dương và vạch ra những kế hoạch hành động khi tình hình mới tới. Bài
báo đầu tiên dự báo về cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương là bài
“Bóc trần mưu gian của đế quốc Nhật! Thống nhất hành động đánh đổ
thù chung!” của Tổng Bí thư Trường Chinh, đăng trên Báo Cờ Giải
phóng, số 3, ngày 15-2-1944. Trong bài báo đó, sau khi phân tích mâu
thuẫn ngày càng tăng trong hàng ngũ kẻ thù, tác giả đã đi tới một nhận
định đúng đắn là, sớm hay muộn cuộc đấu súng giữa chúng với nhau
nhất định sẽ xảy ra: “Sự xung đột giữa Nhật - Pháp ngày thêm sâu sắc.
Cho nên Nhật gấp rút”.

Từ đó, trong suốt năm 1944 và những tháng đầu năm 1945, trên những
tờ báo, trong những văn kiện chính thức của Đảng ta, vấn đề “cuộc đảo
chính của phát-xít Nhật” luôn luôn được nhắc tới nhằm hướng công tác
chuẩn bị của Đảng và phong trào cách mạng của quần chúng chủ động
đón nhận nó. Vì thế, khi cuộc đảo chính của Nhật nổ ra vào đêm 9-3-
1945, Đảng ta không bị động trước thời cuộc mà trái lại, chủ động vạch
ra những nhiệm vụ chiến lược sát đúng để đưa cách mạng tiếp tục tiến
lên. Ngay trong đêm Nhật - Pháp bắn nhau, từ chập tối, Hội nghị
Thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã
khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, Bắc Ninh. Sợ bị lộ, Hội nghị chuyển sang
làng Đình Bảng họp tiếp. Trên đường đi, bỗng nghe tiếng súng nổ dồn từ

phía Hà Nội, các đồng chí dự Hội nghị dồn bước tới địa điểm mới, họp
tiếp và ra ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta” vào ngày 12-3-1945. Bản Chỉ thị đó lập tức được chuyển tới nhà in
bí mật của Đảng tại làng Tráng Việt, huyện Mê Linh, Hà Nội. Ông
Nguyễn Lương Hoàng phụ trách nhà in, đã cấp tốc cho in hàng nghìn
bản và theo những đường giây bí mật chuyển đi các nơi.

Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương đã tạo ra
cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa
thực sự chín muồi, tuy vậy cũng đã tạo ra những tiền đề cần thiết thúc
đẩy cuộc khởi nghĩa chóng tới. Trong Bản Chỉ thị đó, Ban Chấp hành
Trung ương, ngoài việc xác định kẻ thù mới và đề ra khẩu hiệu đấu tranh
mới, còn dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho nhân dân ta
vùng dậy giành chính quyền trên cả nước, đó là: 1. Quân Đồng minh vào
Đông Dương đánh Nhật; và 2. Nhật đầu hàng Đồng minh.

Dưới ánh sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương
đến địa phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương.
Sau khi Hồng quân Liên Xô tiêu diệt một triệu quân Quan đông của
Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc và Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống
Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki, ngày 9-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh
của Nhật Bản đã họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pô-
xđam. Sau những cuộc thương lượng giữa Nhật Bản và Đồng minh,
ngày 14-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và nội các Nhật Bản với
sự hiện diện của Nhật hoàng đã nhóm họp và thông qua quyết định đầu
hàng Đồng minh.

Đúng giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực
lượng Đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Như vậy, thời cơ
xuất hiện như khả năng thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Tin đó đến với

lãnh tụ Hồ Chí Minh rất sớm qua bản tin đài BBC mà Người nghe được
ở lán Nà Lừa, Tân Trào (Tuyên Quang). Thời cơ có một không hai đã
đến với dân tộc chúng ta, bởi vậy, “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng phải giành cho được tự do độc lập!” (Lời của lãnh tụ Hồ Chính
Minh nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp ở lán Nà Lừa). Lập tức, Trung
ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn
quốc. Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra quân lệnh số 1, trong đó có đoạn
viết: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân Việt
Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà… Chúng ta phải hành
động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận
trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”(2).

Tiếp đó, Hội nghị Đảng toàn quốc và Quốc dân Đại hội nhóm họp tại
Tân Trào quyết định phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trên cả nước.

Như trên đã nói, thời cơ xuất hiện và tồn tại trong một khoảng thời gian
nhất định. Trong Cách mạng Tháng Mười Nga, thời cơ chỉ tồn tại trong
vòng 24 giờ. Vậy, trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của chúng ta,
thời cơ tồn tại trong bao lâu? Trong Cách mạng Tháng Tám, thời cơ tồn
tại một cách khách quan trong vòng hai mươi hôm, bắt đầu từ khi Nhật
hoàng tuyên bố đầu hàng (ngày 15-8) và kết thúc khi quân Đồng minh
vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pô-xđam
(ngày 5-9). Nếu phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn
quốc trước ngày 15-8 và sau ngày 5-9 đều không có khả năng thành
công, bởi trước ngày 15-8, quân Nhật còn mạnh và sau ngày 5-9, trên
đất nước có nhiều kẻ thù (từ vĩ tuyến 16 trở ra là quân Tưởng - Mỹ và
sau đó là những kẻ “theo đóm ăn tàn”, và từ vĩ tuyến 16 trở vào là quân
Anh và sau nó là quân Pháp trở lại xâm lược). Chỉ có thể giành chính
quyền thắng lợi trong ngưỡng thời gian khắc nghiệt đó.


Cuộc Cách mạng Tháng Tám mà Đảng và Mặt trận Việt Minh phát
động, như cơn sóng thần, đã cuốn phăng chính quyền phát-xít Nhật và
tay sai. Ngày 30-8, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị và tuyên bố “thà làm
dân một nước tự do, còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Trên đống đổ nát
đó, chúng ta bắt tay xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ bằng việc công
bố trước quốc dân Việt Nam và nhân dân thế giới bản Tuyên ngôn Độc
lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại vườn hoa Ba Đình, ngày 2-
9-1945. Như vậy, mọi việc được chúng ta hoàn tất trước ba ngày để
ngày 5-9-1945, với tư cách là chủ nhà, Chính phủ Lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa đón tiếp quân Đồng minh vào tước khí giới quân
Nhật trên đất nước ta.

Trong những bài học về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, thì bài
học về dự báo thời cơ, theo dõi và lợi dụng nó là bài học quan trọng
nhất, xét trên cả bình diện lý luận và thực tiễn, và vì thế, nó vẫn đi cùng
năm tháng.

Đảng ta đã thấu triệt bài học đó và đặc biệt, đã vận dụng thành công bài
học đó trong những thời đoạn lịch sử không thể nào quên của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng như trong thời kỳ xây dựng
nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, như mong muốn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.

Cuối năm 1974, đầu năm 1975, khi so sánh lực lượng giữa ta và địch
trên chiến trường miền Nam, Đảng ta thấy có sự thay đổi mau lẹ, có lợi
cho cách mạng. Cụ thể, quân ta đã giành thắng lợi vang dội trong chiến
dịch đường 14 - Phước Long. Chiến thắng Phước Long như là phép thử
sự phản ứng của chính quyền Sài Gòn và Mỹ - sự suy yếu và bất lực của
quân đội Sài Gòn và sự hạn chế của Mỹ trong việc can thiệp trở lại.

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam
trong hai năm 1975-1976. Tuy nhiên, Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh, “cả
năm 1975 là thời cơ”, và chỉ rõ, “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm
1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Sau thắng lợi
chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà nẵng, Bộ Chính trị thấy
rõ thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã xuất hiện: “Thời cơ chiến
lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền
Nam”, và xác định quyết tâm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân là
“phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí, kỹ thuật và vật chất giải
phóng miền Nam trước mùa mưa (trước tháng 5-1975)”.

Thời cơ đã đến, cả nước xốc tới với khí thế xung thiên. Vào 11 giờ 30
phút ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng tung bay trên dinh Độc lập, báo
hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh.

Trong thời kỳ đổi mới, trên nền tảng ổn định chính trị, Đảng ta đề ra
đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, theo phương
châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước”. Đường lối đối ngoại
cởi mở đó đã tạo ra những cơ hội tốt đẹp, trong đó có việc thu hút vốn
của các nước vào Việt Nam, nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một cao. Việt Nam là
thành viên của Liên hợp quốc, của Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN) và mới đây, ngày 7-11-2006, là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Những bước tiến thần kỳ của đất nước thời
kỳ đổi mới có một phần là do Đảng ta nắm vững và vận dụng bài học
thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

×