Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam trong quá trình ông nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.21 KB, 25 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU

ơ

Thế kỷ XX đã để lại trong lịch sử loài người những dấu ấn cực kỳ
đậm nét. Đó là thế kỷ kinh tế phát triển mạnh mẽ xen lẫn những cuộc
khủng hoảng của thế giới tư bản. Một thế kỷ vượt trội về khoa học-công
nghệ tạo ra giá trị sản xuất vật chất tăng gấp 15 lần thế kỷ trước và hơn hẳn
giá trị của 2000 năm trước cộng lại. Nhưng đó cũng là thế kỷ diễn ra 2 cuộc
chiến tranh thế giới và hàng trăm cuộc xung đột vũ trang cướp đi sinh
mạng của hàng chục triệu người. Đó cũng là thế kỷ chứng kiến phong trào
cách mạng sâu rộng- cách mạng Tháng Mười Nga- mở ra kỷ nguyên của
thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH.
Đối với nước ta, thế kỷ XX là thế kỉ biến đổi to lớn sâu sắc. Từ
khủng hoảng đường lối đến cuộc đấu tranh thắng lợi vĩ đại: Một là, thắng
lợi của cách mạng Tháng Tám và việc lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà đã đánh sập chế độ thuộc địa gần trăm năm, xoá bỏ chế độ phong
kiến hàng nghìn năm mở ra một kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền CNXH.
Hai là, thắng lợi của 2 cuộc chiến tranh oanh liệt chống đế quốc sừng sỏ là
Pháp và Mỹ để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN và làm tròn
nghĩa vụ quốc tế, thực hiện thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH,
góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới yêu chuộng hoà
bình. Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ
lên CNXH.
Tất cả những gì chúng ta đạt được là do vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Càng tự hào hơn khi chúng ta nhìn lại chặng đường
thế kỷ XX và vữn tin bước vào thế kỷ XXI. Một thế kỷ mà khoa học công
nghệ sẽ có bước nhảy vọt chưa từng thấy, kinh tế tri thức chiếm vị trí ngày
càng quan trọng. Toàn cầu hoá là xu thế khách quan là “sân chơi” chung

1




chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa tích cực và tiêu cực, vừa có hợp tác vừa
có đấu tranh. Mặt khác, đất nước ta vẫn nghèo, quá trình hội nhập nền kinh
tế thế giới đặt ra cho chúng ta những thời cơ và thách thức đòi hỏi chúng ta
phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì mới có
thể vững bước vươn lên tầm cao mới. Để vững tay lái con tàu vượt qua
sóng gió đến thành công “Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong quá trình ông nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” là vô cùng quan
trọng. Vai trò đó đượcđề ra từ rất lâu rồi, cụ thể là Đại hội VI- Đại hội đổi
mới và đến nay vai trò đó vẫn được khẳng định và giữ một vị trí to lớn
hơn bao giờ hết. Không làm chệch hướng XHCN và phấn đấu vì mục tiêu
“dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.

2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

I. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC VÀ LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CNXH

1. Quan điểm của Mác-Ănghen
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Mác và Ănghen đã nêu rõ
mục đích trước mắt của người cộng sản và các Đảng vô sản là tổ chức
những người vô sản thành giai cấp. Lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản giành lấy chính quyền. Chỉ có giành lấy chính quyền

củng cố sự vững mạnh của chính quyền đó giai cấp công nhân và nhân dân
lao động mới có thể tiến hành sự nghiệp cách mạng rộng lớn và căn bản là
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là thời
kỳ cải biến cách mạng lâu dài, khó khăn và phức tạp.
Năm 1875, trong tác phẩm phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã đề
cập quan điểm và thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. “Giữa XHTB và
xã hội CSCN là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nỳ sang xã hội
kia”. Đó là thời kỳ quá độ cả về chính trị và kinh tế. “Cái xã hội mà chúng
tă mới ở đây không phải là một xã hội CSCN đã phát triển trên cơ sở của
chính nó, mà thái độ là một xã hội CSCN vừa thoái thác từ xã hội TBCN
do đó là một xã hội, về phương tiện- kinh tế, đạo đức, tinh thần, còn mang
những dấu vết của xã hội cũ, mà đã lọt lòng ra”.
2. Quan điểm của Lênin
Tháng 5/1918, Lênin viết tác phẩm: Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh” và
tính tiểu tư sản. Năm 1921, Người viết tác phẩm Bàn về thuế lương thực.
3


Cùng với nhiều tác phẩm, bài nói và bài viết khác hai tác phẩm quan trọng
trên đây của Lênin đã trang bị cho các Đảng Cộng sản những nhận thức
đúng đắn về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH.
Những luận điểm của Lênin đã cho chúng ta hình dung rõ những nét
đặc trưng rất cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH.
II. CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

1. Khái niệm
“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là qua trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã
hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động cùng với công nghệ và sự tiến bộ khoa học-công nghệ,

tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Chúng ta hiện nay cần phải thực hiện “đi tắt, đón đầu” tức là kế thừa
có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về công
nghiệp hoá vào điều kiện cụ thể nước ta. Công nghiệp hoá không chỉ đơn
thuần là phát triển công nghiệp ưu tiên công nghiệp nặng hay chỉ đơn giản
là tăng thêm tốc độ và tỉ trọng của sản xuất công nghiệp mà là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế-xã hội.
2. Yêu cầu đặt ra đối với quá trình CNH, HĐH
Nước ta tiến hành CNH, HĐH trong một hoàn cảnh khó khăn, đắt
nước đứng trước những thách thức to lớn và gay gắt, điểm xuất phát của
nền kinh tế còn thấp, kết cấu hạ tầng yếu kém, trình độ công nghệ lạc hậu,
khả năng về vốn có hạn, tài chính tiền tệ còn căng thẳng, lạm phát chưa
được kiềm chế vững chắc, sức mua của thị trường trong nước còn thấp;
việc làm, đói nghèo, tham nhũng… vẫn đang là vấn đề nóng bỏng
Vì vậy, CNH, HĐh không thể tiến hành một cách nóng vội chủ quan. Trái

4


lại, đó là một quá trình phấn đấu liên tục, gian khổ và lâu dài. Từng giai
đoạn chúng ta phải có những bước đi thích hợp. Trong những năm trước
mắt chúng ta chưa có điều kiện triển khai một cách toàn diện, chưa thể
thực hiện được bước nhảy vọt mà mới chỉ là “đẩy tới một bước”.
Đảng phải có chính sách để CNH, HĐH có bước đi thích hợp: chú
trọng quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, thu hồi vốn nhanh; xây dựng một
số công trình quy mô lớn cần thiết và có hiệu quả. Thực hiện sự hợp tác,
phân công, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau giữa các loại doanh nghiệp lấy doanh
nghiệp lớn làm nòng cốt. Chú trọng đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa
năng lực sản xuất và công nghệ hiện có, tập trung những khâu quyết định

khả năng cạnh tranh của sản phẳm. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự
nghiệp của toàn xã hội. Toàn Đảng, toàn dân phải đồng tâm nhất trí, đoàn
kết một lòng, một dạ, nêu cao tinh thần tự lực tự cường, ra sức làm ăn có
hiệu quả, đặc biệt là phải đề cao ý thức cần kiệm để CNH, HĐH đất nước.
II. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG THỜI KỲ
CNH, HĐH

1. Nền kinh tế thị trường phải cần đến vai trò lãnh đạo của Đảng
Đảng chủ trương phát triển kinh tế thị trường, nhưng đó không phải
là nền kinh tế thị trường bất kỳ mà là nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN, tức là một nền kinh tế thị trường
thật sự vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Thực tế
chứng minh rằng kinh tế thỉtường không hoàn toàn đồng nhất với CNXH;
không phải là cứ chuyển sang kinh tế thị trường là đi theo con đường TBN.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH cần phát triển kinh tế hàng hoá, áp dụng
cơ chế thị trường. Tuy nhiên, kinh tế thị trường với chúng ta không phải là
tất cả mà chỉ là phương pháp , phương thức để phát triển lực lượng sản
xuất.

5


Chúng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không để nó
vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải lãnh đạo hướng dẫn, điều
tiết, phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực. Vì lợi ích
của đại đa số dân tộc, vì mội xã hội phồn thịnh văn minh. Người có khả
năng làm được điều đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản – là Đảng
phấn đấu cho lý tưởng XHCN và CSCN, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vai trò lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định nhất đảm bảo nền kinh tế thị trường hoạt động và phát

triển theo định hướng XHCN.
2. Vai trò lãnh đạo của Đảng là tính tất yếu khách quan, là điều
kiện quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của quá trình CNH, HĐH
2.1.Vai trò lãnh đạo của Đảng là tính tất yếu khách quan, là điều
kiện quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nước ta rơi vào tình trạng khủng
hoảng đường lối, phương thức lãnh đạo cách mạng nên tất cả các phong
trào diễn ră đều thất bại. Vì thế đòi hỏi phải có một tổ chức đứng ra tập hợp
quần chúng, dẫn dắt quần chúng. Đó là Đảng Cộng sản Việt Nam được
trang bị đầy đủ về lý luận, tổ chức và lực lượng. Ngày nay, trong quá trình
đổi mới Đảng không chỉ dẫn dắt quần chúng mà còn phải tìm tòi một
hướng đi phù hợp cho cả dân tộc. Có như vậy, Đảng mới nhận được sự ủng
hộ, tin tưởng mà nhân dân giao phó, mới có thể tồn tại được.
- Thực tế, mấy chục năm qua, Đảng ta đã trở thành lãnh tụ kiệt xuất
và là bộ tham mưu chiến đấu tài giỏi của cách mạng nước ta. Điều này đã
được chứng minh bằng chiến thắng oanh liệt hào hùng của dân tộc ta
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Giữ vững độc lập chủ
quyền trong cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc và Tây Nam
6


(Campuchia) ngăn chặn nạn diệt chủng của Pôn Pốt I Êngxari. Đưa đất
nước vượt qua hàng rào cấm vận của Hoa Kỳ.
- Càng nóng bỏng và quyết liệt trong vấn đề ngày hôm nay: Diễn
biến hoà bình ngày càng phát triển mà bọn phản động thân Mỹ đang muốn
dùng thủ đoạn này hòng làm sụp đổ vai trò lãnh đạo của Đảng. Biến cố ở
TâyNguyên năm 2001 và 2004, một cht nữa thôi là ta mất chính quyền ở
đó. Vấn đề tranh chấp biên giới Bắc và phía Tây Nam hay vấn đề chủ

quyền lãnh thổ ở quần đào Trường Sa và Hoàng Sa. Các chiêu bài nụ dân
của Tôn giáo (đạo Tin Lành). Và bọn phản động trong nước như Hoàng
Minh Chính, Trần Thị Lý, Thích Quảng Độ.. đã bôi nhọ chủ nghĩa Mác, tư
tưởng Hồ Chí Minh, bôi nhọ làm sai sự thật về Đảng và Nhà nước trong
các hoạt động. Để giữ vững tình hình chính trị ổn định Đảng ta không
cứng nhắc nguyên tắc mà rất mềm dẻo và cương quyết đối với những vấn
đề mang tính nhạy cảm này.
2.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi
trong quá trình CNH, HĐH đất nước
Đảng ta đề xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới trên toàn bộ cả
nước. Đổi mới là yêu cầu khách quan, CNH, HĐH là điều tất yếu, một đòi
hỏi nghiêm ngặt của thực tiễn đối với nước ta cũng như các nước anh em
khác. Nhằm nhận thức đúng đắn hơn về CNXh, khắc phục những mặt trị
trệ, đẩy nhanh quá trình xây dựng CNXH. Đó là một cuộc vận động cách
mạng lớn lao, sâu sắc nhưng rất phức tạp khó khăn đòi hỏi phải có sự lãnh
đạo chặt chẽ, khoa học, có mục tiêu cụ thể và bước đi vững chắc. Nừu
không có sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng và khoa học, đoàn kết
thống nhất chặt có đầy đủ bản lĩnh và trì trệ thì không thể đưa quá trình
CNH, HĐH đến thành công được.
- CNH, HĐH ngày càng được đẩy mạnh thì ngày càng có nhiều diễn
biến phức tạp. Do đó vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng lên. Trong
7


lúc đất nước khó khăn thì Đảng phải chăm lo củng cố Đảng, đổi mới và
nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Đó là biện chứng của sự phát triển
và là quy luật đã được rút ra trong thực tiễn xây dựng CNXH trên phạm vi
thế giới.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình CNH, HĐH và đổi mới
sự lãnh đạo là phù hợp yêu cầu của giai đoạn mới, là hai mặt vấn đề có tính

nguyên tắc. Không đổi mới sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng lên một tầm
cao mới thì không thể tiến hành CNH, HĐH thành công: Lênn đã nói:
“Không thể dùng tất cả biện pháp của ngày hôm qua để giải quyết vấn đề
hôm nay”.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẶNG VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ CNH, HĐH

I. NỘI DUNG LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

1. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường và tình hình quốc tế biến động.
Đảng ta ý thức rất rõ trách nhiệm cũng như vinh dự của mình đối với
đất nước và dân tộc. Đảng với vương vị và tư cách là Đảng cầm quyền có
vai trò lãnh đạo chính quyền, củng cố chính quyền thật vững mạnh lãnh
đạo toàn xã hội, chịu trách nhiệm trước nhân dân và dân tộc. Khi đã trở
thành Đảng cầm quyền thì Đảng không chỉ là đại biểu cho lơi ích của giai
cấp công nhân mà còn là đại biểu của toàn thể nhân dân lao động, trở thành
đội tiên phong chính trị của cả dân tộc.
Không những thế vai trò lãnh đạo của Đảng còn được thể hiện ở chỗ
khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, giác ngộ và tổ
chức nhân dân xây dựng Nhà nước của mình và dùng Nhà nước đó để cải

8


tạo xã hội, đưa đất nước bước vào xây dựng CNXH. Như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: “Đảng chẳng những phải lo việc nhỏ như “tương, cà, mắm,
muối” là những thứ cần thiết cho đời sống thường ngày của nhân dân”.
- Đảng quán triệt và vận dụng sáng tạo những nguyên tắc cơ bản của

chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Nắm vững những
quy luật khách quan, phân tích khoa học và tình hình thực tế để xây dựng
cương lĩnh, đường lối chiến lược hay những mục tiêu cơ bản của cách
mạng
- Đảng lãnh đạo thực hiện có kết quả những nghị quyết đã đề ra bằng
cách nêu cao và phát huy vai trò của Nhà nước, của các đoàn thể quần
chúng, thông qua hoạt động của Đảng viên, thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân lao động.
- Đảng lãnh đạo các cơ quan Nhà nước và đoàn thể quần chúng làm
tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đồng thời trực tiếp làm công tác tư
tưởng giáo dục, thuyết phục vận động quần chúng. Chăm lo xây dựng và
phát triển chiến lược con người, đảm bảo xây dựng được những con người
mới, những đội ngũ tri thức trẻ cho sự nghiệp đổi mới đất nước.
-Đảng định ra đường lối cán bộ, chuẩn bị và đào tạo cán bộ, đề ra
phương hướng, nguyên tắc, phương châm, yêu cầu về sắp xếp tổ chức,
kiện toàn đội ngũ cán bộ.
- Đảng thực hiện chức năng lãnh đạo và kiểm tra thông qua hệ thống
tổ chức của Đảng, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên, bằng công tác
thuyết phục, giáo dục bằng sự gương mẫu chấp hành pháp luật của cán bộ,
đảng viên. Đảng hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, mọi cán bộ đảng
viên đều bình đẳng trước pháp luật.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định đảm bảo cho
kinh tế thị trường đi đúng hướng XHCN. Không có sự lãnh đạo của Đảng
thì không thể xây dựng được CNXH.
9


2. Đề ra nghị quyết và tổ chức thực hiện Nghị quyết
2.1. Vai trò đề ra Nghị quyết
Trách nhiệm cao quý và nặng nề trước hết của Đảng là vạch ra

cương lĩnh, đường lối đúng (đề ra Nghị quyết), dẫn dắt cả nước đi lên. Đây
là trách nhiệm không ai thay thế được Đảng. Nhất là vào thời điểm có tính
chất bước ngoặt như hiện nay, ki mà trong nước và thế giới có những diễn
biến hết sức phức tạp.
Nghị quyết của Đảng phải tuân thủ tính Dảng một cách nghiêm ngặt
tức lằ Đảng phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân, thế giới quăn
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng Nghị quyết. Để khẳng định
bất di bất dịch không một giai cấp nào có thể làm được ngoài giai cấp công
nhân. Vì cuộcchiến không mất gì mà chỉ mất xiềng xích còn được thì được
tất cả. Lợi ích nhân dân, giai cấp, dân tộc thống nhất với lợi ích của Đảng
vì Đảng hoà mình trong cuộc sống. Đảng không có mục đích tự thân và thế
Đảng mời lôi kéo tập hợp được quần chúng.
“Đảng ta đây trăm tay nghìn mắt
Đảng ta đây mình sắt da đồng”
Nghị quyết phải tuân thủ tính khoa học nghiêm ngặt: phải lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận để xây dựng
Nghị quyết. Đối với Đảng bộ địa phương phải lấy thêm Nghị quyết Trung
ương làm cơ sở Nghị quyết phải xuất phát từ khoa học. Ví dụ khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội sẽ phải tính đến Nghị quyết đưa ra phải phù hợp
với một nước nông nghiệp nhiệt đới qua đó áp dụng những thành tựu khoa
học trong nước và thế giới. Nghị quyết phải phản ánh được ý chí nguyện
vọng của nhân dân, thật sự phải là “ý Đảng lòng dân”.
Nghị quyết phải phát huy được truyền thống của dân tộc là tinh thần
tự lực tự cường. UNESCO tổng kết “Nếu một dân tộc nào biết dựa vào

10


truyền thống thì coi như đó là một bề tì, điểm tựa cho dân tộc đó cất cánh
bay xa, bay cao”. Nghị quyết một công trình khoa học nhưng lại được viết

rất xúc tích, ngắn gọn, để hiểu, dễ đọc, dễ thực hiện. Các vấn đề lý luận và
thực tiễn đặt ra đòi hỏi phải làm sáng tỏ và có câu trả lời chính xác. Vì thế
khi thật cần thiết thì Đảng mới ra Nghị quyết. Nghị quyết chỉ được coi là
đúng đắn, cách mạng và khoa học khi các thông tin xây dựng Nghị quyết
phải phản ánh đúng hiện thực khách quan, không được bóp méo sự thật. Vì
thế, các cấp uỷ Đảng, trước hết là Trung ương Đảng có nhiệm vụ tập trung
thời gian và sức lực vào lãnh đạo và nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn,
nắm bắt những vấn đề mới nảy sinh, bám sát vào các sự kiện đang vận
động, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của nhân dân, dự báo chiều hướng phát
triển của tình hình để rút ra những kết luận cần thiết, khẳng định những
quan điểm định hướng cho sự tiến lên.
2.2. Vai trò tổ chức thực hiện Nghị quyết
Nghị quyết phản ánh hiện thực khách quan nhưng chỉ gần đúng.
Nghị quyết là sản phẩm của tư duy mà tư duy bao giờ cũng phản ánh gần
đúng. Nghị quyết là tư duy chính trị và cũng là sản phẩm của tư tưởng. Tổ
chức thực hiện Nghị quyết là biến lý thuyết màu xám thành cây đời mãi
mãi xanh tươi, biến lời nói thành hành động. Như Bác đã nói: “Chủ trương
một biện pháp lời nói thành hành động. Như Bác đã nói: “Chủ trương một
biện pháp mười, quyết tâm phải hai mươi”. Tức là sự thống nhất ba mặt
xây dựng Đảng là sự thống nhất hai quá trình xây dựng và tổ chức: “Dù lý
tưởng có cao cả đến mấy cũng không bằng một xu nếu không gắn bó với
cuộc sống”.
Đề ra được cương lĩnh, đường lối đúng Đảng lại phải lãnh đạo đưa
cương lĩnh, đường lối đó vào nội dung hoạt động của Nhà nước, thể chế
hoá tư tưởng, quan điểm của Đảng thành chính sách, luật pháp của Nhà
nước. Đó là điều mà Đảng cầm quyền nào cũng phải làm. Vì đây là lý do

11



tồn tại và chức năng cực kỳ quan trọng của Đảng cầm quyền. Nói cách
khác, cương lĩnh đường lối của Đảng phải biến thằnh chính sách và pháp
luật của Nhà nước, thấm sâu vào từng “chân tơ kẽ tóc” trong chính sách và
pháp luật của Nhà nước. Khi nhân dân thực hiện chính sách và pháp luật
của Nhà nước cũng là thực hiện đường lối của Đảng.
Xây dựng cũng như tổ chức thực hiện Nghị quyết phải thông qua
hoạt động cụ thể của đất nước, của địa phương mình và đơn vị mình. Phải
luôn luôn tìm thấy cái riêng cái đặc thù của đơn vị mình để tìm giải pháp.
Xây dựng và tổ chức thực hiện Nghị quyết tức là “đưa cuộc sống vào Nghị
quyết” và đưa “Nghị quyết vào cuộc sống”.
3. Vai trò phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
Nhà nước XHCN khác về căn bản so với Nhà nước tư sản ở chỗ: đó
không phải là ông chủ đứng trên nhân dân, cai trị nhân dân mà chính là tổ
chức cao nhất, tập trung nhất quyền làm chủ của nhân dân, nòng cốt là giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một
chủ trương chiến lược, một vấn đề cơ bản trong đường lối của Đảng chủ
nghĩa Mác-Lênin dạy rằng: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”,
Đảng Cộng sản muốn lãnh đạo cách mạng phải liên hệ chặt chẽ với quần
chúng, cách mạng muốn thắng lợi phải được quần chúng ủng hộ. Đối với
một Đảng cầm quyền Lênin nhấn mạnh “Một trong những nguy hiểm lớn
nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”. Liên hệ với
quần chúng mật thiết là truyền thống tốt đẹp và là nguồn sức mạnh to lớn
của Đảng ta. “Đảng ta hiểu rõ và hoàn toàn tin tưởng vào sức mạnh dời
non nấp biển của nhân dân ta… Nhân dân ta cũng hiểu rõ Đảng ta và gửi
gắm tất cả lòng tin vào Đảng. Trong cuộc trường trinh để giành lại độc lập,
tự do cho dân tộc, ở đâu và lúc nào cũng có Dảng. Đảng đi đầu trong chiến

12



đấu, Đảng xông pha nơi khó khăn. Đảng gắn gó với nhân dân bằng những
gì Đảng đã làm cho sự nghiệp giải phóng đất nước”*.
Đối với những chủ trương có quan hệ trực tiếp tới đời sống nhân
dân, cấp uỷ Đảng cần trưng cầu ý kiến nhân dân trước khi quyết định “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải trở thành khẩu hiệu hành đọng,
thành phương châm công tác vận động quần chúng. Phải thực hiện đúng
nguyên tắc: chính sách của Đảng phải xúât phát từ lợi ích, nguyện vọng của
nhân dân. Ngay cả trường hợp chính sách đúng mà dân chưa hiểu chưa
thuận lòng thì phải ra sức giáo dục giải thích cho dân hiểu, thậm chí phản
điều chỉnh lại cho phù hợp. Lênin nhấn mạnh : một chính sách không phù
hợp với trình độ quần chúng “là một chính sách phiêu lưu”( V.I.Lênin: toàn
tập, Sđd, T25. Tr 225).
Mặt khác, cấp uỷ Đảng và cơ quan chính quyền phải giáo dục cán
bộ, Đảng viên, nhân viên nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, có ý thức
thái đọ đúng với nhân dân, yêu thương gần gũi, tôn trọng, kính nể nhân
dân. Các đoàn thể quần chúng nhất là hội phụ nữ, đoàn thanh niên đổi mới
nội dung và phương thức hoạt động của mình để đi sâu giáo dục, động viên
và phát huy quyền làm chủ tập thể, tích cực tham gia hoạt động chính trịxã hội với đày đủ ý thức trách nhiệm của người làm chủ.
4. Đảng thường xuyên đổi mới tự phê bình và phê bình
Đảng Cộng sản là một tổ chức bao gồm những người ưu tú tiêu
biểu nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, trí thức và các tầng
lớp khác. Giữa họ bao giờ cũng có sự chênh lệch nhất định về trình độ và
nhận thức. Vì vậy, trước một vấn đề nào đó sẽ có những ý kiến, cách thức,
giải pháp khác nhau. Tự phê bình và phê bình, trí tuệ sáng tạo của từng
đảng viên được khơi dậy và phát huy, tìm ra cái đúng và dần dần tiếp cận

*

ĐCSVN: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng, tại ĐHĐ

toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự Thật, H, 1977, Tr 211.

13


chân lý. Qua tự phê bình và phê bình trình độ mọi mặt của Đảng viên được
nâng cao, góp phần đưa Đảng trở thành Đảng trí tuệ.
Khi trở thành Đảng cầm quyền, phần lớn đảng viên là những cán bộ
có chức có quyền dễ mắc bệnh tham ô, hối lộ, độc đoán, trù dập, ức hiếp
cấp dưới và quần chúng. Trong điều kiện kinh tế thị trường, bên cạnh
những mặt tích cực đã xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực đang ngày càng
tác động xấu đến một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, làm cho họ tha
hoá về đạo đức, lối sống, thoái hoá về phẩm chất chính trị… Những tệ nạn
nêu trên rất nguy hại cho cách mạng, làm cho Đảng giảm sức chiến đấu và
năng lực lãnh đạo, giảm uy tín, xa rời quần chúng…. Tự phê bình và phê
bình là một phương pháp thiết thực được Chủ tịch Hồ Chí Minh xem là
“thang thuốc hay nhất” để sửa chữa sai lầm khuyết điểm.
Để làm được những điều đó đòi hỏi phải có sự quan tâm giúp đỡ của
cấp trên, đặc biệt là cấp trên trực tiếp của tổ chức Đảng. Tự phê bình- phê
bình là quy luật phát triển, biện pháp căn bản xây dựng và củng cố khối
đoàn kết thống nhất của Đảng.
II. PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Trong giai đoạn hiện nay, phương thức lãnh đạo của Đảng tức là
Đảng làm đúng chức năng lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai
trò của cơ quan chính quyền, tổ chức kinh tế và đoàn thể quần chúng.
1. Hình thức lãnh đạo:
- Đảng đề ra cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chính sách trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là những nguyên tắc, những quan điểm
chỉ đạo của lĩnh vực của hoạt động đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá… để
Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị vận dụng, thể chế

hoà thành kiến pháp và pháp luật.

14


- Đảng lãnh đạo Nhà nước xây dựng Bộ máy Nhà nước trong sạch
vững mạnh đủ năng lực và hoạt động có hiệu quả, thực sự là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Sự lãnh đạo của Đảng ở lĩnh vực là đề ra các quan
điểm, nguyên tắc chỉ đạo xây dựng và hoạt động của tổ chức.
- Đảng đề ra quan điểm, chủ trương về công tác cán bộ kiêm tất cả
các khâu đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ.
- Đảng tiến hành kiểm tra đối với Nhà nước và các tô chức trong hệ
thống chính trị. Đảng vừa trực tiếp kiểm tra vừa tổ chức sự phối hợp hoạt
động kiểm tra của cả hệ thống kiểm tra đảng, thanh tra Nhà nước. Thông
qua kiểm tra phát hiện những việc làm đúng, những sai sót qua đó Đảng sơ
kết, tổng kết rút kinh nghiệm, bổ sung và hoàn thiện đường lối, chủ trương
và nâng cao chất lượng lãnh đạo chỉ đạo thực hiện.
2. Phương pháp lãnh đạo của Đảng
- Phương pháp phát huy dân chủ rộng rãi: sức mạnh của CNXH là
ở tính tổ chức, tính kế hoạch, tính tự giác với quy mô toàn xã hội. Sự
lãnh đạo của Đảng là phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng tạo điều kiện cho tất cả mọi
người tự do tư tưởng.
- Phương pháp nêu cao tấm gương của cán bộ, đảng viên và tổ chức
Đảng: là lực lượng lãnh đạo xã hội, đảng hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật, Đảng đòi hỏi các tổ chức Đảng và cán bộ đảng viên phải nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật. Ở bất cứ nơi đâu, trên cương vị nào Đảng viên
cũng phải hoàn thành tốt công việc được giao, gương mẫu trong lao động
sản xuất và công tác giữ gìn phẩm chất đạo đức lối sống.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn. Là biện pháp tiếp tục làm rõ hơn

những vấn đề bức xúc do thực tiễn đặt ră, làm rõ mô hình và con đường đi
lên CNXH ở nước ta. Đây là phương pháp có vị trí rất quan trọng, nó cung
cấp những căn cứ khoa học bảo đảm cho sự đúng đắn của các quyết định
15


của Đảng. Khi tiến hành tổng kết phẳi chú ý không chỉ những bài học thành
công mà còn chú ý đến tổng kết những bài học không thành công, vì đây là
những bài học không cho phép lặp lại.
III. NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1. Những thành tựu
- Một là, chúng tă đã đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, xã hội; lần
đầu tiên đạt hoàn thành và vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu kế hoạch 5
năm (1991-1995) và vài năm gần đây đạt mức tăng trưởng khá từ 7-8%.
- Hai là, tạo được số một chuyển biến tốt về mặt xã hội: khối lượng
hàng hoá trên thị trường tăng gấp đôi. Nhiều nhà ở và công trình giao thấy
được cải tạo và xây mới ở nông thôn và thành thị. Y tế ngăn chặn được dịch
bệnh, thể dục thể thao có bước phát triển. Trình độ dân trí được nâng lên
đáng kể, đời sống văn hoá của nhân dân được cải thiện. Tính năng động,
sáng tạo của người dân được phát huy. Phong trào đền ơn đáp nghĩa góp
phần giảm bớt khó khăn cho không ít gia đình cá nhân. Lòng tin của nhân
dân đối với đất nước, Đảng, Nhà nước và chế độ được nâng lên.
-Ba là, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng an
ninh, bảo vệ chế độ, giữ vững độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình
của đất nước.
- Bốn là, thực hiện có kết quả nhiều đổi mới quan trọng về hệ thống
chịnh trên cơ sở xây dựng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Năm là, phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây,

cô lập, tham gia tích cực vào đời sống của cộng đồng quốc tế với phương
châm “Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin cậy của tất cả cả nước” trên cơ sở
lập trường “hoà nhập nhưng không hoà tan”.
2. Những khuyết điểm

16


- Một là, nước ta còn nghèo, nhưng chưa thực hiện tốt cần kiệm
trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng; tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn
thấp.
- Hai là, trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, việc lãnh đạo
xây dựng quan hệ sản xuất mới vừa lúng túng, vừa có tình trạng buông
lỏng, chưa phát huy tốt nhiều tiềm năng, giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất.
- Ba là, cơ chế thị trường còn sơ khai, vai trò quản lý vĩ mô của Nhf
nước đối với nền kinh tế còn yếu.
- Bốn là, tình hình xã hội còn nhiều mặt tiêu cực, tệ nạn tham nhũng,
buôn lậu, lãng phí của công chưa được ngăn chặn, thậm chí còn tiếp tục gia
tăng.
- Năm là, hệ thống chính trị có đổi mới nhưng còn nhiều nhược
điểm
3. Những bài học kinh nghiệm
- Thứ nhất, trong quá trình đổi mới phải luôn giữ vững mục tiêu độc
lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Thứ hai, xử ý đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới hệ thống chính
trị và đổi mới kinh tế.
- Thứ ba, đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, phải đi đôi với việc tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước.
- Thứ tư, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh của

toàn dân tộc.
- Thứ năm, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân
thế giới đối với sự nghiệp chính trị của nhân dân ta.
- Thứ sáu: giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng
là nhiệm vụ then chốt.
17


CHƯƠNG 3:
PHÁT HUY VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG
THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

1. Xây dựng, phát triển và củng cố Đảng
Trong thời kỳ CNH, HĐH với bản lĩnh chính trị vững vàng, tính
kiên định cách mạng, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng ta tiếp tục
giữ vững và phát huy truyền thống vẻ vang, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH, nắm bắt và tổng kết thực tiễn sáng tạo của nhân dân, kịp thời
đề ra các chủ trương đúng đắn, khơi dậy và phát huy tiềm năng to lớn của
dân tộc. Xây dựng Đảng phái tập trung trên ba mặt là xây dựng Đảng về
chính trị, xây dựng Đảng về tổ chức, xây dựng Đảng về tư tưởng.
Ba mặt nằy, phải được đề cao, được chú trọng nhất thì Đảng mới
kiện toàn. Tuy nhiên, tất cả những gì làm được so với yêu cầu vẫn còn rất
khiêm tốn, hạn chế. Nhiều Nghị quyết, quyết định đúng đắn và quan trọng
về xây dựng Đảng chưa được thực hiện có hiệu quả như mong muốn. Sự
nghiệp CNH, HĐH, Đảng ta đang đứng trước nhiều vẫn đề mới, phải xử lý
nhiều việc hết sức phức tạp. Trước tình hình đó Đảng phải vững vàng về
chính trị tư tưởng, thống nhất về ý chí hành động, trong sạch về đạo đức lối
sống, được sự ủng hộ của nhân dân thì Đảng mới đứng vững được như
ngày nay. Báo cáo của Bộ chính trị tại Hội nghị Trung ương sáu (lần 2) chỉ
rõ: Đảng phải tiếp tục đổi mới, tự chỉnh đốn một cách tích cực và kiên

quyết hơn, nhằm tạo ra một bước chuyển biến thật sự trên các mặt, ngăn
chặn và đẩy lùi một bước quan trọng tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên
định về mục tiêu, lýu tưởng cách mạng, thống nhất ý chí và hành động,
tăng cường mối liên hệ với nhân dân, nâng cao năng lực và sức chiến đấu
của Đảng. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
18


- Trước hết, phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của
Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh , mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH.
- Hai là, kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng,
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
- Ba là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng, tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác kiểm tra.
- Bốn là, đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ.
- Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó tập
trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước.
Để xây dựng, phát triển và củng cố Đảng đạt mục tiêu đề ra thì cần
phải bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng trên 3 vấn đề lớn: theo tiêu chí Đại hội
X.
- Bổ sung cách diễn đạt về Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân lao động và của dân tộc”.
- Bổ sung điều khoản “Bầu uỷ viên Trung ương dự khuyết” nhằm cả
hai mục đích là bồi dưỡng, đào tạo, tạo nguồn cán bộ cho Trung ương và
thay thế Uỷ viên Trung ương chính thức khi khuyết.

- Giao thêm chức năng giám sát cho cấp uỷ Đảng và Uỷ ban kiểm tra
các cấp, coi kiểm tra giám sát trước hết nhiệm vụ của cấp uỷ, gắn công tác
kiểm tra với công tác giám sát, có giám sát thì mới phát hiện được các vấn
đề mới, khắc phục được thiếu sót, khuyết điểm ngay từ lúc mới manh nha.
2. Giữ vững vai trò bản chất giai cấp công nhân

19


Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân là vấn đề cơ
bản có tính bao trùm, có tính nguyên tắc đối với tất cả Đảng Mác xít-lêninít
chân chính. Điều đó càng đặc biệt quan trọng đối với Đảng ta trong thời kỳ
CNH, HĐH cán bộ, đảng viên giữ nhiều trọng trách, hàng ngày hàng giờ
tiếp xúc với hàng và tiền, đối mặt với CNTB. Vì vậy, càng phải chăm lo giữ
vững bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng. Nừu không
nhận thức sâu sắc điều này thì rất dễ mơ hồ và Đảng không tích cực rèn
luyện thì rất dễ bị biến chất. Vấn đề giữ cho Đảng không bị biến chất, trước
sau vẫn nguyên vẹn là Đảng Cộng sản chân chính được coi là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta lúc này.
Bản chất công nhân đòi hỏi Đảng phải được tổ chức chặt chẽ và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cs nhân phụ trách,
giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mọi sự chia rẽ, bè phái buông lỏng
kỷ luật đều trái với bản chất giai cấp công nhân. Bản chất này không tương
dung với chủ nghĩa phường hội, cục bộ, bản vị, phân tán. Trái lại, nó đòi
hỏi phải có tư tưởng thống nhất, hành động thống nhất, kết hợp hài hoà các
lợi ích cá nhân và tập thể,bộ phận và toàn cục.
Để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng thời kỳ CNH, HĐH cần:
- Thứ nhất, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trị trệ và năng lực
lãnh đạo.
- Thứ hai, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.

- Thứ ba, củng cố Đảng về tổ chức đoàn kết, có sức chiến đấu cao.
- Thứ tư, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân.
- Thứ năm, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảm bảo sự phát triển
liên tục của cách mạng và sự bền vững của chế độ của đất nước.

C. KẾT LUẬN

20


Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi trong
thời kỳ CNH, HĐH và chính trong quá trình này mà Đảng ngày càng phát
triển và trưởng thành. Giờ đây, quá trình CNH, HĐH mới đang ở những
chặng đầu, nhiệm vụ của chúng ta sẽ ngày càng nặng nề và phức tạp hơn.
Vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng phải được đề cao hơn. Chúng tă hội
nhập kinh tế quốc tế mà thời cơ thuận lợi cũng nhiều, thách thức cũng
không nhỏ. Mặt trái của cơ chế thị trường đang là nỗi nhức nhối của toàn
xã hội. Trong khi đó các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang ráo riết
thực hiện âm mưu “Diễn biến hoà bình” tiêubiểu là bọn tổ chức ngoại quốc
Việt Tân đang chống đối hòng xoá bỏ chế độcủa ta và phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng.
Để tiếp tục đưa đất nước tiến lên CNXH, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh thì toàn Đảng, toàn dân ta cần
phát huy tinh thần và khí phách của cách mạng Tháng Tám, đoàn kết một
lòng thực hiện mục tiêu đó. Chúng ta luôn luôn nắm vững định hướng
XHCN.
Chúng ta đang từng bước chứng kiến sự thay đổi của đất nước. Với
những thành công hết sức khả quan mà chúng ta đạt được là do vai trò lãnh
đạo của Đang Cộng sản Việt Nam- Một Đảng cực kỳ nhạy bén trươc tình
hình thời cuộc đang từng bước vững chắc trên con đường cách mạng

XHCN. Với việc tổ chức thành công Hội nghị cấp cao AEM 5, tổ chức
thành công diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC),
Việt Nam ngày càng củng cố vị thế trên trường quốc tế. Mới đây thôi,
chúng tă đã đạt được 193/195 phiếu ủng hộ Việt Nam là ột trong năm thành
viên không thường trực của Hội đồng Bảo Liên hợp quốc.
Càng tự hào về đất nước Việt Nam, tự hào về Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo đất nước qua từng bước thăng trầm của lịch sử và hiện tại
với vai trò là ngườni dẫn dắt chỉ lối, soi sáng cho cách mạng Việt Nam,

21


Đảng cộng sản Việt Nam như một ngọn hải đăng khổng lồ mà ở đó Đảng
lại là người đi tiên phong. Những người con đất Việt, những thế hệ trẻ hôm
nay cần tin và đi theo Đảng, phụng sự Đảng. Đảng là niềm tin và hi vọng
của tất cả chúng ta.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. Nguyễn Phú Trọng: Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến
trình đổi mới đất nước. Nxb CTQG, H, 2005.
2. ThS. Vũ Xuân Lai (chủ biên): Kinh tế chính trị Mác-Lênin. Nxb
CTQG, H, 2004.
3. Tạp chí cộng sản số 745/22, tháng 11/2005.
4. Tạp chí cộng sản số 685, 686, số 22, 23/8/2003.
5. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X ( 18/4-25/4/2006)
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sửa đổi lối làm việc, T9/Nxb CTQG,
H,2000.

7. Xây dựng Đảng về chính trị, Nxb CTQG, H, 2004.
8. Xây dựng Đảng về tổ chức, Nxb CTQG, H, 2004.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự Thật, H, 1977.
10. TS. Bùi Đình Phong- TS. Phạm Ngọc Anh: Công tác xây dựng
Đảng, trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Nxb Lao
Động.
11. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới. PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc. Nxb CTQG,.
12.Các ĐHĐB toàn quốc và hội nghị BCH TW ĐCSVN (19302006)- PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc. Nxb CTQG,

23


MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................
B. NỘI DUNG................................................................................................................
CHƯƠNG 1: TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VAI TRÒ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ.............

I. Quan điểm của Mác và Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH.........................
1. Quan điểm của Mác-Ănghen.....................................................................
2. Quan điểm của Lênin................................................................................
II. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá........................................................................
1. Khái niệm..................................................................................................
2. Yêu cầu đặt ra đối với quá trình CNH, HĐH............................................
II. Sự cần thiết của Đảng cộng sản trong thời kỳ CNH, HĐH..........................
1. Nền kinh tế thị trường phải cần đến vai trò lãnh đạo của Đảng................
2. Vai trò lãnh đạo của Đảng là tính tất yếu khách quan, là điều kiện
quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

XHCN, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của quá trình CNH,
HĐH..............................................................................................................
2.1.Vai trò lãnh đạo của Đảng là tính tất yếu khách quan, là
điều kiện quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc XHCN..............................................................................
2.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi trong quá trình CNH, HĐH đất nước............................................
CHƯƠNG 2: THỰC TRẶNG VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ CNH, HĐH.....................................................................

I. Nội dung lãnh đạo của Đảng Cộng sản............................................................
1. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội trong điều kiện kinh
tế thị trường và tình hình quốc tế biến động.................................................

24


2. Đề ra nghị quyết và tổ chức thực hiện Nghị quyết....................................
2.1. Vai trò đề ra Nghị quyết...............................................................
2.2. Vai trò tổ chức thực hiện Nghị quyết...........................................
3. Vai trò phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân..............
4. Đảng thường xuyên đổi mới tự phê bình và phê bình...............................
II. Phương thức lãnh đạo của Đảng.....................................................................
1. Hình thức lãnh đạo...................................................................................
2. Phương pháp lãnh đạo của Đảng...............................................................
III. Những thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm.........................................
1.Những thành tựu.........................................................................................
2. Những khuyết điểm...................................................................................
3. Những bài học kinh nghiệm......................................................................
CHƯƠNG 3:PHÁT HUY VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG

THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ..................................................

1.Xây dựng, phát triển và củng cố Đảng.......................................................
2. Giữ vững vai trò bản chất giai cấp công nhân...........................................
C. KẾT LUẬN................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................

25


×