SỰ CHỦ ĐỘNG, NHẠY BÉN, SÁNG TẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH
CHÍNH QUYỀN (1930 – 1945) (phần I)
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là một minh
chứng tuyệt vời cho bản lĩnh và trí tuệ của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Phần 1
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời,
đánh dấu bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt
Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu
nước, về giai cấp lãnh đạo cách mạng, về phương
pháp và tổ chức lực lượng đấu tranh cách mạng.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác
định: đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam
là làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”; giai cấp lãnh đạo
cách mạng Việt Nam là giai cấp vô sản; về lực lượng
cách mạng, Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận
công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo, lôi kéo các tầng lớp tư sản, tiểu tư sản dân tộc,
trí thức, trung, tiểu địa chủ…vào phe của giai cấp vô
sản; cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, phải gắn bó với các dân tộc bị áp bức
và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản
Pháp.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với
đường lối đúng đắn, phù hợp đã thúc đẩy phong trào
cách mạng phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Sự phát
triển của cao trào cách mạng 1930 -1931 mà đỉnh cao
là XôViêt – Nghệ Tĩnh đã chứng tỏ năng lực cách
mạng của quần chúng và vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân đối với cách mạng Việt Nam.
1. Trong thời kỳ 1930 - 1939
Tháng 10 năm 1930, Hội nghị lần thứ nhất
BCHTW Đảng đã họp, thông qua Luận cương chính
trị do đồng chí Trần Phú soạn thảo và đổi tên đảng
thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Luận cương
chính trị tháng 10/1930 kiên định với những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam đã được đề ra trong
Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng.
Để đối phó với phong trào cách mạng đang dâng
cao và tiêu diệt Đảng cộng sản Đông Dương, thực
dân Pháp tăng cường khủng bố và đàn áp. Hàng chục
ngàn chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu nước đã
bị bắt, giết hại và tù đày. Cơ quan lãnh đạo của Đảng
ở trung ương và địa phương lần lượt bị phá vỡ. Toàn
bộ BCHTW bị bắt và mang ra xét xử.
Mặc dù bị khủng bố, Đảng ta vẫn thể hiện vai trò
tiên phong, hướng dẫn quần chúng vượt qua khó
khăn, từng bước khôi phục tổ chức Đảng và phong
trào cách mạng. Các chi bộ Đảng trong các nhà tù
được thành lập, nhà tù đế quốc biến thành trường học
cách mạng và là nơi Đảng tổ chức đấu tranh và chỉ
đạo phong trào các mạng. Nhiều đảng viên vược ngục
lại tiếp tục tham gia khôi phục Đảng và gây dựng lại
cơ sở cách mạng.
Trong giai đoạn khủng bố trắng, Đảng kiên trì
bám dân, gắn bó với quần chúng, với các cơ sở, lãnh
đạo quần chúng đấu tranh giành những quyền lợi thiết
thực hàng ngày rồi từng bước đưa quần chúng tiến
lên đấu tranh cho những yêu cầu chính trị cao
hơn. Chương trình hành động của Đảng Cộng sản
Đông Dương nêu rõ những yêu cầu chung trước mắt
của đông đảo quần chúng lúc này là:Đòi các quyền tự
do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nước và
ra nước ngoài;Bỏ những luật hình đặc biệt đối với
người bản xứ, trả tự do cho tù chính trị, bỏ ngay
chính sách đàn áp, giải tán Hội đồng đề hình;Bỏ thuế
thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác;Bỏ các
độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối.Chương
trình hành động của Đảng còn đề ra những yêu cầu cụ
thể riêng cho từng giai cấp và các tầng lớp nhân dân,
vạch rõ phải ra sức tuyên truyền và mở rộng ảnh
hưởng của Đảng trong quần chúng, củng cố và phát
triển các đoàn thể cách mạng, nhất là công hội, nông
hội; dẫn dắt quần chúng đấu tranh cho những quyền
lợi hàng ngày, tiến lên đấu tranh chính trị, chuẩn bị
cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi có điều
kiện.
Như vậy, chủ trương nói trên của Đảng là hoàn
toàn phù hợp với tình hình cách mạng lúc bấy giờ.
Trong điều kiện bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố,
thì việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi các quyền
lợi hàng ngày là cần thiết để tạo điều kiện khôi phục
tổ chức Đảng, gây dựng lại phong trào.
Bước sang giai đoạn 1936 – 1939, tình hình thế
giới và trong nước có nhiều biến động. Nguy cơ
chiến tranh phatxit tới gần, đe dọa nghiêm trọng hòa
bình và an ninh thế giới. Sau khủng hoảng kinh tế,
thực dân Pháp tăng cường chính sách đàn áp, bóc lột
nhân dân, nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng Đông
Dương. Trước tình hình đó, Đảng ta đã nhanh chóng
có những chủ trương mới. Hội nghị BCHTW họp
tháng 7/1936 xác định nhiệm vụ trước mắt của cách
mạng Đông Dương là chống phatxit, chống chiến
tranh, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi
tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Vì vậy, Đảng chủ
trương tạm gác khẩu hiệu “Độc lập dân tộc và người
cày có ruộng”, tập trung vào đấu tranh đòi cách
quyền tự do, dân chủ, dân sinh; chủ trương “lập Mặt
trận nhân dân phản đế rộng rãi để bao gồm các giai
cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín
ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông
Dương để cùng nhau tranh đấu, đòi những điều dân
chủ đơn sơ”. Lợi dụng sự thắng lợi của chính phủ
Mặt trận bình dân Pháp, Đảng ta đã phát động đấu
tranh bằng nhiều hình thức công khai, nửa công khai,
hợp pháp, nửa hợp pháp, đấu tranh nghị trường, biểu
tình, mít tinh, tuần hành thị uy, sử dụng các phương
tiện báo chí, văn học, thơ ca, qua đó thức tỉnh quần
chúng, tuyên truyền đường lối cách mạng và vận
động quần chúng đấu tranh.
Qua những chủ trương của Đảng trong giai đoạn
này, có thể thấy, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể,
trước mắt của cách mạng. Đảng ta đã chủ động đặt ra
những nhiệm vụ chính trị cụ thể trong một hoàn cảnh
cụ thể, biết tập hợp rộng rãi những lực lượng chính trị
dù là bé nhỏ, bấp bênh, tạm thời; biết sử dụng những
hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, phù hợp với
mục tiêu cụ thể nhằm động viên hàng triệu quần
chúng đấu tranh, huấn luyện quần chúng đấu tranh,
chuẩn bị cho những mục tiêu chính trị cao hơn. Chủ
trương đó chứng tỏ bước trưởng thành hơn nữa của
Đảng về chính trị, tư tưởng, thể hiện bản lĩnh và tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng, chuẩn bị điều
kiện tiến lên giành những thắng lợi lớn hơn về sau.
Còn tiếp
SỰ CHỦ ĐỘNG, NHẠY BÉN, SÁNG TẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH
CHÍNH QUYỀN (1930 – 1945) (Phần 2)
Ngày 1/9/1939, phatxit Đức tấn công Ba-Lan, sau
đó tuyên chiến với Anh và Pháp, chiến tranh thế
giới thứ hai bùng nổ. Đế quốc Pháp lao vào cuộc
chiến. Chính phủ Pháp thi hành các biện pháp để
đàn áp lực lượng dân chủ trong nước và phong
trào cách mạng thuộc địa.
2. Giai đoạn 1939 – 1945
Ngày 1/9/1939, phatxit Đức tấn công Ba-Lan,
sau đó tuyên chiến với Anh và Pháp, chiến tranh thế
giới thứ hai bùng nổ. Đế quốc Pháp lao vào cuộc
chiến. Chính phủ Pháp thi hành các biện pháp để đàn
áp lực lượng dân chủ trong nước và phong trào cách
mạng thuộc địa.
Do sớm dự báo được tình hình, nên Đảng ta
không bị bất ngờ về cuộc chiến tranh này. Trong
thông báo khẩn cấp ngày 10/3/1938, Nghị quyết
BCHTW ngày 29/3/1938 và Tuyên ngôn Đảng Cộng
sản Đông Dương với thời cuộc ngày 29/3/1938 đã chỉ
rõ, chiến tranh sẽ nổ ra, cần tập trung mũi nhọn chống
bọn phatxit gây chiến.
Ngay sau khi chiến tranh nổ ra, TƯ Đảng gửi
thông cáo cho các cấp bộ Đảng, vạch rõ cách mạng
Đông Dương sẽ tiến tới mục tiêu giải phóng dân tộc,
chỉ thị cho toàn Đảng kịp thời rút vào bí mật và
chuyển hướng hoạt động. Điều đó chứng tỏ sự nhạy
bén, chủ động của Đảng ta trước những diễn biến
mau lẹ của thời cuộc.
Mùa thu năm 1940, lợi dụng lúc Pháp thua Đức,
Nhật vào Đông Dương. Ngày 22/9/1940, chúng tiến
vào Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày
23/9/1940, Pháp ký hiệp định đầu hàng, dâng nước ta
cho Nhật. Từ đó, nhân dân ta một cổ hai tròng, chịu
ách áp bức của cả đế quốc Pháp và phatxit Nhật.
Chuyển hướng chiến lược
Trước tình hình đó, tháng 11 năm 1939, BCHTW
Đảng họp hội nghị lần thứ sáu tại Bà Điểm (Hóc
Môn, Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ
trì. Hội nghị nhận định: trong điều kiện lịch sử
mới, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và
cấp bách nhất của cách mạng Đông Dương. “Bước
đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không
còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh
đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận
da trắng hay da vàng để giành lấy độc lập dân
tộc”. Vì vậy, tất cả mọi vấn đề cách mạng, kể cả vấn
đề ruộng đất cũng phải nhằm mục đích ấy mà giải
quyết. Khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” phải tạm
gác lại và thay bằng các khẩu hiệu chống địa tô cao,
chống cho vay nặng lãi, tich thu ruộng đất của bọn
thực dân, đế quốc và bọn địa chủ phản động chia cho
dân cày nghèo.
Trở về nước, tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ
trì Hội nghị lần thứ tám BCHTW Đảng tại Pắc Bó
(Cao Bằng). Hội nghị sáng suốt nhận định: chiến
tranh thế giới đang lan rộng, phatxit Đức đang chuẩn
bị tấn công Liên Xô và chiến tranh ở khu vực Thái
Bình Dương sẽ bùng nổ. Chiến tranh sẽ làm cho các
nước đế quốc suy yếu; Liên Xô nhất định thắng và
phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển nhanh
chóng, cách mạng nhiều nước sẽ thành công và một
loạt các nước XHCN sẽ ra đời.
Trên cơ sở phân tích thái độ chính trị của các giai
cấp, tầng lớp, Hội nghị nêu rõ ở nước ta, mâu thuẫn
chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu
thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc phatxit Pháp –
Nhật. Cần phải thay đổi chiến lược. Trước sự thay đổi
về kinh tế, chính trị Đông Dương, sự thay đổi thái độ,
lực lượng các giai cấp Đông Dương, Đảng ta đã thay
đổi chính sách cách mạng ở Đông Dương cho phù
hợp với nguyện vọng chung của toàn thể nhân dân
Đông Dương…” Cuộc cách mạng Đông Dương hiện
tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền,
cuộc cách mạng giải quyết hai vấn đề: phản đế và
điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết
một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”, vậy thì,
cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện
nay là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”. Hội
nghị chỉ rõ, trong lúc này, “nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc
lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn
thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng
không đòi lại được”. Vì vậy, Hội nghị tiếp tục đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác
khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân
cày” thay bằng khẩu hiệu: tịch thu ruộng đất của bọn
đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại
ruộng đất cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Hội nghị quyết định quyết định thành lập mặt
trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng, nhằm
mục tiêu giải phóng dân tộc; xúc tiến ngay công tác
chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ
trọng tâm của Đảng và nhân dân trong giai đoạn hiện
tại. Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi,
cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng và
hình thức tổ chức thích hợp, tiến hành xây dựng căn
cứ địa. Hội nghị cũng đặc biệt chú trọng công tác xây
dựng Đảng, gấp rút đào tạo cán bộ, chuẩn bị cho cơn
bão táp cách mạng mới.
Hội nghị lần thứ tám BCHTW Đảng đã hoàn
chỉnh sự thay đổi chiến lược cách mạng được vạch ra
từ Hội nghị lần thứ sáu (11/1939). Sự chuyển hướng
này là vô cùng đúng đắn, kịp thời, chứng tỏ tư duy
chiến lược sắc bén của Đảng và của Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam sẽ
theo ngọn cờ giải phóng dân tộc, gấp rút chuẩn bị lực
lượng về mọi mặt để tiến lên giành độc lập, tranh lấy
chính quyền.
Giờ cứu nước đã điểm
Cuối năm 1944, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
đã đi đến giai đoạn kết thúc. Ở Đông Dương, mâu
thuẫn Nhật – Pháp lên đến đỉnh điểm. Ngày 9/3/1945,
Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương.
Ngay đêm đó, Ban Thường vụ Trung ương họp
hội nghị mở rộng tại Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh).
Ngày 12/9/1945, Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta”.
Chỉ thị nhận định cuộc đảo chính của Nhật lật đổ
Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra một cuộc
khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi
nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có
những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi
nghĩa nhanh chóng chín muồi.
Chỉ thị xác định: Phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ
thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông
Dương. Vì vậy, phải thay khẩu hiệu "đánh đuổi phát
xít Nhật - Pháp" bằng khẩu hiệu "đánh đuổi phát xít
Nhật".
Chỉ thị chủ trương: phát động một cao trào kháng
Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng
khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ
chức và đấu tranh lúc này phải thay đổi cho thích hợp
với thời kỳ tiền khởi nghĩa như tuyên truyền xung
phong, biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, biểu
tình phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đẩy
mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc,
Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh lúc này là
phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng,
mở rộng căn cứ địa.
Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực
hiện tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng minh kéo
vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt
trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở.
Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ và chính
quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập,
hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân
đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.
Chính sách cai trị, vơ vét, bóc lột của đế quốc
Pháp và phatxit Nhật đã đẩy nhân dân ta vào nạn đói
khủng khiếp. Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt
của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá
kho thóc của Nhật”, cứu đói cho nhân dân. Phong
trào phá kho thóc Nhật đã tạo đà tiến quan trọng cho
sự phát triển tiếp theo của cao trào “kháng Nhật cứu
nước”
Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta” đã chứng tỏ, Đảng ta đã rất chủ động trong
việc nắm bắt tình hình cách mạng, kịp thời đề ra
những chủ trương đúng đắn, phù hợp, tiên lượng
được tình hình để có hành động kịp thời, sẵn sàng
cho những thời khắc quyết định của cách mạng. Bản
chỉ thị đã đã tạo nên một bước ngoặt lịch sử, chuyển
phong trào cách mạng từ thời kỳ vận động chính trị là
chủ yếu sang thời kỳ phát động đấu tranh vũ trang,
khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở các địa
phương.
Ngày 9/5/1945, phatxit Đức đầu hành quân Đồng
minh. Ở Đông Dương, quân Nhật bắt đầu rệu rã.
Ngày 14/8/1945, quân phiệt Nhật hạ vũ khí đầu hàng
Đồng minh, đẩy quân Nhật đang chiếm đóng ở Đông
Dương vào tình thế tuyệt vọng, như rắn mất đầu,
hoang mang cực độ.
Ngày 13-15/8/1945, TW Đảng quyết định họp
Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang). Hội
nghị nhận định đây là cơ hội tốt cho nhân dân ta đứng
lên giành chính quyền và quyết định phát động Tổng
khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phatxit Nhật
trước khi quân Đồng minh tiến vào nước ta.
Ngày 16/8/1945, Quốc dân Đại hội khai mạc, tán
thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và Mười
chính sách lớn của Việt Minh, quyết định thành lập
Ủy ban giải phóng dân tộc, thông qua Quốc kỳ, Quốc
ca, Quốc huy của đất nước, thảo luận, bổ sung và
thông qua một số chính sách cần phải thực hiện ngay
sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Hội nghị thông
qua mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa.
Ngay sau Hội nghị, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi:
“Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến, toàn
quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta!”
Với chủ trương, đường lối và phương hướng chỉ
đạo của Đảng, Tổng khởi nghĩa thành công nhanh
chóng, thắng lợi hoàn toàn triệt để, ít tổn thất cho
cách mạng. Chỉ trong vòng 15 ngày, Tổng khởi nghĩa
lần lượt thành công trên khắp các địa phương trong cả
nước.
Chủ trương đẩy mạnh cao trào kháng Nhật cứu
nước và Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính
quyền trên phạm vi cả nước là vô cùng kịp thời, chính
xác và nhanh chóng.
Sự kịp thời, nhanh chóng, chính xác của Đảng ta
thể hiện ở việc nhận định tình hình, đánh giá tình
hình khi Nhật đảo chính Pháp đề đưa ra hướng chỉ
đạo đúng đắn. Sự chỉ đạo của Đảng ta trong thời kỳ
đấu tranh giành chính quyền này đã đạt đến nghệ
thuật, nghệ thuật nắm bắt tình hình và nghệ thuật chỉ
đạo chớp thời cơ cách mạng. Đảng ta đã nhận định
chính xác thời cơ Tổng khởi nghĩa đã chín muồi,
quyết định hạ lệnh Tổng khởi nghĩa đúng lúc, sau khi
Nhật Bản đã đầu hàng quân đồng minh, để quân đội
Thiên hoàng không còn vị thế can thiệp vào Việt
Nam và bằng mọi cách phải giành chính quyền trước
khi quân Đồng minh tiến vào Đông Dương để tước
vũ khí quân đội Nhật, buộc chúng phải nói chuyện
với Chính phủ lâm thời, đại diện cho nước Việt Nam
mới sau Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Như vậy, đường lối đấu tranh giành chính quyền
của Đảng ta trong suốt thời kỳ 1930 – 1945 đã thể
hiện bản lĩnh, trí tuệ, nghệ thuật lãnh đạo của Đảng.
Đó là bản lĩnh vượt qua khó khăn, thử thách của thời
kỳ bị khủng bố, là sự năng động, sáng tạo trong việc
đưa ra những chủ trương mới thời kỳ dân chủ 1936 –
1939, là trí tuệ trong việc chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược thời kỳ 1936 – 1939, và là nghệ thuật trong việc
đánh giá đúng tình thế và thời cơ cách mạng để lãnh
đạo toàn dân đứng lên giành chính quyền. Đường lối
đó đã thể hiện sự đúng đắn, chủ động, sáng tạo,
nhanh chóng và kịp thời của Đảng ta qua từng giai
đoạn, chuẩn bị những điều kiện chủ quan cần thiết để
chớp thời cơ, giành chính quyền cách mạng.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là một minh
chứng tuyệt vời cho bản lĩnh và trí tuệ của Đảng
Cộng sản Việt Nam./.