Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

tiểu luận tiềm năng du lịch mộc châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.05 KB, 11 trang )

[Type the document
title]
TIỀM NĂNG VĂN HÓA ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Ở MỘC CHÂU
I. NHỮNG TIỀM NĂNG VĂN HÓA ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH MỘC
CHÂU
Mộc Châu là cao nguyên rộng lớn và xinh đẹp nổi bật của tỉnh Sơn La, cách
Hà Nội gần 200km về phía tây bắc theo quốc lộ 6, cách Thành phố Sơn La 120 km,
phía bắc giáp huyện Phù Yên, ngăn cách bởi dòng sông Đà, phía tây bắc giáp hai
huyện Bắc Yên và Yên Châu, phía tây giáp với Lào, phía đông giáp tỉnh Hòa Bình,
phía nam giáp tỉnh Thanh Hóa.
Huyện Mộc Châu có cao nguyên Mộc Châu nằm ở độ cao 1050m so với mặt
nước biển, trải dài khoảng 80km, rộng 25km, với những đồng cỏ mênh mông, những
đồi chè xanh ngắt, những vạt cải trắng muốt. Khí hậu ôn đới, mát mẻ rất thích hợp để
du lịch. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 21ºC, mùa đông lạnh và khô, ít mưa; mùa hè
mưa nhiều và không có bão, là khu vực có nhiều tiềm năng phát triển du lịch với khí
hậu quanh năm trong lành, mát mẻ, cảnh quan thiên nhiên đẹp, có những sản vật độc
đáo như chè, sữa cùng với sự đa dạng về bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số được thể
hiện qua ẩm thực, trang phục, nghệ thuật, phong tục, tập quán…
Mộc Châu có những lợi thế so sánh vượt trội về tiềm năng và nguồn lực phát
triển du lịch so với các địa phương lân cận trong khu vực, đó là:
1. Mộc Châu có điều kiện khí hậu lý tưởng cho du lịch nghỉ dưỡng:
Khí hậu là một trong những yếu tố có vai trò quan trọng nhất trong việc xây
dựng các khu nghỉ dưỡng. Vùng Mộc Châu nằm ở độ cao trung bình hơn 1.000 m
cùng với lượng mưa tương đối lớn (hơn 1.500 mm/năm) lại nằm giữa sông Đà ở phía
Đông Bắc và sông Mã ở phía Tây Nam có tác dụng như hai hệ thống điều hòa không
khí tự nhiên làm cho nhiệt độ trung bình hàng năm của Mộc Châu là 18,50 0C thấp
hơn so với các khu vực lân cận như Thành phố Sơn La (21,10 0C), Hòa Bình (23,00
0
C), Điện Biên (23,00 0C). So với các khu vực như Sa pa, Tam Đảo, Bà Nà, Đà Lạt…
vùng Mộc Châu không hề thua kém về điều kiện khí hậu.


Với điều kiện nêu trên, có thể nói vùng Mộc Châu so với các khu vực lân cận
trong hành lang Tây Bắc theo Quốc lộ 6 (bao gồm các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện

1


[Type the document
title]
Biên) là nơi có điều kiện lý tưởng nhất về mặt khí hậu để phát triển du lịch nghỉ
dưỡng.
2. Hình ảnh điểm đến đã hình thành và nổi tiếng của Mộc Châu
Đối với du lịch Việt Nam, Mộc Châu từ lâu đã được biết đến như một điểm đến nổi
bật ở khu vực miền núi Tây Bắc với những đặc trưng độc đáo bao gồm các yếu tố chính:
"Cao nguyên" - hình ảnh một cao nguyên với khung cảnh vừa hùng vĩ, vừa
nên thơ, say đắm lòng người với những đồi chè, đồng cỏ xanh ngát rộng quá tầm
mắt, những vườn mận hoa trắng, những ngọn núi hùng vĩ, bốn mùa mây phủ, những
bản làng ẩn hiện trong sương sớm, những thửa ruộng bậc thang…
"Chè" - loại cây đặc trưng của cao nguyên Mộc Châu. Không chỉ là một loại cây
trồng đặc sản, "Chè" còn là sự kết tinh của truyền thống văn hóa nông nghiệp ở Mộc
Châu và được coi là một trong những đặc sản quý nhất của cao nguyên Mộc Châu.
Ngoài ra cảnh quan đồi chè cũng là một nét đặc trưng của Mộc Châu và là điều kiện
thuận lợi để phát triển các tour du lịch sinh thái nông nghiệp.
"Bò sữa" - loài vật nuôi phổ biến nhất ở đây, cùng với "Chè" từ lâu đã trở
thành biểu tượng của cao nguyên Mộc Châu.
3. Mộc Châu có vị trí địa lý thuận lợi trong hành lang Tây Bắc
Về vị trí địa lý, có thể coi vùng Mộc Châu là cửa ngõ nối khu vực miền núi Tây
Bắc với thủ đô Hà Nội và vùng đồng bằng Bắc Bộ trên tuyến giao thông huyết mạch
quốc lộ 6. Trong không gian phát triển du lịch vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, Mộc
Châu là một trong những khu du lịch quan trọng nhất trong hành lang Tây Bắc theo
Quốc lộ 6.

4. Sản vật từ thiên nhiên và rừng núi phong phú đa dạng và có khả năng phát
triển thành các sản phẩm du lịch đặc trưng của Mộc Châu
Sữa, các trang trại nuôi bò sữa, chè, ngô, rau, hoa chất lượng cao và các sản vật từ
rừng núi như thuốc nam, mật ong, măng rừng… hoàn toàn có thể phát triển thành các
sản phẩm ẩm thực cũng như hàng hóa lưu niệm phục vụ khách du lịch và các điểm
tham quan du lịch hấp dẫn.
5. Mộc Châu có hệ thống các điểm tham quan, nghỉ dưỡng đa dạng
- Hang Dơi; Ngũ động Bản Ôn; Rừng thông Bản Áng; Thác "Dải Yếm"; Đỉnh
Pha Luông; Sông Đà; Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha,…
- Hệ thống suối nước khoáng: suối nước khoáng bản Phụ Mẫu; suối nước
khoáng Bản Bó; suối nước khoáng Hua Păng.
2


[Type the document
title]
- Hệ thống các di tích lịch sử văn hóa và cách mạng.
- Hệ thống di chỉ khảo cổ học khu vực ven Sông Đà.
- Cửa khẩu Lóng Sập.
- Các bản làng văn hóa dân tộc với cảnh quan, môi trường sống còn lưu giữ
được nét sinh hoạt, văn hoá truyền thống, có thể khai thác để tạo thành những sản
phẩm du lịch có giá trị như: bản Phụ Mẫu, Co Hào, Nà Bai, Lóng Luông, Suối Lìn,
Bản Áng, Tà Phình, bản Nà Coóng...
6. Sự đa dạng, độc đáo trong văn hóa của các dân tội thiểu số ở Mộc Châu với
các di tích lịch sử, văn hoá và khảo cổ nổi tiếng
6.1. Lễ hội truyền thống
Phong tục tập quán và lễ hội truyền thống ở Mộc Châu mang nét đặc trưng riêng
biệt của từng dân tộc. Nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc của 12 dân tộc sinh sống tại
Mộc Châu đang được gìn giữ, phát huy, tiêu biểu như các lệ hội: Vào mùa, Hoa Ban,
Cầu mưa của dân tộc Thái; Pang A Nụn Pan của dân tộc La Ha; Mương A Ma của dân

tộc Xinh Mun; Xênh Pang Ả của dân tộc Kháng…
Lễ hội Xen Pang Ả dân tộc Kháng được tổ chức với quy mô một vùng rộng lớn,
gồm nhiều bản, và cứ 2 hay 3 năm được tổ chức một lần vào khoảng từ tháng 10 tới
tháng 12. Lễ hội được tổ chức với mục đích mời các "ma nhà", "ma bản", "ma trời"
hưởng lễ vật và những người được Pa Ả chữa cho khỏi bệnh (được coi là con nuôi)
đến dâng lễ, tạ ơn, đồng thời để Pa Ả cầu chúc cho hồn vía các con nuôi lành mạnh,
không hay ốm đau, làm ăn phát tài. Lễ hội Xen Pang Ả ngoài phần lễ cúng cầu xin,
còn là nơi nhân dân diễn lại các công việc nương rẫy, thu hái lâm sản trong đời sống
thường nhật, thông qua các trò diễn; chơi các trò chơi dân gian; hát đối đáp giao
duyên; múa ống, múa khăn.
Đây là dịp để mọi người tạ ơn tổ tiên và các thế lực siêu nhiên đã giúp đỡ cho họ có
sức khỏe, bản mường yên bình, no ấm. Đặc biệt lễ hội còn là dịp để lớp thanh niên
chưa vợ chưa chồng tìm hiểu, hẹn hò nên vợ thành chồng, bởi vậy lễ hội Xen Pang Ả
còn có ý nghĩa trong việc tái tạo cộng đồng dân tộc.
Hay lễ hội Mương A Ma dân tộc Xinh Mun thường từ 3- 5 năm tổ chức một lần.
Người đứng ra tổ chức, chủ trì lễ hội là những người làm thầy mo trong bản. Lễ hội
diễn ra trong 2 ngày, vào khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 2 âm lịch, khi mùa
màng đã thu hoạch xong và năm đó được mùa, lúa ngô đầy nhà và nuôi được nhiều
gà, lợn…Lễ hội Mương A Ma được tổ chức trong phạm vi gia đình, nhưng lực lượng
3


[Type the document
title]
tham gia làm công việc chuẩn bị lễ vật, cỗ bàn và đặc biệt là lực lượng tham gia
phần hội thì bao gồm cả bản, từ các ông, bà già, thanh niên nam nữ và cả trẻ nhỏ,
mọi người đều tham dự lễ hội với tinh thần tự giác, hăng say và nhiệt tình. Lễ hội
Mương A Ma là một nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc nhất của đồng bào dân tộc Xinh
Mun, là một hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể lành mạnh, góp phần tích cực vào
việc vun đắp tình đoàn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn,

tạo ra bầu không khí vui tươi phấn khởi, hướng người dân theo những cái thiện, xa
rời cái xấu.
Có thể nói, lễ hội dân gian truyền thống chính là tiếng nói thể hiện ước muốn
vươn tới những điều tốt đẹp của đồng bào các dân tộc ở Mộc Châu, góp phần làm
phong phú thêm kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam.
6.2. Văn hoá ẩm thực độc đáo
Ở Mộc Châu, những món ăn đặc sản từ cây rừng, từ ao vườn, ruộng đồng, được
chế biến bởi những bàn tay khéo léo của người con gái bản đảm đang thành những
món ăn ngon khó quên.
Cơm lam vẫn thấy trong các tiệc tùng lễ hội của nhiều dân tộc trên cao nguyên
Mộc Châu. Nhưng với người Thái, nó còn có trong từng bữa ăn thường ngày. Cũng
là từ hạt nếp nương, nhưng cơm lam là loại cơm đặc biệt ngon vì nó không được nấu
theo cách thức thông thường mà được nướng trên rừng rực than củi trong những ống
nứa. Gạo nếp ngâm ủ qua đêm được cho vào từng ống nứa non, một loại tre rừng đặc
biệt có lớp vỏ lụa mỏng bên trong lòng đốt, thêm nước vừa đủ và nút lại bằng lá
chuối khô rồi đưa lên bếp đốt cho đến khi vỏ ống tre cháy sém. Sau đó chẻ tách phần
cật nứa chỉ còn lại lớp lụa mỏng bó chặt từng cây cơm trắng nõn nà. Trên lớp vỏ lụa
trắng mỏng ấy có thoáng chút mặn, chút hương của rừng và của khói làm cho miếng
cơm dẻo thật sự thăng hoa. Ăn cơm lam, ngoài muối vừng, không thể thiếu một loại
thức chấm có tên là chẩm chéo. Chẩm Chéo được chế biến từ muối, ớt tươi nướng,
hành, rau mùi…, đặc biệt không thể thiếu loại trái rừng có tên là mắc khén, tất cả
được giã nhuyễn. Không có mắc khén không làm ra chẩm chéo, không có chẩm chéo
không thành bữa cơm lam. Cơm lam ở Mộc Châu thường được bán vào mùa đông.
Vì loại ống nứa để nướng cơm lam mùa này mới có.
Hay như món cháo “Mắc nhung” mang hương vị đặc trưng của núi rừng. Sau
mùa gặt, quả mắc nhung gieo vãi trên nương bắt đầu chín mọng, bà con hái đem về
rửa sạch, thêm gừng xả, trộn với gạo tấm, tưới ít nước đủ chín, túm vào lá chuối
4



[Type the document
title]
buộc chặt vùi trong tro bếp nóng, hoặc đồ xôi như món “Mọ gà” của đồng bào dân
tộc Thái, chỉ 30 phút sau sẽ có ngay một món ăn sền sệt, ngăm ngăm đắng, thơm cay
là lạ đầy hấp dẫn và chấm với xôi rất hợp khẩu vị, Ngày nay, cháo “Mắc nhung” đã
trở thành món ăn đặc sản được mọi người ưa chuộng. Để có món cháo Mắc nhung
(tiếng Mường gọi là quả ngố), người chế biến phải biết chọn loại tẻ thơm, nếu được
tấm đầu vụ gặt non (như cốm) thì càng tốt. Dùng thịt sương sườn lợn nướng khô hay
hun khói, băm nhỏ nấu nhuyễn với cháo tấm. Khi cháo chín tới cho quả Mắc nhung
vào, đập thâm củ gừng, ở nướng và xả cả củ bỏ vào đáy nồi cháo, khuấy đều. Vài
phút sau, đã có ngay món cháo "Mắc nhung" đặc sản thơm nồng, đặc sánh.
Các món ăn ngày tết của các dân tộc ở Mộc Châu cũng là một nét văn hoá ẩm
thực gây ấn tượng sâu sắc đối với những ai đã từng đặt chân đến đây. Một số dân tộc
ở Mộc Châu từ xưa đã có lệ vào mùa măng (nhất là măng tre, vầu, bương. lay) là
làm các loại măng giành cho tết. Măng chua: Chủ yếu dùng măng vầu, bương thái
nhỏ hoặc giã cho vào hũ ủ lên men, càng để lâu càng chua. Măng chua chủ yếu để
xào với các loại lòng lợn, gà và xào với thịt mỡ ăn đỡ ngấy. Măng héo: (Nó héo): Bà
con Thái Trắng, đồng bào Mông ở Mộc Châu thường hay làm loại măng này. Măng
héo làm từ măng chua. Măng chua vắt kiệt nước phơi nhiều ngày cho khô quắt lại,
đem đồ xôi, rồi lại phơi thật khô, sau đó cho vào ống hay gói lá khô để dùng dần. Nó
héo là một đặc sản. Một cân Nó héo tốn hàng hũ măng chua và dùng được nhiều lần.
Món lòng xào chỉ cần cho một nắm "Nó héo", sẽ có vị chua ngon và rất thơm.
Món canh lom nhọk: Ngày lễ – tết của người Khơ Mú không thể thiếu được
món canh lom nhọk được chế biến từ các loại thịt chuột, chim, sóc sấy khô băm nhỏ
trộn với hoa chuối, các loại rau thơm, ớt chỉ thiên (cả quả), mắc khén, bột gạo nếp
cho vào ống tre, bương bánh tẻ, đổ nước vào đem đốt (như đốt cơm lam). Khi sôi lấy
que tre vót nhọn sọc liên tục đến lúc nào nhuyễn thì thôi. Khi đổ ra bát nó sền sệt,
sánh dùng xôi nếp nắm chấm quệt ăn rất thơm và ngon.
Món mọk: Món mọk này người Thái, Mường, Khơ Mú…đều hay làm nhưng
mỗi dân tộc làm một kiểu khác nhau, ngon nhất vẫn là mọk của người Khơ Mú. Mọk

được chế biến từ thịt gà (nếu gà to chỉ lấy cổ, cánh, bộ lòng mề là đủ) băm nhỏ, ớt
khô, mắc khén giã nhỏ, củ sả thái nhỏ, bột gạo nếp trộn với nhau cho vào lá chuối
túm lại bỏ vào chõ xôi sôi lên. Khi chín cũng nhuyễn, sánh sền sệt như món canh
lom nhọk.

5


[Type the document
title]
Với thời tiết se lạnh, ngồi quanh bếp lửa, nhâm nhi rượu cần nồng nàn, ăn một
miếng cơm lam, hay một bát cháo Mắc nhung ngọt ngào... thì mới cảm nhận hết
được hương vị núi rừng của nền văn hoá ẩm thực độc đáo nơi đây.
6.3. Nét đặc sắc của những làn điệu dân ca và những điệu múa say đắm lòng
người của các dân tộc ở Mộc Châu
Nếu như những cánh đồng hoa cải là biểu tượng của Mộc Châu, thì những điệu
múa của các dân tộc nơi đây cũng làm nên một vườn hoa muôn sắc và ngát hương,
mang bản sắc văn hoá độc đáo, vẻ đẹp tâm hồn trong sáng và thấm đẫm tình người...
Điệu múa “nhảy khèn” của các chàng trai H’Mông thật độc đáo và hấp dẫn.
Trong tiếng khèn lá dập dìu của các cô gái, các chàng trai cất lên tiếng khèn dập dìu,
dồn dập… kèm theo những động tác múa thể hiện tài năng, sự khéo léo và cả sức
dẻo dai: vừa thổi khèn liên tục, vừa quay tít nhiều vòng hoặc nhảy nhanh với những
động tác chân phức tạp, có lúc lại lăn tròn dưới đất mà điệu khèn vẫn không dứt
tiếng… Các nghệ nhân kể rằng: trước đây, trai tráng H’Mông còn thi tài quay trên lá
chuối mà lá chuối không rách, quay trên đầu ba chiếc cọc gỗ nhỏ mà không ngã,
thậm chí còn ly kỳ hơn: quay trên miếng ván bắc qua chảo nước nóng… Điểm độc
đáo có một không hai của “nhảy khèn” là các động tác múa đều mang tính ngẫu
hứng rất cao với sự sáng tạo phong phú đến bất ngờ của từng cá thể.
Ngày xưa các cô gái H‘Mông không có múa, nhưng ngày nay, từ giao thoa văn
hoá và sức cuốn của phong trào các cô gái cũng múa chẳng kém con trai; phổ biến

nhất là điệu múa ô nổi tiếng: những chiếc ô màu sắc rực rỡ cứ xoay tròn, lên cao,
xuống thấp, quấn quýt ôm lấy thân hình con gái tạo nên vẻ đẹp uyển chuyển và sinh
động.
Đồng bào Dao để nổi tiếng với điệu múa Chuông. Những chiếc chuông được
lắc mạnh tạo thành nhịp đều đặn, những sợi tua mầu được tung lên, hạ xuống, lượn
tròn thật nhịp nhàng, sinh động và đẹp mắt. Người xem múa Chuông có cảm giác
như những chùm tua mầu tung tăng, nhảy nhót giữa không gian cùng tiếng chuông
thôi thúc làm lòng người háo hức, hân hoan. Xem múa Chuông, người am hiểu nghệ
thuật cũng phải thán phục vì người Dao Tiền đã tạo nên tiết tấu múa bằng nhịp 5/4
và nhịp 7/4 - đó là loại nhịp ''phức'' của âm nhạc hiện đại. Độc đáo hơn, từng loại
nhịp (5/4 hoặc 7/4) lại không kéo dài mà thường đan cài với nhau thành từng cụm:
cứ hai nhịp 5/4 lại đến một nhịp 7/4 và thỉnh thoảng lại xen vào một số nhịp 4/4 mở
đầu cho các đoạn múa lớn.
6


[Type the document
title]
Xoè vòng là hình thức múa cộng đồng của dân tộc Thái. Từ xưa đến nay, xòe
vòng của dân tộc Thái luôn có sức hấp dẫn đặc biệt. Mỗi khi âm thanh trầm bổng,
nhịp điệu của trống xòe nổi lên lại thôi thúc mọi người đến với vòng xòe. Trong
tiếng trống, tiếng chiêng, mọi người xích lại gần nhau, quây quần bên nhau, vui tươi,
đầm ấm. Một vài chục người thì làm một vòng xòe, dăm bảy trăm người trở lên có
thể chia ra nhiều vòng hay xếp vòng trong, vòng ngoài, nhiều nơi còn chia vòng theo
lứa tuổi. Tay trong tay, vai kề vai, chân người nọ dịch bước theo chân người kia
trong không khí, tình cảm say sưa, đầm ấm của vòng xòe, đêm xòe. Động tác, đội
hình xòe đều rất giản dị, các tạo hình và động tác, tính chất nhịp nhàng của độ nhún,
bước đi của vòng xoè rất gần gũi với nhiều động tác hoạt động của con người trong
lao động và sinh hoạt hàng ngày. Nhịp xòe nhẹ nhàng uyển chuyển, nhưng đôi khi
do không khí cuộc vui thôi thúc, mọi người vỗ tay, nhảy lên, hú lên rất náo nhiệt.

Cũng có những động tác như người trực tiếp xòe, người đánh trống, đánh chiêng rất
uyển chuyển, lúc mạnh, lúc nhẹ và có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
''Cống tốp'' - một loại trống độc đáo của đồng bào Kh'Mú. Khác với chiếc trống
lớn được đánh bằng dùi trong những lễ hội lớn: Tiếng ''cống tốp''- (một loại trống
nhỡ, vỗ bằng tay vào hai mặt trống) là tiếng trống đầm ấm của trai gái tộc người Kh'
Mú giúp họ tìm được bạn tình qua vũ điệu ''nộc Dung'' (chim Công); Một vũ điệu
được cấu tạo qua con mắt thẩm mỹ rất độc đáo của người Kh' Mú từ ngàn xưa truyền
tại: Trong vũ điệu, người Kh' Mú không miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy bên ngoài của chim
Công mà họ tái hiện những cử chỉ của chúng thành những động tác múa sôi nổi,
quyến rũ, lôi cuốn và gợi cảm... Để vũ điệu trở thành mê say trong sự giao duyên
đầy ý nhị của đầu, của vai, của hông, trong những bước chân nhịp nhàng, lẫn và ánh
trăng, hoà vào bóng núi, giữa bản mường quê hương.
6.4. Di tích lịch sử, văn hoá và khảo cổ ở Mộc Châu
Đồn Mộc Lỵ huyện Mộc Châu, một địa danh đã đi vào lịch sử cuộc kháng chiến
chống Thực Dân Pháp của quân và dân Mộc Châu, Son La. Đồn được Thực Dân
Pháp xây dựng năm 1947, năm 1951 được tăng cường lực lượng, vũ khí và mở rộng
qui mô để cai trị, đàn áp nhân dân các dân tộc huyện Mộc Châu, khống chế quốc lộ 6
và quốc lộ 43 sang Hủa Phăn (Lào). Trong chiến dịch Tây Bắc, đêm 19/11/1952,
trung đoàn 174, sư đoàn 3, đại đoàn 316 tấn công tiêu diệt Đồn Mộc Lỵ 53 chiến sĩ
đã hy sinh trong trận đánh lịch sử này.
Bia lưu niệm Đoàn 83 quân tình nguyện Việt Nam tại Lào (tại xã Đông Sang);
7


[Type the document
title]
Di tích lịch sử nơi Bác Hồ nói chuyện với nhân dân Mộc Châu tại tiểu khu 13 thị trấn
Mộc Châu (khu Bảo tàng huyện)…
Hệ thống di chỉ khảo cổ học khu vực ven Sông Đà “Hang mộ cổ” ven sông Đà,
hoá thạch động vật ở khu vực xã Chiềng Yên, dấu tích khắc trên đá của khu vực xã

Xuân Nha...
Có thể nói Mộc Châu có rất nhiều tiềm năng để phát triển du lịch nhưng tiềm
năng về văn hóa có ý nghĩa quan trọng và quyết định đến sự phát triển du lịch của
Mộc Châu như nội dung của văn kiện Đại hội VIII, Đảng ta đã nêu rõ vai trò của
Văn hóa “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
II. TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
Mặc dù có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch nhưng đến nay du lịch Mộc
Châu vẫn chưa phát triển xứng với những tiềm năng vốn có do còn nhiều yếu kém,
tồn tại như:
Mộc Châu chưa trở thành một điểm đến hấp dẫn với du khách do đó khách du
lịch đến Mộc Châu thấp, đặc biệt là khách quốc tế.
Hệ thống các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch chưa phát triển, hệ thống sản
phẩm du lịch, dịch vụ còn nghèo nàn, đơn điệu. Hệ thống dịch vụ phụ trợ chất lượng
thấp.
Chưa khai thác được các tiềm năng du lịch hấp dẫn để hình thành hệ thống các
sản phẩm du lịch hấp dẫn, có giá trị cao.
Hoạt động đầu tư hạ tầng cơ sở thiếu đồng bộ trong quá trình triển khai đặc biệt
là khu vực trung tâm du lịch sinh thái Mộc Châu.
Mối quan hệ giữa các chủ thể trong bộ máy quản lý nhà nước về du lịch còn
thiếu chặt chẽ do đó, hiệu quả chưa cao.
Hiện trạng cơ sở vật chất, nguồn nhân lực phục vụ du lịch còn yếu kém, chưa
phát triển.
II. GIẢI PHÁP ĐỂ MỘC CHÂU NHANH CHÓNG TRỞ THÀNH KHU
DU LỊCH QUỐC GIA
1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách: Ưu tiên bố trí từ nguồn ngân sách nhà nước
để hỗ trợ hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; Bổ sung và hoàn thiện hệ thống
8



[Type the document
title]
cơ chế chính sách phát triển du lịch, đặc biệt các chính sách ưu đãi đầu tư cho Khu
du lịch quốc gia; Nghiên cứu và đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù cho Mộc
Châu được hưởng ưu đãi để phát triển du lịch.
2. Phát triển nguồn nhân lực: Đa dạng hóa các hình thức đào tạo để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực du lịch; khuyến khích đào tạo và sử dụng nguồn nhân
lực địa phương; đẩy mạnh hợp tác với các trung tâm đào tạo lớn tại Hà Nội và các tổ
chức đào tạo quốc tế; triển khai ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý hoạt
động du lịch; xây dựng và thực hiện các chính sách đãi ngộ phù hợp nhằm thu hút
nguồn nhân lực chất lượng cao.
3. Đẩy mạnh liên kết, hợp tác phát triển: Xây dựng diễn đàn phát triển du lịch
Mộc Châu, tổ chức định kỳ hằng năm tạo cơ hội học tập, trao đổi kinh nghiệm trong
quản lý và phát triển du lịch; đẩy mạnh liên kết giữa các tỉnh trong vùng du lịch
Trung du miền núi Bắc Bộ, các vùng khác trong cả nước để phát huy lợi thế và đặc
điểm tài nguyên tạo các sản phẩm du lịch đa dạng, phong phú; tăng cường phối hợp
liên ngành và liên vùng trong việc thực hiện quy hoạch để giải quyết những vấn đề
có liên quan đến quản lý phát triển du lịch như: đầu tư phát triển sản phẩm, xúc tiến
quảng bá du lịch, bảo vệ môi trường, khai thác tài nguyên du lịch, quản lý sử dụng
đất, cơ sở hạ tầng...
4. Tăng cường tuyên truyền, xúc tiến quảng bá: Tổ chức bộ máy và nâng cao
năng lực xúc tiến quảng bá. Thành lập văn phòng đại diện tại các thị trường mục
tiêu để đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá du lịch Mộc Châu; đẩy mạnh hoạt động xúc
tiến quảng bá du lịch một cách chuyên nghiệp như: tập trung ưu tiên xúc tiến quảng
bá cho các sản phẩm du lịch của Mộc Châu, phù hợp định hướng phát triển sản
phẩm, thương hiệu du lịch; đẩy mạnh xã hội hóa xúc tiến quảng bá du lịch Mộc
Châu; tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa nghệ thuật, thi đấu thể thao, trò chơi
và xúc tiến quảng bá du lịch tầm khu vực và thế giới; mở rộng và phát huy các mối
quan hệ hợp tác song phương nhằm tăng cường tiếp xúc, quảng bá, giới thiệu, thu
hút đầu tư.

Mộc Châu sẽ được quy hoạch trở thành khu vực động lực phát triển du lịch của
tỉnh Sơn La và của vùng du lịch Trung du miền núi Bắc Bộ với hệ thống sản phẩm du
9


[Type the document
title]
lịch đa dạng, độc đáo, có thương hiệu và sức cạnh tranh cao gắn với cảnh quan tự
nhiên và bản sắc văn hóa các dân tộc. Theo Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du
lịch quốc gia Mộc Châu, tỉnh Sơn La đến năm 2020.
Du lịch Mộc Châu đã đề ra ba mục tiêu mới trong thời gian sắp tới:
Hình thành 3 trung tâm du lịch: Trong thời gian tới, Khu DLQG Mộc Châu sẽ
hình thành 3 trung tâm du lịch trọng điểm gồm: Trung tâm nghỉ dưỡng Mộc Châu,
trung tâm du lịch sinh thái Mộc Châu và trung tâm vui chơi giải trí Mộc Châu; hình
thành các bản du lịch cộng đồng bao gồm: Bản Áng (xã Đông Sang, huyện Mộc
Châu), bản Vặt (xã Mường Sang, huyện Mộc Châu), bản Tà Phình (xã Tân Lập,
huyện Mộc Châu), bản Mường Khoa (xã Chiềng Khoa, huyện Vân Hồ)…
Cùng với đó là thu hút đầu tư phát triển các khu, điểm du lịch quan trọng như:
khu du lịch rừng thông Bản Áng; khu du lịch thác Dải Yếm; trung tâm thương mại
cửa khẩu Lóng Sập; khu du lịch Ngũ động Bản Ôn; khu du lịch sinh thái rừng Pó
Cốp; khu du lịch sinh thái rừng đặc dụng Xuân Nha…
Hình thành tuyến du lịch liên quốc gia Mộc Châu - Lào qua cửa khẩu Lóng Sập và
kết nối mở rộng sang các nước ASEAN như: Thái Lan, Myanma…; Phát triển các
tuyến du lịch nội vùng từ Thị trấn Mộc Châu tới các điểm tham quan, điểm di tích
văn hóa - lịch sử trong Khu DLQG Mộc Châu...
Ưu tiên phát triển thị trường khách và các sản phẩm du lịch: Về định hướng, khu
DLQG Mộc Châu sẽ ưu tiên phát triển thị trường khách du lịch mục tiêu từ các tỉnh
vùng đồng bằng Sông Hồng và vùng Trung du miền núi Bắc Bộ; tập trung phát triển
và củng cố thị phần khách từ các thị trường mục tiêu truyền thống: Tây Âu, Bắc Mỹ,
Đông Bắc Á, Đông Nam Á...

Đồng thời, phát triển các sản phẩm du lịch hấp dẫn, có sức cạnh tranh cao; chú
trọng nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ lữ hành, lưu trú, ăn uống, vui chơi
giải trí; tập trung phát triển các sản phẩm chính: Du lịch nghỉ dưỡng và điều dưỡng
chữa bệnh; du lịch sinh thái gắn với nông nghiệp; du lịch tham quan di tích lịch sử
văn hóa, danh thắng; đặc biệt chú trọng hình thức du lịch nghỉ tại nhà dân
(homestay)...
Phấn đấu đến năm 2030 đón khoảng 3 triệu lượt khách: Thủ tướng Chính phủ
vừa phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Mộc Châu, tỉnh
Sơn La đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo quy hoạch, Khu DLQG Mộc

10


[Type the document
title]
Châu có tổng diện tích tự nhiên là 206.150ha nằm trên địa bàn 2 huyện Mộc Châu và
Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Khu DLQG Mộc Châu được quy hoạch trở thành khu vực động lực phát triển
du lịch của tỉnh Sơn La và của vùng du lịch Trung du miền núi Bắc Bộ với hệ thống
sản phẩm du lịch đa dạng, độc đáo, có thương hiệu và sức cạnh tranh cao gắn với
cảnh quan tự nhiên và bản sắc văn hóa các dân tộc.
Mục tiêu là đến năm 2020, Khu du lịch đón trên 1,2 triệu lượt khách, đến năm
2030 đón khoảng 3 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế đạt khoảng 50 nghìn
lượt; phấn đấu tổng thu từ khách du lịch đạt khoảng 1.500 tỷ đồng vào năm 2020 và
khoảng 6.000 tỷ đồng vào năm 2030.

11




×