Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Tương trợ tư pháp về hình sự tại việt nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.07 KB, 106 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1.Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 4
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn 5
6.Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn 6
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 6
8. Kết cấu của luận văn 6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ 8
1.1.Khái niệm, đặc điểm tương trợ tư pháp về hình sự 8
1.2. Nguyên tắc tương trợ tư pháp về hình sự 11
1.3.Nội dung tương trợ tư pháp về hình sự 16
1. 4. Vai trò của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự 17
CHƯƠNG 2
TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ THEO ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN VÀ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 21
2.1.Các điều ước quốc tế đa phương 21
2.2.Các điều ước quốc tế song phương về tương trợ tư pháp hình sự 30
2.3. Pháp luật Việt Nam về hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự 36
2.3.1. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự


2.3.2. Nội dung tương trợ tư pháp về hình sự 41
2.3.3. Hình thức tương trợ tư pháp về hình sự 45
2.3.4. Các trường hợp từ chối tương trợ tư pháp 48
2.3.5.Trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp về hình sự 54
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN


HOẠT ĐỘNG TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM 57
3.1.Thực tiễn thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự ở Việt Nam 57
3.1.1. Thực tiễn tương trợ tư pháp về hình sự ở Việt Nam trước khi Luật
tương trợ tư pháp năm 2007 có hiệu lực 57
3.1.2. Thực tiễn tương trợ tư pháp về hình sự ở Việt Nam sau khi Luật
tương trợ tư pháp năm 2007 có hiệu lực 61
3.2. Một số hạn chế của pháp luật và thực tiễn thực hiện tương trợ tư pháp
về hình sự ở Việt Nam 64
3.2.1.Những bất cập trong quy định của pháp luật 65
3.2.2.Những bất cập trong thực tiễn tương trợ tư pháp về hình sự 73
3.3 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự 75
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp hình sự 75
3.3.2.Giải pháp khắc phục những bất cập trong thực tiễn tương trợ tư
pháp hình sự 78
KẾT LUẬN 80


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu, không một nước hay
một nền kinh tế nào có thể tồn tại và phát triển một cách biệt lập mà không có
quan hệ hợp tác, tương trợ với các nước, các nền kinh tế khác trên thế giới.
Quan hệ hợp tác quốc tế có thể diễn ra trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh
vực kinh tế, xã hội, pháp luật. Thực tiễn quan hệ quốc tế ngày nay cho thấy sự
hợp tác, tương trợ giữa các nước, các nền kinh tế ngày càng được tăng cường
và phát triển theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Cùng với tiến trình hợp tác kinh tế, tình hình tội phạm có yếu tố nước
ngoài cũng có dấu hiệu diễn biến phức tạp. Tội phạm buôn bán trẻ em, buôn
bán phụ nữ không ngừng gia tăng. Tội phạm buôn bán ma túy và các chất
hướng thần vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt. Tội phạm mại dâm vẫn diễn ra dưới

các hình thức tinh vi hơn. Tình hình trên đây đã và đang làm phát sinh ngày
càng nhiều vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài đòi hỏi phải được giải quyết
kịp thời với sự giúp đỡ tương trợ về pháp luật và tư pháp giữa các cơ quan nhà
nước Việt Nam và các cơ quan có thẩm quyền của các nước liên quan.
Hơn nữa, khác với luật dân sự, luật hình sự mang tính lãnh thổ rất triệt
để. Theo đó, luật hình sự mỗi quốc gia có hiệu lực đối với tội phạm xảy ra trên
lãnh thổ nước mình, không kể người phạm tội đó là công dân của quốc gia hay
người nước ngoài, người không quốc tịch, ngoại trừ những công dân nước
ngoài được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao, lãnh sự theo luật quốc
tế. Như vậy, theo nguyên tắc này, sẽ rất khó để một quốc gia có thể truy cứu


trách nhiệm hình sự đối với những đối tượng không ở trong phạm vi lãnh thổ
nước mình nếu như không có sự giúp đỡ, hợp tác của các quốc gia khác.
Chính vì vậy, hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự giữ vai trò hết sức
quan trọng trong quan hệ giữa các nước từ trước tới nay và đặc biệt là trong
quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm quốc tế.
Trong lộ trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có tương trợ tư
pháp về hình sự. Tuy nhiên, hoạt động tương trợ tư pháp tại Việt Nam hiện
nay chưa thực sự mang lại hiệu quả do pháp luật trong nước còn nhiều bất
cập, chưa có sự tương thích với pháp luật quốc tế; đồng thời đội ngũ cán bộ
làm công tác tương trợ tư pháp còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng.
Vì những lý do trên, nghiên cứu vấn đề :’Tương trợ tư pháp về hình sự
tại Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn mang tính cấp thiết không
những về lý luận mà còn là đòi hỏi thực tiễn’ nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động tương trợ tư pháp về hình sự ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, hợp tác quốc tế về đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung, tương trợ tư pháp về hình sự nói riêng là vấn đề được nhiều nhà nghiên

cứu quan tâm, đề cập trong các công trình nghiên cứu khoa học. Trong phạm
vi nghiên cứu của luận văn, có thể kể đến một số công trình như các đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ: Viện nghiên cứu khoa học pháp lý -Bộ Tư pháp
(2000), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh tương trợ tư pháp quốc
tế, Hà Nội. Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an (2000), Dẫn độ tội phạm và tương


trợ tư pháp hình sự trong phòng chống tội phạm ở Việt Nam- thực trạng và
giải pháp, Hà Nội.
Về sách và giáo trình, có thể kể đến: Nguyễn Thị Thuận (2007), Luật
hình sự quốc tế, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Chí (2011),
Những vấn đề lý luận, thực tiễn về luật hình sự quốc tế, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội; Đại học quốc gia Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự quốc tế
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ngoài ra có rất nhiều bài báo viết về lĩnh vực này như: Hồ Thế Hòe,
Nguyễn Thị Thư (2012), "Tội phạm xuyên quốc gia và những vấn đề đặt ra
trong hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm", Nhà nước và pháp luật, (3);
Lê Minh Tuấn (2006), “Một số vấn đề cần quan tâm về hợp tác quốc tế trong
hoạt động tố tụng hình sự của Viện kiểm sát nhân dân”, Kiểm sát, (23);
Nguyễn Ngọc Anh (2012), “Hoàn thiện chế định hợp tác quốc tế trong tố tụng
hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Kiểm sát, (8); Nguyễn Ngọc Anh
(2008), “Hợp tác quốc tế về tố tụng hình sự trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế”, Tòa án nhân dân, (2); Nguyễn Thị Kim Ngân, Nguyễn Đức Phúc
(2008), “Hiệp hội cảnh sát các nước ASEAN-mô hình hợp tác quốc tế đấu
tranh phòng chống tội phạm xuyên quốc gia”, Luật học, (9) ...
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau
về hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, chuyên sâu về tương trợ
tư pháp hình sự. Lĩnh vực này chỉ được nhắc đến như là một phần của hợp tác



quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm.
Vì những lý do trên, nghiên cứu về lĩnh vực này hi vọng sẽ có những
khác biệt, mới mẻ hơn so với những công trình nghiên cứu kể trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu các khía cạnh
pháp lý liên quan đến tương trợ tư pháp hình sự với nguồn chủ yếu là các điều
ước quốc tế về tương trợ tư pháp và quy định của pháp luật Việt Nam về vấn
đề này. Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu của luận văn còn là tình hình thực tiễn
tương trợ tư pháp về hình sự tại Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu, theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tương trợ tư pháp về hình sự bao gồm
cả hoạt động dẫn độ và chuyển giao người bị kết án. Tuy nhiên, trong phạm vi
đề tài này, xin được đề cập đến các nội dung tương trợ tư pháp về hình sự theo
quy định của pháp luật Việt Nam và theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên. Theo đó, tương trợ tư pháp về hình sự bao gồm:
- Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về
hình sự;
- Triệu tập người làm chứng, người giám định;
- Dẫn giải người đang chấp hành hình phạt tù để cung cấp chứng cứ
- Thu thập, cung cấp chứng cứ như lấy lời khai của người bị hại, người
làm chứng, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, xác minh lý lịch,
thu thập và cung cấp tài liệu…
- Truy cứu trách nhiệm hình sự


- Trao đổi thông tin
- Các hoạt động tương trợ tư pháp khác.
Hoạt động dẫn độ tội phạm tuy cũng là một hình thức tương trợ tư pháp
nhưng do đã được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học

khác. Hơn nữa, dẫn độ tội phạm là lĩnh vực rộng, có nhiều đặc thù so với các
hoạt động nêu trên nên sẽ không đề cập đến trong phạm vi đề tài này.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài tương trợ tư pháp về hình sự tại Việt Nam nhằm hai
mục tiêu chính:
Thứ nhất, về mặt lý luận, luận văn làm rõ những vấn đề chung về tương
trợ tư pháp hình sự như như khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức của
tương trợ tư pháp; phân tích các khía cạnh pháp lý của tương trợ tư pháp về
hình sự thông qua các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế
về vấn đề này.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, luận văn phân tích những khó khăn, vướng
mắc về pháp luật cũng như những bất cập trong thực tiễn thực hiện tương trợ
tư pháp tại Việt Nam hiện nay để từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể để khắc
phục tình trạng đó.
Để đạt được những mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ
sau:
-Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, phạm vi tương trợ tư
pháp về hình sự.
-Phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về


tương trợ tư pháp hình sự.
-Phân tích những bất cập về pháp luật và thực tiễn thực hiện tương trợ
tư pháp về hình sự ở Việt Nam hiện nay
-Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư
pháp về hình sự tại Việt Nam
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống các
quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về tương trợ tư pháp
hình sự. Vì vậy, luận văn đặt ra các vấn đề nhằm làm rõ khái niệm tương trợ

tư pháp về hình sự và các vấn đề khác có liên quan vê mặt lý luận. Bên cạnh
đó, luận văn đặt ra các câu hỏi về thực tiễn tương trợ tư pháp ở Việt Nam để
thấy được những hạn chế, bất cập về pháp luật và thực tiễn hoạt động. Từ đó,
luận văn đưa ra những giải pháp phù hợp để hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự tại Việt Nam. Cụ thể các câu
hỏi của luận văn như sau:
-Tương trợ tư pháp về hình sự là gì?
-Pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế quy định như thế nào về
tương trợ tư pháp hình sự? Có sự tương thích hay không?
- Tương trợ tư pháp hình sự tại Việt Nam diễn ra như thế nào?
- Làm thế nào để khắc phục những khó khăn, hạn chế trong tương trợ tư
pháp hình sự tại Việt Nam?
6.Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ


nghĩa Mác-Lê nin luận về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật cũng như cơ sở lý luận của khoa học luật
hình sự và pháp luật quốc tế.
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu luật học như:
phương pháp phân tích, so sánh, mô tả, liệt kê. Phương pháp phân tích nhằm
đưa ra những nhận định và tìm hiểu sâu hơn về pháp luật điều chỉnh hoạt động
tương trợ tư pháp về hình sự, thực trạng tương trợ tư pháp hình sự tại Việt
Nam; phương pháp so sánh được sử dụng để đánh giá sự tương thích giữa
pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế; phương pháp mô tả, liệt kê dùng để
nêu ra những quy định của pháp luật hiện hành và mô tả thực trạng của hoạt
động tương trợ tư pháp hình sự ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Pháp luật điều chỉnh hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự bao gồm
điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia, do đó một trong những mục đích và

cũng là ý nghĩa của luận văn là hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề lý luận và
pháp lý cơ bản của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về tương trợ tư
pháp hình sự.
Về thực tiễn, việc phân tích những bất cập về pháp luật và về thực tiễn
thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự tại Việt Nam hiện nay sẽ có
ý nghĩa trong xác định những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn, từ đó đề ra
giải pháp để khắc phục những hạn chế đó và nâng cao hiệu quả của hoạt động
tương trợ tư pháp về hình sự.
8. Kết cấu của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tương trợ tư pháp hình sự
Chương 2: Tương trợ tư pháp về hình sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên và theo pháp luật Việt Nam
Chương 3: Thực trạng và giải pháp về pháp luật và thực tiễn hoạt động tương
trợ tư pháp hình sự tại Việt Nam.


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ
1.1.Khái niệm, đặc điểm tương trợ tư pháp về hình sự
Hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự trên thế giới từ xưa đến nay đều
xuất phát từ những yêu cầu của thực tiễn trong hợp tác quốc tế của các quốc
gia trong từng thời kỳ lịch sử. Căn cứ vào phạm vi, mức độ quan hệ giữa các
quốc gia với nhau, xuất phát từ nhu cầu các vấn đề cần tương trợ tư pháp, trên
cơ sở phù hợp với tính chất và khả năng thực tế của mỗi quốc gia trong từng
thời kỳ, ở các nước khác nhau tồn tại những học thuyết, quan điểm, các cơ sở
lý luận khác nhau về tương trợ tư pháp trong quan hệ quốc tế.

Dưới đây là một số quan điểm về tương trợ tư pháp hình sự theo lý luận
pháp luật và thực tiễn tư pháp của một số nước :
Ở Cộng hòa liên bang Đức, tương trợ tư pháp hình sự được hiểu theo
truyền thống tư pháp Đức đó là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
các nước khác nhau trợ giúp lẫn nhau trong tống đạt giấy tờ, tài liệu tư pháp
và thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt khác nhau để thu thập chứng cứ
trong một vụ việc tố tụng tư pháp. Pháp luật Nhật Bản, Italy và một số nước
khác thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa có cách hiểu về khái niệm
tương trợ tư pháp về hình sự tương tự cách hiểu nói trên của Đức1.
Ô-xtrây- lia có quan niệm về tương trợ tư pháp hình sự là việc các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trợ giúp lẫn nhau trong một số hoạt động tố
tụng hình sự như: thu thập chứng cứ của người làm chứng tại Ô-xtrây- lia phục
vụ quá trình tố tụng ở nước ngoài; sắp xếp cho người làm chứng (nếu tự


nguyện) đến nước khác để cung cấp chứng cứ trong quá trình tố tụng ở nước
ngoài; xin phê chuẩn và thực hiện lệnh tạm giữ và tịch thu tài sản do phạm tội
mà có.2
Liên bang Nga có quan niệm tương trợ tư pháp cơ bản tương tự giống
cách quan niệm về tương trợ tư pháp của các nước thuộc hệ thống pháp luật
1 Bộ tư pháp, Báo cáo tổng thuật cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật tương trợ tư
pháp năm 2007
2 Luật tương trợ tư pháp về hình sự năm 1987 của Australia
11
châu Âu lục địa. Phụ thuộc vào phạm vi nội dung các vấn đề được quy định
trong pháp luật của các nước và các điều ước quốc tế liên quan, tương trợ tư
pháp được hiểu là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của các nước
khác nhau trợ giúp lẫn nhau trong việc thực hiện hành vi tố tụng riêng biệt để
thu thập chứng cứ trong một vụ việc tố tụng tư pháp, thực hiện ủy thác tư
pháp về dân sự và hình sự của Tòa án nước ngoài, tống đạt giấy tờ 3...

Ở Việt Nam, khái niệm tương trợ tư pháp về hình sự cho đến nay chủ
yếu vẫn được hiểu trên cơ sở phạm vi các vấn đề được đặt ra trong thực tiễn tư
pháp với các nước, trên cơ sở các quy định trong pháp luật và các điều ước
quốc tế, các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với nước
ngoài. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 20154,
Luật tương trợ tư pháp năm 2007 đã đưa ra một phạm vi nhất định những vấn
đề thuộc phạm trù trương trợ tư pháp trong quan hệ giữa Việt Nam và các
nước, cho phép xác định được quan điểm về tương trợ tư pháp hiện nay.
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận pháp luật và thực tiễn tư pháp của Việt


Nam và một số nước về tương trợ tư pháp có thể khái quát chung về tương trợ
tư pháp hình sự như sau: Tương trợ tư pháp về hình sự là việc các quốc gia
giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong việc điều tra, truy tố hoặc các thủ tục tố tụng khác
trong các vấn đề về hình sự thông qua các cơ quan có thẩm quyền của mỗi
quốc gia trên cơ sở điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương mà các
quốc gia ký kết hoặc tham gia hoặc nguyên tắc “có đi có lại”.
Trên cơ sở khái niệm tương trợ tư pháp về hình sự, có thể thấy tương
trợ tư pháp về hình sự có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp về nguyên tắc
đều do pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Pháp luật Việt Nam quy định các
3 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2001 của Liên bang Nga
4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 hiện đang bị lùi thời hạn thi hành theo Nghị quyết số
144/2016/QH13
ngày 29/6/2016 của Quốc hội
12
cơ quan thực hiện tương trợ tư pháp bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; Bộ Công an; Cơ quan điều tra; Tòa án nhân
dân cấp tỉnh; Bộ Ngoại giao, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và
một số cơ quan khác có liên quan. Phía nước ngoài cũng có các cơ quan có

thẩm quyền tương ứng được quy định trong pháp luật mỗi quốc gia.
Thứ hai, về phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự, nếu được hiểu theo
nghĩa hẹp thì chỉ bao gồm các hành vi tố tụng riêng biệt do các bên thỏa thuận
hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Điều này cũng đồng nghĩa với bản chất của vấn đề


tương trợ tư pháp là việc hỗ trợ cho nhau trong thực hiện các hành vi tố tụng
riêng biệt (như tống đạt giấy tờ, thực hiện ủy thác điều tra, thu thập chứng cứ,
dẫn độ tội phạm, thi hành án...). Còn hiểu theo nghĩa rộng thì các vấn đề
tương trợ tư pháp ở đây còn bao gồm cả dẫn độ, chuyển giao người bị kết án
và một số hoạt động khác hỗ trợ việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự.
Thứ ba, cơ sở pháp lý để thực hiện tương trợ tư pháp là điều ước quốc
tế (song phương hoặc đa phương) giữa các nước và pháp luật các nước liên
quan về tương trợ tư pháp. Điều ước quốc tế giữa các nước liên quan về tương
trợ tư pháp được ưu tiên áp dụng; nếu không có điều ước quốc tế liên quan thì
tương trợ tư pháp được thực hiện theo pháp luật của nước được yêu cầu thực
hiện, chủ yếu tuân theo nguyên tắc có đi có lại - nguyên tắc phổ biến trong đời
sống quốc tế được nhiều nước áp dụng.
Thứ tư, mục đích của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự là nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân của các
quốc gia trên lãnh thổ của nhau, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm quốc tế,
tội phạm có tính chất quốc tế, góp phần củng cố và phát triển quan hệ hữu
nghị, hợp tác giữa nước ta và các quốc gia hữu quan.
1.2. Nguyên tắc tương trợ tư pháp về hình sự
13
Việc xác định các nguyên tắc trong tương trợ tư pháp về hình sự có ý
nghĩa rất quan trọng để định hướng nội dung, hình thức hợp tác. Tương trợ tư
pháp về hình sự là một trong các hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng hình
sự, là một phần quan trọng của quan hệ đối ngoại của mỗi quốc gia. Sự hợp



tác này góp phần thực hiện các nhiệm vụ của chức năng đối ngoại của nhà
nước. Dưới góc độ lý luận, nguyên tắc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp
được hình thành từ nhu cầu, mục đích hợp tác và do chính sách đối ngoại của
mỗi nhà nước quyết định.
Trong quan hệ quốc tế, các quốc gia luôn phải tuân thủ các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các
quốc gia. Vì vậy, tương trợ tư pháp nói chung và tương trợ tư pháp về hình sự
nói riêng cũng phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản này bao gồm: Nguyên tắc
bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia; Nguyên tắc hòa bình giải quyết các
tranh chấp quốc tế; Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác; Nguyên tắc
tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế... Đây là những tư tưởng pháp lý
mang tính chỉ đạo bao trùm và có giá trị bắt buộc chung đối với các chủ thể
khi tham gia quan hệ pháp luật quốc tế. Nguyên tắc cơ bản trong luật quốc tế
có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia cũng
như giữa các chủ thể khác của luật quốc tế ở phạm vi toàn cầu.
Trong các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, tương trợ tư pháp
về hình sự chịu sự chi phối nhiều nhất bởi nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền
giữa các quốc gia; nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác và nguyên tắc
tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế.
Nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất của luật quốc tế là nguyên tắc
bình đẳng chủ quyền của các quốc gia. Chủ quyền là thuộc tính chính trị-pháp
lý vốn có của quốc gia, thể hiện quyền tối thượng của quốc gia trong lãnh thổ
của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi


14
lãnh thổ của mình, mỗi quốc gia có quyền tối thượng về lập pháp, hành pháp
và tư pháp mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài, đồng thời quốc
gia được tự do lựa chọn cho mình phương thức thích hợp nhất để thực thi

quyền lực trong phạm vi lãnh thổ. Trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia có
quyền tự quyết định chính sách đối ngoại của mình mà không có sự áp đặt từ
chủ thể khác trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của mọi quốc gia. Điều này có
nghĩa là các quốc gia dù lớn hay nhỏ, gia trong cộng đồng quốc tế dù giàu
hay nghèo đều có quyền độc lập như nhau trong quan hệ quốc tế. Trong lĩnh
vực tương trợ tư pháp hình sự, việc các quốc gia áp dung nguyên tắc "có đi có
lại" đã thể hiện sự bình đẳng về chủ quyền trong hợp tác quốc tế. Ngoài ra,
nguyên tắc này còn được thể hiện qua việc các quốc gia có quyền từ chối các
yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự nếu việc thực hiện yêu cầu đó có thể làm
tổn hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia.
Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác đòi hỏi các quốc gia có
nghĩa vụ tiến hành hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề kinh tế, văn hóa,
xã hội và nhân đạo trong phạm vi quốc tế, đồng thời duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế bằng cách tiến hành các biện pháp tập thể có hiệu quả. Trong lĩnh
vực tương trợ tư pháp về hình sự, nguyên tắc này là cơ sở để các quốc gia hợp
tác với các quốc gia khác để giải quyết các yêu cầu tương trợ tư pháp, góp
phần đấu tranh phòng chống tội phạm.
Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế được hiểu là
khi các bên chủ thể trong quan hệ quốc tế tham gia vào ký kết các điều ước


quốc tế thì phải trên cơ sở của sự thỏa thuận và tự nguyện bình đẳng. Đồng
thời, khi đã tham gia vào điều ước quốc tế đó, các quốc gia phải có nghĩa vụ
tuân thủ nội dung mà mình đã cam kết. Tương trợ tư pháp về hình sự đòi hỏi
các quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc này bởi cơ sở pháp lý của hoạt
động này chính là các điều ước quốc tế đa phương và song phương.
15
Song song với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, tương trợ tư pháp
về hình sự còn phải tuân theo những nguyên tắc được quy định trong pháp
luật quốc gia. Pháp luật Việt Nam mà cụ thể là Luật tương trợ tư pháp năm

2007 đã quy định một số nguyên tắc đối với tương trợ tư pháp nói chung và
tương trợ tư pháp hình sự nói riêng như sau:
Thứ nhất, tương trợ tư pháp về hình sự phải phù hợp với Hiến pháp,
pháp luật của Việt Nam: Đây là nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ quá trình hợp
tác trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự. Nguyên tắc này nhằm đảm
bảo cho tương trợ tư pháp luôn tuân thủ chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta, bảo đảm tôn trọng những quy định của pháp luật quốc tế và pháp
luật của mỗi nước.
Hợp tác quốc tế là hoạt động đối ngoại và hoạt động này góp phần giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, phục vụ cho sự phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước. Do đó, nguyên tắc này định hướng đối với
phạm vi hợp tác trong tương trợ tư pháp, mọi hoạt động tương trợ tư pháp đều
không được trái với Hiến pháp và các quy định của pháp luật của Việt Nam,
bảo đảm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam.


Thứ hai, tương trợ tư pháp về hình sự phải phù hợp với điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên: Để đảm bảo yêu cầu chính trị, đối ngoại và
phòng, chống tội phạm; hài hòa hóa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế,
Việt Nam đã ký kết, tham gia các điều ước quốc tế đa phương và các hiệp
định song phương về tương trợ tư pháp hình sự.
Khi tham gia điều ước quốc tế, Việt Nam phải tuân thủ những nghĩa vụ
pháp lý quốc tế được quy dịnh trong điều ước đó với tư cách là thành viên.
Mọi hoạt động hợp tác quốc tế cũng như tương trợ tư pháp của Việt Nam
không được trái với các nghĩa vụ của Việt Nam theo các điều ước này. Theo
16
đó, Việt Nam phải nghiêm chỉnh tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế đã cam kết,
việc hợp tác của Việt Nam với quốc gia, tổ chức quốc tế này không được làm
phương hại đến quan hệ hợp tác quốc tế đã được thiết lập trước đó của Việt
Nam với các quốc gia, tổ chức quốc tế khác. Đây chính là sự nhất quán trong

chính sách đối ngoại của Việt Nam, bảo đảm uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Trong trường hợp nếu các điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam có
quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì theo quy định của Luật ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, nay đã được thay thế bởi Luật
Điều ước quốc tế năm 2016 thì điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng5.
Thứ ba, tương trợ tư pháp về hình sự được thực hiện trên cơ sở nguyên
tắc có đi có lại.
“Có đi có lại” là một trong những nguyên tắc pháp lý quan trọng và phổ


biến. Theo nguyên tắc này, các quốc gia sẽ dành sự đối xử một cách tương
xứng với những gì quốc gia kia dành cho quốc gia mình. Nguyên tắc "có đi có
lại" được áp dụng trong quan hệ giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ khi giữa các
quốc gia đó chưa ký kết điều ước quốc tế song phương, hoặc không cùng
tham gia điều ước quốc tế đa phương nhưng có yêu cầu hợp tác trong lĩnh vực
nào đó.
Hiện nay, trong lĩnh vực tư pháp hình sự, các quốc gia trên thế giới
thường áp dụng nguyên tắc “có đi có lại”. Nguyên tắc này có ưu thế là trực
tiếp giải quyết nhanh chóng yêu cầu của cả hai bên nhưng phải được thực hiện
trên cơ sở thiện chí, đôi bên cùng hỗ trợ nhau, cùng có lợi. “Có đi có lại” được
áp dụng nhiều trong thực tiễn hợp tác quốc tế giữa các quốc gia và đã trở
thành một nguyên tắc. Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên tắc này các quốc gia
5 Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016
17
phải cân nhắc rất thận trọng các yếu tố chính trị, pháp lý và đối ngoại sao cho
có lợi về mặt chính trị và không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
quốc gia, không gây phương hại đến an ninh trật tự của quốc gia mình.
Điều 340 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Điều 492 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 20156, khoản 2 Điều 4 Luật tương trợ tư pháp năm 2007 quy

định trong trường hợp nước CHXHCN Việt Nam chưa ký hoặc chưa gia nhập
các điều ước quốc tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố
tụng hình sự được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái
pháp luật của nước CHXHCN Việt Nam, pháp luật quốc tế và tập quán quốc


tế. Mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể về thủ tục, trình tự xem xét, quyết định
việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn
độ nhưng thông thường, việc này sẽ được Bộ Ngoại giao phối hợp với các bộ,
ngành có liên quan thống nhất quyết định, tương tự quy định hướng dẫn tại
Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP- BNG-TANDTC ngày 15/9/2011
của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy
định về tương trợ tư pháp trong dân sự của Luật tương trợ tư pháp năm 2007.
Bên cạnh những nguyên tắc trên, thực tiễn tương trợ tư pháp về hình sự
còn phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
-Nguyên tắc bảo đảm mục đích hợp tác: tương trợ tư pháp về hình sự
nhằm tạo điều kiện thuận lợi để mỗi bên thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ đã
cam kết trong đấu tranh chóng tội phạm và giải quyết nhiệm vụ cụ thể của
từng vụ án hình sự. Các hoạt động cụ thể của hợp tác phải trong khuôn khổ
những mục đích và phạm vi hợp tác đã thỏa thuận và tiến hành theo chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chuyên trách ở mỗi bên theo quy
định của các điều ước, thỏa thuận đã ký kết7;
6Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 hiện đang bị lùi thời hạn thi hành theo Nghị quyết số
144/2016/QH13
ngày 29/6/2016 của Quốc hội
18
-Nguyên tắc tội phạm kép: là một trong những nguyên tắc cơ bản của
luật hình sự quốc tế, theo đó các quốc gia sẽ từ chối tương trợ tư pháp về hình
sự nếu đó là yêu cầu tương trợ tư pháp nhằm phục vụ cho hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử một hành vi mà pháp luật hình sự nước mình không coi đó là



hành vi phạm tội. Tuy nhiên, tội phạm kép không có nghĩa là pháp luật của
quốc gia yêu cầu tương trợ và quốc gia được yêu cầu tương trợ phải quy định
hành vi phạm tội đó trong một nhóm tội hoặc cùng tội danh và điều quan
trọng là hành vi phạm tội đó có những yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản tương
đương theo quy định của pháp luật hai bên.
Bên cạnh đó, thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự còn phải
tuân thủ nguyên tắc chỉ đạo về hợp tác quốc tế theo ngành, lĩnh vực do cơ
quan chủ quản xác định phù hợp với nguyên tắc chung do Đảng và Nhà nước
ta đã ban hành. Thực hiện các nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan tiến hành tố
tụng phải tuyệt đối tuân thủ quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước ta về đối ngoại; các quy định của bộ, ngành chủ quản
của cơ quan tiến hành tố tụng, về hợp tác quốc tế giữa cơ quan tiến hành tố
tụng Việt Nam với cơ quan tiến hành tố tụng các nước trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
Các nguyên tắc trên đây luôn luôn gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích chính đáng của
công dân, góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ hợp tác giữa các quốc gia.
1.3.Nội dung tương trợ tư pháp về hình sự
Nội dung tương trợ tư pháp về hình sự là toàn bộ những vấn đề liên
quan đến việc thực hiện tương trợ tư pháp hình sự, được quy định trong pháp
7 Nguyễn Ngọc Anh (2014), Sổ tay về công tác tương trợ tư pháp về hình sự, NXB Lao
động, Hà Nội.
19


luật mỗi quốc gia cũng như các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên.
Việc quy định rõ nội dung tương trợ tư pháp về hình sự giúp cho các quốc gia
xác định đúng thẩm quyền tương trợ tư pháp của mình, từ đó thực hiện hoạt

động này một cách hiệu quả, đúng pháp luật.
Pháp luật Việt Nam quy định khá cụ thể về nội dung tương trợ tư pháp
về hình sự bao gồm các hoạt động như: tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên
quan đến vụ án; triệu tập người làm chứng, người giám định; dẫn giải người
đang chấp hành hình phạt tù để cung cấp chứng cứ; thu thập, cung cấp chứng
cứ; truy cứu trách nhiệm hình sư; trao đổi thông tin và một số hoạt động khác
như nhận dạng hoặc xác định nơi ở; trả lại tài sản hoặc phân chia tài sản do
phạm tội mà có... Đây là những nội dung quan trọng của tố tụng hình sự.
Thông qua các hoạt động này, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cũng như
các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài sẽ có đầy đủ chứng cứ, tài liệu
cũng như thông tin cụ thể hơn để giải quyết một vụ án hình sự mà bị can, bị
cáo là người nước ngoài phạm tội tại Việt Nam hoặc ngược lại. Bởi tự các cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam không thể thực hiện các hoạt động trên nếu
không có sự hợp tác, trợ giúp của các cơ quan có thẩm quyền của nước liên
quan vì nó vượt khỏi phạm vi về thẩm quyền tài phán quốc gia của Việt Nam.
1. 4. Vai trò của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự
Trong quá trình đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống đất nước,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế
quốc tế, việc nắm bắt và hiểu đúng, sử dụng đúng “luật chơi” chung của cộng
đồng quốc tế luôn đóng vai trò quan trọng trong phát triển nhiều mặt của đất


nước. Để đạt được điều đó, cần phải xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật
quốc gia hài hòa với các chuẩn mực quốc tế, trên nền tảng văn hóa pháp lý
thực tại quốc gia, không bị lạc hậu so với thế giới.
Lĩnh vực tương trợ tư pháp ở nước ta cũng có những đòi hỏi tương tự
như vậy. Tương trợ tư pháp từ lâu đã được coi là một yêu cầu đòi hỏi hết sức
khách quan, là một xu hướng vận động tất yếu, không thể thiếu được trong bối
20
cảnh mở rộng quan hệ quốc tế, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh

tế quốc tế. Chính vì vậy, ngày càng có nhiều nước quan tâm đến các hoạt
động tương trợ tư pháp trong phát triển quan hệ với các nước và phát triển
kinh tế nước mình.
Tương trợ tư pháp về hình sự có ý nghĩa quan trọng về chính trị - xã hội
cũng như pháp lý, góp phần thể chế hoá và thực hiện đường lối đối ngoại đa
phương hoá, đa dạng hoá, tăng cuờng hội nhập, hợp tác quốc tế đã được ghi
nhận trong các Văn kiện của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết số 49- NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã xác định: “Tổ chức thực hiện tốt các điều
ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia. Tiếp tục ký kết hiệp định tương trợ
tư pháp với các nước khác, trước hết là với các nước láng giềng, các nước
trong khu vực... Tăng cường sự phối hợp chung trong hoạt động phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố”... Tiếp đó, ngày
22/10/2010, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 48-CT/TW về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình
mới, trong đó nhấn mạnh: “Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong công tác


phòng, chống tội phạm, trước hết là với các nuớc láng giềng, các nước có
quan hệ truyền thống, các nước trong khu vực ASEAN. Tổ chức thực hiện tốt
các công ước quốc tế, hiệp định tương trợ tư pháp, hiệp định hợp tác phòng,
chống tội phạm mà Nhà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập. Tiếp tục nghiên cứu
tham gia, ký kết các điều ưóc quốc tế khác liên quan đến công tác phòng,
chống tội phạm” .
Tương trợ tư pháp về hình sự có vai trò quan trọng không chỉ với mỗi
quốc gia mà còn có ý nghĩa quốc tế:
Thứ nhất, tương trợ tư pháp về hình sự góp đấu tranh phòng chống tội
phạm nói chung, tội phạm có yếu tố nước ngoài nói riêng.Thông qua tương trợ
tư pháp về hình sự góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động điều tra, truy tố,
21
xét xử và thi hành án đối với các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài. Điều

này có ý nghĩa quan trọng trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu
hoá hiện nay.
Sự nỗ lực hợp tác của cộng đồng quốc tế trong việc trừng trị, ngăn
chăn các tội phạm thời gian qua không những bảo đảm an toàn, an ninh ở mỗi
quốc gia mà còn ở những quốc gia đối tác và quan trọng hơn là góp phần bảo
đảm trật tự pháp luật quốc tế. Đặc biệt, ngày nay tội phạm xuyên quốc gia
đang xuất hiện với quy mô và độ phức tạp của nó đã lan rộng và đối phó với
hiện tượng này không phải là vấn đề của mỗi quốc gia mà là của tất cả các
quốc gia, của cả cộng đồng quốc tế. Tương trợ tư pháp về hình sự đã phát huy
vai trò của mình trong việc ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm xuyên quốc gia,


góp phần bảo đảm hòa bình và an ninh quốc tế, bảo vệ công lý trên phạm vi
toàn cầu.
Thứ hai, tương trợ tư pháp về hình sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân mỗi quốc gia. Tội phạm nếu không được các quốc gia hợp tác để
trừng trị sẽ kéo theo những hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho cộng đồng quốc
tế, trong đó có những thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của riêng mỗi
công dân. Vì vậy, tương trợ tư pháp hình sự là yếu tố quan trọng trong việc bảo
vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong mỗi quốc gia.
Thứ ba, tương trợ tư pháp về hình sự góp phần giữ vững an ninh quốc
gia. Trước tình hình tội phạm ngày càng phức tạp với phạm vi hoạt động trên
toàn cầu, an ninh quốc gia sẽ dễ dàng bị xâm hại. Đặc biệt là với Việt Nam,
khi các quy định của pháp luật còn lỏng lẻo là cơ hội cho tội phạm từ các
nước khác xâm nhập, ảnh hưởng đến tình hình chính trị, an ninh quốc gia. Vì
vậy, tương trợ tư pháp là hoạt động không thể thiếu để ngăn chặn tội phạm,
bảo vệ an ninh quốc gia.
Cuối cùng, tương trợ tư pháp hình sự thúc đẩy mối quan hệ giữa các
quốc gia. Hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự thúc đẩy quan hệ hữu nghị,
22

hợp tác cùng có lợi giữa các nước, thông qua đó, các cơ quan nhà nước và đội
ngũ công chức thực hiện công tác này có thể trao đổi, học tập kinh nghiệm,
mở rộng sự hiểu biết về công tác chuyên môn. Điều đó là hoàn toàn cần thiết
và có lợi cho công cuộc hội nhập quốc tế, củng cố và nâng cao vai trò và vị
thế của các cơ quan tư pháp của mỗi quốc gia trên trường quốc tế.


×