Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

TÌNH HÌNH THẤT BẠI ĐIỀU TRỊ ARV THEO PHÁC ĐỒ BẬC I Ở BỆNH NHÂN HIVAIDS TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÀNH PHỐ BIÊN HÒA NĂM 20162017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.01 KB, 50 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ

ĐINH THANH TÙNG

TÌNH HÌNH THẤT BẠI ĐIỀU TRỊ ARV THEO
PHÁC ĐỒ BẬC I Ở BỆNH NHÂN HIV/AIDS TẠI
PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ BỆNH VIỆN ĐA KHOA
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA NĂM 2016-2017

ĐỀ CƯƠNG LUẬN ÁN CHUYÊN KHOA CẤP II

CẦN THƠ – 2016
ĐẶT VẤN ĐỀ


Tính đến năm 2015, toàn cầu đã đương đầu với HIV/AIDS hơn 3 thập
kỷ. Mặc dù đã có nhiều thành tựu về y học, xã hội học, tuyên truyền giáo dục,
huy động cộng đồng ... trong lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS, nhưng nỗ lực
ấy vẫn chưa đủ sức để ngăn chặn sự tấn công của đại dịch HIV/AIDS. Đặc
biệt ở các nước đang phát triển, nơi mà nguồn lực dành cho chẩn đoán, điều
trị, theo dõi và quản lý người nhiễm HIV/AIDS còn hạn hẹp thì HIV/AIDS
vẫn còn là vấn đề quan trọng của y tế công cộng [27].
Để hạn chế sự lan rộng của đại dịch HIV/AIDS và kéo dài cuộc sống
cho những người bị mắc bệnh, nhiều biện pháp như tuyên truyền giáo dục
nâng cao nhận thức, hiểu biết về HIV cho cộng đồng, điều trị dự phòng, điều
trị nhiễm trùng cơ hội và điều trị thuốc kháng vi rút (ARV) cho người nhiễm
đã được triển khai. Trong các biện pháp trên, việc điều trị bằng các thuốc


ARV đóng một vai trò rất quan trọng. Mặc dù các thuốc ARV không điều trị
khỏi HIV/AIDS nhưng đã làm giảm đáng kể tỷ lệ bệnh tật và tử vong, kéo dài
và cải thiện cuộc sống một cách có ý nghĩa cho nhiều người đang phải chung
sống với AIDS [5].
Tại Việt Nam, việc mở rộng điều trị và theo dõi điều trị tại các điểm
điều trị đã được tiến hành từ tháng 3 năm 2006 với sự hỗ trợ của các dự án
Quỹ toàn cầu, Pepfar, Quỹ Bill-Clinton … Trong điều trị ARV, việc tuân thủ
điều trị đảm bảo cho điều trị có hiệu quả cao. Nếu không tuân thủ điều trị tốt
sẽ làm xuất hiện các chủng HIV kháng thuốc, các chủng HIV này có thể lây
truyền sang những người khác và dẫn đến thất bại điều trị. Điều trị thuốc ARV
là điều trị suốt đời, do đó việc theo dõi hiệu quả điều trị theo thời gian còn
gặp nhiều khó khăn. Cho tới nay, tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu đánh
giá kết quả điều trị bằng thuốc ARV để đưa ra được các các kết quả nghiên


cứu thực tế không chỉ góp phần cho hiệu quả điều trị thực tế tại Việt Nam mà
còn góp phần đề ra các giải pháp và các biện pháp cải thiện phù hợp nhằm
tăng cường hiệu quả của điều trị bằng thuốc kháng vi rút [9], [25].
Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài “Tình hình thất bại điều trị ARV theo
phác đồ bậc I ở bệnh nhân HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện
Đa Khoa thành phố Biên Hòa năm 2016-2017” với các mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ARV thất bại theo phác
đồ bậc I tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện Đa Khoa thành phố Biên Hòa
năm 2016
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến thất bại điều trị theo phác đồ
bậc I tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện Đa Khoa thành phố Biên Hòa năm
2016.
3. Đánh giá kết quả sau can thiệp ở bệnh nhân HIV/AIDS thất bại điều
trị ARV theo phát đồ bậc I tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện Đa Khoa
thành phố Biên Hòa năm 2016-2017.



4


5

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1 Tổng quan về HIV/AIDS
1.1.1 Khái niệm
Theo qui định tại Điều 2 của Pháp lệnh phòng chống nhiễm virus [a]
gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người ( HIV/AIDS), thuật
ngữ HIV và AIDS được hiểu như sau [5], [7]:
- HIV là virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người.
HIV gây tổn thương hệ thống miễn dịch của cơ thể và làm cho cơ thể không
còn khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh dẫn đến chết người.
- AIDS là giai đoạn cuối cùng của quá trình nhiễm HIV được thể hiện
bởi các bệnh nhiễm trùng cơ hội, ung thư và các bệnh liên quan đến rối loạn
miễn dịch dẫn đến tử vong. Thời gian từ khi nhiễm HIV đến biến chuyển
thành bệnh AIDS tùy thuộc vào hành vi và đáp ứng miễn dịch của từng người
nhưng tựu chung lại trong khoảng thời gian trung bình là 5 năm.
1.1.2 Phân loại giai đoạn bệnh
1.1.2.1 Phân theo lâm sàng
- Theo giai đoạn lâm sàng của WHO dành cho người lớn và vị thành
niên về chăm sóc điều trị HIV/AIDS.
- Quyết định số 06/2005/QĐ-BYT hướng dẫn chẩn đoán và điều trị
HIVAIDS ngày 07/3/2005 [6]. Và được thay thế bằng Quyết định 3003/QĐBYT ngày 19/8/2009 [8]. Cho người lớn và vị thành niên nhiễm HIV có chỉ
định dung thuốc ARV:



6

Lâm sàng giai đoạn I
- Không có triệu chứng
- Bệnh lý hạch lympho toàn thân dai dẳng
- Hoạt động mức độ 1: Không có triệu chứng, hoạt động bình thường
Lâm sàng giai đoạn II
- Sụt cân dưới 10% trọng lượng cơ thể
- Biểu hiện nhẹ tại da và niêm mạc (viêm tiết bã nhờn, nấm họng, loét
miệng tái diễn, viêm góc miệng)
- Zona trong vòng 5 năm gần đây
- Nhiễm trùng đường hô hấp trên tái phát (viêm xoang do vi khuẩn)
- Hoạt động mức độ 2: Có biểu hiện triệu chứng nhưng vẫn hoạt động
bình thường
Lâm sàng giai đoạn III
- Sút cân trên 10% trọng lượng cơ thể
- Tiêu chẩy mạn tính không rõ nguyên nhân trên 1 tháng
- Sốt kéo dài không rõ nguyên nhân (Không liên tục hay liên tục) với
thời gian trên 1 tháng
- Nhiễm nấm Candida ở miệng
- Bạch sản dạng lông ở miệng
- Lao phổi trong vòng 1 năm gần đây
- Nhiễm vi khuẩn nặng (viêm phổi, viêm cơ mủ)
- Hoạt động mức độ 3: Nằm liệt giường dưới 50% số ngày trong tháng
trước đó
Lâm sàng giai đoạn IV
- Hội chứng suy mòn do HIV (sụt > 10% trọng lượng cơ thể, cộng với
tiêu chẩy mạn tính không rõ căn nguyên > 1 tháng, hoặc mệt mỏi và sốt kéo

dài không rõ căn nguyên > 1 tháng


7

- Viêm phổi do Pneumocystis carinii
- Bệnh do Toxoplasma ở não
- Bệnh do Cryptosporidia có tiêu chẩy > 1 tháng
- Nhiễm nấm Cryptococcus ngoài phổi
- Bệnh do Cytomegalovirus ở cơ quan khác ngoài gan, lách, hoặc hạch
- Nhiễm Virus Herpes simplex da và niêm mạc > 1 tháng hoặc ở nội
tạng
- Viêm não chất trắng đa ổ tiến triển
- Bệnh nấm lưu hành ở địa phương có biểu hiện lan tỏa toàn thân (như
nấm Histoplasma, Penicillium)
- Bệnh nấm Candida thực quản, khí quản, phế quản hoặc phổi
- Nhiễm các Mycobacteria không phải lao lan tỏa toàn thân
- Nhiễm khuẩn huyết Salmonella không phải thương hàn
- Lao ngoài phổi
- U lympho
- Sarcoma Kaposi
- Bệnh lý não do HIV (biểu hiện trên lâm sàng bằng rối loạn khả năng
tri thức hoặc rối loạn chức năng vận động ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày,
tiến triển trong vài tuần hoặc vài tháng mà không có bệnh lý nào khác ngoài
HIV là nguyên nhân gây ra các triệu chứng này.
- Hoạt động mức độ 4: Nằm liệt giường trên 50% số ngày trong tháng
trước đó [4], [5].
1.1.2.2 Phân theo giai đoạn miễn dịch
- Theo WHO cho người lớn và vị thành niên bị nhiễm HIV được đánh
giá giai đoạn miễn dịch thông qua số tế bào TCD4:

+ Mức bình thường hoặc suy giảm ít khi số tế bào TCD4 >500 tế
bào/mm3


8

+ Mức suy giảm nhẹ khi số tế bào TCD4 từ 350 tế bào đến 499 tế
bào/mm3
+ Mức suy giảm tiến triển khi số tế bào TCD4 từ 200 tế bào đến 349
tb/mm3
+ Mức suy giảm nặng khi số tế bào TCD4 dưới 200 tb/mm3 [4], [5],
[62].
- Theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS của Bộ y tế Việt
Nam năm 2009 cho người lớn và vị thành niên được đánh giá giai đoạn miễn
dịch qua số tế bào TCD4:
+ Có xét nghiệm TCD4:
o Nhiễm HIV ở giai đoạn IV, không phụ thuộc số TCD4 là bao nhiêu.
o Nhiễm HIV ở giai đoạn III khi số TCD4 < 350 tế bào/mm3
o Nhiễm HIV giai đoạn I, hoặc II, khi số TCD4 ≤ 250 tế bào/mm3
+ Không có xét nghiệm TCD4:
o Người nhiễm HIV ở giai đoạn IV, không phụ thuộc tổng số tế bào
lympho là bao nhiêu.
o Người nhiễm HIV ở giai đoạn II, hoặc III, khi tổng số tế bào lympho
≤ 1200 tế bào /mm3 [6], [8].
1.1.3 Tình hình nhiễm HIV trên thế giới và Việt Nam
1.1.3.1 Trên thế giới
Kể từ khi phát hiện trường hợp đầu tiên nhiễm HIV/AIDS vào năm
1981 ở Los Angeles (Hoa Kỳ), số người nhiễm được phát hiện trên toàn cầu
vẫn tiếp tục gia tăng trong những năm tháng [45]. Theo báo cáo cuối năm
2015 của UNAIDS và WHO, trên toàn thế giới có khoảng 80 triệu người

nhiễm, 40 triệu người đã tử vong và hiện còn khoảng 40 triệu người đang
chung sống với HIV/AIDS. Cứ mỗi ngày có thêm khoảng 11.000 người
nhiễm mới (trong đó có 9.500 người lớn và 1.500 trẻ em), 95% các ca nhiễm


9

mới ở các nước chậm và đang phát triển, chủ yếu ở các nước châu Phi, cận
Sahara, sau đó tới các nước Đông Nam Á [39].
Theo UNAIDS số người nhiễm HIV trên thế giới vẫn tiếp tục tăng lên
và chưa có xu hướng giảm. Chẳng hạn, Sahara là nơi có số người nhiễm HIV
cao nhất trên thế giới với gần 2/3 dân số, tiếp đến là châu Á Thái Bình Dương
với 8,3 triệu người nhiễm HIV. Tuy nhiên, Đông Âu và Trung Á lại là khu vực
có tốc độ lây nhiễm khủng khiếp nhất thế giới. Quốc gia bị ảnh hưởng nhất là
nước Swaziland bé nhỏ nơi một phần ba người lớn bị nhiễm HIV [56], [43].
Ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đại dịch HIV/AIDS vẫn tiếp
tục gia tăng và tàn phá nặng nề [41]. Theo dự báo, số trường hợp nhiễm
HIV/AIDS ở Châu Á có thể lên đến 10 triệu người vào năm 2010, mỗi năm sẽ
có thêm khoảng 500.000 trường hợp mới nhiễm HIV nếu như các quốc gia
không tăng cường các hoạt động nhằm ngăn chặn sự lây lan của đại dịch này
[40].
1.1.3.2 Tại Việt Nam
Trong năm 2015 cả nước xét nghiệm phát hiện mới 10.195 trường hợp
nhiễm HIV, số bệnh nhân chuyển sang giai đoạn AIDS 6.130, số bệnh nhân tử
vong 2.130 trường hợp. Trong năm 2015 các tỉnh triển khai rà soát lại người
nhiễm HIV, có thêm 5524 trường hợp HIV, 10.144 bệnh nhân AIDS và 13.254
người tử vong trong nhiều năm trước nay được báo cáo bổ sung. Tính đến
cuối năm 2015, toàn quốc có 227.154 người nhiễm HIV đang còn sống với
HIV được báo cáo, 85.194 người nhiễm HIV đang giai đoạn AIDS và đã có
trên 86.716 người nhiễm HIV đã tử vong.

Trong số 227.154 người được báo hiện nay đang còn sống, nhưng có
24.717 người nhiễm HIV không xác định được trên thực tế, những người này
có thể trùng với những người quản lý được nhưng thông tin cá nhân không
chính xác nên không loại trừ được, hoặc sợ kỳ thị họ cung cấp thông tin


10

không đúng cho nhân viên y tế, do đó số quản lý được theo dõi được ở các
tỉnh chỉ có 202.437. Theo ước tính, cả nước hiện có khoảng 254.000 người
nhiễm HIV trong cộng đồng, mỗi năm có khoảng 12.000-14.000 trường hợp
mới nhiễm HIV. Như vậy ước tính hiện nay có khoảng 80% người nhiễm HIV
biết được tình trạng HIV của họ [2].
Trong số những người được báo cáo xét nghiệm mới phát hiện nhiễm
HIV trong năm 2015, nữ chiếm 34,1%, nam chiếm 65,9%, lây truyền qua
đường tình dục chiếm 50,8%, lây truyền qua đường máu chiếm 36,1%, mẹ
truyền sang con chiếm 2,8%, không rõ chiếm 10,4% [1].
1.1.3.3 Tình nhiễm HIV/AIDS tại Đồng Nai
Theo số liệu giám sát phát hiện tại Đồng Nai kể từ trường hợp nhiễm
HIV đầu tiên được phát hiện vào tháng 04 năm 1993, đến 31/12/2015 toàn
tỉnh đã phát phiện 4.815 người nhiễm HIV, 1.926 người đã chuyển sang giai
đoạn AIDS và 2.282 đã tử vong do AIDS. Thành phố Biên Hòa có lũy tích
người nhiễm HIV trên cao nhất toàn tỉnh 2.168 ca, tiếp đến là thị xã Long
Khánh 603 ca và huyện Long Thành 363 ca , Số ca phát hiện tính từ ngày
01/01/2015 đến ngày 31/12/2015 của Biên Hòa là 129 ca, thị xã Long Khánh
16 ca và huyện Long Thành 33 ca. Tỷ lệ người nhiễm HIV trong cộng đồng
dân cư trên địa bàn toàn tỉnh là 0.17%, tỷ lệ này vẫn ở mức dưới 0,3% [1].
Đến hết ngày 31/12/2015, số người nhiễm HIV mới được phát hiện và
báo cáo là 315 người, 98 người chuyển qua AIDS, 5 người đã tử vong do
AIDS. So sánh số trường hợp xét nghiệm phát hiện và báo cáo nhiễm HIV 11

tháng năm 2014 và 11 tháng năm 2015, số trường hợp nhiễm HIV giảm 61
ca tương ứng với 20,4% , số bệnh nhân AIDS giảm 19 ca tương ứng với
16,2%, số tử vong giảm 9 ca tương ứng với 64,3 %.


11

1.2 Tổng quan về điều trị HIV/AIDS
1.2.1 Điều trị thuốc kháng HIV (điều trị ARV)
1.2.1.1 Mục đích điều trị
- Làm giảm tối đa và ngăn chặn lâu dài sự nhân lên của virus trong cơ
thể người bệnh.
- Phục hồi chức năng miễn dịch cho người nhiễm.
- Giảm tần xuất mắc và tử vong do các bệnh liên quan đến HIV
- Cải thiện sức khỏe và kéo dài thời gian sống của bệnh nhân.
- Giảm lây truyền HIV từ bệnh nhân do phơi nhiễm [3], [4], [5].
1.2.1.2 Nguyên tắc điều trị
- Điều trị kháng ARV là một phần trong tổng thể các biện pháp chăm
sóc và hỗ trợ về y tế, tâm lý và xã hội cho người nhiễm HIV.
- Mỗi phác đồ điều trị phải có ít nhất ba loại thuốc ARV
- Tuân thủ điều trị là yếu tố quan trọng quyết định thành công của điều
trị ARV cho bệnh nhân.
- Các thuốc ARV chỉ có tác dụng ức chế sự nhân lên của virus nên
bệnh nhân phải điều trị kéo dài suốt đời và vẫn phải áp dụng các biện pháp dự
phòng để tránh lây truyền virus cho người khác.
- Người bệnh điều trị ARV khi chưa có tình trạng miễn dịch được phục
hồi vẫn phải điều trị dự phòng các bệnh nhiễm trùng cơ hội [4], [5].
1.2.1.2 Các nhóm thuốc ARV được sử dụng tại Việt Nam
- Nhóm ức chế men sao chép ngược nucleoside và nucleotide (NRTI).
- Nhóm ức chế men sao chép ngược không phải nucleoside (NNRTI).

- Nhóm ức chế men protease (PI).
1.2.2 Tiêu chuẩn bắt đầu điều trị ARV
Dựa vào giai đoạn lâm sàng và số lượng tế bào CD4
- Nếu có xét nghiệm CD4, chỉ định điều trị ARV khi:


12

- Người nhiễm HIV giai đoạn lâm sàng 4, không phụ thuộc số lượng tế
bào CD4
- Người nhiễm HIV giai đoạn lâm sàng 3 với CD4 < 350 TB/mm3
-Người nhiễm HIV giai đoạn lâm sàng 1, 2 với CD4 < 250 TB/mm3
Nếu không làm được xét nghiệm CD4, chỉ định điều trị ARV khi người nhiễm
HIV ở giai đoạn lâm sàng 3, 4.
1.2.3 Chuẩn bị sẵn sàng điều trị ARV
Quá trình chuẩn bị điều trị ARV cần phải được tiến hành ngay từ khi
người bệnh được quản lý tại cơ sở điều trị; các nội dung chuẩn bị sẵn sàng
điều trị có thể lồng ghép trong các lần khám để đảm bảo người bệnh được
điều trị kịp thời ngay khi đủ tiêu chuẩn điều trị [8], [10].
1.2.3.1 Đánh giá trước điều trị ARV
Các nội dung đánh giá trước điều trị đối với người bệnh HIV đủ tiêu chuẩn
điều trị ARV về lâm sàng và/hoặc CD4 [8], [11].
- Ghi nhận giai đoạn lâm sàng và số CD4 (nếu có) trước điều trị.
- Sàng lọc lao và các bệnh nhiễm trùng cơ hội; điều trị lao và các bệnh
nhiễm trung cơ hội cấp tính nếu có; phối hợp với các dịch vụ y tế khác (lao,
sản, da liễu, v.v..) khi cần.
- Làm các xét nghiệm cơ bản và xét nghiệm để lựa chọn phác đồ như:
CTM/Hgb và men gan (ALT); xét nghiệm HBsAg và anti-HCV (nếu có điều
kiện)
- Hỏi tiền sử dùng thuốc ARV trước đó: lý do sử dụng, nơi cung cấp,

phác đồ cụ thể, lưu ý tiền sử dùng các phác đồ không đúng (phác đồ hai
thuốc); sự tuân thủ, tiến triển trong quá trình điều trị, v.v…
- Đánh giá mong muốn được điều trị của người bệnh và khả năng có
người hỗ trợ điều trị


13

- Dự kiến phác đồ ARV thích hợp cho bệnh nhân; xem xét tương tác
giữa các thuốc ARV và các thuốc điều trị nhiễm trùng cơ hôi đồng thời và các
thuốc khác
- Thông báo về kế hoạch chuẩn bị điều trị ARV cho bệnh nhân
- Điều trị dự phòng cotrimoxazole ; các dự phòng khác nếu có chỉ định.
1.2.3.2 Cung cấp thông tin và tư vấn về điều trị ARV
- Tiến hành cung cấp thông tin theo nhóm về diễn biến nhiễm HIV, dự
phòng lây nhiễm HIV, sống khỏe mạnh, dinh dưỡng và điều trị ARV sau đó tư
vấn cá nhân. Mỗi người bệnh cần được tư vấn trước khi điều trị ARV 3 lần.
- Tư vấn cụ thể về điều trị ARV, phác đồ điều trị của từng bệnh nhân,
tầm quan trọng của tuân thủ điều trị và kế hoạch hỗ trợ tuân thủ điều trị cũng
như xử trí các vấn đề nảy sinh trong quá trình điều trị như quên thuốc, tác
dụng phụ,…
- Tư vấn các nội dung cụ thể, thích hợp cho các người bệnh còn sử
dụng ma túy, phụ nữ có thai [13], [14]
1.2.3.3 Đánh giá sẵn sàng điều trị
- Đánh giá hiểu biết của người bệnh về nhiễm HIV, về điều trị ARV và
tầm quan trọng của tuân thủ điều trị và cách xử trí khi quên uống thuốc [12].
- Đánh giá hiểu biết của người bệnh về cách sử dụng thuốc, các tác
dụng phụ thường gặp và hướng xử trí.
-Đánh giá khả năng tuân thủ điều trị của người bệnh qua việc tham gia
các buổi tư vấn đầy đủ, tái khám đúng hẹn, tuân thủ điều trị dự phòng

cotrimoxazole, có kế hoạch tuân thủ điều trị (lịch uống thuốc, các biện pháp
nhắc nhở uống thuốc, có người hỗ trợ tuân thủ điều trị); và người bệnh đồng ý
và cam kết tham gia điều trị.
- Kiểm tra lại các yếu tố khác như: nơi cư trú, khả năng liên lạc khi cần
⇒ Người bệnh đủ tiêu chuẩn về sẵn sàng điều trị: bắt đầu điều trị ARV.


14

Lưu ý: Đối với người bệnh có tình trạng nặng (giai đoạn lâm sàng 4,
hoặc CD4 < 100 TB/mm3), hoặc người bệnh là phụ nữ có thai: Rút ngắn thời
gian chuẩn bị điều trị, tư vấn tuân thủ điều trị cho người hỗ trợ điều trị và
hoặc cho người bệnh vào các lần thăm khám tiếp theo hoặc khi người bệnh đã
ổn định.
1.2.3.4 Bắt đầu điều trị
- Hướng dẫn lại cách sử dụng thuốc, lịch cấp thuốc, lịch hẹn tái khám;
đảm bảo người bệnh có kế hoạch tuân thủ điều trị và biết cách xử trí khi gặp
khó khăn [7], [8], [16].
- Chỉ định phác đồ bậc một cho người nhiễm HIV mới bắt đầu điều trị
ARV.
- Người nhiễm HIV có tiền sử dùng các thuốc ARV trước đó hoặc điều
trị gián đoạn, cần được đánh giá lâm sàng và xét nghiệm để quyết định sử
dụng phác đồ bâc 1 thích hợp hoặc chuyển phác đồ bậc 2 nếu có thất bại điều
trị.
1.2.4 Các phát đồ điều trị ARV bậc 1
1.2.4.1 Phát đồ chính
AZT + 3TC + NVP
hoặc
d4t + 3TC + NVP
Chỉ định: Sử dụng một trong hai phác đồ này cho tất cả các người bệnh

bắt đầu điều trị ARV [6], [8], [31].
Phác đồ AZT + 3TC + NVP
Liều lượng: AZT 300 mg 2 lần/ngày, 3TC 150 mg 2 lần/ngày, NVP
liều 200mg 1lần/ngày trong 2 tuần đầu sau đó tăng lên 2 lần/ngày.


15

Uống cách nhau 12 giờ, có thể uống thuốc lúc đói hoặc lúc no. Xét
nghiệm Hgb, ALT trước điều trị, sau 1 tháng và sau đó 6 tháng/lần hoặc khi
nghi ngờ có thiếu máu hoặc ngộ độc gan.
Không bắt đầu điều trị phác đồ này cho người bệnh khi Hgb < 80 g/l;
thận trọng khi sử dụng NVP trên người bệnh có ATL > 2,5 lần trị số bình
thường, người bệnh điều trị lao phác đồ có rifampicin, phụ nữ có CD4
>250/mm3.
Phác đồ d4T + 3TC + NVP
Liều lượng: d4T 30 mg 2 lần/ngày, 3TC 150 mg 2 lần/ngày, NVP liều
200mg 1lần/ngày trong 2 tuần sau đó tăng lên 2 lần/ngày.
Uống thuốc cách nhau 12 giờ, có thể uống thuốc lúc đói hoặc lúc no.
Xét nghiệm ALT trước điều trị, sau 1 tháng và sau đó 6 tháng/lần.
Thận trọng khi sử dụng NVP trên người bệnh có ATL > 2,5 lần trị số
bình thường, người bệnh điều trị lao phác đồ có rifampicin, phụ nữ có CD4
>250 /mm3.
1.2.4.2 Phác đồ thay thế [6], [8], [31].
Phác đồ AZT + 3TC + EFV hoặc d4T + 3TC + EFV
Chỉ định: Sử dụng một trong hai phác đồ này khi người bệnh không sử dụng
được NVP
Phác đồ AZT + 3TC + EFV :Liều lượng: AZT 300 mg 2 lần/ngày, 3TC
150 mg 2 lần/ngày, EFV 600 mg 1 lần vào buổi tối.Uống AZT + 3TC cách
nhau 12 giờ, EFV vào buổi tối.

Không dùng EFV cùng thức ăn có nhiều chất béo. Xét nghiệm Hgb
trước điều trị, sau 1 tháng và sau đó 6 tháng/lần hoặc khi nghi ngờ có thiếu
máu.


16

Không bắt đầu điều trị phác đồ này cho người bệnh khi Hgb < 80 g/l và
hoặc phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu. Không dùng EFV cho người bệnh tâm
thần (hiện tại hoặc tiền sử).
Phác đồ d4T + 3TC + EFV: Liều lượng: d4T 30 mg 2 lần/ngày, 3TC
150 mg 2 lần/ngày, EFV 600mg 1 lần vào buổi tối. Uống d4T + 3TC cách
nhau 12 giờ, uống EFV vào buổi tối.
Không dùng EFV cùng thức ăn có nhiều chất béo. Không điều trị phác
đồ có EFV cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu. Không dùng EFV cho người
bệnh tâm thần (hiện tại hoặc tiền sử).
Phác đồ TDF + 3TC+ NVP hoặc TDF + 3TC+ EFV
Chỉ định: Sử dụng một trong hai phác đồ này khi người bệnh không
dùng được cả AZT và d4T.
Phác đồ TDF + 3TC + NVP: Liều lượng và cách sử dụng: 3TC, NVP:
giống như trên, TDF: liều lượng 300 mg uống 1 lần/ngày.
Xét nghiệm creatinin/độ thanh thải creatinin trước khi điều trị và định
kỳ 6 tháng/1 lần và điều chỉnh liều khi người bệnh có suy thận.
Phác đồ TDF + 3TC + EFV: Liều lượng và cách sử dụng: 3TC, EFV:
giống như trên. TDF: liều lượng 300 mg uống 1 lần/ngày.
Xét nghiệm creatinin/độ thanh thải creatinin trước khi điều trị và định
kỳ 6 tháng/1 lần và điều chỉnh liều khi người bệnh có suy thận (như trên).
Phác đồ AZT+ 3TC+ TDF
Chỉ định: Sử dụng phác đồ này khi người bệnh không dùng được cả
NVP và EFV

Liều lượng và cách sử dụng: Đối với AZT, 3TC: giống như trên. TDF:
liều lượng 300 mg uống 1 lần/.
Xét nghiệm creatinin/độ thanh thải creatinin trước khi điều trị và định
kỳ 6 tháng/1 lần và điều chỉnh liều khi người bệnh có suy thận (như trên). Xét


17

nghiệm Hgb trước điều trị, sau 1 tháng và sau đó 6 tháng/lần hoặc khi nghi
ngờ có thiếu máu.
1.2.5 Theo dõi điều trị ARV
- Trong mỗi lần bệnh nhân tái khám, bác sĩ kiểm tra lại những thuốc
người bệnh được chỉ định và cách dùng [30], [33].
- Thời gian và cách dùng thuốc trong thực tế của bệnh nhân, số lần bỏ
thuốc hoặc quên.
- Nếu người bệnh tuân thủ kém, cần tìm hiểu những vấn đề mà bệnh
nhân gặp phải: tác dụng phụ, bệnh lý mới xuất hiện, quên hoặc dùng không
đúng chỉ định, hết thuốc, không có khả năng tài chính, thiếu hỗ trợ, bị bắt, cai
nghiện tập trung… để tư vấn lại cẩn thận [4], [5], [22].
1.2.5.1 Theo dõi diễn tiến lâm sàng
- Thăm khám, phát hiện và xử trí các tác dụng phụ.
- Đánh giá lại giai đoạn lâm sàng, các nhiễm trùng cơ hội đánh giá tiến
triển của các triệu chứng liên quan đến HIV. Phát hiện hội chứng phục hồi
miễn dịch nếu có [4], [5], [30].
1.2.5.2 Theo dõi diễn tiến qua cận lâm sàng
Bệnh nhân được theo dõi cân nặng và số tế bào TCD4 định kỳ. Chức
năng gan thận định kỳ, PCR, huyết thanh chẩn đoán…Nếu có điều kiện bệnh
nhân sẽ được theo dõi xét nghiệm tải lượng vi rút trong máu [4], [5].
1.2.5.3 Theo dõi tác dụng phụ của thuốc
Bệnh nhân được cung cấp thông tin về độc tính của các loại thuốc họ

đang sử dụng, được theo dõi các biểu hiện tác dụng phụ của thuốc ARV [20],
[24].
1.2.6 Tác dụng phụ trong quá trình điều trị
Ngoài khả năng ức chế sao chép virus, phục hồi miễn dịch cho bệnh
nhân, đa số thuốc ARV đều có tác dụng phụ. Do đó, việc điều trị HIV cần


18

xem xét sự cân bằng giữa lợi ích của ức chế HIV và nguy cơ độc tính của
thuốc. Theo một số nghiên cứu, khoảng 25% số bệnh nhân ngừng điều trị
trong vòng năm đầu do các tác dụng phụ. Một số lượng tương tự các bệnh
nhân không uống thuốc đúng liệu chỉ định do lo sợ tác dụng phụ [35], [37].
Những bệnh nhân bị tác dụng phụ nặng thường không tuân thủ điều trị [36].
Tác dụng phụ có thể xảy ra sớm hoặc sau một thời gian điều trị. Do
vậy, bệnh nhân cần được tư vấn kỹ về các tác dụng phụ có thể xảy ra để họ
nhận biết được và thông báo kịp thời cho thầy thuốc. Khi xuất hiện tác dụng
phụ, cần đánh giá mức đồ nặng nhẹ của triệu chứng kịp thời, giảm thiểu tối đa
tác dụng phụ gây đe dọa tính mạng cho bệnh nhân.
Hội chứng viêm phục hồi miễn dịch (PHMD) là hiện tượng tình trạng
lâm sàng của người nhiễm HIV xấu đi một cách bất thường sau khi bắt đầu
điều trị ARV do có sự phục hồi của miễn dịch. Bản chất của hội chứng viêm
PHMD là đáp ứng viêm quá mức của hệ miễn dịch mới được phục hồi với các
tác nhân vi sinh vật đang tồn tại trong cơ thể hoặc kháng nguyên còn lại của
các tác nhân này. Tỷ lệ mắc hội chứng này ước tính khoảng 10% tổng số bệnh
nhân được dùng ARV; tuy nhiên nếu bệnh nhân đã nhiễm mycobacteria hoặc
cryptococcus từ trước khi sử dụng HAART, tỷ lệ IRIS có thể tới 30% [42],
[44].
1.2.7 Thất bại điều trị ARV
Thất bại điều trị sau một thời gian sử dụng ARV là một hiện tượng có

thể gặp nhất là ở những bệnh nhân tuân thủ kém, điều trị ARV không đúng
phác đồ hoặc có thời gian sử dụng ARV kéo dài. Khi thất bại điều trị xảy ra,
bắt buộc phải đổi phác đồ khác. Nếu xác định không đúng thời điểm thất bại:
quá sớm hoặc quá trễ đều không có lợi cho bệnh nhân. Chỉ xem xét thất bại
điều trị khi người bệnh đã uống ARV đúng phác đồ 3 thuốc trong ít nhất 6
tháng và đã tuân thủ tốt.


19

Các biểu hiện xuất hiện trong vòng 6 tháng sau khi bắt đầu điều trị
ARV thường là nhiễm trùng cơ hội, hội chứng phục hồi miễn dịch hoặc các
tác dụng phụ của thuốc… dễ làm nhầm lẫn với thất bại điều trị. Chính vì vậy
mà xác định thất bại điều trị và quyết định đổi sang công thức hối hợp thuốc
khác chỉ nên xem xét sau ít nhất là 6 tháng kể từ lúc bắt đầu HAART. Thất bại
điều trị bao gồm: thất bại về lâm sàng, thất bại về miễn dịch và thất bại về
virus.
Bảng 1.1 Tiêu chuẩn đánh giá thất bại điều trị ARV [8], [29]
Tiêu chuẩn
Nội dung
Thất bại về lâm Xuất hiện mới hoặc tái phát các bệnh lý giai đoạn lâm
sàng
sàng 4 sau điều trị ít nhất 4 tháng a, b
Thất bại về miễn - CD4 giảm xuống bằng hoặc dưới mức CD4 ban đầu
trước điều trị, hoặc

dịch c

- CD4 giảm dưới một nửa so với mức CD4 cao nhất đạt
được (nếu biết giá trị này), hoặc

- CD4 dưới 100 tế bào/mm3 máu liên tục trong 1 năm
Thất bại về virus

d

liền, không tăng
Tải lượng virus đo được trên 5.000 phiên bản/ml

Một số lưu ý:
a. Một số bệnh lý giai đoạn 4 như lao hạch, lao màng phổi, nấm candida thực
quản, viêm phổi tái phát không được coi là chỉ điểm thất bại điều trị. Điều trị
các bệnh lý này, nếu đáp ứng tốt, tiếp tục phác đồ bậc một.
b. Một số bệnh lý giai đoạn lâm sàng 3 (như lao phổi, nhiễm vi khuẩn nặng)
có thể là chỉ điểm của thất bại điều trị. Lao xuất hiện sau 6 tháng điều trị ARV
được coi là thất bại điều trị khi đi kèm với thất bại về miễn dịch học hoặc thất
bại về virus học. Nếu không thực hiện được các xét nghiệm này, xem xét thất


20

bại điều trị nếu người bệnh có các bệnh lý khác thuộc giai đoạn 3, 4, hoặc
người bệnh bị lao lan toả.
c. Các bệnh lý kèm theo thường làm giảm tạm thời số CD4; điều trị các bệnh
lý này trước, làm xét nghiệm CD4 khi tình trạng người bệnh đã ổn định.
d. Đo tải lượng virus là xét nghiệm chính xác nhất để khẳng định hoặc loại trừ
thất bại điều trị. Thay đổi phác đồ khi tải lượng virus >5.000 phiên bản/ml
trong hai lần xét nghiệm cách nhau ít nhất 1 tháng
Các bước tiến hành khi nghi ngờ người bệnh bị thất bại điều trị:
- Đánh giá lại tính tuân thủ điều trị ARV của bệnh nhân. Nếu người bệnh có
biểu hiện kém tuân thủ, cần tiến hành các biện pháp tăng cường tư vấn và hỗ

trợ; xem xét lại tiêu chuẩn thất bại điều trị sau khi người bệnh đã tuân thủ tốt.
- Đánh giá lại tiền sử điều trị ARV của người bệnh để xem liệu người bệnh có
bao giờ dùng phác đồ không đúng (liều không đủ, phác đồ 2 thuốc…) [11],
[16]
- Kiểm tra phác đồ hiện tại xem có tương tác gì với thuốc NTCH, thuốc dự
phòng hay các thuốc uống kèm khác.
- Kiểm tra xem người bệnh có yếu tố nào khiến hấp thu thuốc kém, ví dụ tiêu
chảy, nôn, buồn nôn, tác dụng phụ…
- Đánh giá các NTCH và bệnh kèm theo và điều trị kịp thời.
- Loại trừ giảm CD4 liên quan đến chất lượng máy định lượng CD4 hoặc do
làm XN từ các máy khác nhau.
- Khi có thất bại lâm sàng và miễn dịch học, tốt nhất đo tải lượng vi rút nếu có
điều kiện để quyết định chuyển phác đồ bậc 2.
- Tiến hành hội chẩn khi chẩn đoán thất bại điều trị và chuyển phác đồ bậc 2
1.2.8 Các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị
- Kiến thức về HIV/AIDS đã được tư vấn, tập huấn trước điều trị ARV


21

- Tuân thủ điều trị ARV của bệnh nhân là uống đúng thuốc, uống đúng
liều lượng, uống đúng thời gian, uống đúng quy cách.
- Hoàn cảnh gia đình: kinh tế, sự giúp đỡ của các thành viên trong gia
đình, tình trạng hôn nhân, con cái, nghề nghiệp.
- Điều kiện: khoảng cách tới nơi nhận thuốc, phương tiện giúp tuân thủ.
- Tính chất công việc của người bệnh ảnh hưởng tới việc sử dụng
thuốc.
- Trình độ văn hóa và nhận thức của bệnh nhân [38]
- Những hành vi, thói quen có khả năng ảnh hưởng không tốt tới tuân
thủ: sử dụng chất gây nghiện, bia rượu, thuốc lá.

- Tính liên tục và sự sẵn có của các thuốc ARV.
- Bệnh lý của bệnh nhân hiện có.
- Tác dụng phụ của thuốc ARV mà đối tượng mắc phải trong quá trình
điều trị ARV
- Sự giúp đỡ của các tổ chức trong cộng đồng: y tế, xã hội, các tổ chức
[4], [5].
1.2.9 Tình hình điều trị HIV/AIDS thế giới và Việt Nam
1.2.9.1 Trên thế giới
Những trường hợp nhiễm HIV được phát hiện đầu tiên trên thế giới vào
năm 1981, tuy nhiên đến năm 1987, mới có AZT được đưa vào sử dụng điều
trị kháng vi rút HIV [47], đến năm 1996 cũng chỉ sử dụng phác đồ có 2 loại
thuốc kết hợp và chỉ sau năm 1996, trên thế giới mới sử dụng phác đồ kết hợp
ít nhất ba loại thuốc [17].
Theo chương trình 3x5 của TCYTTG đề xuất năm 2003 nhằm tăng khả
năng tiếp cận thuốc trị HIV/AIDS của các nước nghèo. Theo đó, WHO sẽ vận
động các tổ chức, ngân hàng tham gia đàm phán với các hãng sản xuất thuốc
đặc trị HIV/AIDS để các nước nghèo được mua thuốc giá rẻ.


22

Khu vực cận Sahara Châu Phi tiếp tục phải gánh chịu những hậu quả
nặng nề hơn của đại dịch AIDS toàn cầu. Tại khu vực này, 70% số người
nhiễm HIV vẫn đang còn sống và thuốc ARV chỉ có thể đáp ứng được cho
11% số đó. Hai khu vực Bắc Mỹ, Tây và Trung Âu, việc tiếp cận các thuốc
điều trị ARV ngày càng rộng rãi, số người tử vong do AIDS trong năm 2006
khá ít, chỉ còn 30.000 người. Việc cung cấp ARV đã làm giảm 80% tỷ lệ tử
vong trong giai đoạn 1996 – 2003 [45].
Kết quả điều trị HIV ở Hoa Kỳ ngày càng tăng, tỷ lệ người sống thêm
được 2 năm hoặc lâu hơn kể từ khi được chẩn đoán AIDS đã tăng từ 64% lên

85% trong giai đoạn 1996 – 2000. Vào tháng 6/2005 chỉ có 970.000 người ở
các nước đang phát triển và nước có thu nhập thấp có thể tiếp cận với liệu
pháp ARV [46]. Ở Châu Á, số người được tiếp cận điều trị thuốc ARV đã tăng
lên gấp 3 lần kể từ năm 2003 cho đến năm 2006 (khoảng 16% tổng số người
được điều trị ARV ở Châu Á [31].
1.2.9.2 Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, dịch HIV/AIDS vẫn tiềm ẩn các yếu tố nguy cơ làm lan
tràn HIV/AIDS. Nếu chúng ta không có những biện pháp can thiệp sâu và
quyết liệt thì đại dịch vấn bùng phát. Cho nên Chính phủ và Bộ Y tế Việt Nam
đã ban hành nhiều chiến lược trong quá trình điều trị HIV/AIDS tại nước ta:
+ Giai đoạn 1990 – 1995: Công tác điều trị chưa được đầu tư nhiều, các
nguồn lực tập trung cho dự phòng và truyền thông giáo dục
+ Giai đoạn 1995 – 2000: Chủ yếu là điều trị nhiễm trùng cơ hội, số ít
được điều trị ARV bằng đơn trị liệu (AZT).
+ Từ 2000 đến nay: Bộ y tế đã ban hành hướng dẫn chẩn đoán điều trị
HIV/AIDS bao gồm các nội dung về điều trị ARV và nhiễm trùng cơ hội cho
người lớn và trẻ em, dự phòng sau phơi nhiễm và lây truyền mẹ con.


23

Năm 1997 triển khai điều trị ARV chỉ có vài chục đến 100 bệnh nhân,
năm 2004 là 500 bệnh nhân chủ yếu tại ba trung tâm (Hà Nội, Huế, Thành
phố Hồ Chí Minh), từ nguồn ngân sách nhà nước [1]. Năm 2005 có 3000
bệnh nhân được điều trị ARV, năm 2006 là 5000 bệnh nhân [1].
Nghiên cứu của Võ Thị Năm và Phùng Đức Nhật tại thành phố Cần
Thơ năm 2009 thu được kết quả tỷ lệ tuân thủ điều trị ARV (77%), trong đó tỷ
lệ tuân thủ thuốc ARV (96%) [23’]. Các yếu tố dân số xã hội học liên quan
đến việc tuân thủ điều trị ARV: nhóm tuổi càng cao thì tuân thủ điều trị ARV
càng cao; học vấn thấp, nghề nghiệp không ổn định, tình trạng hôn nhân có

gia đình thì tuân thủ điều trị thấp. Kiến thức chung đúng là 55% và thực hành
chung đúng là 62%. Những yếu tố liên quan với tuân thủ điều trị ARV là kiến
thức (về tái khám, kiến thức chung), thực hành (dinh dưỡng đầy đủ, thực hành
chung), nguồn cung cấp thông tin (sách báo tờ bướm, tình trạng sức khỏe, tác
dụng phụ của thuốc, tư vấn dự phòng)
Nghiên cứu của Trần Thị Kiệm [18’] năm 2012 tại Hải Phòng ghi nhận
tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt, kiến thức tốt chiếm 75,9%, tuân thủ và
kiến thức trung bình hạn chế chiếm 61,8%. Một nghiên cứu khác ở tỉnh Thái
Nguyên do Nguyễn Lê Thùy [32’] thực hiện, với kết quả tỉ lệ tuân thủ điều trị
ARV là 81,3%. Tỉ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị đúng trong vòng 3 tháng là
91,3%. 71,8% bệnh nhân quên hoặc chậm uống thuốc theo giờ qui định là do
bận hoặc mải làm quên uống thuốc. 6,8% bệnh nhân do thiếu thuốc nên
không có thuốc uống. Không có mối liên quan giữa tuân thủ điều trị với tuổi,
trình độ văn hóa, khoảng cách đến phòng khám ngoại trú và thu nhập bình
quân/tháng. Có mối liên quan giữa tuân thủ điều trịvới tỉ lệ gặp tác dụng phụ
của thuốc khiến bệnh nhân phải ngừng thuốc.
Nghiên cứu của Trần Quốc Tuấn và cộng sự năm 2012 [34’] tại Hà Nội
với kết quả Tỉ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị ARV trong vòng 6 tháng qua cao


24

(>97%); 90,3% bệnh nhân có sử dụng các phương tiện để nhắc nhớ uống
thuốc, trong đó cao nhất là sử dụng điện thoại, đồng hồ báo thức (67,7%) và
nhờ người nhắc (26,4%). Các yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị là tham
gia tập huấn. Nghiên cứu ở Lâm Đồng của Đỗ Công Kim và Nguyễn Minh
Sơn [19’] thu được tỷ lệ bệnh nhân có thực hành tuân thủ điều trị ARV đúng
đạt 78,4%. Tỷ lệ bệnh nhân có số lượng tế bào CD4/mm3 máu tăng sau 6
tháng điều trị là 82,6%, sau 12 tháng điều trị là 90,8%, sau 18 tháng điều trị là
95%. Tình trạng tăng cân trung bình của bệnh nhân sau 6 tháng điều trị là

1,02 kg, sau 12 tháng điều trị là 1,87 kg, sau 18 tháng điều trị là 0,72 kg. Tỷ lệ
bệnh nhân hết nhiễm trùng cơ hội sau 6 tháng điều trị là 35,3%, sau 12 tháng
điều trị là 63,2%, sau 18 tháng điều trị là 91,2%.
Riêng ở đối tượng HIV/AIDS trẻ em, nghiên cứu của Đoàn Thị Thùy
Linh ở Bệnh viện Nhi Trung ương [21’], kết quả nghiên cứu trên 209 người
chăm sóc chính cho thấy tỷ lệ tuân thủ điều trị của bệnh nhân trong 7 ngày
trước thời điểm phát phỏng vấn là 78,9%, tỷ lệ bệnh nhân tái khám đúng hẹn
trong 2 tháng trước khi phỏng vấn là 90,9%. Khi phân tích đa biến, nghiên
cứu cũng tìm ra mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuân thủ điều trị và
các yếu tố phác đồ điều trị, mức độ thường xuyên nhận được thông tin từ cán
bộ y tế.
1.3 Nghiên cứu liên quan
Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Chí và cộng sự năm 2006 [9’], ghi nhận
0,5% bệnh nhân có nồng độ HIV trên ngưởng phát hiện (250 copies/ml),
nghĩa là có thất bại điều trị. Qua xét nghiệm kháng thuốc kiểu gen cho thấy
kháng NRTI là phổ biến nhất (mức kháng cao thay đổi từ 13,3% đến 90,8%
tuỳ theo từng loại thuốc), trong đó kháng với thuốc được dùng trong phác đồ
bậc1 như 3TC, D4T, AZT và với một số thuốc được giới hạnchỉ dùng trong
phác đồ bậc 2 như ABC, DDI, TDF. Kháng NNRTI vào khoảng 87,3% đến


25

89,6% và có tính kháng chéo giữa các thuốc trong nhóm. Kháng PI (chỉ được
dùng cho phác đồ bậc 2) ít gặp hơn, thay đổi từ 1,8% đến 5,6%.
Nghiên cứu của Hà Văn Tâm, Trần Đỗ Hùng [29’] tại phòng khám đa
khoa Tân Châu tỉnh An Giang thu được kết quả: 3,5 % thất bại điều trị bằng
phác đồ bậc 1 ARV; đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân thất
bại điều trị bậc 1: không tăng cân 68,8%, nhiễm trùng cơ hội tái phát 17,2%;
CD4 thấp hơn hoặc mức trước điều trị là 85,7%, CD4 giảm trên 50% so với

thời điểm CD4 cao nhất là 14,3%, tỷ lệ tải lượng virus >5000 bản sao/ml là
3,5%.
Năm 2014, Đỗ Thị Nhàn [26’] thực hiện nghiên cứu tình trạng HIV
kháng thuốc trên bệnh nhân đang được quản lý điều trị ARV trên một số tỉnh
thành phố, đã thu được bệnh nhân bỏ điều trị trong vòng 12 tháng sau điều trị
trong 3 năm 2010, 2011 và 2012 với tỷ lệ lần lượt là 5,4%, 5,8% và 5,9%.
Nghiên cứu của Phạm Bá Hiền, Thẩm Chí Dũng, Trần Viết Tiến,
Nguyễn Văn Mùi [15’] đánh giá thất bại điều trị bệnh nhân AIDS của 2 phác
đồ bậc 1 d4T/3TC/NVP và AZT/3TC/NVP, thu được kết quả , tỷ lệ thất bại
điều trị sau 18 tháng ở nhóm 1 4T/3TC/NVP) là 11,1% và ở nhóm 2
(AZT/3TC/NVP) là 8,9%. Thất bại về lâm sàng chỉ xuất hiện khi bệnh nhân
đã bị thất bại về miễn dịch và/ hoặc virus.


×