Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Mối quan hệ giữa tham nhũng và dòng vốn FDI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.97 KB, 77 trang )

1

Đề tài: Nghiên cứu tác động của tham nhũng và chênh lệch tham nhũng đến nguồn
vốn FDI vào các nước khu vực Đông Nam Á.
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chọn đề tài

Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, việc chu chuyển vốn giữa các nền kinh tế
là một xu thế tất yếu mà các quốc gia lựa chọn bởi vì những lợi ích mà chu chuyển
vốn mang lại cho cả nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Một trong những động
lực chu chuyển vốn lớn nhất hiện nay đó chính là những dòng vốn đầu tư của các
công ty đa quốc gia (MNEs) thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Vì vậy, không chỉ các công ty đa quốc gia mà kể cả các quốc gia đi đầu tư và quốc
gia nhận đầu tư đều mong muốn nắm bắt được các nhân tố tác động đến dòng chảy
FDI này.
Bên cạnh những đặc điểm kinh tế đặc thù của mỗi quốc gia vốn được coi là các tác
nhân chính thu hút FDI thì còn có rất nhiều lý thuyết cho rằng sự khác biệt về thể
chế giữa các quốc gia mà cụ thể là sự khác biệt về tham nhũng giữa hai nước cũng
có một mối quan hệ quan trọng với dòng vốn FDI. Chủ đề tham nhũng và hiệu quả
của các nền kinh tế là một chủ đề khá phố biến, được nghiên cứu nhiều thời gian
qua, nhưng vấn đề tham nhũng ảnh hưởng như thế nào đến thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) vào đất nước có mức độ tham nhũng cao vẫn chưa được đánh giá
đầy đủ trong các nghiên cứu hiện có.
Có hai quan điểm về tác động của tham nhũng đối với FDI. Quan điểm thứ nhất theo
nghiên cứu của Kwok & Tadesse (2006) cho rằng các MNEs rất cẩn thận khi lựa
chọn nước chủ nhà cho các chi nhánh nước ngoài của họ bởi vì sự lo ngại của họ đối
với sự không chắc chắn của chi phí bổ sung liên quan đến tham nhũng vào chi phí
hoạt động. Do đó, tham nhũng được coi là một rào cản đối với FDI (Judge và cộng


2



sự, 2011). Tuy nhiên có một quan điểm trái ngược cho rằng: tham nhũng là điều cần
thiết – một chất bôi trơn cho các giao dịch, đặc biệt khi các “lỗ hổng thể chế” ngày
càng phổ biến trong nền kinh tế phát triển. Tham nhũng còn có thể cải thiện hiệu quả
bằng cách giảm các lệch lạc gây ra bởi các tổ chức hoạt động và bộ máy quan liêu
kém hiệu quả (Khanna & Palepu, 2010; Kwok & Tadesse, 2006).
Ngoài ra, chênh lệch tham nhũng giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư là một đề tài
đang rất được quan tâm hiện nay. Có nhiều nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề này
như nghiên cứu của Habib và Zurawicki (2002), Eden và Miller (2004), RoseAckermamn (2008), Gordinez và Liu (2014). Các nghiên cứu trả lời cho câu hỏi
nước đầu tư có mức độ tham nhũng thấp hơn nước nhận đầu tư và ngược lại thì có
ảnh hưởng đến dòng vốn FDI chảy vào các nước nhận đầu tư hay không.
Đông Nam Á có vị trí địa chiến lược vô cùng quan trọng trên thế giới, khu vực này
nằm trên tuyến đường biển vận tải quan trọng, kết nối các quốc gia phát triển của
Châu Âu với các quốc gia như Nhật Bản, Trung quốc, Hàn quốc. Cùng với đó là
nguồn tài nguyên thiên nhiên đồi dào cũng như giá nhân công rẻ đã khiến Đông
Nam Á trở thành một điểm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến tìm kiếm trị
thường đầu tư cũng như tiêu thụ. Trong những năm gần đây, xu hướng của chuyển
dịch của dòng vốn FDI chuyển dần về khu vực Đông Nam Á. Năm 2010 tổng lượng
FDI chảy vào khu vực này là 105 tỷ (chiếm 9,9% lượng FDI inflows toàn cầu), năm
2011 giảm nhẹ còn 93,5 tỷ (chiếm 18,13% FDI inflows toàn cầu) và năm 2012 tăng
mạnh trở lại 108 tỷ (chiếm 14% lượng FDI inflows toàn cầu). Đặc biệt, trong năm
2010, 82% lượng FDI tăng trên thế giới chảy vào khu vực châu Á thì trong đó hơn
một nữa là chảy vào khu vực Đông Nam Á. Tương tự năm 2013, 49% lượng FDI
tăng trên thế giới chảy vào khu vực châu Á, thì gần 56,5% số đó chảy vào khu vực
Đông Nam Á. Điều này đã củng cố hơn nữa nhận định khu vực Đông Nam Á là
điểm đến mới cho dòng chảy của FDI.


3


Mặc khác, theo đánh giá của tổ chức minh bạch quốc tế (TI), những nước thuộc khu
vực Đông Nam Á (trừ Singapore) có mức độ tham nhũng khá cao. Trong giai đoạn
từ năm 2001 đến năm 2012, chỉ số cảm nhận tham nhũng của khu vực trung bình
này là 3,63/10 (0 điểm là tham nhũng cao, 10 điểm là trong sạch). Tổ chức minh
bạch quốc tế đã đưa ra lời cảnh báo về tình trạng tham nhũng này có thể ảnh hưởng
đến kế hoạch phát triển kinh tế của mỗi nước trong khu vực. Như vậy, liệu có mối
quan hệ nào giữa tình trạng tham nhũng và dòng chảy FDI vào các nước ở khu vực
Đông Nam Á không?
Chính vì sự, mâu thuẫn giữa các kết quả nghiên cứu thực nghiệm cùng với tình hình
đánh giá mức độ tham nhũng cũng như lượng vốn FDI thu hút tại các nước khu vực
Đông Nam Á đã nói ở trên, tác giả thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tác động của tham
nhũng và chênh lệch tham nhũng đến nguồn vốn FDI vào các nước khu vực Đông
Nam Á” nhằm đánh giá sự tác động của tham nhũng và chênh lệch tham nhũng lên
nguồn vốn FDI ở khu vực Đông Nam Á.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Bài nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa các nhân tố liên quan đến tham nhũng, thể
chế quốc gia và các nhân tố vĩ mô khác đến dòng chảy FDI ở chín quốc gia thuộc
khu vực ASEAN trong giai đoạn 2001-2012 với các mục tiêu nghiên cứu như sau:


Thứ nhất, tìm hiểu được mối quan hệ giữa tham nhũng và dòng vốn FDI vào

các quốc gia khu vực Đông Nam Á.
• Thứ hai, đánh giá mối quan hệ giữa chênh lệch tham nhũng đến dòng vốn
FDI vào các quốc gia khu vực Đông Nam Á
Để có thể đạt được các mục tiêu trên, bài nghiên cứu đưa ra các câu hỏi nghiên cứu
như sau:
Câu hỏi 1: Tham nhũng tác động như thế nào đến dòng vốn FDI ở các quốc gia
Đông Nam Á?



4

Câu hỏi 2: Chênh lệch tham nhũng giữa quốc gia đầu tư và quốc gia nhận đầu tư có
tác động như thế nào đến dòng vốn FDI đầu tư?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào các nước ở
khu vực Đông Nam Á trong khoảng thời gian 2001-2012 và mối quan hệ với tham
nhũng.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu ở 9 quốc gia trong khu vực bao gồm: Campuchia,
Indonesia, Lao, Malaysia, Myanmar, Philipin, Singapore, Thái lan và Việt Nam.
Ngoài các quốc gia kể trên khu vực Đông Nam Á còn có các nước như Đông Timor,
Brunei. Tuy nhiên số liệu của các quốc gia này chưa đầy đủ để phục vụ cho nghiên
cứu nên tác giả chỉ lựa chọn 9 quốc gia kể trên.
1.4. Ý nghĩa bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu góp phần củng cố thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của
tham nhũng của nước nhận đầu tư và sự chênh lệch tham nhũng giữa nước đầu tư và
nước nhận đầu tư đến việc thu hút nguồn vốn FDI của các nước trên thế giới.
1.5. Phương pháp và nguồn dữ liệu nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: thực hiện nghiên cứu định lượng trên dữ liệu bảng, sử
dụng các phương pháp kiểm định nhằm kiểm soát các khiếm khuyết trên mô hình
hồi quy, từ đó lựa chọn phương pháp kiểm soát các vấn đề khiếm khuyết tồn tại
nhằm đưa ra kết quả định lượng tin cậy.
Bài nghiên cứu sử dụng phầm mềm Stata để định lượng nhằm kiểm định mối quan
hệ giữa chênh lệch tham nhũng giữa các nước đầu tư và nhận đầu tư với nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước nhận đầu tư dưới sự kiểm soát các biến thể chế
và môi trường kinh tế vĩ mô.
Dữ liệu: Dữ liệu của bài nghiên cứu được lấy từ nguồn của các tổ chức quốc tế đáng

tin cậy như Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức minh bạch quốc tế (IT), Quỹ di sản
Thế giới (Heritage Foundation), Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP),
Hiệp hội Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD).
1.6. Cấu trúc bài nghiên cứu


5

Bài nghiên cứu được cấu trúc thành 5 phần. Phần 1 giới thiệu tổng quan các vấn đề
trong bài nghiên cứu: lí do chọn đề tài, câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu, đối tượng và
phạm vi nghiên cứu, phương pháp và dữ liệu nghiên cứu, ý nghĩa của nghiên cứu và
bố cục của bài nghiên cứu. Phần 2 trình bày tổng quan các tài liệu có liên quan đến
nguồn vốn FDI, tham nhũng và chênh lệch tham nhũng, mối liên hệ giữa các yếu tố
trên với nhau cũng như các bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ của các biến
tham nhũng và các nhân tố vĩ mô với nguồn vốn FDI vào mỗi quốc gia. Phần 3
trình bày phương pháp nghiên cứu, mang đến một cái nhìn tổng quan về mô hình dữ
liệu bảng động, phương pháp hồi quy Fix Effect và Random Effect, các giả thuyết
nghiên cứu; mô tả mẫu nghiên cứu, dữ liệu nghiên cứu và nguồn thu thập dữ liệu
cũng như nêu rõ cách xác định và ý nghĩa của biến số được sử dụng trong mô hình
ước lượng. Phần 4 trình bày các kết quả nghiên cứu bao gồm thống kê mô tả, các
kết quả thực nghiệm từ mô hình hồi quy dữ liệu bảng động bằng phương pháp Fix
Effect, phương pháp Random Effect và các kiểm định cho khu vực ASEAN. Phần
kết luận tổng quát những kết luận chính của bài nghiên cứu, nêu lên một số kiến
nghị, gợi ý chính sách cho các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng dựa
trên tình hình dòng vốn FDI và tham nhũng trên thực tế và kết quả của bài nghiên
cứu, cũng như chỉ ra một số điểm hạn chế còn tồn tại của bài nghiên cứu và hướng
phát triển đề tài trong tương lai.


6


CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tham nhũng
2.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những khái niệm rất quen thuộc với
chúng ta hiện nay. Tuy nhiên có rất nhiều định nghĩa được đưa ra để định nghĩa cho
nguồn vốn quan trọng này đối với mỗi quốc gia. Theo Quỹ tiền tệ Quốc Tế (IMF)
(1993) đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt
được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một
nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành
quyền quản lý thực sự doanh nghiệp.
Một cách định nghĩa khác cũng được đưa ra bởi Tổ chức Thương mại Thế Giới
(WTO). Theo đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước đầu tư) có tài sản ở một nước khác (nước nhận đầu tư) cùng với quyền quản
lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở
nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường
được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh
công ty”.
Ngoài ra, theo Luật Đầu Tư (2005) của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý
hoạt động đầu tư hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước
ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Như vậy, tổng quát lại có thể định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay
công ty nước này vào một nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh.



7

Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh
doanh này với mục tiếu tối đa hóa lợi nhuận.
2.1.2. Khái niệm tham nhũng

Tương tự như khái niệm FDI nêu ở trên, khái niệm tham nhũng cũng được định
nghĩa theo nhiều cách khách nhau. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc Tế (TI), tham
nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân. Tham ô là
hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công. Tham nhũng và tham ô là hệ quả
tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo
ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, hiện tượng tham nhũng và các tệ nạn có
điều kiện phát triển và tại đó một phần quyền lực chính trị được biến thành quyền
lực kinh tế. Theo định nghĩa trên thì tham nhũng là hành vi của người có địa vị cao
trong xã hội mà từ vị trí họ có thể dễ dàng trục lợi cho bản thân thông qua nhũng
việc làm trái pháp luật của mình.
Tuy nhiên, theo Ngân hàng Thế giới, tham nhũng là “Lạm dụng công quyền để tư
lợi”. Định nghĩa này cho rằng căn nguyên của tham nhũng xuất phát từ công quyền
và lạm dụng công quyền, tham nhũng gắn liền với nhà nước và các hoạt động của
nhà nước, việc nhà nước can thiệp vào thị trường và từ sự tồn tại của khu vực công.
Khái niệm này chỉ tập trung vào tình trạng tham nhũng ở khu vực công.
Ngoài ra, theo Luật phòng, chống tham nhũng (2005) ở Việt Nam thì tham nhũng
được định nghĩa như sau: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn
đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Một cách định nghĩa khác cho khái niệm tham nhũng là sử dụng việc phân loại tham
nhũng. Tổ chức Minh bạch Quốc tế căn cứ vào giá trị của những khoản tiền hối lộ
để phân loại tham nhũng. Có hai loại tham nhũng là “tham nhũng lớn” (grand
corruption) và tham nhũng “vặt” (petty corruption). Tham nhũng lớn là hình thức
tham nhũng liên quan đến những hợp đồng kinh tế quốc tế, các dự án hạ tầng trọng



8

điểm của quốc gia và gắn liền với các quan chức lãnh đạo cấp cao, các khoản tham
nhũng được thực hiện bên ngoài các quốc gia. Còn tham nhũng vặt là hình thức
nhũng nhiễu tồn tại trong các cơ quan quản lý, các đơn vị có quyền lực. Tham nhũng
vặt hay còn gọi là tham nhũng hành chính, loại tham nhũng này diễn ra thường ngày
khi các nhân viên công quyền tiếp xúc với người dân. Người dân phải trả chi phí
giao dịch không chính thức tại khu vực công.
Chi tiết hơn, trong Báo cáo chống tham nhũng ở Đông Á của Ngân hàng Thế giới
(2003), tham nhũng được chia ra làm nhiều cấp độ với những biểu hiện khác nhau
như bôi trơn (facititation payments), hối lộ (bribe), nhũng nhiễu (extortion), lại quả
(kickback), cấp nhà nước (state capture). Bôi trơn là hành động chi một khoản nhỏ
để đẩy nhanh những thủ tục thông thường. Hối lộ là chi tiền cho những kẻ tham
nhũng để đẩy người khác làm theo quyền lợi của người chi. Nhũng nhiễu là lợi dụng
chức quyền để thu tiền một cách bất hợp pháp. Lại quả chi tiền cho các nhân vật có
tác động sau khi một giao dịch được thực hiện. Cấp nhà nước là chính sách hay quy
chế của chính phủ chịu tác động của một nhóm tham nhũng.
Đối với Việt Nam, theo Luật Phòng chống tham nhũng (2005), tham nhũng được
phân loại theo hành vi. Theo đó, các hành vi tham nhũng gồm những hành vi như
sau: tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ
lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; giả mạo
trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có
chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc cảu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa
phương vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà
nước vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vự lợi;
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì



9

vụ lợi, cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Như vậy, tham nhũng là một trong những khái niệm có rất nhiều cách định nghĩa và
việc định nghĩa khái niệm này rất khó vì những vấn đề kéo theo của nó. Trên thế
giới và Việt Nam đã có rất nhiều bài nghiên cứu để tìm hiểu về nguyên nhân, nguồn
gốc, những mặt có lợi và có hại cũng như tác động của tham nhũng đến kinh tế,
chính trị và xã hội của một quốc gia, trong đó có tác động của tham nhũng đến FDI.
Phần tiếp theo sẽ trình bày các lý thuyết nền tảng để hỗ trợ cho mối quan hệ giữa
tham nhũng và dòng vốn FDI.
2.2. Các lý thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa FDI và tham nhũng
2.2.1. Lý thuyết về chi phí giao dịch

Khái niệm chi phí giao dịch đầu tiên được Ronald Coase đề cập trong bài viết nổi
tiếng năm 1937 của mình với tựa đề “Bản chất của doanh nghiệp.” Ông đặt ra câu
hỏi các lý thuyết kinh tế nhấn mạnh đến vai trò hiệu quả của cơ chế thị trường cạnh
tranh, nhưng tại sao quá nhiều hoạt động kinh tế lại diễn ra ngoài phạm vi của hệ
thống giá của thị trường. Ông kết luận rằng phải tồn tại một chi phí trên thị trường
mà chỉ có cơ cấu doanh nghiệp có thể thể tiết kiệm được. Từ đây, Kinh tế học về chi
phí giao dịch đã ra đời và nó là một phần của kinh tế học về thể chế kinh tế. Kenneth
Arrow (1996, trang 48) đã định nghĩa các chi phí giao dịch là “các chi phí vận hành
hệ thống kinh tế”. Chi phí giao dịch được phân thành tiền suy (trước khi ký kết hợp
đồng) hoặc hậu suy (sau khi ký kết hợp đồng). Các chi phí giao dịch tiền suy (ex
ante) là các chi phí soạn thảo, thương lượng, và bảo vệ một hợp đồng. Các chi phí
hậu suy (ex post) bao gồm các chi phí về sự thích nghi sai lầm phát sinh khi các giao
dịch chuyển dịch dần dần khỏi tình trạng liên kết phù hợp; các chi phí mặc cả phát
sinh khi thực hiện các nỗ lực song phương để chỉnh sửa những tình trạng liên kết sai



10

lầm xảy ra sau khi ký kết hợp đồng; các chi phí thành lập và điều hành gắn liền với
các cấu trúc quản trị và các chi phí về cam kết.
Các nghiên cứu về FDI hầu như tập trung vào tính hiệu quả dựa trên phân tích chi
phí giao dịch (Williamson, 1993). Lý thuyết chi phí giao dịch (TCT viết nguyên từ
gốc tiếng Anh trước khi viết tắt) sử dụng các giao dịch như là đơn vị cơ sở phân tích.
Một giao dịch xảy ra khi một hàng hóa hoặc dịch vụ được chuyển qua một giao diện
kỹ thuật tách rời. Vì vậy việc tổ chức hoạt động kinh tế được hiểu trong điều kiện
chi phí giao dịch. Theo đó, lý thuyết chi phí giao dịch có liên quan với chi phí tích
hợp một hoạt động trong công ty đối lập với chi phí của việc sử dụng từ thị trường
bên ngoài để hành động cho công ty trong thị trường quốc tế (Williamson, 1985;
Verbeke & Kano, 2012).
2.2.2. Lý thuyết về mô hinh OLI

Dựa vào lý thuyết chi phí giao dịch Dunning đã phát triển mô hình chiết trung
Ownership-Location-Internalisation (OIL) để phân tích hoạt động FDI. Theo
Dunning, một công ty dự định tham gia vào các hoạt động FDI cần có 3 lợi thế:
-

Lợi thế về sở hữu (Ownership advantages - O): Bao gồm lợi thế về tài sản, lợi

-

thế về tối thiểu hoá chi phí giao dịch;
Lợi thế về khu vực (Locational advantages – L): Bao gồm tài nguyên của đất
nước, qui mô và sự tăng trưởng của thị trường, sự phát triển của cơ sở hạ tầng,

-


chính sách của Chính phủ
Lợi thế về nội bộ hoá (Internalisation advantages – I): Bao gồm giảm chi phí ký
kết, kiểm soát và thực hiện hợp đồng; tránh được sự thiếu thông tin dẫn đến chi
phí cao cho các công ty; tránh được chi phí thực hiện các bản quyền phát minh,
sáng chế.

Theo lý thuyết OLI thì cả 3 điều kiện kể trên đều phải được thoả mãn trước khi có
FDI. Lý thuyết cho rằng: những nhân tố “đẩy” bắt nguồn từ lợi thế O và I, còn lợi


11

thế L tạo ra nhân tố “kéo” đối với FDI. Những lợi thế này không cố định mà biến
đổi theo thời gian, không gian và sự phát triển nên luồng vào FDI ở từng nước, từng
khu vực, từng thời kỳ khác nhau. Sự khác nhau này còn bắt nguồn từ việc các nước
này đang ở bước nào của quá trình phát triển.
Những tiền đề chính của mô hình là doanh nghiệp đa quốc gia phát huy lợi thế cạnh
tranh O tại đất nước của họ và sau đó chuyển ra nước ngoài nơi họ có thể khai thác
(dựa vào lợi thế địa điểm L) thông qua FDI, nó cho phép các doanh nghiệp đa quốc
gia tiếp thu tương tự quyền sở hữu O (Rugman, 2010; Dunning, 1981).
Mô hình OLI bao quát một loạt các biến kinh tế và xã hội; Cụ thể, chi phí kinh tế
gây ra bởi khoảng cách địa lý bao gồm vận chuyển và thuế và chi phí xã hội phát
sinh từ việc không quen biết, rủi ro quan hệ và phân biệt đối xử mà các công ty nước
ngoài đối mặt ở nước sở tại. Tuy nhiên, các chi phí kinh tế liên quan hiện nay đã
giảm với sự phát triển của công nghệ thông tin hiện đại và toàn cầu hóa. Mặt khác,
chi phí xã hội ngày càng được nhấn mạnh trong các nghiên cứu về chi phí hoạt động
ở nước ngoài (LoF1). Các rủi ro liên quan đến LoF đều dựa trên lý thuyết thể chế và
sử dụng khái niệm về khoảng cách thể chế (Driffield và cộng sự 2013; Dunning,
1993) (Eden & Miller, 2004; Zaheer, 2002; Calhoun, 2002; Eden & Miller, 2004;
Zaheer, 1995).

-

Thành phần O:

Theo Rugman & Verbeke (1992), các doanh nghiệp đa quốc gia có thể cẩn thận khi
lựa chọn nước nhận đầu tư cho các công ty con vì sự không chắc chắn và những khó
khăn bao gồm những bất lợi tiềm ẩn về chi phí của sự không chắc chắn (đặt những
doanh nghiệp đa quốc gia vào thế bất lợi về tài chính so với các doanh nghiệp trong
1 Liablity of Foreigness là chi phí hoạt động ở nước ngoài là một thuật ngữ mô tả các chi phí tăng
thêm mà công ty hoạt động bên ngoài đất nước của họ so với chi phí của các doanh nghiệp địa phương.
Những chi phí này có nguồn gốc từ sự giới hạn về kiến thức địa phương, thái độ kỳ thị các bên liên quan ở địa
phương và những khó khăn gây ra bởi các tổ chức quản lý mà các công ty con của MNE phải gánh chịu.


12

nước). Lợi thế quyền sở hữu ở nước sở tại cho phép các doanh nghiệp đa quốc gia
vượt qua chi phí khi hoạt động ở nước ngoài và chi phí gia nhập mới, đặc biệt là đối
với đặc thù của tài sản. Đặc thù của tài sản là một phần quan trọng của lợi thế quyền
sở hữu trong mô hình mà doanh nghiệp đa quốc gia thường sử dụng trong khi doanh
nghiệp địa phương thì không. Hơn nữa, những lợi thế này có thể được tận dụng ở
nước ngoài để bù đắp cho những bất lợi.
Lợi thế quyền sở hữu ràng buộc địa điểm (OAS), được định nghĩa là những lợi thế
sở hữu chỉ có thể khai thác ở một hoặc một vài địa điểm đặc biệt mà không làm
giảm hiệu quả, giá trị của nó bị giới hạn trong một lãnh thổ, không thể chuyển giao
dễ dàng và cũng không thể áp dụng hoặc chuyển đổi cho phù hợp ở những nước
khác (Birkinshaw, Hood và Jonsson, 1998; Shan & Song, 1997; Harzing, 2002).
Phân tích qua chi phí giao dịch, tham nhũng ở nước nhận đầu tư có thể quan sát
thông qua chỉ số chi phí/lợi nhuận nó sẽ cản trở các nhà đầu tư nước ngoài nếu chi
phí thương lượng tiềm ẩn vượt quá lợi nhuận của nó (Rose-Ackerman, 2008). Điều

này cho thấy rằng trong khi một số công ty không có kinh nghiệm đối phó với tham
nhũng ở trong nước của mình có thể là một bất lợi khi hoạt động ở những nước có
tham nhũng cao, mà điều này có thể không đúng đối với những công ty quen hoạt
động ở trong nước tham nhũng cao. Doanh nghiệp đa quốc gia có kiến thức xử lý
trong môi trường tham nhũng ở nước của mình có thể được khuyến khích bằng OAS
và sẵn sàng đầu tư vào các địa điểm tương tự. Vì vậy, khi phân tích tham nhũng ảnh
hưởng đến FDI như thế nào, điều quan trọng là phải biết rằng nếu một số công ty có
các kiến thức về chiến lược đối phó với tham nhũng ở nước nhà thì họ có thể tái
triển khai ở nước ngoài mà không tốn chi phí cao.
-

Thành phần L:

Một yếu tố quan trọng trong mô hình OLI của Dunning là lợi thế nội địa hóa L trong
nước nhận đầu tư. Doanh nghiệp đa quốc gia xác định nơi hoạt động ở nước ngoài


13

mà chi phí hoạt động được tối thiểu trong khi đó các doanh nghiệp nội đia hoạt động
ở nước ngoài để giảm chi phí bắt nguồn từ việc không chắc chắn (Wang, Hong,
Kafouros & Boateng, 2012a, 2012b). Tuy nhiên, các nhà phê bình lý thuyết Dunning
lập luận rằng phần L của mô hình quá tập trung vào thuộc tính vật lý của địa điểm
nước ngoài và không tính đến địa điểm thể chế của nó. Nhận thức được việc thiếu
nội dung thể chế trong mô hình, Dunning (1998) mở rộng hơn cho địa điểm bằng
cách bổ sung rủi ro chính trị, chính sách, quy định, khác biệt văn hóa và tỷ giá hối
đoái. Doanh nghiệp đa quốc gia muốn đầu tư FDI phải tính đến đặc điểm thể chế
nước nhận đầu tư, đặc biệt khi phân tích các nền kinh tế phát triển (Peng và cộng sự
2008), bao gồm cả chất lượng thể chế và sự tồn tại của tham nhũng.
2.2.3.


Thể chế quốc gia và tham nhũng

Theo Wei (2000a, 2000b), tham nhũng là một phần quan trọng của các thể chế một
quốc gia. Vì thế, tham nhũng nằm ở cốt lõi của bất kỳ môi trường quốc gia nào. Thể
chế được thiết kế có một cách có ý thức, nhân tạo và hữu hình, bao gồm “cấu trúc
của hệ thống hóa các quy định rõ ràng và tiêu chuẩn (Holmes và cộng sự, 2012 p.3).
Theo North (1990), trong toàn bộ môi trường quốc gia đề xuất sự đồng phát triển
của thể chế chính thức và phi chính thức, mà theo đó phong tục, tập quán và chuẩn
mực xã hội được hệ thống hóa và thể chế hóa. Quan điểm đồng phát triển tiếp tục
xuất hiện trong nghiên cứu của Holmes và đồng sự (2012, p4) ông lưu ý rằng các thể
chế chính thức phản ánh thể hiện và củng cố nền văn hóa của đất nước đến toàn dân.
Tương tự như vậy, Dunning và Lundan (2008, p579) tiếp nối bài nghiên cứu của
North (1990) nhấn mạnh rằng “bất cứ điều gì có thể ảnh hưởng đến việc ra quyết
định cá nhân như giáo dục, tập tục xã hội và hệ thống tín ngưỡng cũng có thể ảnh
hưởng đến sự lựa chọn các thể chế của bất kỳ nơi nào.
Xem tham nhũng như là một trong những thể chế quan trọng nhất của một địa điểm
nhất định, các học giả đã lập luận rằng tham nhũng có thể xem như một kết quả


14

phản ánh cơ sở pháp lý, kinh tế, văn hóa và chính trị của một quốc gia. Hành vi
tham nhũng có thể được thể chế hóa và do đó trở thành một chuyện bình thường ở
những địa điểm nhất định. Mức độ quốc gia của tham nhũng không chỉ được xác
định bởi các thể chế chính thức của pháp luật và thực thi pháp luật mà còn bởi các
chuẩn mực xã hội phi chính thức mà có thể chấp nhận được (Peng và cộng sự, 2008;
Svensson, 2005; Murphy, Shleifer & Vishny, 1993). Nghiên cứu của Ufere, Perelli,
Boland và Carlsson (2012) tìm thấy hành vi hối lộ tạo ra bởi các doanh nhân ở
Nigeria - một quốc gia bị chi phối bởi một tập hợp tốt vào các chuẩn mực xã hội, các

quy tắc, thói quen và quan hệ quyền lực. Đưa và nhận hối lộ có vẻ như là một việc
phổ biến đơn giản nhưng người nước ngoài có kiến thức hạn chế về pháp luật và
chuẩn mực địa phương có thể có nguy cơ mắc phải. Các chi phí liên quan trong xây
dựng và duy trì tính hợp pháp này đặt các doanh nghiệp đa quốc gia vào tình thế bất
lợi trong cạnh tranh (Eden & Miller, 2004). Ví dụ, doanh nghiệp trong nước có
nhiều khả năng thành công hơn nhờ việc giao dịch với các quan chức tham nhũng
cũng như tiếp cận với các nhà lập pháp; do đó, họ có lợi thế hơn những doanh
nghiệp khác (Anechiarico & Jacobs, 1996).
Mặc dù gần đây thuyết chi phí giao dịch trong mô hình OLI đã không xem xét môi
trường thể chế của một địa phương nước ngoài và tác động của sự không chắc chắn
về thể chế trong thu hút vốn FDI (Hosseini, 1994). Các thể chế có tác động đến hoạt
động của các công ty ở nước sở tại và do đó nó tác động đến chi phí giao dịch và
hợp tác trong hoạt động ở nước ngoài (Mudambi & Navarra, 2002). Bằng cách sử
dụng biến thể chế trong mô hình OLI, các nhà nghiên cứu đã mở rộng lý thuyết chi
phí giao dịch bằng việc kiểm tra khả năng mở rộng hoặc nâng cao lợi thế cạnh tranh
của công ty trong một thị trường cụ thể (Brouthers, 2013)
Vì thế để có được sự hợp pháp theo thể chế ở nước nhận đầu tư (tính đến toàn bộ
môi trường thể chế), doanh nghiệp đa quốc gia phải tuân theo những áp lực từ nước


15

nhận đầu tư trong việc trả tiền hối lộ và có thể làm như vậy trừ khi nước của chủ đầu
tư nghiêm cấm các hành vi đó. Bên cạnh những chi phí tạo ra bởi các giao dịch kinh
doanh, doanh nghiệp đa quốc gia cũng phải đối mặt với chi phí hành chính cao hơn
cho việc quản lý các mối quan hệ giữa các bên tham gia vào hoạt động kinh doanh ở
nước ngoài (Anderson & Gatignon, 1986; Buckley và Casson, 1998); chi phí này
được kết hợp với trách nhiệm của người nước ngoài, nơi mà khoảng cách thể chế và
ba trụ cột chính của nó giữa nước của chủ đầu tư và nước nhận đầu tư là những nhân
tố chính (Eden & Miller, 2004).

2.2.4. Lý thuyết về khoảng cách thể chế

Trong khi các thể chế nước nhận đầu tư thể hiện những rủi ro đối với nhà đầu tư
nước ngoài, gần đây các nhà nghiên cứu đã lập luận rằng nó không chỉ là môi trường
thể chế của nước nhận đầu tư làm tăng chi phí hoạt động ở nước ngoài mà còn là
khoảng cách thể chế giữa nước nhận đầu tư và nước của chủ đầu tư. Khoảng cách
thể chế được định nghĩa như là mức độ chênh lệch tương đồng giữa thể chế quản lý,
nhận thức và chuẩn mực của hai nước được sử dụng để giải thích hành vi của doanh
nghiệp đa quốc gia về tính hợp pháp hoạt động ở nước sở tại, quyết định địa điểm và
chiến lược thâm nhập (Kostove, 1996; Kostova & Zaheer, 1999, Xu & Shenkar,
2002). Khoảng cách thể chế càng lớn giữa quốc gia của nhà đầu tư và nước sở tại thì
các doanh nghiệp đa quốc gia càng khó khăn để tạo được tính hợp pháp bên ngoài
(Kostova & Roth, 2002). Trong nghiên cứu này, khoảng cách tham nhũng như là
một chi phí hoạt động ở nước ngoài và có thể được xem như là tập hợp con duy nhất
của khoảng cách thể chế liên quan đến cả thể chế chính thức và phi chính thức trong
các hình thức của cả hai ràng buộc về quy định và chuẩn mực.
2.2.5. Lý thuyết về khoảng cách tham nhũng và FDI

Mặc dù hợp lý khi cho rằng các công ty nước ngoài sẽ thiết kế các chiến lược để đối
phó với tham nhũng ở nước nhận đầu tư và tham nhũng có thể không tác động giống


16

nhau đến tất cả các công ty, nhưng điều này thật không dễ dàng (Rodriguez et al.,
2006). Trong khi tham nhũng có thể là một đặc trưng của các giao dịch giữa các bên
tư nhân và/hoặc bên công cộng, nó thường được xác định đơn thuần chỉ là sự lạm
dụng quyền lực công cộng để thu lợi cá nhân (Habib & Zurawicki, 2002; CuervoCazurra, 2006, p. 807). Các thước đo ở cấp quốc gia của tham nhũng cũng phản ánh
định nghĩa hẹp này, nắm bắt những người kinh doanh và nhận thức của các chuyên
gia quốc gia về mức độ tham nhũng trong khu vực công (Transparency International,

2010).
Có thể có sự khác biệt đáng kể giữa các nước liên quan đến khoảng cách về thể chế
giữa các nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư. Sự khác biệt này có thể có một tác
động đáng kể đối với một công ty đa quốc gia khi tiến hành các hoạt động ở nước
ngoài vì nó làm tăng chi phí giao dịch và rủi ro gắn liền với môi trường kinh doanh
“chưa biết” (Brouthers & Brouthers,2001). Môi trường kinh doanh chưa biết như
vậy làm tăng thêm khó khăn cho các nhà quản lý nước ngoài để hiểu được giá trị và
quy tắc của thị trường nước ngoài (Tihanyi, Griffith, & Russell, 2005), cũng như
tính hợp pháp của tổ chức. Tác giả sử dụng khái niệm khoảng cách tham nhũng để
nói về sự khác biệt mức độ tham nhũng giữa hai quốc gia. Trường hợp ủng hộ nước
nhận đầu tư (tức là nước nhận đầu tư có mức tham nhũng thấp hơn tương đối so với
nước chủ đầu tư) được gọi là khoảng cách tham nhũng dương, và ngược lại.
Trong bài viết của mình, Eden và Miller (2004) đã tập trung vào khoảng cách về thể
chế mà không xem xét nước chủ đầu tư hay nước nhận đầu tư có thể chế mạnh hơn
và cách thức nó ảnh hưởng đến chi phí hoạt động ở nước ngoài và lợi thế O như thế
nào. Các nghiên cứu hầu như cho rằng sự khác biệt về mức độ tham nhũng giữa
nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư càng lớn thì FDI sẽ bị cản trở càng nhiều
(Habib & Zurawicki, 2002).


17

Có ý kiến cho rằng không chỉ mức độ khoảng cách tham nhũng mà xu hướng của
khoảng cách này cũng tác động tới dòng FDI. Có thể các công ty đa quốc gia mong
đợi sẽ cảm thấy ít bị áp lực bởi các mối đe dọa mang tính hợp pháp, vì họ đã tham
gia vào quá trình lâu dài và tốn kém phát triển kiến thức về cách đối phó với tham
nhũng tại nước nhà và có thể sử dụng lợi ích mà họ học được từ tham gia các cơ
quan tham nhũng tại chính quốc (Cuervo-Cazurra, 2006). Mặt khác, có thể nước chủ
đầu tư (thường là nước phát triển) có mức độ tham nhũng tương đối thấp sẽ hạn chế
đầu tư vào nước nhận đầu tư có tham nhũng cao (thường là nước đang phát triển)

bởi vì công ty đa quốc gia dự kiến sẽ gặp khó khăn do sự bất ổn, chi phí tham gia
vào tham nhũng địa phương và đáp ứng được các yêu cầu, duy trì tính pháp lý. Chi
phí tách mình khỏi sự can thiệp của chính phủ là cao.
Tuy nhiên, mức độ rủi ro và sự không chắc chắn liên quan đến tham nhũng sẽ không
giống nhau ở các công ty khác nhau. Có thể là các nhà đầu tư nước ngoài của các
nước có tham nhũng cao sử dụng kiến thức của họ về cách đối phó với tham nhũng
là một lợi thế cạnh tranh (Cuervo- Cazurra & Genc, 2008) so với những người
không có kiến thức này. Nghiên cứu phân tích các công ty đa quốc gia từ các nước
đang phát triển đã phát hiện ra rằng những kinh nghiệm hoạt động trong điều kiện
thể chế lý tưởng ít hơn có thể được coi là một lợi thế sở hữu ràng buộc địa điểm
(Buckley, Clegg, Liu, Voss, và Zheng, 2007). Hơn nữa, những lợi thế O cho phép
các công ty ở các nước đang phát triển hoạt động hiệu quả hơn ở các nước đang phát
triển khác (Cuervo-Cazurra & Genc, 2008). Vì vậy, dựa trên lợi thế O một số công
ty có thể thích đầu tư vào các địa điểm nước ngoài tương đồng với môi trường chính
quốc của họ. Dựa trên điều này, tham nhũng có thể được xem là ảnh hưởng đến lợi
thế L hoặc là ngăn chặn hoặc khuyến khích FDI chảy vào. Kỹ năng có được trong
việc quản lý tham nhũng có thể giúp phát triển một lợi thế cạnh tranh nhất định
(Habib & Zurawicki, 2002) và do đó, khi quốc tế hoá, các công ty có thể không bị
cản trở bởi tham nhũng nước nhận đầu tư. Họ có thể tận dụng kiến thức thu được từ


18

nhờ làm việc với một chính phủ tham nhũng ngay tại nước nhận đầu tư và bị thu hút
bởi nước chủ đầu tư vì 3 lí do:
Đầu tiên, họ có thể phải đối mặt với chi phí thấp hơn trong việc đối phó với tham
nhũng của nước nhận đầu tư hơn là các công ty ở các nước đang phát triển. Thứ hai,
thậm chí họ có thể cố tình chọn những nước có mức độ tham nhũng cao (nhưng thấp
hơn của họ) bởi vì sự tương đồng điều kiện với nước của họ. Thứ ba, với việc được
trang bị kiến thức tiên tiến trong kinh doanh quốc tế và một mạng lưới quốc tế rộng

lớn, công ty đa quốc gia đã phát triển các kĩ năng tinh vi của sự hối lộ (Kwok &
Tadesse, 2006). Những công ty đã phát triển kiến thức về cách đối phó với tham
nhũng ở nước nhà có thể giảm thiểu rủi ro và chi phí do tham nhũng ở nước ngoài
2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm về về tham nhũng và FDI

2.3.1. Mối liên hệ giữa tham nhũng và FDI
Với việc mở rộng các hoạt động kinh doanh quốc tế cùng với việc công bố các chỉ
số tham nhũng, những nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến hành được tiến hành để
nghiên cứu mối liên hệ tham nhũng của một nước nhận đầu tư với dòng vốn đầu tư
vào trực tiếp nước ngoài của quốc gia
Quan điểm của Applebaum & Katz (1987), Murphy và cộng sự (1991), Shleifer và
Vishny (1993) cho rằng trong ngắn hạn, tham nhũng làm tăng chi phí đầu tư nước
ngoài của công ty. Công ty phải trả tiền hối lộ (giống như thêm một loại thuế), họ
phải bỏ tiền để tìm kiếm thông tin giao dịch tham nhũng và họ phải chịu thêm rủi ro
các giao dịch liên quan bởi vì giao dịch tham nhũng là giao dịch không được pháp
luật bảo vệ. Tham nhũng ở nước nhận đầu tư đóng vai trò như một bàn tay nắm lại
(grabbing hand) làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp và do đó làm giảm ưu đãi
của một công ty đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, tham nhũng làm giảm năng suất của
các yếu tố đầu vào nào (cơ sở hạ tầng) làm giảm sức hấp dẫn về địa điểm của một
quốc gia (Bardhan, 1997; Rose-Ackermann, 1999; Lambsdorff, 2003).


19

Mặt khác, các công ty đa quốc gia có thể sẵn sàng để chấp nhận hối lộ để tăng tốc độ
xử lý hồ sơ để có được những quyền pháp lý cho việc thiết lập một nhà máy tại nước
ngoài (Lui, 1985) và để đạt được quyền hoạt động tại các dự án tài trợ công cộng
(Tanzi và Davoodi, 2000). Trong trường hợp này, tham nhũng đóng vai trò như một
bàn tay giúp đỡ (helping hand), tăng lợi nhuận của các công ty đa quốc gia. Nếu
những tác động doanh thu lớn hơn những ảnh hưởng chi phí, tham nhũng được dự

kiến sẽ tăng vốn FDI.
Một số nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy, tham nhũng có tác động tiêu cực đến
dòng vốn chảy vào các quốc gia đang phát triển nơi hệ thống pháp luật còn nhiều kẽ
hở và tính dân chủ chưa cao. Các quốc gia đầu tư có mức độ tham nhũng thấp, chưa
có kinh nghiệm đối phó với tham nhũng, họ sẽ có tâm lý lo sợ các khoản chi phí bổ
sung ngoài dự kiến gia tăng làm lợi nhuận suy giảm, do đó họ sẽ chuyển hướng đầu
tư sang quốc gia khác có mức độ tham nhũng thấp hơn.
Nghiên cứu của Voyer & Beamish (2004), nghiên cứu gần 30 ngàn dự án của Nhật
bản ở 59 quốc gia, kết quả cho thấy tại các quốc gia đang phát triển tham nhũng tác
động tiêu cực đến nguồn vốn FDI đến từ Nhật Bản và tại các quốc gia công nghiệp
hóa tác động này không thấy rõ.
Nghiên cứu của Al-Sagid (2009), tác giả đã sử dụng dữ liệu bảng của 117 quốc gia
phát triển và đang phát triển trong khoảng thời gian 1984 -2004 cho thấy tham
nhũng có tác động tiêu cực đến dòng vốn FDI trong phạm vi các nước đang phát
triển, đối với các nước có pháp luật nghiêm minh và dân chủ cao thì tác động tiêu
cực này không thấy xuất hiện.
Nghiên cứu của tác giả Amarandei (2013) tập trung vào tác động của tham nhũng
đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu thu
thập từ 10 nước Đông Âu trong vòng 12 năm 2000-2012. Các biến được sử dụng
gồm biến FDI, GDP và chỉ số tham nhũng. Kết quả cho thấy một mối quan hệ có ý


20

nghĩa tiêu cực giữa tham nhũng và FDI và một mối quan hệ có ý nghĩa tích cực nhẹ
giữa GDP và FDI. Những kết quả này có thể được giải thích bởi thực tế là các nhà
đầu tư trực tiếp nước ngoài quyết định đầu tư hay không sau khi đã phân tích các
yếu tổ tác động đến môi trường kinh doanh.
Theo kết quả nghiên cứ của Quazi (2014) về FDI và các nước khu vực Đông Á và
Nam Á, tác giả đã sử dụng một số biến như chỉ số tự do kinh tế, chỉ số cơ sở vật

chất, biến lãi suất, biến chỉ số vốn con người. Bộ dữ liệu từ 1995-2011 gồm 7 nước
Nam Á (Bangladesh, Bhutan, Ấn độ, Maldives, Nepal, Pakistan và Sri Lanka) và 9
nước Đông Á (Cambodia, Trung quốc, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines, Hàn
Quốc, Thái Lan và Vietnam). Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố như vốn con
người, chỉ số phát triển cơ sở hạ tầng, chỉ số tự do nền kinh tế có tác động tích cực,
tuy vậy yếu tố tham nhũng có tác động tiêu cực nguồn vốn FDI của các nước.
Mặt khác, một số tác giả khác đã tìm thấy rằng tham nhũng có thể có tác động tích
cực đến nguồn vốn FDI vì nó tạo điều kiện cho các giao dịch ở những nước có quá
nhiều quy định (Egger & Winner, 2005). Tham nhũng tạo ra chất bôi trơn cho các
giao dịch, góp phần thúc đẩy các giao dịch được nhanh hơn giảm đi chi phí phát sinh
trong quá trình chờ đợi vấn đề được giải quyết của các công ty đa quốc gia đầu tư.
Nghiên cứu của Egger và Winner (2005) về tác động của tham nhũng đến dòng vốn
FDI đã sử dụng mẫu gồm 73 quốc gia phát triển và đang phát triển trong khoảng
thời gian 1995-1999. Tác giả nhận thấy rằng chất lượng pháp luật, chất lượng nguồn
nhân lực và GDP thực sự tác động tích cực đến thu hút dòng vốn FDI. Tác động của
tham nhũng lên dòng vốn FDI xảy ra trong dài dạn và làm tăng dòng vốn FDI.
Một nghiên cứu khác của Quazi và cộng sự (2014) về tác động của tham nhũng đối
với FDI tại các nước châu Phi, tác giả sử dụng dữ liệu từ 1995-2012 của 53 nước
châu Phi, trong đó các biến là FDI, chỉ số tham nhũng (CPI), kích thước thị trường
(marketsize), chỉ số hiệu quả của chính phủ (government effectiveness), độ mở nền


21

kinh tế (Economic Openness), chỉ số tự do kinh tế (Economic Freedomm), chỉ số cơ
sở vật chất (Infrastructure). Qua nghiên cứu, tác giả nhận ra rằng tham nhũng có tác
động tích cực đến FDI của các nước châu Phi. Tham nhũng giúp bôi trơn các giao
dịch, thúc đẩy luồng FDI vào các nước này nhanh hơn. Tuy nhiên, tác động tích cực
này chỉ tồn tại một thời gian, khi các nước châu Phi theo kịp các khu vực khác thì
tác động của tham nhũng sẽ theo chiều hướng tiêu cực.

Tuy nhiên cũng có một vài nghiên cứu thực nghiệm vẫn không tìm thấy mối quan hệ
nào giữa hai biến tham nhũng và FDI (Henisz, 2000; Wheeler & Mody, 1992).
Trong nghiên cứu của Wheeler và Mody (1992) đã sử dụng sự kết hợp giữa chi phí
giao dịch và các biến thể chế bao gồm tham nhũng. Họ nhận thấy rằng tham nhũng,
rủi ro chính trị, và các ưu đãi ngắn hạn ít ảnh hưởng đến việc thu hút FDI của Mỹ ở
nền kinh tế đang phát triển; các nhà đầu tư ưa thích sự phát triển cơ sở hạ tầng tốt,
nhà cung cấp chuyên ngành, và một thị trường phát triển.
Henisz (2000) đã nghiên cứu hoạt động FDI của các công ty đa quốc gia Mỹ ở các
nước có rủi ro chính trị cao và kết luận rằng tham nhũng không có tác động đáng kể
đến quyết định địa điểm. Tuy nhiên, một nhược điểm rõ ràng của nghiên cứu này, là
Henisz (2000) chỉ kiểm tra công ty đa quốc Mỹ mà không quan tâm đến thị trường
nội địa của địa điểm nước ngoài, điều này có thể làm ảnh hưởng đến kết quả.
Nghiên cứu của Akcay (2001) về mối quan hệ giữa tham nhũng và nguồn vốn FDI
của 52 quốc gia đang phát triển đã không tìm thấy bằng chứng về ảnh hưởng của
tham nhũng lên số vốn FDI của các nước.
2.3.2. Mối liên hệ giữa chênh lệch tham nhũng và FDI
Nghiên cứu của Habib and Zurawicki (2002) đã phân tích dòng vốn FDI song
phương từ 7 nước chủ đầu tư và 89 nước nhận đầu tư. Tác giả đánh giá tham nhũng
theo hai cách – mức độ tham nhũng của nước nhận đầu tư và sự khác biệt giữa mức
độ tham nhũng của nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư đã chỉ ra rằng mức độ


22

tham nhũng cao của nước nhận đầu tư sẽ ngăn cản FDI. Theo đó, các nước có mức
độ tham nhũng khác nhau tránh giao dịch với nhau và “các công ty nước ngoài
không sẵn sàng đối phó với quy hoạch và những cạm bẫy trong quá trình hoạt động
liên quan tới một môi trường có mức độ tham nhũng khác nhau.
Theo Rose-Ackermamn (2008), nhấn mạnh rằng chênh lệch tham nhũng là chênh
lệch trong khu vực công giữa các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư. Kết quả cho

thấy chênh lệch tham nhũng tác động cùng chiều với nguồn vốn FDI khi mà tham
nhũng ở nước đầu tư cao hơn nước nhận đầu tư và ngược lại.
Đáng chú ý nhất là bài nghiên cứu về mối liên hệ giữa chênh lệch tham nhũng giữa
các nước và FDI tại khu vực Mỹ La Tinh của Godinez & Liu (2013), tác giả xem xét
dòng vốn FDI đến 12 quốc gia ở Mỹ La tinh từ năm 2006-2009: Argentina, Brazil,
Chile, Colombia, Costa Rica, Ecuador, Guatemala, Honduras, Mexico, Nicaragua,
Panama, and Peru. Bài viết này lập luận rằng khi đầu tư ở nước ngoài, nhà đầu nước
ngoài có thể bị ảnh hưởng không chỉ bởi tham nhũng ở nước nhận đầu tư, mà còn
bởi khoảng cách tham nhũng và hướng của nó. Để tìm hiểu vấn đề này, các tác giả
đề xuất hai giả thuyết. Giả thuyết thứ nhất là tham nhũng sẽ có tác động nghịch biến
đến dòng vốn FDI vào các nước Mỹ Latinh. Giả thuyết thứ hai thì được chia thành
hai phần. Phần đầu tiên đề xuất khoảng cách tham nhũng dương sẽ có quan hệ đồng
biến với dòng vốn FDI khi nước chủ đầu tư có mức tham nhũng cao hơn nước nhận
đầu tư. Trong khi đó phần thứ hai cho rằng khoảng cách tham nhũng âm sẽ có mối
quan hệ nghịch biến đến dòng vốn vào FDI.
Kết quả của các tác giả ủng hộ giả thuyết 1 và 2a dựa trên tiền đề là khoảng cách
tham nhũng sẽ tác động nghịch biến đến nhà đầu tư ở nước có mức độ tham nhũng
thấp khi đầu tư vào các nước có mức độ tham nhũng cao. Các báo cáo này dựa trên
chi phí giao dịch thấp và lợi thế sở hữu của doanh nghiệp có thể đạt được tại nước
họ và có thể triển khai lại ở nước ngoài khi đầu tư vào nước khác có môi trường thể


23

chế tương tự. Trong khi đó, các kết quả không chỉ ra được một ý nghĩa thông kê
mạnh, chúng còn làm sáng tỏ việc nghiên cứu về tham nhũng và những tác động đến
FDI. Những kết quả này cho rằng mức độ tham nhũng không thể ngăn cản FDI mà
thay vào đó, khoảng cách tham nhũng và phương hướng phát triển của nó có thể ảnh
hưởng đến FDI. Hơn nữa, kết quả của các tác giả không có ý nghĩa thống kê cho giả
thuyết 2b. Tuy nhiên, điều này có nghĩa là các công ty thành lập ở các nước có mức

tham nhũng cao khi đi đầu tư ở nước khác thì không bị tác động bởi mức tham
nhũng ở các nước nhận đầu tư.
Hầu hết các nghiên cứu về đề tài này kết luận rằng tham nhũng ngăn cản FDI (Judge
et al., 2011). Tuy nhiên, nghiên cứu của các tác giả chỉ ra rằng tham nhũng và
khoảng các tham nhũng có tác động khác nhau phụ thuộc vào nguồn gốc nước chủ
đầu tư. Hơn nữa, khi khoảng cách tham nhũng giữa nước chủ đầu tư có mức tham
nhũng thấp và nước nhận đầu tư có mức tham nhũng cao càng lớn thì mức FDI sẽ
càng thấp. Tuy nhiên khi cả nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư đều tham nhũng,
khoảng cách tham nhũng không có ảnh hưởng đáng kể đến FDI. Điều này là do các
công ty quen thuộc với hoạt động tại các nước tham nhũng cao đã tiếp thu những
kiến thức để đối phó với tham nhũng ở nước ngoài và sử dụng nó như lợi thế cụ thể
của công ty (firm-specific O-advantage) (Cuervo-Cazurra & Genc, 2008). Mặt khác,
những công ty có trụ sở tại các nước có tham nhũng không đáng chú ý thì phải đối
mặt với chi phí cao hơn để học cách đối phó với tham nhũng ở một vị trí nước
ngoài.
Nghiên cứu này cũng nhóm các biến thể chế vào phần L của mô hình OLI để phân
tích tham nhũng ảnh hưởng đến FDI như thế nào. Một gánh nặng lớn hơn của các
công ty nước ngoài là việc tăng chi phí nghiên cứu, đàm phán và thực thi các hoạt
động ở nước ngoài, và những điều này có thể ngăn cản FDI vào địa điểm nhất định
(Meyer, 2001). Do đó, các công ty thích đầu tư vào những môi trường tương tự với


24

đất nước của họ (Johanson & Vahlne, 1977), trong đó có thể bao gồm cả mức độ
tham nhũng. Do đó các tác giả đẩy mạnh các phần L của mô hình OLI bằng cách
thêm khoảng cách tham nhũng nhưng một thước đo cho khoảng cách thể chế giữa
nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư trong khái niệm chi phí hoạt động ở nước
ngoài.
Bằng cách phân tích dòng FDI dựa trên nguồn gốc đất nước, hoặc tính tham nhũng

cao hay thấp, là những vấn đề quan trọng nảy sinh. Bài nghiên cứu này khẳng định
tham nhũng ngăn cản thu hút FDI. Tuy nhiên, tuyên bố này có thể hợp lệ nếu nước
chủ đầu tư có mức tham nhũng thấp hơn nước nhận đầu tư đang có mức tham nhũng
cao. Kết quả này cho rằng các công ty có trụ sở ở các nước có tham nhũng thấp thì
nhìn thấy tham nhũng là nguy cơ cao và tốn kém, do đó tránh tham nhũng ở nước
ngoài (Habib & Zurawicki, 2001). Tuy nhiên tùy nguồn gốc FDI được chia vào các
nước có mức tham nhũng cao hay thấp, chúng ta có thấy rằng tham nhũng có những
ảnh hưởng khác nhau đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Các công ty có trụ sở tại các nước phát triển nói chung là không quen phải đối phó
vơi tham nhũng ngay trên sân nhà và họ đã kí OECD chống tham nhũng trong các
giao dịch kinh doanh quốc tế (OECD, 1997). Do đó họ đối mặt với áp lực lớn hơn
để có được tính hợp pháp từ chính phủ nước họ và trụ sở chính của họ hơn là các
công ty từ những nước có tham nhũng cao. (Rose-Ackerman, 1999). Glynn và
Abzug (2002) lập luận rằng để đạt được tính hợp pháp, các doanh nghiệp phải thích
ứng với bối cảnh thể chế nơi mà họ sẽ hoạt động. Điều này có nghĩa là các công ty
có trụ sở tại các nước ít tham nhũng, hay tham nhũng không được tha thứ, thì các
công ty này nên tránh tham gia vào các giao dịch có tham nhũng ở nước ngoài. Mặt
khác, các công ty đa quốc gia (MNEs) có trụ sở ở những nước có sự tham nhũng cao
thì đã từng hoạt động ở các nước có thể chế kém phát triển (Dawar & Frost, 1999),
và không ký vào các điều luật. Vì vậy, khi đối mặt với các tình huống tương tự ở


25

nước ngoài, họ đã có kinh nghiệm kể đối phó những tình huống với áp lực nhở từ
các cổ đông; thêm vào đó, họ không có một trở ngại pháp lý để tham gia vào các
hành vi tham nhũng. Điều này có thể là lý do giải thích tại sao tham nhũng không có
tác động nghịch biến đến FDI từ những nước có tham nhũng cao đến Mỹ Latinh
Tóm lại, các nghiên cứu trước đây đã sử dụng các yếu tố liên quan đến tham nhũng,
khoảng cách tham nhũng, các yếu tố liên quan đến thể chế quốc gia và các yếu tố vĩ

mô khác để giải thích cho mức độ dòng vốn FDI chảy vào các quốc gia với những
kết quả khác nhau. Sử dụng các kết quả này, phần tiếp theo sẽ trình bày phương
pháp nghiên cứu để tìm hiểu mối quan hệ giữa các nhóm nhân tố trên với tình trạng
vốn FDI ở khu vực các nước Đông Nam Á.


×