Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (694.45 KB, 148 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trước đổi mới (1986), ý thức sáng tác của các nhà văn trong đó có các nhà tiểu
thuyết lịch sử đều chịu sự chi phối bởi quan niệm thẩm mĩ của hệ hình hiện thực xã hội
chủ nghĩa với một số nguyên tắc về khuynh hướng nghệ thuật được đề cao như những
chuẩn mực mang tính pháp quy, coi trọng tính tương đồng với những mô hình, khuôn
mẫu nghệ thuật có sẵn mang tính độc tôn, khép kín. Tính khác biệt ít được coi trọng. Sau
1986, tiểu thuyết Việt Nam từng bước đổi mới không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi, lạ hoá
mà còn là sự thay đổi quan niệm về thể loại nhằm vươn tới tầm vóc của tiểu thuyết và tầm
đón đợi của người đọc đương đại. Sự đổi mới tiểu thuyết, vì thế vừa hướng tới chủ thể
sáng tạo vừa hướng tới chủ thể tiếp nhận. Những nỗ lực cách tân của người viết đòi hỏi
người đọc phải chủ động với cách đọc, cách cảm thụ tác phẩm, tránh tình trạng quen với
lối đọc của hệ hình cũ.
1.2. Khắc phục những hạn chế mang tính lịch sử của các thời kỳ trước, tiểu thuyết
lịch sử sau 1986, đặc biệt là thập niên đầu thế kỉ XXI đã từng bước cách tân, đáp ứng nhu
cầu của người đọc cũng như đảm bảo sự sống còn của thể loại. Các tác giả tiểu thuyết lịch
sử đã có cách xử lí linh hoạt mối quan hệ giữa lịch sử và hư cấu để đảm bảo đặc trưng thể
loại và chuyển tải được nhiều vấn đề về cuộc sống hiện đại. Lịch sử dưới ngòi bút của họ
là kết quả của sự nhận thức lại một cách sâu sắc bằng những kiến giải giàu tính thuyết
phục. Trong thực tiễn sáng tác, nhất là mười năm đầu thế kỉ XXI, các cây bút tiểu thuyết
lịch sử đã có ý thức tìm tòi, đổi mới nghệ thuật và kỹ thuật tiểu thuyết trên cơ sở gắn nó
với nội dung nhân bản, xã hội để thúc đẩy thể loại phát triển, góp phần cách tân và hiện
đại hóa văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sự đổi mới ấy vừa phản ánh sự đổi mới chung vừa có
những đóng góp riêng vào nghệ thuật tự sự của văn học. Từ đó, tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam nói chung và tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI nói
riêng không chỉ đóng góp cho nền tiểu thuyết dân tộc thêm phong phú mà còn tạo dựng
một vị thế xứng đáng trên văn đàn và trong lòng độc giả bằng những tác phẩm lớn ở cả
phương diện nội dung lẫn nghệ thuật biểu hiện.
1.3. Trong mười năm đầu thế kỉ XXI, với sự thay đổi ý thức thẩm mĩ của người viết,
tiểu thuyết lịch sử đã đạt những thành tựu đáng trân trọng với những tác phẩm tiêu biểu
như: Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Mạc Đăng Dung (Lưu Văn Khuê),


1


Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Hội thề
(Nguyễn Quang Thân), Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh), Tám triều vua Lý (Hoàng
Quốc Hải), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn), Minh sư
(Thái Bá Lợi), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam),…
Lịch sử trong quan niệm của các nhà tiểu thuyết đương đại không đơn thuần là tái tạo lại
không khí thời đại mà đã có nhiều biến chuyển theo hướng đối thoại, luận giải, nhận thức
lại lịch sử, gắn liền với cảm thức văn hóa và sự thức nhận về hiện thực đời sống đương đại.
1.4. Nhìn chung, tiểu thuyết lịch sử vẫn đang tiếp diễn và qua những chặng đường
phát triển, rất cần có những công trình khoa học tổng kết, nhận diện những đặc trưng của
nó. Do đó, đi sâu tìm hiểu Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên
đầu thế kỉ XXI là để hiểu rõ hơn những nỗ lực tìm kiếm trong tư duy nghệ thuật mới mẻ
của các tác gia viết tiểu thuyết lịch sử giai đoạn đầu thế kỉ XXI nói riêng và các nhà
tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói chung. Từ đó, chúng ta sẽ có những đánh giá thỏa
đáng về những đóng góp thật sự của thể loại này trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt
Nam đương đại.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án khảo sát toàn diện đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập
niên đầu thế kỉ XXI. Do số lượng tiểu thuyết lịch sử giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI rất
lớn nên luận án chỉ tập trung vào những tác phẩm nổi bật cho từng khuynh hướng và mang
những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này (luận án xác định thể loại dựa
trên nội hàm khái niệm về tiểu thuyết lịch sử được giới thuyết trong từ trang 10 - 12). Bên
cạnh đó, luận án khảo sát một số tác phẩm xuất bản sau 2010 nhưng được sáng tác trong
giai đoạn này như: Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh) (2011), Huyền Trân (Nguyễn
Hữu Nam) (2011), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn) (2012). (Phụ lục 1)
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận án Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập niên đầu thế

kỉ XXI, chúng tôi tập trung tìm hiểu những đặc trưng cơ bản thể loại trên các phương diện:
dạng thức, xu hướng thể loại, thế giới nhân vật; một số phương thức tự sự như người kể
chuyện, điểm nhìn trần thuật và diễn ngôn trần thuật.
3. Cơ sở lý thuyết
2


Luận án sử dụng lý thuyết thi pháp học, tự sự học và lý thuyết về thể loại tiểu thuyết
lịch sử và lý thuyết tân lịch sử để nghiên cứu. Trên cơ sở lý thuyết, chúng tôi xác định các
vấn đề cần giải quyết trong luận án như sau:
1. Thông qua việc tổng quan tài liệu, các lý thuyết và các công trình nghiên cứu có
liên quan mật thiết đến đề tài nghiên cứu, luận án chỉ ra những điểm tương đồng cũng như
sự khác biệt, những thành công cũng như hạn chế của các công trình nghiên cứu trước
đây để kế thừa hay khắc phục trong luận án, đồng thời, đưa ra quan điểm để giải quyết
vấn đề nghiên cứu của đề tài mà tác giả đã xác định.
2. Luận án làm sáng tỏ quan niệm về thể loại, xác định những dạng thức, xu hướng
thể loại, thế giới nhân vật và phương thức tự sự trên cơ sở đối sánh với tiểu thuyết lịch sử
giai đoạn trước đây. Từ đó, luận án có thể xác định những đổi mới cũng như những đóng
góp của thể loại vào tiến trình phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong giai đoạn
mười năm đầu thế kỉ XXI.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
– Phương pháp loại hình: Luận án đặt các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử trong cùng
một hệ thống nhằm xác định những đặc trưng của thể loại với cái nhìn tổng thể trên các
phương diện nội dung và hình thức phản ánh. Từ đó, luận án xác định danh tính và ý
nghĩa của chúng trong một hệ thống, đồng thời nhận dạng cấu trúc của hệ thống đó.
– Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Giải mã cấu trúc văn bản tiểu thuyết lịch sử
từ các góc độ: Tự sự học, Thi pháp học, Tân lịch sử. Từ đó, thiết lập và sắp xếp các vấn
đề một cách logic, khoa học; xem xét, đánh giá trong tính chỉnh thể của chúng.
– Phương pháp so sánh: Phương pháp này được vận dụng để tìm hiểu những nét

tương đồng và dị biệt trong tư duy tự sự lịch sử và các phương thức nghệ thuật của tiểu
thuyết lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI so với giai đoạn trước đó nhằm khẳng định tư duy
nghệ thuật mới mẻ của các nhà văn đương đại trong tiến trình phát triển của tiểu thuyết
Việt Nam đương đại.
- Phương pháp liên ngành: Luận án sử dụng kiến thức của các ngành khoa học xã
hội khác như: sử học, dân tộc học, triết học, văn hóa học, tâm lý học,... để khai thác, bổ
sung, nhấn mạnh những phương diện văn hóa – lịch sử nào đó trong tác phẩm.

3


Ngoài ra, luận án cũng thường xuyên sử dụng một số thao tác nghiên cứu như
thống kê phân tích, tổng hợp nhằm đưa ra những luận chứng cụ thể, sinh động chứng
minh cho những luận điểm được tác giả trình bày trong luận án.
5. Đóng góp khoa học của luận án
Với đề tài này, luận án hy vọng sẽ đóng góp được những vấn đề có ý khoa học sau:
Thứ nhất, thông qua việc khảo sát và hệ thống hóa tư liệu về tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI, luận án cung cấp cái nhìn tổng quan về diện mạo của
tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI.
Thứ hai, trên cơ sở chỉ ra sự đổi mới quan niệm thể loại trong bối cảnh mới, luận án
dựa vào khung chủ đề và kết cấu của tác phẩm để xác định một số xu hướng và dạng thức
tiêu biểu (mang tính tương đối) của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI.
Thứ ba, từ góc độ loại hình, luận án phân loại và đưa ra một số kiểu nhân vật và
phương thức xây dựng nhân vật theo đặc trưng của thể loại, đồng thời chỉ ra sự vận động
của thể loại thông qua quan niệm nghệ thuật về con người.
Thứ tư, luận án đi vào làm rõ ba phương thức tự sự mang tính đặc trưng của tiểu
thuyết lịch sử: người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, diễn ngôn trần thuật trong cái nhìn
đối sánh với tiểu thuyết lịch sử giai đoạn trước đó nhằm khẳng định sự đổi mới và đóng
góp của thể loại tiểu thuyết lịch sử trong nền văn học Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc của luận án

Ngoài Mở đầu trình bày những vấn đề chung có tính trường quy như: Lý do chọn
đề tài, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, Cơ sở lý thuyết, Phương pháp nghiên cứu; Kết
luận; Tài liệu tham khảo, Phụ lục; Nội dung chính của luận án được cấu trúc thành bốn
chương, cụ thể:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu: Luận án trình bày một cách khái quát
về tình hình nghiên cứu thể loại tiểu thuyết lịch sử hiện đại ở Việt Nam nói chung và tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI nói riêng. Trên cơ sở đó, luận án tìm ra
những “khoảng trắng” trong việc xác định danh tính và ý nghĩa của thể loại tiểu thuyết
lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI trong một hệ thống thể loại, đồng thời nhận dạng những
đặc trưng cấu trúc của hệ thống đó.
Chương 2. Đặc trưng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI - nhìn
từ các xu hướng và dạng thức thể loại: Luận án tập trung phân loại thể loại tiểu thuyết
4


lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI nhìn từ các xu hướng và dạng thức thể loại. Đồng thời,
luận án tập trung khảo sát, so sánh, từ đó, chỉ ra những đổi mới về tư duy, xu hướng thể
loại và sự đa dạng về dạng thức của thể loại so với giai đoạn trước đây.
Chương 3. Đặc trưng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI – nhìn
từ thế giới nhân vật: Luận án tập trung phân loại nhằm xác định loại hình nhân vật có
cùng những đặc trưng cơ bản trong tiểu thuyết lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI: nhân vật
sử thi hóa, nhân vật huyền thoại hóa, nhân vật thế tục hóa. Đồng thời, luận án chỉ ra
phương thức nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua nghệ thuật khắc họa ngoại hình,
hành động và tâm lý nhân vật.
Chương 4. Đặc trưng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI – nhìn
từ phương thức tự sự: Luận án tập trung khảo sát, phân tích, so sánh đối tượng trên một số
phương diện trần thuật như người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật và diễn ngôn trần thuật
nhằm chỉ ra những hình thức đổi mới về tư duy thể loại trên cấp độ tự sự, đặc biệt, luận án
nhận diện những hình thái diễn ngôn mới về lịch sử trong việc mở rộng biên độ sáng tạo
trong tiến trình vận động của thể loại.


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam

5


Thuật ngữ tiểu thuyết lịch sử (TTLS) xuất hiện khá sớm từ phương Tây, được sử
dụng phổ biến trên thế giới và đã có nhiều quan niệm khác nhau của những nhà TTLS nổi
tiếng về đặc trưng của thể loại này như A.Dumas, H.S.Haasse, P.Louis – Rey, Lucacs,
D.Brewster và J.Burell… Chẳng hạn, trong công trình Tiểu thuyết hiện đại, hai nhà
nghiên cứu D.Brewster và J.Burell đã chỉ ra vai trò của hư cấu nghệ thuật, cá tính sáng tạo
của nhà văn trong việc thể hiện hiện thực lịch sử và nhiệm vụ của TTLS: “Tiểu thuyết lịch
sử có thể thoát thai từ ước ao của một tác giả muốn đào thoát khỏi hiện tại, đồng thời thỏa
mãn ước ao tương tự của độc giả. Nhưng tiểu thuyết lịch sử còn nhiều tác dụng nữa. Nó
có thể soi sáng những thời kì quá khứ con người đã trải qua, với những mục đích rõ ràng
là gạn lọc những tình trạng tiến thoái lưỡng nan của hiện tại” [19, 62]. Trương Đăng Dung
trong bài Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mỹ học của Lucacs trình bày quan niệm của
G.Lucacs về thể loại: “Tiểu thuyết lịch sử phản ánh và mô tả sự phát triển hiện thực của
lịch sử một cách nghệ thuật, vì thế nó phải lấy kích thước nội dung và hình thức từ chính
cái hiện thực đó” [139, 455]; nhiệm vụ của nhà văn viết TTLS là “phải chứng minh sự tồn
tại của hoàn cảnh và các nhân vật lịch sử bằng công cụ nghệ thuật” và “nhiệm vụ của nhà
văn viết tiểu thuyết lịch sử là phải tạo dựng được một cách phong phú các tác động tương
hỗ, cụ thể khớp với hoàn cảnh lịch sử mô tả” [139, 451].
Ở Việt Nam, thuật ngữ tiểu thuyết lịch sử cũng được tường giải khá rõ. Theo Từ
điển Thuật ngữ văn học thì TTLS là “Các tác phẩm viết về đề tài lịch sử có chứa đựng các
nhân vật và các chi tiết hư cấu, tuy nhiên nhân vật chính và sự kiện chính thì được sáng
tạo trên các sử liệu xác thực trong lịch sử,… Tác phẩm văn học lịch sử thường mượn
chuyện xưa để nói chuyện đời nay, hấp thu những bài học của quá khứ, bày tỏ sự đồng

cảm với những con người và thời đại đã qua…” [51, 109]. Ngoài ra, rất nhiều tác giả
trong những bài viết của mình đã đưa ra khái niệm cũng như nhiệm vụ của thể loại. Theo
Hải Thanh thì “Tiểu thuyết lịch sử là sự sáng tạo, hư cấu trên cái nền đã ổn định của sự
kiện lịch sử và nhân vật lịch sử. Nhà tiểu thuyết lịch sử có thể tha hồ bay lượn trong không
gian tưởng tượng sáng tạo nhưng phải nhằm mục đích làm sáng tỏ hơn lịch sử, đem đến
những cảm hứng, làm giàu thêm vốn thẩm mĩ mới cho bạn đọc về lịch sử” [116]. Trong bài
Mã lịch sử và mã văn hóa trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986, Nguyễn Văn Hùng
đã nêu lên cách hiểu về thể loại “Tiểu thuyết lịch sử là loại hình tiểu thuyết lấy đề tài lịch
sử làm nội dung chính. Viết về quá khứ đã qua, công việc của nhà viết tiểu thuyết lịch sử
là làm sống lại lịch sử bằng việc phục hiện lại các sự kiện, biến cố lịch sử, khám phá
những bí ẩn, khuất lấp, lí giải lịch sử từ số phận cá nhân và tìm ra sợi dây liên hệ giữa quá
6


khứ với đời sống hiện tại” [62]. Bùi Văn Lợi trong luận án Tiểu thuyết Việt Nam từ những
năm đầu thế kỷ XX đến 1945 – diện mạo và đặc điểm đưa ra khái niệm: "Tiểu thuyết lịch
sử là những tác phẩm mang trọn đặc trưng tiểu thuyết nhưng lại lấy nội dung lịch sử làm
đề tài, làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật" [83, 23]. Tác giả Nguyễn Thị Tuyết Minh với
đề tài Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay là công trình mang tính khái quát,
tổng hợp và tiếp nối những thành tựu của tác giả Bùi Văn Lợi nhằm khu biệt về các loại
hình nhân vật lịch sử, các khuynh hướng tái tạo lịch sử cùng các phương thức tự sự của
TTLS sau 1945 đến những năm đầu thế kỉ XXI. Trong đó, tác giả đưa ra định nghĩa: “lịch
sử là những gì đã qua, đã thuộc về quá khứ, đã khuất lấp bởi một khoảng thời gian dài mà
về văn hóa, đời sống đã khác với con người hiện đại.” [88, 27]. Nhìn chung, trên cơ sở so
sánh với các tiểu thuyết giao thoa, cả hai tác giả đã khu biệt kiểu viết về lịch sử mới của
tiểu thuyết và những đặc điểm của nó, tuy vậy vấn đề khái niệm TTLS đưa ra vẫn chưa cụ
thể và chưa đáp ứng được yêu cầu của thể loại. Đỗ Hải Ninh quan niệm rằng: “Tiểu
thuyết lịch sử là sự phản ánh chân thực các sự kiện, nhân vật lịch sử trong quá khứ đã
được tiếp nối bằng đối thoại với lịch sử, siêu hư cấu lịch sử, giả lịch sử” [103]. Đặc biệt,
nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng TTLS không gì khác hơn chính là “sáng tạo nhân

vật và đời sống của một thời kì lịch sử cụ thể không lặp lại”. Nhiệm vụ của TTLS “không
phải là kể lại, tái hiện sự thật lịch sử… mà là sáng tạo ra diễn ngôn mới về lịch sử, nêu ra
cách nói mới, góc nhìn mới, phán xét mới, gợi mở khả năng mới” [112, 455].
Ngoài ra, rất nhiều công trình nghiên cứu về bản chất, đặc trưng cơ bản của TTLS
khi phân biệt sự khác nhau giữa nhà viết sử học với nhà viết TTLS, sự đồng cảm của nhà
văn với các nhân vật lịch sử và thời đại lịch sử, các kiểu TTLS trong kinh nghiệm sáng tác
của các nhà văn, đổi mới quan niệm xem TTLS như là diễn ngôn về lịch sử... Trong tuyển
tập Phan Cự Đệ, tập 1, nhà nghiên cứu đã dành một phần quan trọng nghiên cứu về thể
loại này. Trong đó, ông khái quát tiến trình phát triển của TTLS hiện đại, đưa ra quan
niệm đồng thời chỉ ra những đặc trưng cơ bản của TTLS hiện đại trên cơ sở so sánh, dẫn
giải quan niệm về thể loại của các nhà nghiên cứu thế giới và Việt Nam. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Điệp trong buổi tọa đàm Lịch sử và văn hóa qua tự sự nghệ thuật của
Nguyễn Xuân Khánh cho rằng: “Khác với truyền thống coi lịch sử là đại lịch sử (đã xong
xuôi), lý thuyết hiện đại, hậu hiện đại khẳng định lịch sử là quá trình chưa hoàn tất mà
đang được cấu tạo lịch sử theo quan điểm cá nhân. Tại đấy, lịch sử được hình dung như
những mảnh vỡ… Có người khẳng định, nhà văn có quyền tưởng tượng đến vô hạn và tác
phẩm của họ thực chất là cách cấu tạo lịch sử theo quan điểm cá nhân. Tại đó, có một thứ
7


lịch sử khác (ngoại vi) so với lịch sử được thừa nhận (trung tâm), và lịch sử, khi đi vào
lãnh địa tiểu thuyết, phải được tổ chức trên cơ sở hư cấu và nguyên tắc trò chơi vốn là
một đặc trưng của nghệ thuật” [40, 5 – 8].
Mối quan hệ giữa sự khách quan, chân xác của lịch sử và vai trò của hư cấu nghệ
thuật trong TTLS là một trong những vấn đề quan trọng được các nhà nghiên cứu cũng như
nhiều nhà văn như Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Khánh, Nam Dao, Võ Thị Hảo,
Nguyễn Quang Thân, Hoàng Quốc Hải, Thái Bá Lợi, Bùi Anh Tấn, Nguyễn Thế Quang,
Phạm Ngọc Cảnh Nam… đặc biệt quan tâm. Trong bài phỏng vấn của nhà văn Trung
Trung Đỉnh Về nghệ thuật viết tiểu thuyết (Báo Văn nghệ, (38), 2001) tác giả Nguyễn
Xuân Khánh quan niệm rằng: “tiểu thuyết lịch sử tạo ra hiện thực làm sao để gây cho

người đọc một ảo tưởng là nó có thật. Tiểu thuyết lịch sử phải dựng nên bối cảnh không
khí của thời đại… Tiểu thuyết phải có đời sống, bi hài trữ tình” [41, 3] và “Lịch sử chỉ là
cái cớ để tôi bám vào. Điều quan trọng là người viết tiểu thuyết phải biết vận dụng tổng
thể đời sống của mình vào cuốn tiểu thuyết ấy. Người viết không hẳn đã dựng lại được
lịch sử ngày xưa, điều cốt yếu là thuyết phục được người đọc”. Trong bài Vài suy nghĩ về
tiểu thuyết lịch sử, Nguyễn Xuân Khánh cũng cho rằng khi đánh giá lịch sử đòi hỏi nhà
văn phải xem “Lịch sử diễn ra với các sự kiện và nhân vật nhất định. Nó diễn ra chỉ một
lần và không lặp lại. Ta cứ tưởng như nó hoàn toàn cố định, song không phải. Dưới con
mắt của nhiều người khác nhau và những cái nhìn ở những thời đại khác nhau, sẽ có
nhiều ý kiến khác nhau” [70]. Vậy nên, ông cho rằng TTLS nào cũng đều có ánh xạ của
đời sống hiện tại. Tiểu thuyết do một người hiện tại viết, cho những người hiện tại đọc.
Vậy những vấn đề cuốn sách đặt ra không chỉ cần đúng với lịch sử mà còn phải là những
vấn đề được người hiện tại quan tâm.
Trần Vũ với bài Lịch sử trong tiểu thuyết – một tuỳ tiện ý thức cũng đã đặt ra vấn
đề về mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Trong cuộc đối thoại bằng
email với nhà văn Nguyễn Mộng Giác về TTLS, nhà văn Nam Dao đã nói về cách viết
tiểu thuyết Gió lửa của mình: "cái khung lịch sử đó được sử dụng như phương tiện cấu
tạo tiểu thuyết và sau đó thì tiểu thuyết là phương tiện để tác giả thể hiện những tư duy,
biện minh và dự phóng cho chủ đề lịch sử..." [26]. Rõ ràng ở đây nhà văn Nam Dao chú
trọng vào hai vấn đề chính: cái khung lịch sử được dùng làm phương tiện cấu tạo, chủ đề
lịch sử được tái hiện trên ba không gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngược lại,
Nguyễn Mộng Giác tự bạch: “Khi viết Sông Côn mùa lũ, tôi chú trọng phần tiểu thuyết
hơn phần lịch sử. Nhưng trong phần lịch sử, tôi không dám mạnh tay gạt phăng những gì
8


còn ghi lại trong tài liệu lịch sử” [26]. Trong khi đó, nhà văn Nguyễn Quang Thân (Đọc
tiểu thuyết lịch sử để lấy lại niềm tin) tự hào rằng chúng ta đọc TTLS không phải để biết
lịch sử mà là để lấy lại niềm tin vào những gì đang chới với, đang “thấp thoáng” như giấc
mơ trong não trạng của những thế hệ chưa từng biết, từng qua chiến tranh nhưng lại đang

cảm thấy sắp sửa phải đi tiếp con đường gian nan không kém cha ông để thực hiện “giấc
mơ hòa bình”. Người đọc và tác giả gặp nhau đã nuôi dưỡng lâu bền cảm xúc và sự
trường tồn của TTLS và chiến tranh.
Trong bài phỏng vấn “Tôi không định mê hoặc…” của Minh Đức trên báo Người
Đại biểu Nhân dân (2005), Võ Thị Hảo đã trả lời cho câu hỏi “Thông điệp của Giàn thiêu
là gì?” rằng điều mà chị muốn gửi gắm qua tiểu thuyết này chính là khát vọng tự do và
tình yêu. Chị cũng khẳng định: sức sống của Giàn thiêu sẽ quyết định sự mê hoặc hay
không mê hoặc người đọc. Trong bài phỏng vấn của báo Sài Gòn Giải phóng, ngày
25/08/2013, Hoàng Quốc Hải cũng cho rằng: “lịch sử đối với nhà văn chỉ là cái cớ” do đó,
“tiểu thuyết lịch sử phải lấy hư cấu làm phương tiện nghệ thuật”. Vấn đề là phải hư cấu
như thế nào đạt đến chân thực lịch sử và chân thực cuộc sống. Chân thực đến mức người
đọc phải thừa nhận đây mới là lịch sử. Cũng không có nghĩa là sự bịa tạc, mà là sự tìm tòi
đi đến chân thực”. Do đó, nhiệm vụ của nhà văn viết về lịch sử là giải mã lịch sử chứ
không lặp lại các thông tin lịch sử. Các thông tin lịch sử và ngay cả các nhân vật lịch sử
cũng chỉ là chất liệu, là phương tiện để nhà văn xây dựng tác phẩm…” [49]. Nhà văn
Hoàng Minh Tường trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử và thông điệp của nhà văn quan
niệm rằng: nhà văn không thay thế được sử gia nhưng có thể bù lấp những khoảng trống
của lịch sử. Nhà văn bằng thiên tư của mình chiếu rọi vào lịch sử cái nhìn nhân văn làm
cho lịch sử được tái tạo lại với một tầm vóc vũ trụ như nó vốn có. Trong một ý kiến khác
cho rằng nhà văn viết về lịch sử có quyền hư cấu, tưởng tượng, thậm chí sáng tạo thêm
nhân vật, sự kiện để làm sáng tỏ lịch sử, soi rọi lịch sử nhưng không thể bóp méo hay bịa
tạc lịch sử một cách phi logic, theo ngẫu hứng riêng của mình. Nhìn chung, mặc dù có
nhiều quan niệm khác nhau, tuy nhiên, quan niệm về sự thật lịch sử và hư cấu của các tác
giả vẫn có điểm tương đồng: họ đều tôn trọng sự thật lịch sử và phát huy vai trò của hư
cấu nghệ thuật. Hư cấu nghệ thuật đã tạo ra hướng tiếp cận mới, phù hợp với tư duy của
con người hiện đại, gợi cho người đọc cái nhìn mới thực sự khác so với những nhà viết
tiểu thuyết trước đây.

9



Xét về mặt đặc trưng, TTLS là một “loại” thuộc thể loại tiểu thuyết nên tất yếu nó
cũng mang những tố chất mĩ học của tiểu thuyết. Song bên cạnh đó, xét về nội hàm khái
niệm thì TTLS còn mang những đặc trưng riêng biệt so với các loại hình tiểu thuyết khác:
- TTLS lấy đối tượng lịch sử làm nội dung và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
Nghĩa là, TTLS lấy đề tài và cảm hứng từ lịch sử của một dân tộc hay một quốc gia nào
đó. Có thể là các sự kiện, các nhân vật hoặc các giai đoạn trong lịch sử nhưng TTLS đích
thực phải là tác phẩm kể về câu chuyện có thật của một dân tộc, một cộng đồng người đã
từng tồn tại trong lịch sử và được cộng đồng đó thừa nhận. Bối cảnh, con người, không
gian và thời gian trong TTLS phải thuộc về thế giới của quá khứ được chính sử ghi chép
lại và được bảo lưu trong kho tàng lịch sử dân tộc.
- Nhân vật trong TTLS vừa là nhân vật lịch sử vừa là nhân vật văn học. TTLS là
tiểu thuyết mà ở đó nhân vật phải là nhân vật có thật trong lịch sử và đảm nhận vai trò
nhân vật trung tâm, nhân vật chính của câu chuyện, đồng thời được các nhà văn làm sống
dậy từ quá khứ nên nhân vật trong tác phẩm có tính cách, có số phận, có tâm hồn. Nói
như G.Lucacs thì các nhân vật của TTLS phải sinh động hơn các nhân vật lịch sử, vì các
nhân vật của TTLS được trao cho sự sống còn các cá nhân lịch sử thì đã sống. Tiểu thuyết
còn phải phục dựng lại thời đại mà nhân vật lịch sử sinh sống, do đó, bên cạnh những
nhân vật lịch sử, nhà văn buộc phải hư cấu thêm nhiều những nhân vật khác. Theo quan
niệm truyền thống, nhân vật trong TTLS thường là các ông hoàng bà chúa, các bậc anh
hùng, những người thuộc hàng trí tướng, huân tướng lỗi lạc. Họ đóng vai trò quan trọng
trong việc thiết lập một đế chế, một triều đại hay là lãnh tụ của phong trào nông dân khởi
nghĩa, công cuộc chống giặc ngoại xâm. Ngoài ra, hệ thống nhân vật hư cấu được nhà văn
sáng tạo chỉ làm “nền” cho nhân vật có thật trong lịch sử (giữ vai trò chính yếu, đảm nhận
nhiệm vụ chủ đạo trong tác phẩm). Tuy nhiên, theo quan niệm hiện đại, không phải ông
hoàng bà chúa hay các vị danh tướng lỗi lạc mới là đối tượng của TTLS, mà nhân vật
trong TTLS có thể là những con người bình thường, những hạ quan, những binh lính,
người phụ nữ, người nông dân, người hầu,… thậm chí những nhân vật hư cấu đều có thể
trở thành nhân vật chính trong tác phẩm: An (Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác),
Cả Hinh (Thế kỉ bị mất của Phạm Ngọc Cảnh Nam),…

- Hư cấu – phương thức tồn tại của TTLS. Trong quá trình sáng tác, các nhà TTLS
vừa phải tôn trọng các sự kiện lịch sử, vừa phải phát huy cao độ vai trò của hư cấu, sáng
tạo nghệ thuật. Bản chất sáng tạo trong lao động nghệ thuật đòi hỏi người viết tiểu thuyết
không được sao chép lịch sử một cách giản đơn, xơ cứng, một chiều mà cần dựng lại bức
tranh hiện thực quá khứ một cách sinh động, đủ sức chinh phục tâm hồn, trí tuệ người
10


đọc. Lê Thành Nghị khẳng định: “Hư cấu trong TTLS không phải là sự sao chép các sự
kiện lịch sử mà là sự tái tạo, sự nhào nặn, sự chưng cất đặc biệt từ sự kiện lịch sử ấy theo
tiêu chuẩn của cái đẹp. Nghệ sĩ sáng tạo hình tượng nghệ thuật, hiện thực lịch sử dưới ánh
sáng của lý tưởng thẩm mĩ, công chúng lĩnh hội những thành quả nghệ thuật ấy theo kinh
nghiệm cá nhân của mỗi người tiếp nhận”[93]. Hư cấu trong TTLS là để bổ khuyết những
gì mà lịch sử không ghi chép, che lấp những “khoảng trống”, mở ra những “vùng mờ” của
lịch sử và đem lại sự sống cho thế giới đã thuộc về quá khứ: “hư cấu không phải là bỏ qua
sự thật lịch sử, mà là tưởng tượng lại sự kiện, nhân vật lịch sử theo những khả năng mà tài
liệu mách bảo, hoặc là đặt một nhân vật hư cấu vào trong một bối cảnh lịch sử để khám
phá tư tưởng, tình cảm hành động của một thời kì cụ thể”[112, 456]. Hư cấu trong TTLS
được thể hiện ra ở nhiều cấp độ: chi tiết, nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian,… Trên
cấp độ hư cấu nhân vật, nhà văn đã phải hư cấu rất nhiều từ lời ăn tiếng nói đến hành
động, từ nét sinh hoạt đời thường đến đời sống tâm lý, chiều sâu tâm hồn của họ sao cho
người đọc khi thưởng thức tác phẩm như đang được nhìn thấy họ đi đứng, nói năng và
thậm chí có thể đối thoại cùng họ. Với nhân vật không có thực trong lịch sử thì nhà văn
phải hư cấu hoàn toàn để họ thành những con người thật, cũng có cá tính, tâm hồn, diện
mạo riêng. Quan trọng hơn, những nhân vật có thật hay không có thật trong lịch sử ấy
phải được kết hợp với nhau một cách hài hòa tạo nên một thế giới nhân vật trong tác
phẩm thật thống nhất, để từ đó làm sáng lên tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Nhân vật
Nguyễn Mại, Bảo Kim trong Đêm hội Long Trì, Trần Văn, Trinh, Quốc Vinh và rất nhiều
nhân vật đại diện cho tầng lớp nhân dân thủ đô trong Sống mãi với thủ đô của Nguyễn
Huy Tưởng đều là nhân vật hư cấu nghệ thuật của nhà văn. Trong Hồ Quý Ly, không kể

những nhân vật không có tên trong lịch sử như Sử Văn Hoa, Phạm Sinh, Thanh Mai, ngay
cả Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương, Trần Nghệ Tôn,… cũng là những
nhân vật được tác giả hư cấu, sáng tạo, đặc biệt xây dựng nhân vật Quỳnh Hoa nhằm mô
tả những trắc ẩn của Hồ Nguyên Trừng trước sự thăng trầm của cuộc đời. Minh sư của
Thái Bá Lợi đã xây dựng thành công hình tượng những nhân vật hư cấu như Đỗ Chiêu,
Nguyễn Thiệu, Chế Mô, Phạm Dữ,…chung quanh Nguyễn Hoàng để nêu bật sức hút
mãnh liệt của ông đối với quần chúng nhân dân, một trong trong những phẩm chất đưa
ông đến thành công trong sự nghiệp. Nhìn chung, hư cấu nghệ thuật không hề vi phạm
đến chân lý lịch sử, ngược lại, thông qua hư cấu nghệ thuật, lịch sử được nhìn nhận và tôn
vinh, người đọc càng nhận thức sâu sắc hơn bản thân lịch sử, làm cho sự sáng tạo của

11


người nghệ sĩ trở nên bay bổng hơn, tự do hơn trong lao động nghệ thuật, TTLS vì vậy
càng mang nhiều hình tượng thẩm mĩ nhằm đối thoại với cuộc sống hiện tại hơn.
- TTLS dùng quá khứ làm phương tiện để đối thoại với hiện tại. TTLS không coi
trọng việc miêu tả quá khứ như một mục đích tự tại mà chủ trương nối liền quá khứ với
hiện tại, từ lịch sử đặt ra những vấn đề cho hiện tại và tương lai. Trần Đình Sử khẳng
định: “TTLS nào cũng mang trong mình hai lần lịch sử: lịch sử thời đã qua và lịch sử thời
người viết đang sống”[112, 457]. Nhà văn kể một câu chuyện về quá khứ nhưng các động
từ vẫn được chia ở thì hiện tại, họ muốn rút ra từ quá khứ những bài học cho hôm nay.
Thông qua thế giới nghệ thuật, người viết TTLS muốn gửi gắm cách nhìn, cách cảm, cách
nghĩ của mình về con người và cuộc sống hiện đại trên “mối quan hệ sinh động với hiện
tại thể hiện ngay chính trong sự vận động được mô tả của lịch sử, và tự nó sẽ nói
lên”[139, 192].
Tóm lại, TTLS hiện đại là những tác phẩm mang đậm những đặc trưng của thể loại
tiểu thuyết (yếu tố hư cấu, yếu tố phản ánh toàn vẹn hiện thực, yếu tố con người cá nhân,
yếu tố thẩm mĩ…) nhưng lấy lịch sử làm đề tài, làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật nhằm
giải mã lịch sử, sáng tạo ra diễn ngôn mới về lịch sử, đem lại cho người đọc cái nhìn mới,

những cảm xúc thẩm mĩ mới về lịch sử, từ đó, giúp độc giả biết thêm nhiều mặt khác
nhau của đời sống con người, của những mặt sinh hoạt mang tính chất đời tư của con
người trong quá khứ nhằm soi sáng những vấn đề của hiện tại. Những đặc điểm này của
thể loại TTLS đòi hỏi nhà văn phải vừa là nghệ sĩ vừa là nghiên cứu, có vốn sống và hiểu
biết phong phú, có quan điểm lịch sử đúng đắn và tiến bộ.
1.2. Tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI
Trong những năm gần đây, TTLS thực sự trở thành một vấn đề thu hút sự quan tâm
của giới nghiên cứu và phê bình trong nước. Với rất nhiều bài viết và công trình lớn nhỏ
cùng sự đầu tư nghiên cứu nghiêm túc, các nhà nghiên cứu mong tìm ra những lời giải
xác đáng cho thể loại tiểu thuyết còn nhiều tranh cãi. Nội dung các bài viết thường tranh
luận xoay quanh một số vấn đề như: Quan niệm về TTLS? Mối quan hệ giữa sự thực lịch
sử và hư cấu nghệ thuật? Những thành tựu của TTLS đương đại trên các phương diện nội
dung và hình thức thể hiện.
TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI có nhiều nét đổi mới so với trước đây từ tư duy
nghệ thuật, xu hướng thể loại, khuynh hướng tư tưởng, loại hình nhân vật đến phương
thức trần thuật, điều đó đã thu hút nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu và độc giả. Tác
giả Thu An trong bài viết ngắn Tiểu thuyết lịch sử: thành tựu và triển vọng đã đánh giá
12


một cách khái quát khi nhận định TTLS trong một thập kỉ vừa qua có nhiều đóng góp về
tư tưởng và nghệ thuật. Những tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn
Quang Thân… đã giúp cho độc giả có “những khoảnh khắc đào thoát khỏi hiện tại, tìm về
quá vãng để kiếm tìm một sự đồng vọng hoặc tri âm nào đó… hoặc để xoa dịu chính nỗi
đau của mình trong thực tại… hoặc để giải quyết những vấn đề thiết thân của cá nhân,
cộng đồng đang trong thời khắc tiến thoái lưỡng nan”[1]. Trong bài viết Khuynh hướng
tiểu thuyết hóa lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 tác giả Nguyễn Thị
Tuyết Minh khảo sát TTLS Việt Nam sau 1975 (đặc biệt là những tác phẩm ra đời sau
2000) theo khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử trên các cấp độ thể hiện: phục diện kiểu
tiểu thuyết khiến lịch sử trở nên sinh động; Hình dung lịch sử như một giả định; Nối liền

quá khứ với hiện tại, suy tư về những vấn đề của hiện tại. Từ đó, tác giả nhận xét:
“Khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử gắn với quan niệm sáng tác và phong cách của
mỗi nhà văn. Nhà văn có thể đề xuất một cách nhìn mới về một sự kiện lịch sử đã qua,
cũng có thể mượn lịch sử để trình bày những vấn đề của hiện tại” [89, 64]. Trong bài Mấy
xu hướng chủ yếu trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại Nguyễn Văn Dân đã chỉ ra
ba xu hướng trong TTLS đương đại như: TTLS chương hồi khách quan (Ngô Văn Phú và
Lê Đình Danh), TTLS giáo huấn (Hoàng Quốc Hải) và TTLS luận giải (Nguyễn Xuân
Khánh và Nguyễn Quang Thân). Tuy nhiên, trong dòng chảy của văn học, thể loại này
còn dung chứa nhiều xu hướng khác mà bài viết chưa có dịp đề cập đến. Đây cũng là
điểm cần trao đổi mà chúng tôi sẽ trình bày trong luận án này. Thái Phan Vàng Anh trong
bài viết Các khuynh hướng tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI đã gọi TTLS giai đoạn này
là tiểu thuyết tân lịch sử – sự phản tư lịch sử và tác giả đã đưa ra những luận điểm nhằm
chứng minh sự cách tân về mặt thể loại so với cách viết, cách gọi truyền thống: “Tiểu
thuyết tân lịch sử tiếp cận quá khứ bằng quan điểm, thái độ chủ quan của người sáng tác.
Nhìn lại lịch sử, luận giải lịch sử từ những góc nhìn khác được chú ý hơn so với việc tìm
kiếm sự thật, khôi phục lại chân tướng lịch sử” bởi vì tiểu thuyết giai đoạn này “không
nhằm kể lại lịch sử và giáo huấn, không tuân thủ mô hình của tiểu thuyết lịch sử truyền
thống theo kiểu chương hồi khách quan” mà “hướng đến luận giải quá khứ trên tinh thần
đối thoại, giải thiêng cùng với những hoài nghi về những “đại tự sự” của lịch sử (các tư
tưởng, học thuyết, tôn giáo, tín ngưỡng, các huyền thoại, cổ mẫu…)” [6]. Vấn đề hư cấu
và giải thiêng trong tiểu thuyết lịch sử của Bình Nguyên đã đưa ra một số kiến giải mới về
mối quan hệ giữa hư cấu nghệ thuật và tính chân thực lịch sử, đặc biệt, tác giả cũng chỉ ra
tác dụng của việc các nhà văn đương đại sử dụng bút pháp giải thiêng lịch sử: “đã mang
13


lại nhiều cách tiếp cận, cách kiến giải lịch sử… giúp đẩy lùi khuynh hướng ca ngợi một
chiều, thần thánh hóa quá mức, khiến cho các nhân vật lịch sử trở nên xơ cứng, ít mang ý
nghĩa giáo dục hay người đọc có thể hoài nghi về sự tồn tại của chính các nhân vật đó.”
[96]

Nhiều công trình, bài viết đã cho chúng ta thấy sự vận động của loại hình nhân vật
cùng những phương thức xây dựng nhân vật trong TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ
XXI so với trước đây. Nguyễn Thị Kim Tiến với bài viết Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam với
quan niệm nghệ thuật về con người đã cho rằng để giải quyết mối quan hệ sự thật và hư
cấu phần đông các nhà văn đã lựa chọn giải pháp lấy tâm điểm là con người để tiếp cận,
soi chiếu qua quan niệm nghệ thuật về con người, biến con người làm mục đích chuyển
tải giá trị tư tưởng dưới “lớp bọc” của đường viền lịch sử, giúp họ có cơ hội chất vấn,
nhận thức cái tưởng như đã là chân lý của lịch sử nhưng vẫn đảm bảo quyền toàn bích của
việc sáng tạo hư cấu: con người đối thoại với lịch sử, kết nối với cuộc sống hiện tại. Lê
Văn Dương trong bài viết Vấn đề thể loại và nghệ thuật xây dựng nhân vật qua một số
tiểu thuyết lịch sử sau 1985 về phong trào Tây Sơn đã nêu lên một số thành tựu mà TTLS
Việt Nam đạt được sau 1985, đặc biệt là mười năm đầu thế kỉ XXI như: cách tân cả về nội
dung và hình thức thể hiện, thành tựu về số lượng và chất lượng tác phẩm,… Bên cạnh
đó, tác giả đi sâu phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật qua một số TTLS giai đoạn sau
1985 viết về phong trào Tây Sơn như: nghệ thuật soi chiếu nhân vật từ nhiều bình diện
khác nhau, khả năng thể hiện “phép biện chứng tâm hồn”, thể hiện tâm lý, tính cách nhân
vật, khắc họa ngoại hình nhân vật dưới cái nhìn cận cảnh, sự đa dạng điểm nhìn trần
thuật. Nguyễn Văn Hùng với bài viết Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo sau đổi
mới đã có một cái nhìn khái quát về sự sáng tạo nhân vật của các nhà văn sau 1986 đặc
biệt là những năm đầu thế kỉ XXI: Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Quang
Thân, Nam Dao, Trần Thu Hằng, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Thái Bá Lợi,… Trong bài viết,
tác giả chỉ ra một số đổi mới trong phương thức xây dựng nhân vật như dựa trên những
hình tượng nhân vật lịch sử đã “cũ” nhưng được các tác giả “làm mới, làm khác” bằng
việc tiếp cận và xử lý theo một cách riêng, mang đến cho tác phẩm những diện mạo hoàn
toàn khác biệt (Hội thề - Nguyễn Quang Thân). Bên cạnh đó, nhân vật trong các tác phẩm
giai đoạn này được mở rộng về biên độ hư cấu nhằm “thể hiện tinh thần nhận thức lại lịch
sử”, trên nguyên tắc “thiên về luận giải, phân tích, đối thoại hơn là mô tả, minh họa lịch
sử…” [66]. Bài viết chỉ ra hiệu quả của sự mở rộng biên độ hư cấu đã “cho phép các nhà
văn lựa chọn tái hiện cùng một giai đoạn, một thời điểm lịch sử lấy cảm hứng từ một
14



nguyên mẫu chung, lại có thể có những cách tiếp cận, cái nhìn, sự luận giải và lối viết
khác biệt”. Nhìn chung, bài viết khá nghiêm túc trong việc tiếp cận tác phẩm và có cách
đánh giá mới mẻ so với nhiều bài viết trước đây.
Ngoài ra, rất nhiều công trình cùng những cuộc tranh luận cho thấy nhiều hướng
nghiên cứu và tiếp cận TTLS như phương thức lựa chọn hiện thực lịch sử, hư cấu nghệ
thuật, đổi mới diễn ngôn lịch sử, nghệ thuật kể chuyện, cách thức tổ chức sắp xếp không
gian, thời gian, kết cấu,... Cụ thể, Phạm Xuân Thạch trong tham luận Quá trình cá nhân
hóa hư cấu (Tự sự đương đại Việt Nam về đề tài lịch sử - truyền thống và hiện đại) tại Hội
thảo quốc tế về Việt Nam học lần thứ II (14-16/7/2004, Thành phố Hồ Chí Minh) đánh giá
sự vận động của tự sự lịch sử đương đại từ cấu trúc hình thức thể loại đến nội dung tư
tưởng và tư duy nghệ thuật: sự tan vỡ và quá trình phân rã cốt truyện trong tự sự, quá
trình chủ quan hóa mô thức tự sự, đổi mới phương thức xây dựng hình tượng nhân vật (từ
thân phận cá nhân đến cái nhìn cá nhân), đổi mới mục đích sáng tạo nghệ thuật (từ lịch sử
như một mục đích đến lịch sử như một chất liệu). Tác giả khẳng định người viết đã nỗ lực
vượt thoát ra khỏi những “huyền thoại” cộng đồng về quá khứ để hoặc trở thành một sự
bổ sung cho chính sử, hoặc vượt khỏi sự ràng buộc của lịch sử để sáng tạo một “huyền
thoại” cá nhân về hiện thực mà lịch sử được sử dụng như một chất liệu. Ngô Thị Quỳnh
Nga trong bài viết Sự đan cài các lớp ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử sau 1975 đã nhận
định đề tài lịch sử giai đoạn sau 1975 và đặc biệt sau 1986 đến nay đã có những đổi mới
mang tính đột phá tạo nên sức hút mạnh mẽ bởi sự biến ảo kì diệu của ngôn ngữ: lớp
ngôn ngữ quan phương, cổ kính giúp tác giả phục dựng lại được không khí của thời đại
làm sống dậy “những xác chết biên niên sử”; lớp ngôn ngữ đời sống giản dị, nhiều màu
sắc nhằm giúp cho tác phẩm rút ngắn khoảng cách sử thi, giúp người đọc khám phá lịch
sử ở bề sâu, bề xa của nó, sinh động và tươi nguyên; đặc biệt, lớp ngôn ngữ mang màu
sắc triết luận nhằm giúp nhà văn chuyển tải những quan điểm của mình về quá khứ và
hiện tại. Đỗ Hải Ninh với bài viết Vấn đề ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
đương đại cho rằng ngôn ngữ trong TTLS đương đại đã có sự dung hợp và dung chứa
nhiều màu sắc khác nhau. Tác giả khẳng định sự thành công nổi bật của TTLS đương đại

là đã kết hợp được những yếu tố văn hóa, lịch sử, tôn giáo, trong một hệ ngôn ngữ tiểu
thuyết thống nhất và đa dạng. Đồng thời, các nhà văn cũng đã tận dụng triệt để ngôn ngữ
cô đọng súc tích, cung cấp nhiều thông tin của phương pháp viết sử truyền thống. Bài viết
Hệ biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại của Nguyễn Đức Toàn
khái quát nên một số biểu tượng nghệ thuật như một phương thức chuyển nghĩa trong tiểu
15


thuyết Việt Nam đương đại, trong đó có TTLS: nước – lửa (Giàn thiêu – Võ Thị Hảo),
bức tượng đá (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân Khánh), Mẫu, đêm, đất, rừng, trăng, cây đa, rắn
thần (Mẫu Thượng Ngàn – Nguyễn Xuân Khánh)… Tác giả nhấn mạnh những biểu tượng
này tham gia trực tiếp vào kết cấu hình tượng, kết cấu tác phẩm và là hệ quả của quan
niệm “tính trò chơi” của văn chương hiện đại. Nhìn chung, tác giả bài viết chỉ khái quát
một vài biểu tượng trong ba quyển TTLS nhưng sẽ mở ra hướng nghiên cứu mới mẻ, hấp
dẫn về hệ biểu tượng trong TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI. Đặc biệt, với luận
án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn tự sự học, Nguyễn Văn Hùng nghiên
cứu các phương thức tự sự như người kể chuyện, điểm nhìn tự sự, thời gian tự sự, kết cấu
tự sự và diễn ngôn tự sự. Trên cơ sở đó, tác giả có cái nhìn đối sánh với giai đoạn trước đó
để chỉ ra sự đổi mới trong tư duy và phương thức tự sự lịch sử trên nguyên tắc đối thoại,
luận giải của TTLS sau 1986. Đây là một trong những công trình quan trọng góp phần
khẳng định vị trí, vai trò và những đóng góp mới của thể loại trong tiến trình phát triển
của văn học Việt Nam đương đại.
Ngoài ra, còn rất nhiều buổi tọa đàm, công trình nghiên cứu, bài viết về các tác
phẩm và tác giả TTLS riêng lẻ. Theo khảo sát và thống kê tư liệu, chúng tôi nhận thấy
phần lớn các công trình và bài viết thường xoay quanh tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh
dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Dưới đây là một số công trình và bài viết đáng chú ý:
Đầu thế kỉ XXI, tiểu thuyết Hồ Quý Ly được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt
Nam thật sự thu hút sự quan tâm của độc giả và giới phê bình trong cả nước. Báo Văn
nghệ số 44/2000 có bài Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly, trong đó có nhiều ý kiến, đánh
giá của các nhà nghiên cứu xoay quanh tác phẩm. Hoàng Quốc Hải nhận xét đây là TTLS

viết rất nghiêm túc, bám sát chính sử, văn chương mượt mà, có sức cuốn hút. Châu Diên
đưa ra ba ưu điểm của cuốn tiểu thuyết: không né tránh vấn đề gay cấn, xử lý vấn đề tài
tình, sự ảo tưởng tích cực của tác giả thể hiện trong tác phẩm. Nhà văn Hồ Anh Thái nhận
xét cuốn sách là sự kết hợp thành công hai yếu tố của thể loại là tiểu thuyết và lịch sử…
Hoàng Cát trong bài Tiểu thuyết Hồ Quý Ly, thưởng thức và cảm nhận đánh giá đây là
một tiểu thuyết bề thế, sâu sắc, hấp dẫn về một giai đoạn phức tạp của dân tộc và nhân vật
Hồ Quý Ly. Trung Trung Đỉnh trong bài Hồ Quý Ly và những giải pháp mới cho tiểu
thuyết lịch sử nước nhà cho rằng tác phẩm mở ra một hướng đi mới cho TTLS Việt Nam
từ tài năng và bản lĩnh của người viết. Lại Nguyên Ân trong bài Hồ Quý Ly (Tạp chí Nhà
văn số 6/2000) khẳng định tác phẩm có những nét mới trong việc xử lý chất liệu lịch sử
và xây dựng nhân vật. Trong bài viết Vấn đề xây dựng nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết
16


Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh Nguyễn Thị Thu Hương nhận diện một số loại hình
nhân vật trong Hồ Quý Ly: hệ thống nhân vật có thật trong lịch sử và hệ thống nhân vật
hư cấu. Nhà văn chứng tỏ bản lĩnh của một “nhà văn có tài khi đứng vững ở ranh giới,
giữa nhiệm vụ của một nhà tiểu thuyết và một nhà tiểu thuyết lịch sử khi xây dựng nhân
vật và sự việc; ở ranh giới giữa sự thực và hư cấu khi thể hiện nhân vật lịch sử. Và nhà
văn chọn cách ứng xử nghệ thuật hợp lý khi hòa hợp cả hai yếu tố ấy trong cùng một sự
việc, một con người để làm nên một thế giới nhân vật sống động, phong phú”. [67]
Mẫu Thượng Ngàn (2006) – một tiểu thuyết viết về văn hóa – phong tục ra đời thật
sự đã mang đến cho thể loại một cách nhìn hoàn toàn khác biệt so với trước đây. Nhà
nghiên cứu Châu Diên cho rằng đây là “cuốn tiểu thuyết mang tầm khái quát văn hóa,
nhân vật không còn là những thân phận riêng lẻ mà là cả một cộng đồng” (Nguyễn Xuân
Khánh và cuộc giành lại bản sắc). Trong khi đó, Phạm Xuân Nguyên trong cuộc trả lời
phỏng vấn của VTC News đã khẳng định “Mẫu Thượng Ngàn là nhân vật quần chúng
nhưng lại mang tính đại diện tiêu biểu cho dân tộc Việt” và “Đạo Mẫu trong tiểu thuyết
(được thể hiện trong tiểu thuyết qua nhân vật bà Tổ Cô bí ẩn, bà Ba Váy đa tình, cô đồng
Mùi, mõ Hoa khốn khổ, trinh nữ Nhụ…) vừa là tín ngưỡng, vừa thể hiện tính phồn thực

và sự trường tồn của dân tộc Việt.” Ngoài ra, Phạm Xuân Nguyên còn đề cập đến vai trò
của nhà văn trong việc phản ánh văn hóa “Nhà văn rất cần phải làm văn hóa, nói về văn
hóa” (Mẫu Thượng Ngàn – Nội lực văn chương của Nguyễn Xuân Khánh, VTC News,
13/7/2006). Nhìn nhận về tác phẩm, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh cũng khẳng định
những gì ông muốn thể hiện trong tác phẩm, đó chính là nét đẹp của nền văn hóa Việt
Nam và “ông tận dụng tất cả kinh nghiệm về làng quê, văn hóa của mình để viết” và
“Mẫu Thượng Ngàn nói về Mẫu, cũng có nghĩa là nói về người đàn bà” (Nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh nói về Mẫu Thượng Ngàn – Có những nhân vật từ trong ký ức bước ra). Bàn
về vẻ đẹp của nền văn hóa Việt Nam được thể hiện thông qua nguyên lý tính Mẫu của tác
phẩm, báo Văn hóa Văn nghệ Công An còn lý giải về sự giao thoa văn hóa Đông - Tây
trong tác phẩm “tác giả (Nguyễn Xuân Khánh) muốn chứng minh cuộc giao thoa ấy có
tiếp nhận, có đào thải và trải nghiệm đớn đau” đồng thời khẳng định một trong những
thành công của cuốn tiểu thuyết là “xây dựng tâm lý Việt, cách sống và phong tục Việt
trong xã hội qua từng thời kỳ” (Nguyễn Xuân Khánh tuổi 74 và cuốn tiểu thuyết mới, Văn
hóa văn nghệ Công An, 14/9/2006). Nhà văn Nguyên Ngọc cũng đã có bài viết nói lên
những suy nghĩ của mình về Mẫu Thượng Ngàn trên báo Tuổi Trẻ “nếu đi tìm một nhân
vật chính cho cuốn tiểu thuyết này, thì hẳn có thể nói nhân vật chính đó là nền văn hóa
17


Việt, cái thực tại vừa chứa đựng hiện thực, vừa rất hư ảo, bền chặt xuyên suốt mà cũng lại
biến hóa khôn lường, rất riêng và rất chung, rất bản địa mà cũng rất nhân loại” (Một cuốn
tiểu thuyết thật hay về nền văn hóa Việt, Báo Tuổi trẻ online, ngày 12/7/2006).
Tác giả Nguyễn Thanh Lâm khi đọc Đội gạo lên chùa vô cùng xúc động: “nhà văn
Nguyễn Xuân Khánh đã nhìn rõ tính minh triết của Phật giáo Việt Nam. Tu trong đời
thường “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên” và gieo vào nhân gian những hạt mầm ánh sáng –
những hạt mầm thiền” [tr.94] (Cảm nhận đọc Đội gạo lên chùa của nhà văn Nguyễn Xuân
Khánh, Tạp chí Nhà văn, Số 8.2011). Mai Anh Tuấn với bài Tiểu thuyết như một tham
khảo Phật giáo cho rằng Đội gạo lên chùa hiển thị trước hết như một tham khảo về Phật
giáo và điều đó đã được thể hiện ngay từ tiêu đề, đã tiết lộ một dấu chỉ Phật giáo. Đồng

thời, “chọn Phật giáo làng quê làm đối tượng triển khai, Nguyễn Xuân Khánh, một lần
nữa sau Hồ Quý Ly và đặc biệt là Mẫu Thượng Ngàn, tiếp tục khảo sát các lớp lang và giá
trị văn hóa Việt với một cảm quan dân tộc chủ nghĩa đắm đuối. Cảm quan này sẽ chi phối
cách ông biện luận, trong Đội gạo lên chùa, những phạm trù nổi bật của Phật giáo Việt”
[137, 95].
Trong Một số biểu tượng mang tâm thức Mẫu trong Đội gạo lên chùa của Nguyễn
Xuân Khánh tác giả Hoàng Thị Huế cho rằng: Đội gạo lên chùa là một minh chứng mặc
nhiên cho sự níu kéo, giăng mắc của tâm thức dân tộc ở sự xuất hiện dày đặc không khí
huyền ảo, cổ tích, không gian phi thực, các biểu tượng, môtíp, hình ảnh, các phức cảm,
mặc cảm… Từ đó, tác giả khái quát một số biểu tượng được hình thành từ trong tâm thức
dân tộc được chuyển hóa thành những hình ảnh rất cụ thể như: rừng (là nơi ẩn náu vĩ đại
của con người làng Sọ); phái nữ (biểu tượng cho sự sinh sản và hiện thực hóa những ước
vọng của con người); không gian và thời gian (không – thời tâm thức, không gian phi
thực). Trong khi đó, tác giả Lã Nguyên với bài viết Về những cách tân nghệ thuật trong
Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh cho rằng
nguồn cội sức sống lâu bền trong lịch sử văn học của ba TTLS mà Nguyễn Xuân Khánh
đã dày công trong việc đổi mới nguyên tắc truyện kể theo xu hướng tiểu thuyết hóa, cách
tân trong ngôn ngữ kết cấu và chiều sâu không gian truyện kể nhằm mang lại cho chúng
những nét nghĩa mới mẻ. Nguyễn Xuân Khánh chuyển từ tiểu thuyết vạch trần thực tại
sang tiểu thuyết luận đề lịch sử nhằm biến nhân vật thành một hệ thống điểm nhìn phát
ngôn cho tư tưởng tác giả, cản trở nhà văn trong việc sử dụng khẩu ngữ và lớp ngôn từ
đậm chất văn xuôi. Tuy nhiên, tác giả vẫn khẳng định rằng dẫu có nhiều cách tân nghệ
thuật thế nào, Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa vẫn không vượt ra ngoài
18


khuôn khổ của “lối viết cổ điển”. Nguyễn Văn Hùng đã chỉ ra Một số phương thức lựa
chọn và thể hiện hiện thực lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh như: phương thức
lựa chọn giai đoạn, thời điểm lịch sử, phương thức thể hiện lịch sử và luận giải những vấn
đề lịch sử, văn hóa, cùng sự thể nghiệm phương thức tư duy và tự sự lịch sử độc đáo, mới

lạ. Nguyễn Thị Thu Hương với bài viết Yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân
Khánh trình bày các dạng thức yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh
bắt nguồn từ tín ngưỡng cộng đồng và truyện kể dân gian (Mẫu Thượng Ngàn); Yếu tố
huyền thoại gắn với sự kiện và nhân vật lịch sử (Hồ Quý Ly); Yếu tố huyền thoại bắt
nguồn từ tôn giáo (Đội gạo lên chùa). Tác giả kết luận rằng, chính những dạng thức
huyền thoại đã góp phần tạo nên bản sắc riêng trong phong cách nghệ thuật đầy sức hấp
dẫn của Nguyễn Xuân Khánh. Tác giả Trịnh Thị Mai trong bài viết Trường từ vựng về
Phật giáo trong hai tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân
Khánh chỉ ra các trường từ vựng trong hai tác phẩm: trường từ vựng về tôn giáo (Đạo
Phật, Đạo Thiên Chúa, Đạo Mẫu), trong đó, trường từ vựng về Phật giáo được nói đến
nhiều nhất (681 từ với 2665 lần xuất hiện). Từ kết quả thống kê, tác giả bài viết nhận xét
rằng Đội gạo lên chùa thực sự là cuốn tiểu thuyết viết về Phật giáo Việt Nam và như thế
Nguyễn Xuân Khánh xứng đáng được xem là một “đệ tử của Phật giáo” từ trong tình
cảm, tâm thức của ông.
Đặc biệt, tháng 10/2012 đã diễn ra buổi tọa đàm về tiểu thuyết Nguyễn Xuân
Khánh, do Viện Văn học và Nhà xuất bản Phụ nữ tổ chức. Mở đầu buổi toạ đàm, với bài
viết Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, một diễn ngôn về lịch sử và văn hóa, tác giả
Nguyễn Đăng Điệp chỉ ra rằng “Nguyễn Xuân Khánh đã trải qua một quá trình lựa chọn
và điều chỉnh. Thứ nhất, lựa chọn vị thế phát ngôn. Thứ hai, Nguyễn Xuân Khánh lựa
chọn ngón chơi hợp lý. Ông không chạy theo kiểu tự sự hiện đại, hậu hiện đại mà lựa
chọn lối viết gần với truyền thống để tiểu thuyết không rơi vào nệ thực và ghi chép.”[40,
15]. Trong một nhận định khác, tác giả bài viết cho rằng tính hấp dẫn của diễn ngôn nghệ
thuật Nguyễn Xuân Khánh chủ yếu nằm ở tính đối thoại”. Đồng thời, tác giả khẳng định
“cảm thức và suy tư về tinh thần dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc trực tiếp quy định diễn
ngôn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh” [40, 23].
Nhìn chung, các tham luận tập hợp trong Lịch sử và văn hóa, cái nhìn nghệ thuật
Nguyễn Xuân Khánh chủ yếu xoay quanh một số phương diện chính trong tiểu thuyết
Nguyễn Xuân Khánh: diễn ngôn lịch sử và tư duy nghệ thuật; những chiến lược tự sự và
các hướng tiếp cận. Trong đó, Lại Nguyên Ân cho rằng sự ra đời của Hồ Quý Ly, Mẫu
19



Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh được đánh giá là “tiểu thuyết
gia hàng đầu của văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XXI. Các sáng tác của anh đã trở thành
trung tâm của đời sống văn học” [40, 43]. Bùi Việt Thắng khẳng định: “hợp xướng nhiều
bè” là cách gọi khác của kết cấu đa tuyến có tầm khái quát rộng lớn như một đặc điểm tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Thái Phan Vàng Anh chỉ ra những dạng thức đối thoại trong
TTLS của Nguyễn Xuân Khánh: đối thoại về tư tưởng, quan niệm; huyền thoại và giải
huyền thoại – đối thoại với lịch sử – văn hóa; tính đối thoại trong diễn ngôn trần thuật.
Nguyễn Hoài Nam nhận định rằng trọng tâm cảm hứng của Nguyễn Xuân Khánh chính là
văn hóa – phong tục, thứ văn hóa – phong tục được sinh thành và được tỏa ra, lan thấm
vào đời sống từ những hệ tư tưởng tôn giáo lớn: Đạo Mẫu và Đạo Phật. Phan Tuấn Anh
cho rằng Nguyễn Xuân Khánh đã cả gan “phạm thượng” đến hầu hết những “cái vảy
ngược” của các con rồng tư tưởng đầy quyền uy tại Việt Nam: đạo Mẫu, Nho giáo, Phật
giáo, Đạo giáo, Kito giáo, vai trò và vị thế lịch sử của triều Trần, người Hoa, người Chăm,
người Pháp, trong lịch sử Việt Nam. Phạm Xuân Thạch nhận xét tiểu thuyết Nguyễn Xuân
Khánh thể hiện một khuynh hướng bền vững giải thể tính lưỡng phân trong cấu trúc ngữ
nghĩa của tiểu thuyết để đạt đến sự phức tạp hóa của những cấu trúc nội tại. Đằng sau cấu
trúc thi pháp này chính là một hệ cấu trúc tư tưởng với tinh thần dân tộc chủ nghĩa là yếu
tố mang tính ý thức hệ bền vững nhất, nằm ở lõi của các TTLS của Nguyễn Xuân Khánh.
Đoàn Ánh Dương nhận thấy Nguyễn Xuân Khánh đã mở ra con đường của hư cấu lịch sử
cùng với cách thức mà nhà văn gửi gắm cái nhìn cuộc đời của mình vào trong tác phẩm
đã xác lập ông vào vị trí nhà văn hàng đầu của mười năm đầu thiên niên kỷ mới. Mai Anh
Tuấn cũng chỉ ra ảnh hưởng của văn hóa vào trong các tác phẩm của nhà văn như dấu ấn
của Nho, Phật, Đạo giáo cùng văn hóa tín ngưỡng của người Việt được chuyển hóa vào
tác phẩm như “một hồi đáp về/với vô thần”. Dấu ấn văn hóa còn là những biểu tượng
“hồn nước” “hồn đất” hay là tinh thần dân tộc đắm đuối. Tất cả được hòa hợp như một tư
tưởng kiến tạo văn hóa trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Bên cạnh đó, một số tác
giả tham luận mở ra nhiều hướng lý giải và khám phá mới mẻ về tiểu thuyết Nguyễn
Xuân Khánh. Chẳng hạn, khi tiếp cận Hồ Quý Ly, Phạm Phú Phong lý giải tác phẩm từ tư

duy tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, trong khi đó, Lê Tú Anh tiếp cận Hồ Quý Ly từ
thuyết Nho giáo, Đỗ Ngọc Yên khai thác phương thức xây dựng nhân vật. Mẫu Thượng
Ngàn được lý giải từ nhiều điểm nhìn khác nhau: màu sắc huyền thoại (Lê Thị Bích
Thủy), từ tín ngưỡng dân gian (Trần Thị An), lý thuyết Cổ mẫu (Nguyễn Quang Huy),

20


văn hóa dân tộc (Nguyễn Văn Long – Lê Thị Thủy). Đội gạo lên chùa được các tác giả
nhìn từ góc nhìn văn hóa Phật giáo.
Thành tựu của TTLS mười năm đầu thế kỉ XXI, bên cạnh TTLS của Nguyễn Xuân
Khánh, văn học đương đại còn ghi nhận rất nhiều những tác phẩm có giá trị như: Giàn
thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Tám triều
vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Tây Sơn bi hùng truyện, Nẻo về Vạn Kiếp (Lê Đình Danh),
Oan khuất, Bức huyết thư, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh
Tấn), Minh sư (Thái Bá Lợi), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Thế kỉ bị mất (Phạm
Ngọc Cảnh Nam),… Dưới đây là một số bài viết, công trình nghiên cứu về các tác phẩm
tiêu biểu:
Sự ra đời của tiểu thuyết Giàn thiêu đã giúp “Võ Thị Hảo bứt phá khỏi lối đi đã
quen chân” và trở thành một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi đương đại.
Ngay trang đầu của tiểu thuyết Giàn thiêu, người đọc bắt gặp lời giới thiệu: “đã có tới
mấy chục bài báo và rất nhiều trang web nói về Giàn thiêu”. Điều đó, minh chứng rằng,
Giàn thiêu đã thật sự thu hút sự quan tâm của độc giả trong cả nước. Phạm Xuân Nguyên
trong lời giới thiệu Giàn thiêu nhận xét: “văn Võ Thị Hảo không chỉ là những dòng chữ,
không chỉ là những truyện ngắn hay tiểu thuyết mà văn Võ Thị Hảo có nhiều tầng hình
tượng… đó là lối văn được tác giả thổi linh hồn, tạo những câu văn huyền ảo, mê hoặc
thậm chí ma quái”… “Có người nói rằng Võ Thị Hảo đã quá bạo gan khi dám lật ngược
lại nhân vật Ỷ Lan nguyên phi. Ý kiến và sự so sánh rất nhiều, song lại khá thống nhất khi
cầm “Giàn thiêu” trên tay, đa số người đọc phải đọc một mạch. Nhiều người đã thức trắng
một đêm để đọc bằng xong hơn 500 trang của cuốn tiểu thuyết này” [98]. Trong bài

viết Những thông điệp từ lửa và nước, Trần Khánh Thành (Báo Văn nghệ (16), 2004) bày
tỏ sự xúc động khi tiếp cận Giàn thiêu: “…Mở trang đầu đã gặp hai chữ “Giàn thiêu” - ấn
tượng chói và bỏng rát, ngột và xót xa đã xâm chiếm lòng người… Viết với Võ Thị Hảo là
truyền lửa từ trái tim đến bạn đọc…”. Trong Buổi toạ đàm về sáng tác của Võ Thị Hảo
(19/10/2005, Hà Nội), các nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên, Hoàng Ngọc Hiến cùng
ngợi khen: “Giàn thiêu là một tiểu thuyết, trước hết là một tiểu thuyết, nghĩa là Giàn
thiêu trước hết không phải là một “truyện lịch sử”, không phải là minh hoạ lịch sử, mà là
một tiểu thuyết tư duy lại lịch sử bằng phương pháp tiểu thuyết”. Đồng thời nhấn mạnh
rằng “tác giả Võ Thị Hảo đã khá thành công trong cấu trúc của cuốn tiểu thuyết”.
Nguyễn Hoài Nam trong bài Giàn thiêu – một nghệ thuật làm tan khối băng lịch
sử (Báo Người đại biểu nhân dân, 2005) đã nhấn mạnh đến những đặc sắc về nghệ thuật
21


của tác phẩm này: “Tiểu thuyết lịch sử Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) là một nghệ thuật làm tan
khối băng lịch sử mà chị đã gặp phải khi dựng lên một giàn thiêu với rất nhiều lửa của
mình…Võ Thị Hảo đã làm tan khối băng nhận thức về Ỷ Lan – với tư cách là một nhân
vật lịch sử, một khối băng vốn đã cố kết vững chắc”. Như vậy, tác giả bài viết đã đánh giá
Giàn thiêu trên cả hai phương diện: Giàn thiêu – một TTLS và Giàn thiêu – cuốn sách
làm tan khối băng lịch sử, kéo quá khứ về hiện tại, đặt quá khứ – hiện tại trong một dòng
chảy liên tục của thời gian. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có bài viết Tiểu thuyết và lịch
sử (nhân đọc Giàn thiêu (Võ Thị Hảo)) bàn về vấn đề khai thác lịch sử trong tiểu thuyết
hiện đại, cụ thể là Giàn thiêu (Võ Thị Hảo). Ông cho rằng sử liệu và truyền thuyết xưa đã
được tác giả Giàn thiêu khai thác theo đúng cung cách của tiểu thuyết chứ không lạc sang
hướng của các kiểu truyện có hơi hám sử thi. Phương hướng làm việc của tác giả tiểu
thuyết Giàn thiêu cố nhiên không quá đơn độc, trái lại, thậm chí đang cùng một số tác giả
khác làm nên một chuyển động bên trong dòng sáng tác về văn xuôi lịch sử hiện nay.
Nguyễn Văn Hùng với bài viết Yếu tố liên văn bản trong tiểu thuyết Giàn thiêu (Văn học
hậu hiện đại – diễn giải và tiếp nhận, Nxb Văn học, 2013) đã chỉ ra một số yếu tố liên văn
bản được thể hiện trong tác phẩm như: Mã lịch sử, mã văn hóa (cổ mẫu Lửa và nước, tôn

giáo, tín ngưỡng dân gian), cùng sự tương tác các văn bản thể loại. Tác giả Nguyễn
Quang Huy nghiên cứu về cổ mẫu lửa, nước và máu trong Giàn thiêu với bài viết Đọc
Giàn thiêu vủa Võ Thị Hảo – chơi với người chơi lửa. Tác giả rất tỉ mỉ, công phu khi
thống kê toàn bộ sự xuất hiện của các cổ mẫu lửa, nước và máu. Tác giả cho rằng không
phải ngẫu nhiên mà Võ Thị Hảo mơ mộng về nước và lửa một cách say sưa trong Giàn
thiêu đến thế. Bài học từ con thiêu thân lao một cách không hề dè dặt vào lửa là biểu hiện
bậc nhất của tín niệm hợp nhất.
Trong bài giới thiệu tác phẩm Đàn đáy, tác giả Trần Nhã Thụy khẳng định: “trong
cuốn Đàn đáy, Trần Thu Hằng không chọn cách xây dựng nhân vật điển hình, cũng không
bám sát mô tả sự kiện cùng các cột mốc thời gian. Thế nhưng, với một sự kỹ lưỡng, sâu
sắc và chi tiết về kiến thức lịch sử (cũng như văn hóa) cây bút nữ này đã biết “lẩy” ra
những “mẩu sống” sinh động, kỳ lạ, tạo cho cuốn tiểu thuyết những cảm thức lịch sử
mang giá trị nhân văn.” Trong Đàn đáy, Trần Thu Hằng đã đem đến cái nhìn toàn diện,
mới mẻ hơn, khi nhà văn đặt những nhân vật nghệ sĩ của mình trong một kiếp nhân sinh
và bối cảnh lịch sử cụ thể. Đó là cách khai thác tác phẩm của tác giả Nguyễn Thị Kim
Tiến trong bài viết Bi kịch của người nghệ sĩ trong tiểu thuyết Đàn đáy của Trần Thu
Hằng. Tác giả bài viết đã giải mã những ẩn số của tác phẩm thông qua cách cảm nhận và
22


lý giải về bi kịch tình yêu, tài năng của người nghệ sĩ như Bạch Vĩ, Bạch Dung, Bạch Vân
đặt trong mối quan hệ với những nhân vật lịch sử như Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Khản,
Hoàng Tố Lý, Lê Chiêu Thống… Qua đó, tác giả cho rằng Trần Thu Hằng đã cho thấy cái
nhìn mới mẻ nhưng đầy cảm thông của một kẻ tri âm với người nghệ sĩ, bậc tiền nhân
cách đây hơn ba thế kỉ.
Kể từ khi ra đời và đặc biệt, ngay sau khi tiểu thuyết Hội thề (Nguyễn Quang
Thân) đoạt giải A trong cuộc thi tiểu thuyết lần thứ III (2006 – 2009) của Hội Nhà văn,
một cuộc tranh luận dữ dội đã nổ ra, làm xáo động văn đàn cả nước. Những tranh luận
thường xoay quanh hai vấn đề chính: cách xây dựng hình tượng nhân vật (Lê Lợi và
Nguyễn Trãi) và nghệ thuật sáng tác TTLS. Những bài viết mang tính phản biện, tranh

luận quanh tác phẩm Hội thề có thể kể đến như: Hội thề - tiểu thuyết lịch sử hay phản lịch
sử, Nguyễn Quang Thân cho các tướng lĩnh Lam Sơn theo Mao khí sớm của Trần Mạnh
Hảo, Đọc Hội thề của Phạm Viết Đào, Kinh ngạc khi Hội Nhà văn tôn vinh cuốn tiểu
thuyết Hội thề của Từ Quốc Hoài, Thẩm bình Hội thề của Vương Quốc Hoa, Về Hội thề
của Trần Hoài Dương,… Chẳng hạn, nhà thơ Từ Quốc Hoài bức xúc khi cho rằng: tác giả
Hội thề đã đẩy Nguyễn Trãi, một anh hùng kiệt xuất vào thế cô độc, chỉ trang trải lòng
mình được với Thái phúc, một viên bại tướng nhà Minh đã đầu hàng nghĩa quân. Nhà văn
Hà Văn Thùy phản biện: “tiêu chuẩn vàng để định giá một tiểu thuyết lịch sử, đó là tính
chân thực lịch sử… Đem chuẩn mực kinh điển này soi vào Hội thề, ta thấy rất rõ tác
phẩm thiếu tính chân thực lịch sử ở phương diện phản ánh không chân thực tinh thần của
một thời đại lịch sử. Cái tâm thức kình chống, coi khinh trí thức của nghĩa quân Lam Sơn
trong Hội thề cũng không thực,…”. Trần Mạnh Hảo gay gắt hơn khi cho rằng nhà văn
Nguyễn Quang Thân đã hư cấu những chi tiết phi lịch sử… Trong khi đó, nhà văn Trần
Hoài Dương băn khoăn: “Tôi không hiểu nổi, sao anh Thân lại viết tác phẩm này?”
Ngược lại, trước những ý kiến trái chiều về giá trị của tác phẩm, nhiều tác giả đã
lên tiếng bảo vệ Hội thề, cụ thể như: Hội thề, một cách nhìn về lịch sử của Hoài Nam, Trớ
trêu trí thức, bẽ bàng tình nhân của Văn Hồng, Đọc Hội thề của Trần Thanh Giảng, Hội
thề - đau đáu thế sự, tình đời của V. Minh, Trong tiếng người xưa vẫn vọng về của Ngô
Thị Kim Cúc, Hội thề: Lịch sử và tiểu thuyết của Lê Thành Nghị, Hội thề của Đỗ Ngọc
Thạch, Mấy vấn đề chủ yếu trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại của Nguyễn Văn
Dân,… Trong các bài viết trên các tác giả đều thống nhất quan điểm khi đánh giá: chức
năng của TTLS là không phải minh họa về lịch sử đã được xác lập mà là bằng những con
đường đặc trưng riêng của nó để làm thế nào có thể phá vỡ những điều đã được coi là
23


niềm tin chắc chắn, các quan niệm về thế giới đã được thiết lập…, do đó, “trong biên độ
mở của Hội thề mà mỗi người đọc, theo cách của mình có thể cảm nhận, điều đó cũng
chứng tỏ sự thành công của tiểu thuyết,… Nhà văn Nguyễn Quang Thân đã rất dày công
trước tư liệu, trước câu chữ, trước mối quan hệ giữa lịch sử - những vấn đề còn khuất lấp

trong màn sương thời gian và nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại.”[93]
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết của các học viên cao học và nghiên cứu sinh trong
cả nước được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: Phan Trọng Hoàng Linh với bài
viết Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Hội thề của Nguyễn Quang Thân (Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 4, 2012) đã trình bày khái quát một số điểm độc đáo trên phương
diện ngôn ngữ trần thuật như ngôn ngữ người kể chuyện (ngôi thứ ba) và ngôn ngữ nhân
vật, giọng điệu trần thuật. Trong bài viết Hình tượng nhân vật Lê Lợi trong tiểu thuyết
lịch sử Hội thề của Nguyễn Quang Thân Nguyễn Văn Hùng cho rằng một trong những
điểm thành công trong tiểu thuyết Hội thề chính là việc Nguyễn Quang Thân đã xây dựng
nên bức chân dung nhân vật lịch sử sinh động, độc đáo và mới lạ – Lê Lợi. Nguyễn Thị
Hương Quê trong bài viết Bi kịch về nỗi cô đơn của người trí thức trong tiểu thuyết lịch
sử Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh và Hội thề của Nguyễn Quang Thân đã đề cao tài
năng của Nguyễn Quang Thân trong việc xây dựng thành công chân dung Nguyễn Trãi
với tấn bi kịch về nỗi cô đơn của người trí thức với lý tưởng nhân nghĩa giữa những viên
tướng võ biền của nghĩa quân Lam Sơn.
Trong lời giới thiệu Tây Sơn bi hùng truyện, nhà văn Hoàng Minh Tường khẳng
định đây là cuốn tiểu thuyết hấp dẫn và bổ ích. Tác giả đã đặt các nhân vật của Tây Sơn
trong bối cảnh rộng lớn, trong mối quan hệ trực diện đối nghịch để làm nổi bật tính cách
nhân vật, thể hiện rõ nét chủ đề tác phẩm. Ngoài ra, một số bài viết tranh luận xoay quanh
việc xây dựng chân dung các nhân vật Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân trong Tây Sơn
bi hùng truyện là những quan niệm và cách nhìn nhận khác nhau về nghệ thuật hư cấu của
tác giả. Nguyễn Hòa trong bài Lại bàn về chuyện đọc sử, đọc văn yêu cầu cần phải thận
trọng khi định vị ranh giới giữa đọc sử và đọc văn, người đọc không thể từ sự nhầm lẫn
giữa chính sử với truyền thuyết để so sánh sự thật lịch sử với hư cấu nghệ thuật rồi khẳng
định hoặc phủ định. Và nghệ thuật hư cấu của Lê Đình Danh là hoàn toàn có thể chấp
nhận. Hoàng Quốc Hải trong bài Đôi điều về Tây Sơn bi hùng truyện đánh giá đây là bộ
tiểu thuyết bề thế và có sức hấp dẫn. Tác giả cho rằng thuộc tính của TTLS là phải hư cấu
và khi tiếp cận lịch sử, các nhà văn có cách tiếp cận khác nhau.

24



Ra đời năm 2009, đến nay, tác phẩm Minh sư của Thái Bá Lợi đã đạt được một số
giải thưởng danh giá như: giải thưởng văn học Đông Nam Á (2013), giải nhất Văn học
nghệ thuật Đà Nẵng (5/2016), thành công đó đã gây chú ý trên văn đàn. Hai tác giả Phan
Ngọc Thu và Huỳnh Thu Hậu cùng tỏ thái độ ngưỡng vọng, cảm phục, khiêm cung, sinh
động khi khám phá hình tượng Nguyễn Hoàng. Hai tác giả cùng nhận định thành công
của Minh sư không chỉ ở bình diện nội dung mà còn ở những đặc sắc nghệ thuật: nghệ
thuật trần thuật, kết cấu, kết hợp giữa hiện thực và hư cấu. Tác giả Trần Xuân An trong bài
viết Minh sư nào trong “chuyện Nguyễn Hoàng mở cõi?” đã lý giải: “Minh sư không ai
khác, mà chính là những ai đã nói đúng sự thật”, đồng thời, qua tác phẩm nhà văn còn
muốn gửi gắm đến người đọc những băn khoăn về những vấn nạn lịch sử như xung đột
Chiêm – Việt để góp phần hóa giải. Vấn đề này cũng được tác giả Văn Chinh đề cập trong
bài viết Vấn đề hòa giải hòa hợp dân tộc trong tiểu thuyết chiến tranh gần đây: “Nhờ tài
đức và trí lực, Nguyễn Hoàng đã cố kết được lòng dân, muôn người như một, biến ước
mơ khai khẩn cho riêng mình một cõi thành hiện thực chói lọi”. Vì thế, nhân vật Nguyễn
Hoàng hiện lên trong tác phẩm là con người đức độ, có tài năng chính trị lẫn quân sự,
luôn bình tĩnh, sống chan hòa với mọi người, kể cả thuộc cấp và nhân dân. Chính nhờ
những phẩm chất đó mà Nguyễn Hoàng thu phục được lòng dân để bắt đầu cho công
nghiệp khai hóa, mở mang bờ cõi. Bài viết Biện chứng của một giai đoạn lịch sử bi hùng
của tác giả Tấn Phong khẳng định: Tiểu thuyết Minh sư không đi sâu vào miêu tả những
tranh giành ngôi vị, những tranh chấp phe nhóm mà chủ yếu đi vào tập trung khắc họa
tính cách nhân vật Chúa Tiên. Thái Bá Lợi hết lòng đi tụng ca Nguyễn Hoàng và thẳng
thắng biện chứng, không ngại nói những điều khó nói của một thời kỳ lịch sử đất nước.
Tóm lại, mặc dù những bài viết về Minh sư không nhiều, còn mang tính nhỏ, lẻ song một
thực tế cho ta thấy rằng, tác phẩm thật sự có nhiều cách tân trên cả hai phương diện nội
dung và hình thức thể hiện, điều đó góp phần rất lớn vào sự nỗ lực đổi mới thể loại TTLS
Việt Nam đương đại.
Mặc dù, Tám triều vua Lý không vượt qua được sự thành công của Bão táp triều
Trần nhưng với sự nghiêm túc trong sáng tạo nghệ thuật, Hoàng Quốc Hải đã giúp độc giả

khám phá những thăng trầm của một triều đại huy hoàng bậc nhất trong lịch sử. Trong bài
viết Vương triều Lý dưới góc nhìn của tiểu thuyết gia Hoàng Quốc Hải tác giả Đặng Văn
Sinh đã giới thiệu tương đối đầy đủ và chi tiết về bộ tiểu thuyết Tám triều vua Lý của
Hoàng Quốc Hải. Tác giả cũng đã nhận định về tư tưởng của tác phẩm: “trong lịch sử văn
học Việt Nam chưa bao giờ có một tác phẩm dưới dạng tiểu thuyết lịch sử mà lại thấm
25


×