Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

ĐỀ CƯƠNG QUẢN LÝ HỆ THỐNG ĐẢO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.36 KB, 29 trang )

QUẢN LÝ HỆ THỐNG ĐẢO VN

1

1





-

-



Câu 1: Khái niệm về đảo và quần đảo? Trình
bày những nghiên cứu về đảo và quần đảo?
Đảo
- Công ước của Liên hợp quốc về luật Biển 1982
(UNCLOS 1982): “Một đảo là một vùng đất tự nhiên
có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn
ở trên mặt nước.”
- Luật Biển Việt Nam: “Đảo là một vùng đất tự
nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất
này vẫn ở trên mặt nước”
Quần đảo
Công ước của Liên hợp quốc về luật Biển 1982
(UNCLOS 1982): “Một tổng thể các đảo, kể cả các bộ
phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các
thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau chặt


chẽ đến mức tạo thành về thực chất một thể thống
nhất về địa lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như
thế về mặt lịch sử”.
- Luật Biển Việt Nam: “Quần đảo là một tập hợp
các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng
nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có
liên quan chặt chẽ với nhau
Các nghiên cứu về đảo và quần đảo VN
a, Các nghiên cứu về hệ thống đảo ven bờ
* Thời kỳ phong kiến
- Các nghiên cứu về đất đai, khí hậu, hải văn,
luồng lạch, các địa điểm hiểm yếu cho quốc phòng,
cũng như các nghề, các sản vật, các phong tục, tập
quán, con người trong các thời kỳ phong kiến ít được
hệ thống hóa và xuất bản nên ít được lưu lại đến nay.
- 1414, Quân nhà Minh trong những năm đầu đô
hộ nước ta đã ra lệnh tịch thu hết sách vở . và đốt
hết để làm cho dân ta quên hết cội nguồn lịch sử,
văn hóa để dễ bề cai trị.
2

2


- Khí hậu nước ta nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều;
phát triển nhiều loại sâu mọt khiến cho quá trình bảo
quản và lưu trữ sách gặp khó khăn
* Sau ngày hòa bình 1954
- Ở miền Bắc việc nghiên cứu các đảo trong vịnh
Bắc Bộ thực sự bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ

trước cùng với các Chương trình hợp tác điều tra
nghiên cứu vịnh Bắc Bộ Việt-Trung (1959-1962), ViệtXô (1960-1961).
- Ở miền Nam, các đảo ven bờ được nghiên cứu
chủ yếu về mặt địa chất bởi các tác giả trong nước,
như Trần Huỳnh Anh (1967-1972), Tạ Trần Tấn
(1963-1974), và các tác giả nước ngoài như Saurin E.
(1952-1971), Fontaine H. (1967-1972), Faure C.
(1968-1969),... về một loạt các đảo như Phú Quý,
Côn Đảo, Hòn Khoai, Thổ Chu, An Thới, Phú Quốc,
Hòn Rái, Hòn Tre, Hòn Nghệ, Hòn Chuối, Đá Bạc,...
* Sau khi thống nhất đất nước năm 1975
- Về mặt địa chất các đảo ven bờ tiếp tục được
khảo sát ở các tỷ lệ 1/500.000 (hoàn thành năm
1982), 1/200.000 (hoàn thành năm 1994) và
1/50.000; nhiều đảo quan trọng đều đã được nghiên
cứu về địa chất thủy văn, được đánh giá về tiềm
năng nước dưới đất.
- Về lãnh vực khảo cổ học ở vùng đảo biển ven
bờ Đông Bắc, các di chỉ thuộc văn hóa Soi Nhụ, Cái
Bèo, Hạ Long, được tiếp tục nghiên cứu, và ở một số
điểm cho đến những năm gần đây (2009) đã có các
phát hiện quan trọng về di cốt người cổ. Các đảo ven
bờ Nam Trung Bộ và Nam Bộ, các nghiên cứu khảo
cổ còn chưa nhiều, tập trung vào các năm 19781979, 1990-1993.
- Về các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
trên HTĐVB cũng đã được đẩy mạnh nghiên cứu,
3

3



nhiều di tích lịch sử văn hóa đã được nhà nước công
nhận, nhiều lễ hội truyền thống đã được phục hồi
* Sau khi thống nhất đất nước năm 1975
- Những nghiên cứu về các hệ sinh thái và tài
nguyên sinh vật trên đảo và vùng biển nông quanh
đảo cũng đã được tiến hành đồng bộ và hệ thống,
làm sáng tỏ các đặc trưng của hệ sinh thái rừng mưa
nhiệt đới trên đảo.
- Những năm gần đây các đảo và quần đảo còn
được đánh giá bước đầu nhưng có hệ thống về các
giá trị của các kỳ quan địa chất và sinh thái, và đặc
biệt là những giá trị về tài nguyên vị thế - một dạng
tài nguyên mới được nhận diện và nghiên cứu
Tất cả các nghiên cứu trên một mặt phục vụ
trực tiếp cho phát triển kinh tế-xã hội trên đảo, cho
công tác di dân ra đảo, lập quy hoạch phát triển kinh
tế-xã hội cho các huyện đảo, mặt khác phục vụ cho
công tác bảo tồn đảo biển, cũng như tạo cơ sở khoa
học cho việc vinh danh các giá trị về tự nhiên và văn
hóa của các đảo và vùng biển quanh đảo ở cấp quốc
gia và quốc tế
b, Các nghiên cứu về 2 quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa
* Vào thời các triều đại phong kiến Việt Nam,
từ thế kỷ XVII:
- Nhận thức của các nhà hàng hải thời xưa về
Hoàng Sa và Trường Sa lúc đầu mơ hồ, họ chỉ biết có
một khu vực rộng lớn rất nguy hiểm cho tàu thuyền
vì có những bãi đá ngầm – gọi là Bãi Cát Vàng,

Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa
- Về sau, với những tiến bộ của khoa học và hàng
hải, người ta đã phân biệt có hai quần đảo: quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Mãi cho đến năm
1787-1788, cách đây hai trăm năm, đoàn khảo mới
4

4


xác định được rõ ràng và chính xác vị trí của quần
đảo Hoàng Sa, từ đó phân biệt quần đảo này với
quần đảo Trường Sa ở phía Nam
* Vào thời các triều đại phong kiến Việt Nam,
từ thế kỷ XVII:
- Việc nghiên cứu hai quần đảo này phục vụ việc
quản lý và thực thi chủ quyền trên đảo do nhà nước
tiến hành. Đó là các nghiên cứu về phân bố, hình
thể, quy mô và kích thước của các đảo, đá, bãi ngầm
thuộc hai quần đảo, cũng như nghiên cứu thủy trình,
luồng lạch, thủy triều, cùng các nguồn lợi hải sản các
vùng đảo biển
* Thời Pháp thuộc
- Việc nghiên cứu quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa gồm vùng nước và cả trên các đảo và bãi ngầm
được tiến hành với việc thành lập Viện Hải dương học
Đông Dương (tên lúc đầu) năm 1922.
* Sau năm 1954 đến trước năm 1975
- Năm 1953, các nhà địa chất và sinh vật học
Saurin E., Fontaine H. và Lê Văn Hội đã nghiên cứu

nhiều đảo trong quần đảo Hoàng Sa và sau đó (các
năm 1955 đến 1962), đã công bố nhiều tài liệu quan
trọng về địa chất-địa lý, khoáng sản (phốt phát),
thực vật, môi trường vùng đảo.
- Năm 1956, hệ thực vật trên các đảo được
nghiên cứu
- Công tác nghiên cứu đánh giá trữ lượng phốt
phát ở Hoàng Sa được tiến hành vào năm 1973 với
sự tham gia của các chuyên gia Nhật Bản
* Sau năm 1975
Một thành tựu nổi bật về nghiên cứu Trường Sa và
Biển Đông nói chung là việc xuất bản tập bản đồ khá
quy mô “Atlas điều kiện tự nhiên và môi trường vùng
biển Việt Nam và kế cận” năm 2010
5

5




-

-

-

-

-


o

Câu 2: Khái quát đặc điểm, phân bố số lượng
của quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa?
Quần đảo Hoàng Sa
Đặc điểm:
Hoàng Sa nằm trong vùng "xích đạo từ" có độ sai
lệch từ không thay đổi hoặc thay đổi rất nhỏ, rất
thuận lợi cho việc đi biển. Quần đảo này có khí hậu
nhiệt đới, nóng ẩm, mưa nhiều, thường có sương mù
và nhiều giông bão, nhất là từ tháng 6 đến tháng 8
hằng năm. Trên một số đảo có nguồn nước ngọt, cây
cối um tùm, vô số chim và đặc biệt là có nhiều rùa
biển sinh sống.
Nằm phía Đông của Việt Nam, Hoàng Sa án ngự
đường hàng hải quốc tế huyết mạch từ Thái Bình
Dương qua Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Vùng
biển này có tiềm năng lớn về khoáng sản và nguồn
hải sản, thuận lợi trong việc phát triển kinh tế, quan
trọng hơn đây là vị trí quân sự chiến lược, khống chế
đường giao thông trên biển và trên không trong khu
vực phía Bắc Biển Đông.
Quần đảo Hoàng Sa là một thế giới san hô với hơn
100 loài đã tạo thành một phần của vòng cung san
hô ngầm dọc bờ biển Đông Nam của lục địa châu Á.
Hình thái địa hình các đảo trong quần đảo Hoàng Sa
tương đối đơn giản nhưng mang đậm bản sắc của
địa hình ám tiêu san hô vùng nhiệt đới, phần lớn có
chân nằm ở độ sâu 1000- 1500m

Về mặt hình thái, đảo thường có cấu tạo 3 phần khác
nhau đó là phần đảo nổi, hành lang bãi triều (thềm
san hô) bao quanh đảo và sườn bờ ngầm dốc đứng.
Về điều kiện tự nhiên:
6

6


-

-

-

-


-

-

Thời gian nắng ở quần đảo Hoàng Sa dao động trong
khoảng 2.400-2.600 giờ/năm, trong đó mùa hè (từ
tháng 5 đến tháng 10) có thời gian chiếu sáng
khoảng 1300 giờ, lớn hơn so với mùa Đông (từ tháng
11 đến tháng 4).
Nhiệt độ không khí ở vùng biển Hoàng Sa có giá trị
thấp nhất 22o-24oC trong tháng 1, tăng dần đạt cực
đại 28.5o-29oC trong tháng 6, 7 và giảm từ từ tới

25oC vào tháng 12. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các
tháng nhiệt độ cao nhất và thấp nhất là 5.5oC-6oC.
Lượng mưa trung bình nằm ở quần đảo Hoàng Sa
khoảng 1.200-1.600mm, Mưa chủ yếu tập trung vào
mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 10)
Độ ẩm tương đối trung bình ở Hoàng Sa 80-85% và
hầu như không bị biến động nhiều theo mùa.
Phân bố số lượng:
Quần đảo Hoàng Sa là một trong hai quần đảo xa bờ
thuộc chủ quyền của Việt Nam từ lâu đời. Trong lịch
sử quần đảo Hoàng Sa còn có tên là “Bãi cát vàng”.
Quần đảo gồm 37 đảo, đá, bãi cạn, bãi ngầm và một
số đối tượng địa lý khác thuộc huyện Hoàng Sa,
thành phố Đà Nẵng. Khu vực quần đảo nằm trên
vùng biển rộng khoảng 30.000 km2
Quần đảo Hoàng Sa gồm 2 cụm đảo chính là cụm
Lưỡi Liềm ở phía Tây; cụm An Vĩnh ở phía Đông.
Cụm Lưỡi Liềm có hình cánh cung hay lưỡi liềm, nằm
về phíaTây quần đảo, gần đất liền Việt Nam, gồm 08
đảo chính là Đá Bắc, Hoàng Sa, Hữu Nhật, Duy
Mộng, Quang Ảnh, Quang Hòa, Bạch Quy, Tri Tôn và
các bãi ngầm, mỏm đá.
Cụm đảo An Vĩnh đặt tên theo một xã An Vĩnh thuộc
huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, nằm ở phía
7

7


Đông, bao gồm các đảo tương đối lớn của quần đảo

Hoàng Sa và cũng là các đảo san hô lớn nhất của
Biển Đông như đảo Phú Lâm, đảo Cây, đảo Linh Côn,
đảo Trung, đảo Bắc, đảo Nam, đảo Tây, đảo Hòn đá.


-

-

-


-

Trường Sa:
Đặc điểm:
Điều kiện tự nhiên và khí hậu vùng này rất khắc
nghiệt: nắng gió, giông bão thường xuyên, thiếu
nước ngọt, nhiều đảo không có cây. Một số hiện
tượng thời tiết cũng diễn biến khác với trong đất liền.
Khí hậu ở quần đảo Trường Sa có thể chia làm hai
mùa: mùa khô và mùa mưa. Mùa khô từ tháng 1 đến
tháng 5, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau,
lượng mưa trung bình hàng năm rất lớn vào khoảng
hơn 2.500 mm
Trên các đảo có nhiều loại cây xanh như phong ba,
phi lao, bàng vuông và một số loại dây leo cỏ dại.
Chất đất trên các đảo của quần đảo Trường Sa là cát
san hô, có lẫn những lớp phân chim lẫn mùn cây có
bề dày khoảng 5 - 10 cm

Nguồn lợi hải sản ở quần đảo Trường Sa rất phong
phú, đặc biệt có loại vích là động vật quý hiếm, cá
ngừ đại dương có giá trị kinh tế cao. Không chỉ có trữ
lượng tài nguyên khá lớn, đa dạng mà quần
đảo Trường Sa còn có vị trí quân sự chiến lược quan
trọng án ngữ phía Đông Nam nước ta.
Phân bố số lượng:
Quần đảo Trường Sa nằm cách quần đảo Hoàng Sa
khoảng 200 hải lý về phía Nam, bao gồm hơn 100
đảo, đá, bãi ngầm, bãi san hô, nằm rải rác trong
phạm vi biển, khoảng từ vĩ tuyến 6 030’ Bắc đến
12000’ Bắc và khoảng từ kinh tuyến 111 030’ Đông
đến 117020’ Đông. Đảo gần đất liền nhất là
8

8


-

đảo Trường Sa cách vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa)
khoảng 250 hải lý, cách điểm gần nhất của đảo Hải
Nam (Trung Quốc) khoảng gần 600 hải lý và cách
đảo Đài Loan khoảng 960 hải lý.
Các đảo của quần đảo Trường Sa thấp hơn các đảo
của quần đảo Hoàng Sa. Độ cao trung bình trên mặt
nước khoảng 3 - 5m. Quần đảo Trường Sa được chia
làm tám cụm: Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết,
Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bình Nguyên. Song
Tử Tây là đảo cao nhất (cao khoảng 4 - 6m lúc thủy

triều xuống); Ba Bình là đảo rộng nhất (0,6 km2).
Câu 3: Phân bố, số lượng đặc điểm khái quát
hệ thống đảo ven bờ?
a, Phân bố, số lượng và diện tích:
HTĐVB phân bố trên thềm lục địa, suốt từ biên giới
cực Bắc tại tỉnh Quảng Ninh cho đến sát biên giới
phía Tây Nam tại tỉnh Kiên Giang. Số lượng các đảo
ven bờ được thống kê theo hải đồ tỷ lệ 1/25.000 và
1/100.000, với con số tổng cộng 2.773 đảo/ với tổng
diện tích 1720,8754 km
Số
Tỷ lệ Diện tích
Tỷ lệ
Các vùng biển
đảo
(%)
(%)
(km2)
Ven bờ Bắc Bộ
2321 83,70 841,1571 48,88
Ven
bờ
Bắc
57
2,06
15,7878
0,92
Trung Bộ
Ven bờ Nam
200 7,21

170,4615 9,90
Trung Bộ
Ven bờ đông
30
1,05
80,1299
4,66
Nam Bộ
Ven bờ phía tây
165 6,96
613,3391 35,64
Nam Bộ
277
1720,875
Tổng
100
100
3
4
9

9


Số lượng và diện tích các đảo ven bờ theo các vùng
biển.
b, Đặc điểm
* Các nhân tố tạo thành hệ thống đảo ven bờ
- Các nhân tố nội sinh: có liên quan mật thiết với
đặc điểm địa chất-kiến tạo phần lục địa ven biển, mà

thực chất các đảo là phần kéo dài từ đó ra thềm lục
địa trên biển. Bao gồm 3 nhóm nhân tố nội sinh chủ
yếu là:
+ Kiến tạo-cấu trúc,
+ Núi lửa
+ Thạch học
- Các nhân tố ngoại sinh bao gồm tác động của
khí quyển, thủy quyển, sinh quyển với sự tham gia
của con người, thể hiện là các quá trình bóc mòn,
xâm thực, mài mòn, thổi mòn, tích tụ.
* Các kiểu nguồn gốc, hình thái đảo ven bờ
- Đảo núi thấp bóc mòn-mài mòn hình thành do
nâng tân kiến tạo dạng vòm- khối tảng các thể
magma trước Neogen (quần đảo Côn Lôn).
- Đảo núi thấp bóc mòn-mài mòn hình thành do
nâng kế thừa theo đứt gãy các cấu trúc nếp lồi của
trầm tích PZ, bao gồm các đảo phân bố chủ yếu ở
ven bờ Quảng Ninh (Cô Tô, Thanh Lam, Trà Bản...).
- Đảo núi thấp bóc mòn-mài mòn, nâng tân kiến
tạo mạnh theo đứt gẫy tạo cấu trúc đơn nghiêng của
trầm tích MZ. Điển hình với đảo Phú Quốc, Thổ Chu
và các đảo nhỏ lân cận.
- Đảo đồi thoải bóc mòn-mài mòn hình thành do
nâng nghịch đảo tân kiến tạo dạng vòm-địa lũy các
đá trầm tích KZ. Kiểu này được biết duy nhất thuộc
đảo Bạch Long Vĩ.
10

10



- Đảo đồi thoải hình thành do hoạt động phun
trào basalt trong Neogen-Đệ Tứ, bị tác động mạnh
của rửa trôi bề mặt và phá hủy mài mòn. Bao gồm
các đảo đá basalt ven bờ miền Trung: Cồn Cỏ, Lý
Sơn, Phú Quý, Mái Nhà.
- Đảo núi thấp bóc mòn-thạch học mài mòn, hình
thành do nâng tân kiến tạo các khối đá xâm nhập
MZ-KZ, với các đảo điển hình như Cù Lao Chàm, Hòn
Lớn, Hòn Khoai, Hòn Rái...
- Đảo núi thấp bóc mòn-thạch học mài mòn, hình
thành do nâng tân kiến tạo các khối đá magma phun
trào tuổi trước KZ. Thuộc kiểu này gồm một loạt các
đảo ven biển Miền Trung và trong vịnh Thái Lan: Hòn
Mê, Hòn La, Hòn Tre, Nam Du, ...
- Đảo núi thấp bóc mòn-rửa lũa mài mòn, hình
thành do nâng nhẹ vùng đá carbonat tuổi PZ, với địa
hình karst nhiệt đới phát triển ở vùng vịnh Hạ Long
và đảo Cát Bà.
- Đảo thềm tích tụ thành tạo bởi trầm tích bở rời
Đệ Tứ tại các vùng hạ lún cửa sông, bị tác động
mạnh bởi các quá trình tích tụ, xâm thực và mài mòn
(Cồn Đen, Cồn Thủ, Cồn Vành...)
- Đảo dạng chỏm, mô sót mài mòn, bóc mòn,
hình thành trên các loại đá khác nhau tại các vùng
nâng tương đối (gồm tuyệt đại bộ phận các đảo đá
rất nhỏ và cực nhỏ

11


11


a)

Câu 4: Khái quát về điều kiện tự nhiên – kinh tế
- xã hội các vùng đảo ven bờ Bắc Bộ?
Điều kiện tự nhiên
* Về các thành tạo địa chất
- Đá có tuổi cổ nhất là Ordovic-Silur (O-S) cấu
tạo nên huyện đảo Cô Tô và một số đảo khác, gồm
sét bột kết, cát kết tufogen và sạn kết, đá phiến silic.
- Các đá Devon hạ-trung (D1-2) gồm cát kết thạch
anh dạng quarzit, bột kết, đá phiến sét, sét vôi phân
bố rộng rãi tại các đảo Chàng Ngọ, Cái Lim, Trà Bản,
Thẻ Vàng.
- Đá Devon trung-thượng (D2-3) gặp ở Hòn Dấu
với cuội kết, cát kết đá phiến sét.
- Đảo Lão Vọng, Cống Đông, Trà Bản, Soi Đán,
Đông Hội,… lại là đá vôi phân lớp xen silic, sét vôi.
- Những tập đá vôi mầu xám đen, đá vôi trứng cá
silic tuổi carbon sớm (C1) gặp trên các đảo trong vịnh
Bái Tử Long, quần đảo Cát Bà, Long Châu.
- Đá vôi phân lớp dày dạng khối xám sáng, xen
thấu kính vôi silic thuộc Carbon-Permi (C-P) đã tạo
nên cảnh quan karst nhiệt đới kỳ vĩ vịnh Hạ Long, Bái
Tử Long, Cát Bà.
- Trầm tích chứa than Trias thượng (T 3n-r) phân
bố trên phần ĐN của Cái Bầu, trên đảo Bồ Hòn, Vạn
Vược, Vạn Mặc, Tuần Châu

* Kiểu địa hình:
- Đảo núi thấp bóc mòn-mài mòn hình thành do
nâng kế thừa các cấu trúc nếp lồi của trầm tích Cổ
sinh, gồm quần đảo Cô Tô, Trà Bản, đảo Trần,…
- Đảo núi thấp bóc mòn-mài mòn do nâng các
cấu trúc đơn nghiêng của trầm tích Trung sinh và Cổ
sinh, gồm đảo Cái Bầu, Ngọc Vừng, Hạ Mai và lân
cận.
12

12


b)

- Đảo đồi thoải bóc mòn-mài mòn do nâng tân
kiến tạo nghịch đảo dạng vòm-địa lũy trầm tích
Kainozoi: đảo Bạch Long Vĩ.
- Đảo núi thấp bóc mòn-rửa lũa-mài mòn tạo bởi
các khối đá carbonat tuổi Cổ sinh, phân bố rộng rãi
trong vịnh Hạ Long-Bái Tử Long, quần đảo Cát Bà.
* Kiểu khí hậu:
- Vùng đảo biển này thuộc khí hậu biển nhiệt đới
gió mùa, có mùa đông lạnh, chịu ảnh hưởng mạnh
của gió mùa Đông bắc, có 2-3 tháng lạnh.
- Nhiệt độ không khí cao nhất vào tháng 7 (2829oC) và thấp nhất vào tháng giêng (15-16,8 oC). Mùa
mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa
trung bình năm 1600-2200 mm (Cái Bầu: 2662 mm,
Cô Tô: 1685 mm).
- Nhiệt độ trung bình tầng nước mặt đạt 20oC về

mùa đông và 28,5oC về mùa hè. Tại Cô Tô, nhiệt độ
nước biển trung bình năm 23,7oC và độ mặn là
30,9‰.
* Đất, lớp phủ rừng và hệ sinh thái:
- Phổ biến một số ít loại đất, gồm: đất cát biển,
đất mặn, đất feralit bị biến đổi do canh tác, đất
feralit vàng đỏ trên sản phẩm dốc tụ, đất feralit nâu
vàng trên sản phẩm phong hóa đá vôi và đất feralit
vàng đỏ trên sa diệp thạch.
- Lớp phủ rừng trên các đảo có độ che phủ bình
quân đạt trên 50% diện tích, nhiều đảo đạt đến 8090% như Ba Mùn, Trà Bản, Cát Bà,…
- Các vùng biển quanh đảo gồm nhiều hệ sinh
thái đặc thù như các hệ sinh thái rừng ngập mặn,
rong-cỏ biển, rạn san hô, vùng triều, vùng dưới triều
và vùng biển nông ven bờ
Kinh tế - xã hội
* Huyện đảo Cô Tô:
13

13


- Gồm 1 thị trấn và 2 xã (đã có đề án lập xã mới
Đảo Trần), diện tích 47,4 km2, dân số 5.862 người
- Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt: 16,5%.
- Cơ cấu kinh tế: nông-lâm-thủy- sản 76,3%,
công nghiệp-xây dựng 16,6%, dịch vụ 7,1%.
* Huyện đảo Vân Đồn:
- Gồm 1 thị trấn và 11 xã, diện tích 553,2 km 2,
dân số 40.204 người.

- Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt: 15%
* Huyện đảo Cát Hải:
- Gồm 2 thị trấn và 10 xã với diện tích 323,1
km2, dân số 29.676 người
- Cơ cấu kinh tế: dịch vụ 66%, công nghiệp-xây
dựng 16%, nông lâm, ngư nghiệp 18%
* Huyện đảo Bạch Long Vĩ:
- Là một trong hai huyện đảo nhỏ nhất, với diện
tích 4,5 km2 dân số1.280 người
- Cơ cấu kinh tế: nông lâm, thủy sản 12,7%, công
nghiệp, xây dựng 15,2%, dịch vụ 72,1% (trong đó
thương mại chiếm 51,5%)



Câu 5: Trình bày khái quát về điều kiện tự
nhiên – kinh tế - xã hội các vùng đảo ven bờ
Nam Trung Bộ?
Điều kiện tự nhiên
* Về các thành tạo địa chất
- Các đảo ven bờ Nam Trung Bộ chủ yếu được
cấu tạo bởi các đá có nguồn gốc magma (bao gồm
cả xâm nhập và phun trào) có tuổi Trung sinh và Tân
sinh.
* Kiểu địa hình:
- Đảo núi thấp bóc mòn-mài mòn khối tảng trên
đá magma xâm nhập và phun trào với sườn dốc (Cù
14

14





Lao Chàm, Cù Lao Xanh, Hòn Lớn, Hòn Tre, hòn Bình
Ba).
- Đảo dạng đồi, địa hình cao nguyên vòm thoải
bóc mòn-mài mòn trên đá basalt (Lý Sơn, Phú Quý,
cù lao Mái Nhà).
- Đảo dạng núi sót.
* Kiểu khí hậu:
- Không chịu ảnh hưởng hoặc chịu ảnh hưởng
yếu của gió mùa Đông bắc, số giờ nắng cao trong
năm (1900-2700 giờ/năm), nền nhiệt độ trung bình
năm 25,5-27,2oC, lượng mưa giảm từ bắc vào nam
(từ 2000 mm đến 1500-1100 mm/năm).
* Đất, lớp phủ rừng và hệ sinh thái:
- Tài nguyên đất đáng kể nhất là đất basalt nâu
đỏ, kế đến là đất cát đỏ, đất cát trắng.
- Lớp phủ thực vật còn được bảo vệ khá tốt trên
các đảo Cù Lao Chàm, Hòn Tre, còn lại các đảo khác
có độ che phủ thấp với kiểu thảm tự nhiên chủ yếu là
trảng cây bụi. Động vật hoang dã trên các đảo còn
rất ít, có nhiều hệ sinh thái có ý nghĩa trong bảo tồn
Điều kiện kinh tế xã hội
* Huyện đảo Lý Sơn:
- Gồm có 3 xã: An Vĩnh, An Hải và xã An Bình,
diện tích 9,96km2 dân số là 20.344 người.
- Tăng trưởng kinh tế bình quân: 11,5 – 12%
- Cơ cấu kinh tế: nông-lâm-ngư 51,7%; thương

mại-dịch vụ 40,6%; công nghiệp-tiểu thủ công
nghiệp 7,7%.
* Huyện đảo Phú Quý:
- Gồm có 3 xã là Long Hải, Ngũ Phụng và Tam
Thanh, diện tích 18km2 dân số: 25.783 người
- Kim ngạch xuất khẩu của toàn huyện đạt 5,5
triệu USD/năm.
* Xã Tân Hiệp thuộc thành phố Hội An:
15

15


- Nằm trên cụm đảo Cù Lao Chàm với 8 đảo,
diện tích 15 km2, cách Hội An 20 km, dân số 2.587
người
- Sản lượng khai thác hải sản hàng năm:1.500
tấn
- Cơ cấu kinh tế: ngành thương mại-du lịch với
tổng thu 52 tỷ đồng đã chiếm tỷ lệ trên 50% và vượt
ngư nghiệp là ngành sản xuất chính cho đến nay
* Xã Nhơn Châu trên đảo Cù Lao Xanh:
- Đảo có diện tích 3,5 km2, dân số 2.400 người
- Chủ yếu sống bằng nghề đánh bắt và chế biến
hải sản
- Sản lượng khai thác hải sản hằng năm: 1.000
tấn
* Xã đảo Cam Bình trên đảo Bình Ba và Hòn Chút:
- Đảo có diện tích 5,78 km2, với 4.700 nhân
khẩu

- Cơ cấu kinh tế: chủ yếu có nghề nuôi tôm hùm,
năm 2012 có 900 hộ/1.176 hộ nuôi 4.600 lồng, thu
được 180 tấn tôm, đạt 250 tỷ đồng; bình quân thu
nhập hàng năm của xã là 30 triệu đồng/người.



Câu 6: Tiềm năng phát triển hậu cần nghề cá
và dvu tìm kiếm cứu nạn cứu hộ.
Dịch vụ hậu cần nghề cá:
- Nằm gần các ngư trường đánh bắt hải sản nên
nhiều đảo và quần đảo có thế mạnh về tiềm năng
đánh bắt hải sản
- Nhiều đảo giữ vị trí độc tôn trên biển, có diện tích
tương đối lớn, lại có các vũng vịnh kín gió là điều
kiện thuận lợi để hình thành các Trung tâm dịch vụ
hậu cần nghề cá ở qui mô cấp vùng với các loại hình
dịch vụ đa dạng như cung ứng xăng dầu, ngư lưới cụ,
16

16






nước đá, thực phẩm, sửa chữa tàu thuyền, thu gom
chế biến sản phẩm.. .
Dịch vụ tìm kiếm cứu nạn cứu hộ

- Nhờ sự phân bố trải dài từ Bắc xuống Nam trên
suốt chiều dài vùng biển, cũng như phân bố từ ven
bờ đến ngoài khơi xa, nên mỗi đảo trong hệ thống
đảo đã trở thành những “phao cứu sinh” giúp cho
tàu bè tránh trú ẩn khi có gió bão
- Trên hệ thống đảo còn có vai trò định vị, dẫn đường
cho tàu bè qua lại trên vùng biển, ra vào cảng nhờ
vào vị trí phân bố, hình thể của các đảo và đặc biệt
là hệ thống hải đăng được xây dựng trên các đảo
Câu 7: Tiềm năng phát triển du lịch. Lấy ví dụ ở
một số đảo trọng điểm ( Vân Đồn, Cô Tô)?
Tiềm năng phát triển du lịch
Tài nguyên du lịch từ các giá trị tự nhiên
- Khí hậu vùng biển đảo ôn hòa, thuận lợi cho
cho việc tắm biển và nghỉ dưỡng quanh năm đối với
các đảo và quần đảo
- Bãi biển trên nhiều đảo ven bờ đẹp, nổi tiếng,
thuận lợi cho du lịch nghỉ dưỡng tắm biển
- Cảnh quan nhiều vịnh biển đã nổi tiếng
- Cảnh quan núi đảo và đảo karst nhiệt đới, với
các dạng địa hình nón, tháp và các ngấn mài mòn
trên vách đảo
- Cảnh quan núi đảo trên các đá trầm tích
- Cảnh quan đảo núi lửa
- Cảnh quan các bờ đảo mài mòn
- Cảnh quan các hang động
- Cảnh quan các tùng, áng, hồ trên núi trong khu
vực karst Hạ Long, Cát Bà

17


17


- Cảnh quan các đảo san hô và các ám tiêu san
hô vòng, rạn san hô mặt bàn tại các quần đảo ngoài
khơi Hoàng Sa, Trường Sa
- Thế giới sinh vật vùng đảo biển phong phú với
3 Khu dự trữ sinh quyển thế giới là Cát Bà, Cù Lao
Chàm, Kiên Giang (vùng biển đảo Phú Quốc là vùng
lõi của khu dự trữ); các Vườn quốc gia Bái Tử Long,
Cát Bà, Côn Đảo, Phú Quốc, cùng với 16 Khu quy
hoạch bảo tồn biển quốc gia
Tài nguyên du lịch nhân văn
- Các công trình kiến trúc, di tích lịch sử-văn hóa,
khảo cổ như: Tượng đài và khu di tích Đền thờ Bác
Hồ trên đảo Cô Tô, đền thờ Lý Anh Tông, chùa Cái
Bầu,....tất cả vừa có ý nghĩa giáo dục truyền thống,
nghiên cứu khoa học, lại có giá trị du lịch cao
- Các lễ hội văn hoá và dân gian: lễ hội Quan
Lạn, Khao lề,...
- Văn hóa ẩm thực vùng miền: món ăn đặc sản
tu hài, sò huyết, hải sâm, ốc vú nàng, mực, tôm, cua,
cầu gai, cua huỳnh đế,...
- Các ngành nghề đặc sắc trên đảo cũng là tài
nguyên du lịch: nghề chế biến nước mắm trên các
đảo Phú Quốc, Cát Bà, vườn tiêu Phú Quốc,....
Cơ sở hạ tầng và các loại hình du lịch
* Thuận lợi
- Du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng, thể thao tập

trung nhiều ở các đảo có bãi tắm đẹp, cơ sở hạ tầng
du lịch tốt
- Du lịch sinh thái kết hợp nghiên cứu khoa học
và tham quan lễ hội, di tích lịch sử- văn hóa phát
triển mạnh
- Du lịch thương mại, hội nghị, hội thảo diễn ra
tại các Trung tâm du lịch lớn
18

18




- Du lịch lặn biển kếp hợp nghiên cứu khoa học
phát triển mạnh tại các đảo có hệ thống các Khu bảo
tồn biển
- Ngoài ra loại hình du lịch cuối tuần kết hợp với
vui chơi giải trí đang phát triển mạnh
Hạn chế:
- Du lịch mới phát triển ở một số đảo gần bờ như
Tuần Châu, Cái Bầu, Cát Bà, Cù Lao Chàm, Hòn Tre....
- Các loại hình hoạt động du lịch nói chung còn
đơn điệu và nghèo nàn; chưa tạo ra được các sản
phẩm du lịch độc đáo, thiếu các cơ sở vui chơi, giải
trí, chất lượng phục vụ thấp...
- Sản phẩm du lịch chưa nhiều, chưa phát huy
được thế mạnh về sản phẩm du lịch đặc trưng của
các vùng đảo dẫn đến bị trùng lặp, chồng chéo. Giá
cả du lịch đắt đỏ chưa thu hút được khách nội địa.

- Khó khăn của các đảo xa bờ không có điện lưới
quốc gia
Lấy ví dụ ở một số đảo trọng điểm ( Vân Đồn,
Cô Tô)?
Vân Đồn
- Nơi có phong cảnh thiên nhiên thơ mộng, hữu
tình với những hòn đảo đẹp
- Trên nhiều đảo có những bãi biển đẹp như Sơn
Hòa, Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc Vừng với cát trắng,
phẳng mịn, dài hàng chục kilomet, rộng vài trăm
mét, độ sâu vừa phải, nước trong phù hợp cho tắm
biển, nghỉ dưỡng
- Vùng đảo này còn là nơi lưu giữ nhiều di tích
lịch sử và khảo cổ nổi tiếng như đền thờ Trần Khánh
Dư, chùa Quan Lạn....
- Nhiều loại hải sản quí như tôm he, tu hài, sá
sùng, mực ống.
Quần đảo Cô Tô
19

19


- Giữ được nhiều nét nguyên sơ của tự nhiên,
nước biển sạch, cảnh quan núi đảo, bờ bãi, vũng
vịnh đẹp, hệ sinh thái đa dạng thuận lợi cho du lịch
tắm biển, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng
- Có khu bảo tồn biển Cô Tô với sự đa dạng
phong phú của rạn san hô và các loài sinh vật biển
- Có tượng đài và khu di tích Đền thờ Bác Hồ ghi

dấu ấn ngày Bác ra thăm đảo (9/5/1961) cùng các
lễ hội, văn hóa ẩm thực…
- Là điểm dừng chân của các tầu du lịch vượt đại
dương từ các nước trong khu vực Đông Á và cả ngoài
khu vực ghé qua.
Câu 9: Tiềm năng phát triển tài chính ngân
hàng, hội nghị sự kiện
Kinh tế biển Việt Nam hiện nay còn chưa đáp ứng
được nhu cầu và chưa tương xứng với tiềm năng hiện
có. Hoạt động kinh tế biển còn manh mún, nhỏ lẻ,
tập trung ở ven bờ… Nguyên nhân của những hạn
chế trên chủ yếu là thiếu và yếu về nguồn lực tài
chính. Ngư dân chưa tiếp cận được nhiều nguồn tín
dụng của Nhà nước do thủ tục và những hạn chế về
chính sách. Để phát triển kinh tế biển, đảo cần mở
rộng và phát triển nguồn tín dụng ngân hàng đến
ngư dân vùng biển, đảo…
*Tiêm năng phát triển tài chính ngân hàng
-Đặc thù của kinh tế biển, đảo chủ yếu là khai thác
ven bờ, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, thường
gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, tích lũy thấp, do
đó thường xuyên thiếu hụt vốn, nhất là vốn cho đầu
tư tái mở rộng sản xuất; do đó việc tài trợ tín dụng
ngân hàng cho kinh tế biển là hết sức thuận lợi và
20

20


cần thiết, nhất là trong giai đoạn đầu phát triển để

thoát khỏi nền sản xuất hàng hóa nhỏ.
-Muốn phát triển kinh tế biển trước hết là phải tăng
cường phát triển nguồn nhân lực gắn với tăng cường
trang thiết bị hiện đại để từng bước cơ giới hóa, điện
khí hóa, hiện đại hóa các ngành kinh tế biển, do đó
nhu cầu vốn tín dụng của khu vực kinh tế biển, đảo
là khá cao.
-Để bảo đảm vai trò cơ sở của kinh tế biển, đảo
trong thực phẩm, nguyên liệu hay các nguồn nhân
lực thì vấn đề về tài chính là rất cần thiết, điều này
tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng tài chính
tư nhân đầu tư, mở rộng tín dụng ngân hàng là yêu
cầu khách quan của phát triển kinh tế biển, đồng
thời cũng là yêu cầu tự thân trong hoạt động ngân
hàng.
* khó khăn
-Về lâu dài tín dụng ngân hàng chủ yếu chỉ tài trợ
vốn lưu động; Tín dụng ngân hàng sẽ chỉ đóng vai
trò là vốn ban đầu có tính dẫn dắt để thu hút các
nguồn vốn khác đầu tư cho phát triển kinh tế biển.
-khả năng tiếp cận các nguồn vốn nói chung, vốn
ngân hàng nói riêng của khu vực kinh tế biển là
không dễ dàng bởi năng lực tài chính, khả năng quản
trị ở mức thấp.
-Phát triển kinh tế vùng biển đảo chủ yếu là đánh
bắt thủy hải sản, do thường đánh bắt ở ngư trường
xa, neo đậu ở các địa phương ngoài tỉnh, nên khó
khăn cho ngân hàng cho vay trong việc kiểm tra,
quản lý dòng tiền sau khi bán hải sản khai thác được
- Thu hồi vốn, nợ khi khách hàng không trả được nợ

cũng gặp nhiều khó khăn.
*Định hướng phát triển
21

21




Tại Nghị định 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách
phát triển thủy sản, Chính phủ đã xác định phương
hướng cụ thể cho vay và ưu tiên phát triển ngành
Thủy sản. Theo đó, tiếp tục nâng cao chất lượng tín
dụng và mở rộng cho vay đối với lĩnh vực khai thác,
nuôi trồng và chế biến thủy sản; Chủ động phối hợp
với chính quyền địa phương và các cơ quan chức
năng thu hồi các khoản nợ xấu, nợ đã xử lý rủi ro
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng thủy, hải sản.
- Đối với nuôi trồng thủy sản: Tiếp tục điều tra, khảo
sát nắm chắc tình hình nuôi trồng của các chủ nuôi
có dư nợ và khách hàng chưa vay ngân hàng.
- Đối với lĩnh vực chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần
nghề cá: Ngân hàng kết hợp cả đầu tư chế biến nội
địa và chế biến xuất khẩu. Nghiên cứu, tư vấn cho
khách hàng trong việc thương lượng ký kết hợp đồng
xuất khẩu, tránh rủi ro trong khâu thanh toán, đảm
bảo an toàn vốn đầu tư.
- Đối với lĩnh vực khai thác đánh bắt thủy sản: Tập
trung cho vay nâng cấp phương tiện để nâng cao
năng lực khai thác thủy sản. Khi ký kết hợp đồng tín

dụng, các chủ tàu phải cam kết mua bảo hiểm trong
suốt thời gian vay vốn, chấp hành đăng ký, đăng
kiểm đúng quy định
Bên cạnh đó, trong thời gian tới, các ngân hàng cũng
đẩy mạnh việc phối hợp với chính quyền địa phương
và các cơ quan chức năng thu hồi các khoản nợ xấu,
nợ đã xử lý rủi ro nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
thủy, hải sản.
Hội nghị sự kiện
- Tiềm năng dịch vụ cho tổ chức hội nghị, sự kiện
cũng đã được nhận dạng và ưu thế thuộc về các đảo
nằm giáp bờ, gần các trung tâm kinh tế lớn và bản
thân các đảo này có diện tích đủ lớn, có đầy đủ điều
22

22


kiện phát triển để trở thành trung tâm du lịch của
vùng
Câu 10. Tiềm năng phát triển nông – lâm – ngư
nghiệp huyện đảo ven bờ Việt Nam
a, Nông nghiệp
Do điều kiện tự nhiên có nhiều hạn chế, sản xuất
nông nghiệp ở các huyện đảo, đặc biệt là sản xuất
lúa gạo, ngô, khoai, cây thực phẩm chủ yếu chỉ phục
vụ được một phần rất hạn hẹp nhu cầu của người
dân, lương thực chủ yếu được mang từ đất liền ra
- Cây trồng lương thực
+ Lúa được trồng chủ yếu ở các huyện đảo lớn phía

Bắc như Cô Tô, Vân Đồn, Cát Hải; còn ở phía Nam chỉ
có ở Côn Đảo, Trồng 2 vụ. Năng suất không cao: 2334 tạ/ha
+ Cây ngô được trồng ở nhiều đảo, Các cây lương
thực khác như khoai, sắn cũng được trồng rải rác
trên các đảo nhưng diện tích và sản lượng không
nhiều
- Cây thực phẩm: rau, đậu các loại được trồng trên
hầu khắp các đảo
- Cây công nghiệp tập trung chủ yếu ở các đảo phía
Nam
- Cây ăn quả trên các đảo khá đa dạng, gồm nhãn,
vải thiều, cam, quýt tập trung ở các đảo phía Bắc và
soài, mít, chuối, chôm chôm, hồng xiêm ở các đảo
phía Nam
- Chăn nuôi
- Tiềm năng cho chăn nuôi trên các đảo cũng không
phải là thế mạnh do phần lớn các đảo có diện tích
nhỏ, địa hình đồi núi dốc không thuận lợi cho chăn
nuôi và đặc biệt do nông nghiệp không phát triển
nên đã hạn chế về nguồn thức ăn cho chăn nuôi
23

23


- Các đảo chăn nuôi thuộc diện phát triển và có tiềm
năng cũng tập trung vào các huyện đảo có diện tích
lớn như: huyện đảo Phú Quốc; huyện đảo Vân Đồn;
huyện đảo Côn Đảo; các huyện đảo Lý Sơn và Phú
Quý.

b. Lâm nghiệp
Đất lâm nghiệp trên hệ thống đảo ven bờ có khoảng
118.700 ha nhưng Srừng chỉ chiếm khoảng 58% diện
tích đất lâm nghiệp, còn khoảng 68.800 ha. Các
huyện Vân Đồn, Cát Hải, Côn Đảo, Phú Quốc là
những nơi có vườn quốc gia nên thảm thực vật rừng
còn khá phong phú cả về diện tích rừng cũng như
khu hệ động thực vật rừng. Cùng với thời gian diện
tích này ngày càng suy giảm.
Nhiều huyện đảo không còn rừng tự nhiên, chỉ có
rừng trồng (ví dụ: Bạch Long Vỹ, Lý Sơn, Phú Quý…)
+ Hệ thực vật rừng gồm trên 800 loài ở phía Bắc,
trong đó có 23 loài quí hiếm và trên 1300 loài ở phía
Nam, trong đó có 20 loài quí hiếm.
+ Động vật rừng hiện có hơn 40 loài quí hiếm được
ghi trong sách đỏ Việt Nam
+ Hệ sinh thái rừng ngập mặn phát triển ở hầu khắp
các đảo với mức độ khác nhau
- Ở các huyện đảo, sự đóng góp vào kinh tế của
ngành này rất thấp. Tỷ trọng của lâm nghiệp rất
khiêm tốn. Phát triển lâm nghiệp trên các huyện đảo
nhằm mục tiêu chủ yếu là tăng độ che phủ rừng lên
trên 70% diện tích tự nhiên
- Khó khăn cho phát triển nông-lâm nghiệp chính là
quĩ đất hạn hẹp, chất lượng đất kém, trữ lượng nước
ngọt không nhiều. Một số địa phương còn thiếu hẳn
một cơ quan, đơn vị nhà nước đứng ra lãnh trách
nhiệm chăm sóc, bảo vệ những diện tích vừa được
trồng
24


24


c. Ngư nghiệp
* Tiềm năng khai thác hải sản
- Ngư trường quanh đảo Cô Tô, Thanh Lam có
mặt đầy đủ các nhóm cá chính của khu hệ cá vịnh
Bắc Bộ với trữ lượng ước tính khoảng 25.000 đến
30.000 tấn, sản lượng đánh bắt hàng năm trên
15.000 tấn
- Vùng biển vịnh Bái Tử Long, Hạ Long và lân cận
có nguồn lợi đặc sẳn là sá sùng cùng các loại đặc
sản khác như cua, vọp, vẹm, trai ngọc, hàu, đồi mồi,
tu hài, sò huyết. Rong biển trong khu vực cũng có
nhiều loài có giá trị công nghiệp, đặc biệt bào ngư là
đặc sản quí của Bạch Long Vĩ trước đây rất phong
phú
- Vùng biển quanh đảo Hòn Mê, Hòn Nẹ có nguồn
lợi hải sản phong phú với đầy đủ các loài cá của vịnh
Bắc Bộ và nhiều loài khác, như cá chim, cá thu, cá
nhụ, cá song, tôm, mực…
- Vùng biển quanh đảo Hòn Na, Hòn Nồm có bãi cá
đáy và các loại cá nổi ngoài khơi vào sát bờ kiếm ăn
về mùa hè. Các loại cá ở đây có cá song, cá mú, cá
hồng, cá bướm, cá bàng chài…Các hải sản khác có
mực ống, mực nang, tôm, hải sâm, ốc hương cũng
khá phong phú
- Vùng biển đảo Cồn Cỏ có ngư trường rộng 9.000
km2, nguồn lợi hải sản ở đây có nhóm cá san hô,

tôm hùm, bào ngư, hải sâm, ốc đụn, mực nang, cá
song, cá mú
- Vùng biển đảo Lý Sơn cũng có bãi cá đáy, bãi
cá nổi và bãi cá xa đảo nằm gần quần đảo Hoàng Sa
cho phép khai thác hàng năm có thể đạt khoảng
28.000 tấn
25

25


×