Tải bản đầy đủ (.docx) (173 trang)

Nghiên cứu khả năng thích nghi và biện pháp kỹ thuật đối với giống lúa thuần chất lượng tốt ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam (LA tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.79 KB, 173 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HOÀNG MAI THẢO

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG THÍCH NGHI VÀ BIỆN
PHÁP KỸ THUẬT ĐỐI VỚI GIỐNG LÚA THUẦN
CHẤT LƯỢNG TỐT Ở MỘT SỐ TỈNH MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG

THÁI NGUYÊN - 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HOÀNG MAI THẢO

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG THÍCH NGHI VÀ
BIỆN PHÁP KỸ THUẬT ĐỐI VỚI GIỐNG LÚA
THUẦN CHẤT LƯỢNG TỐT Ở MỘT SỐ TỈNH
MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
Ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 62.62.01.10
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. Nguyễn Hữu Hồng
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên


2. PGS. TS. Nguyễn Thanh Tuyền
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc

THÁI NGUYÊN - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong Luận án là trung thực và chưa từng có ai công bố trong
các công trình nghiên cứu trước đây. Toàn bộ các thông tin trích dẫn trong
Luận án đã được chỉ rõ nguồn gốc xuất xứ.

Tác giả Luận án

Hoàng Mai Thảo


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn Thầy hướng dẫn
khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hữu Hồng-Trường Đại học Nông Lâm – Đại
học Thái Nguyên và PGS.TS. Nguyễn Thanh Tuyền-Viện Khoa học Kỹ
thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã chỉ ra hướng nghiên cứu và tận
tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, các Cô, các nhà khoa học Trường
Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên đã giảng dạy, hướng dẫn tôi hoàn
thành các học phần và các chuyên đề trong chương trình đào tạo.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám đốc, Ban
Đào tạo - Đại học Thái Nguyên, Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Ban chủ
nhiệm Khoa Nông học-Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi để tôi học tập và nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn-Viện trưởng
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm Nghiệp Miền núi phía Bắc, TS. Lưu Ngọc
Quyến-Phó Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm Nghiệp Miền núi
phía Bắc, các cán bộ nghiên cứu Bộ môn Cây lương thực và thực phẩm –
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã hỗ trợ và
giúp đỡ tôi thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm.
Tôi tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến Ban Lãnh đạo Trường Đại học
Hùng Vương, Khoa Nông Lâm Ngư-Trường Đại học Hùng Vương đã tạo mọi
điều kiện về thời gian, kinh phí hỗ trợ cho tôi trong quá trình học tập.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, người thân và bạn bè
đã hỗ trợ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận án.
Thái Nguyên, ngày tháng 6 năm 2017
Tác giả luận án

Hoàng Mai Thảo


MỤC LỤC


DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
2-AP

2-Acetyl-1-Pyrroline

bp

Base pair (Cặp base - đơn vị tính)

GC-MS- SIM Solid


Phase

Microextraction-Gas

Chromatography

Mass

Spectrummetry with selected ion monitoring (Vi chiết xuất
trên pha rắn ghép với sắc ký khí khối phổ)
LAI

Leaf area index (Chỉ số diện tích lá)

NSLT

Năng suất lý thuyết

NSTT

Năng suất thực thu

RAPD

Random amplified polymorphic DNA (Đa hình DNA nhân
bản ngẫu nhiên)

SCAR


Sequence characterized amplified regions (Vùng nhân bản
chuỗi DNA được mô tả)

TB

Trung bình

X

Vụ Xuân

M

Vụ Mùa

PTNT

Phát triển nông thôn

DANH MỤC CÁC BẢNG


DANH MỤC CÁC HÌNH


-8MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Với dân số hơn 90 triệu dân thì thị trường gạo nội địa là một thị trường
lớn. Mặc dù tiêu dùng gạo bình quân đầu người giảm nhưng người tiêu dùng
có xu hướng yêu cầu chất lượng gạo tăng lên đặc biệt là ở các thành thị. Do

vậy mà cơ cấu giống lúa có sự thay đổi đáng kể, tỷ lệ giống lúa chất lượng
cao ngày càng tăng, tỷ lệ giống lúa thuần có chất lượng gạo khá tăng từ 34%
lên 52% trong giai đoạn từ 2007 đến 2011 (Trung tâm Thông tin PTNNNT,
2016) [43]..
Miền núi phía Bắc có nhiều giống lúa đặc sản nổi tiếng như Chiêm
Hương, Séng Cù, Nếp Tan,... đang dần bị thay thế bởi các giống lúa mới. Mặc
dù diện tích các giống lúa thuần chiếm gần 70% diện tích lúacủa vùng miền
núi phía Bắc, trong đó có giống Khang dân 18 được gieo trồng phổ biến với
diện tích 105 nghìn ha trên tổng diện tích lúa tẻ là 405 nghìn ha. Giống Khang
dân 18 có năng suất cao và ổn định nhưng chất lượng gạo thấp. Các giống
có chất lượng gạo tốt như Bắc Thơm 7 (khoảng 30 nghìn ha), Hương thơm số
1 (trên 18 nghìn ha) thì năng suất lại thấp,...(Viện cây lương thực và thực
phẩm, 2015) [47]. Bên cạnh đó, các giống lúa đặc sản vẫn được gieo trồng,
nhưng các giống lúa này có rất nhiều nhược điểm như năng suất thấp, dài
ngày và đang bị thoái hóa dần.
Song song với việc trồng các giống có năng suất cao để đảm bảo an
ninh lương thực thì việc trồng các giống lúa chất lượng cao, thời gian sinh
trưởng ngắn là rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu xã hội. Năng suất và chất
lượng lúa không chỉ do gen quy định mà còn chịu tác động nhiều bởi các biện
pháp kỹ thuật, trong đó yếu tố thời vụ và phân bón góp phần lớn quyết định
đến năng suất và chất lượng lúa. Theo Phạm Sỹ Tân (2008)[36]., nguyên tố
đạm góp phần tăng 40-45% năng suất, lân góp phần tăng 20-30% năng suất,


-9kali góp phần tăng 5-10% năng suất lúa. Tuy nhiên người dân thường bón
phân mất cân đối giữa 3 nguyên tố đa lượng N, P, K, lượng đạm bón rất cao
và ít chú ý tới lân và kali (Phạm Sỹ Tân, 2005) [35].. Hơn nữa việc bón phân
mất cân đối cũng làm ảnh hưởng tới chất lượng lúa, như bón thừa đạm gây ra
suy giảm mùi vị của cơm, bón nhiều kali làm cơm cứng (Junfei Gu và cộng
sự, 2015) [83].. Các giống lúa trồng tại cùng một vị trí nhưng gieo vào các

thời vụ khác nhau của cùng một mùa vụ sẽ có sự khác biệt đáng kể về chất
lượng (Zhu và cộng sự, 1993) [127]..
Để góp phần bổ sung vào cơ cấu giống lúa cho các tỉnh của vùng núi
phía Bắc Việt Nam giống lúa thuần mới ngắn ngày, năng suất cao và chất
lượng tốt cùng với nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác để phát
triển giống mới, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu khả
năng thích nghi và biện pháp kỹ thuật đối với giống lúa thuần chất lượng
tốt ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam”
2. Mục tiêu của đề tài
- Tuyển chọn được giống lúa thuần mới có năng suất và chất lượng tốt để
giới thiệu cho sản xuất lúa chất lượng của vùng miền núi phía Bắc Việt Nam.
- Xây dựng đượcmột số biện pháp kỹ thuật chủ yếu góp phần thâm
canh tăng năng suất và chất lượng tại một số vùng của miền núi phía Bắc.
3. Những đóng góp mới của đề tài
- Tuyển chọn và giới thiệu được giống lúa thuần PB53 có năng suất và
chất lượng cao và khả năng thích ứng rộng phục vụ phát triển sản xuất lúa ở
vùng miền núi phía Bắc.
- Xác định thời vụ gieo trồng thích hợp và công thức phân bón chonăng
suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao góp phần xây dựng quy trình thâm
canh lúa thuần chất lượng cao.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài


-104.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Xác định được khả năng thích nghi của các giống lúa thuần chất lượng
tốt làm cơ sở cho phát triển giống lúa được tuyển chọn tại vùng nghiên cứu.
- Đánh giá được mối tương quan giữa các yếu tố phân bón với năng
suất làm cơ sở cho nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật nâng cao năng suất.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung giống lúa thuần

chất lượng tốt thích nghi với điều kiện sinh thái cho cơ cấu giống của vùng
núi phía Bắc Việt Nam, góp phần thúc đẩy sản xuất lúa hàng hóa cho vùng.
- Xây dựng được quy trình canh tác phù hợp để phát triển giống lúa thuần
chất lượng đáp ứng nhu cầu gạo chất lượng tại vùng núi phía Bắc Việt Nam.


-11CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

1.1. Nhu cầu gạo chất lượng trên thế giới và Việt Nam
Kết quả của việc tăng thu nhập và tự do hóa thị trường làm thay đổi rõ
rệt nhu cầu sử dụng gạo chất lượng thấp sang gạo chất lượng cao. Trong
những năm 1970, lúa chất lượng thấp chiếm 38% thị trường gạo thế giới, tỷ lệ
này giảm chỉ còn 23% trong năm 2006. Lượng gạo tiêu thụ bình quân đầu
người trên thế giới không tăng nhưng người tiêu dùng đổi sang sử dụng loại
gạo chất lượng tốt hơn. Xu hướng này thể hiện rõ rệt ở Nhật Bản cũng như
các nước đang phát triển nhanh như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan,
Malaysia. Người tiêu dùng ngày càng có nhu cầu tăng với gạo chất lượng cao,
họ chỉ dùng gạo chất lượng thấp khi nguồn cung cấp gạo chất lượng cao
không đủ (Randall và cộng sự, 2009)[109]..
Thị trường gạo thế giới đã phân loại thành sáu loại cơ bản: (1) Indica
chất lượng cao, hạt dài, loại gạo thô; (2) Indica chất lượng trung bình, hạt dài,
loại gạo xay xát; (3) Japonica hạt ngắn hay trung bình, loại gạo thô; (4) gạo
đồ; (5) gạo thơm và (6) gạo nếp. Các nhóm này có thể cũng được chia nhỏ tùy
theo sở thích của người tiêu dùng. Người tiêu dùng trên thế giới có sự khác
biệt lớn về sở thích và thị hiếu sử dụng gạo. Trong các loại gạo được tiêu thụ
trên thị trường thì gạo Indica vẫn chiếm phần lớn trên thế giới (75%), tiếp
theo là Japonica (15%) và gạo thơm giống như Basmati và Jasmine (9%), còn
lại là gạo nếp. Sự biến động về thị hiếu và sở thích một phần phụ thuộc vào
văn hóa xã hội (Yu-Chia Hsu và cộng sự, 2014) [123].. Ví dụ, ở Đông Á (Đài

Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Bắc Trung Quốc), người tiêu dùng ưa thích hạt
ngắn và tròn, ở Đông Nam Á người tiêu dùng thích gạo hạt dài và hơi thơm.
Tại Nam Á, người tiêu dùng thích lúa hạt dài với mùi thơm đậm (Basmati là
gạo phổ biến nhất của loại này) (Randall và cộng sự, 2009; Toriyama, 2005;)


-12[109].,[117].. Người Châu Âu lại thích gạo hạt dài và không có mùi thơm.
Tuy nhiên trong những năm gần đây nhu cầu gạo thơm tăng lên đáng kể ở
Châu Âu (Orachos Napsintuwong, 2012) [106]..

Hình 1.1. Cơ cấu loại gạo trên thị trường thế giới
Gạo trên thị trường thế giới được phân loại theo nhiều tiêu chí khác
nhau, có thể phân loại theo giống, theo dạng hạt, tỷ lệ tấm, hàm lượng
amylose, hương thơm. Theo tỷ lệ tấm thì gạo chất lượng cao phải có tỷ lệ
gạo tấm nhỏ hơn 10%, gạo chất lượng trung bình thường có tỷ lệ tấm 1020%, gạo chất lượng thấp tỷ lệ tấm lớn hơn 20% (Nelissa Jamora và cộng
sự, 2012) [104].. Dựa trên hàm lượng amylose, các giống lúa được phân
loại thành các nhóm, cụ thể: gạo nếp có hàm lượng amylose từ 0-5,0%; gạo
tẻ có hàm lượng amylose > 5% và chia thành các nhóm: rất thấp (5,1-12,0
%), thấp (12,1-20,0%), trung bình (20,1-25,0%) và cao (>25,0%)
(Chaudhary, 2003) [56].. Thị hiếu người tiêu dùng thường thích gạo có hàm
lượng amylose thấp đến trung bình, cơm có đặc điểm dẻo và mềm.
Nghiên cứu về thị trường gạo ở Việt Nam, theo tác giả Bùi Chí Bửu
(2005) [8]. khi điều tra về chất lượng lúa ngoài sản xuất ở vùng Đồng bằng
sông Cửu Long cho thấy, giống có hạt gạo dài (7mm) chiếm tỷ lệ trên 80%
diện tích gieo trồng, giống có hàm lượng amylose trung bình chiếm trên
60%, giống bạc bụng chiếm 16,69%. Đa số các giống đều có độ bền thể gel
ngắn hơn 60mm.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu tại Đồng bằng sông Hồng của
Nguyễn Trọng Khanh, Nguyễn Văn Hoan (2014) [20]. cho thấy người tiêu
dùng ngày càng quan tâm tới chất lượng gạo, người có thu nhập càng cao

thì càng quan tâm tới nhiều tiêu chí hơn. Có tới 77% người tiêu dùng được
hỏi thích ăn cơm mềm, không dính; 33% người thích ăn cơm cứng, khô


-13(tập trung chủ yếu ở người có thu nhập thấp); đa số người được hỏi chưa
quan tâm nhiều đến hình dạng hạt gạo.
Theo báo cáo của Trung tâm Thông tin PTNNNT khi điều tra về yêu cầu
chất lượng gạo của người tiêu dùng tại thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh cho
thấy cả người tiêu dùng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đều ưa thích các
loại gạo chất lượng cao, dù chủng loại khác nhau. Trong số 17 loại gạo được đề
xuất, trên địa bàn Hà Nội, loại gạo được ưa thích sử dụng nhất là gạo Bắc
Hương (chiếm 29,2% tổng số người được phỏng vấn trên địa bàn Hà Nội), theo
sau là gạo Tám Hải Hậu (18,8%), gạo Tám Điện Biên (14%), gạo Tam Thái
(11,8%), gạo Thái Lan (9,03%). Tuy nhiên, loại gạo được ưa chuộng sử dụng
trong thành phố Hồ Chí Minh lại khác hoàn toàn so với Hà Nội với gạo Tài
Nguyên (chiếm tỷ lệ cao nhất là 43,6%), tiếp theo là Lài Sữa (14,8%), gạo Đài
Loan (8,72%), gạo Thái Lan (6,04%), Nàng Xoan (5,4%). Về các thuộc tính
của gạo ảnh hưởng đến quyết định mua gạo của người tiêu dùng, thuộc tính của
gạo được áp dụng phổ biến nhất để đánh giá trước khi mua là độ dẻo của gạo
(96,9% số người được hỏi), theo sau là mùi thơm (91,25%) và độ mềm khi nấu
(83,5%) (Trung tâm Thông tin PTNNNT, 2015) [43]..
Như vậy nhu cầu tiêu dùng gạo tính bình quân trên đầu người của
Việt Nam có xu hướng giảm đi nhưng yêu cầu chất lượng gạo ngày càng
tăng lên.
1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình chung
1.2.1.1. Sản xuất gạo trên thế giới
Trung Quốc là quốc gia đứng đầu thế giới về sản lượng gạo hàng năm,
sau đó là Ấn Độ. Đây là hai nước có sản lượng gạo rất lớn chiếm 22-31%
tổng sản lượng gạo trên toàn thế giới. Sản lượng gạo của các nước đứng đầu

khá ổn định, chỉ có sản lượng gạo của Thái Lan giảm nhẹ do ảnh hưởng
không tốt của hệ thống thủy lợi (FAO, 2015) [62]..


-14Bảng 1.1. Sản lượng gạo của một số quốc gia trên Thế giới
Đơn vị: triệu tấn
Quốc Gia
Tổng của thế giới
Trung Quốc
Ấn Độ
Indonesia
Bangladesh
Việt Nam
Thái Lan
Mianmar
Srilanka
Braxin
Nhật Bản
Pakistan
Các nước khác

2011
467,671
140,700
105,310
36,500
33,700
27,152
20,460
11,473

10,710
7,888
7,812
6,200
53,900

2012
472,768
143,000
105,240
36,550
33,820
27,537
20,200
11,715
11,428
8,037
7,923
5,800
55,170

Năm
2013
2014
2015
478,438 478,185 473,498
142,530 144,560 145,500
106,646 104,800 103,500
36,300
35,760

36,300
34,390
34,500
34,600
28,161
28,074
28,200
20,460
18,750
16,400
11,957
12,600
12,200
11,858
11,915
11,500
8,300
8,465
8,000
7,937
7,842
7,900
6,700
6,900
6,900
57,175
56,951
56,441
Nguồn (FAO, 2015) [62].


Sản lượng gạo của Việt Nam chiếm 6% sản lượng gạo trên toàn thế giới
và góp phần lớn vào đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu.

Hình 1.2. Tỷ lệ sản lượng gạo của một số quốc gia năm 2015
1.2.1.2. Sản xuất gạo ở Việt Nam
Diện tích lúa cả năm của cả nước tăng lên từ 7.329,2 nghìn ha năm
2005 lên 7.834,9 nghìn ha năm 2015. Diện tích đất trồng lúa giảm đi, nhưng
do luân canh tăng vụ nên tổng diện tích lúa cả năm vẫn tăng.
Theo quyết định số 3367/QĐ-BNN-TT ngày 31/07/2014 về phê duyệt
quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa giai đoạn 2014 – 2020,
nêu rõ chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa nhằm mục tiêu vừa nâng cao
hiệu quả sử dụng đất, vừa duy trì quỹ đất trồng lúa, bảo đảm an ninh lương
thực quốc gia, tăng thu nhập cho người dân, góp phần bảo vệ môi trường và
thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải đảm


-15bảo nguyên tắc chuyển đổi nhưng không được làm mất các yếu tố phù hợp để
trồng lúa, khi cần thiết có thể quay lại trồng lúa mà không phải đầu tư lớn;
cây trồng chuyển đổi phải có thị trường tiêu thụ, có lợi thế cạnh tranh và hiệu
quả kinh tế cao hơn trồng lúa.
Nhờ áp dụng các giống mới và các tiến bộ kỹ thuật mà năng suất lúa
tăng lên rõ rệt đạt 57,7 tạ/ha vào năm 2015, tăng gần 10 tạ/ha trong vòng 10
năm từ 2005 đến 2015. Do diện tích và năng suất đềutăng mà sản lượng lúa cả
nước tăng lên đạt mức 45.215,6 nghìn tấn.
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở Việt
Nam từ 2004 đến 2015
Năm

Diện tích


Năng suất

Sản lượng

(nghìn ha)

(tạ/ha)

(nghìn tấn)

2005

7.329,2

48,9

35.832,9

2006

7.324,8

48,9

35.849,5

2007

7.207,4


49,9

35.942,7

2008

7.400,2

52,3

38.729,8

2009

7.437,2

52,4

38.950,2

2010

7.489,4

53,4

40.005,6

2011


7.655,4

55,4

42.398,5

2012

7.761,2

56,4

43.737,8

2013

7.902,5

55,7

44.039,1

2014

7.813,8

57,6

44.975,0


2015

7.834,9

57,7

45.215,6

(Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam, 2015)[44].
1.2.2. Sản xuất lúa chất lượng tốt trên thế giới và Việt Nam
1.2.2.1. Sản xuất lúa chất lượng tốt trên thế giới
Gạo thơm: Có một số giống lúa thơm nổi tiếng ở các nước như Ấn Độ,
Pakistan, Thái Lan, Bangladesh, Nepal, Iran, Afghanistan, Myanmar là những


-16giống được đánh giá cao và bán giá cao trên thị trường trong nước và xuất
khẩu (Chaudhary, 2003) [56]..
Điều kiện canh tác tốt nhất cho lúa thơm Jasmine là ở Đông Bắc Thái
Lan, trong khi đó lúa Basmati có truyền thống được trồng ở phía Bắc và phía
Tây Bắc của Ấn Độ trong nhiều thế kỷ. Giống lúa Basmati chiếm 61,6% diện
tích trồng lúa và 50,3% sản lượng lúa ở Pakistan vào năm 2007. Năng suất lúa
Basmati trồng ở Ấn Độ thấp hơn ở Pakistan, tuy nhiên người nông dân vẫn có
lãi khi trồng giống này (Georges Giraud, 2013) [66]..
Giống lúa thơm Dubraj phổ biến nhất tại thị trường Chattisgarh của Ấn
Độ, với các thương hiệu nổi tiếng ''Niềm tự hào của Chattisgarh'' và
''Chattisgarh Ka Basmati''. Đây là giống cảm quang, dài ngày (thời gian sinh
trưởng khoảng 150 ngày), cao cây, chất lượng ngon và gạo có mùi thơm.
Trước năm 1970 diện tích gieo trồng giống Dubraj khoảng 10% diện tích
trồng lúa của Madhya Pradesh, nhưng hiện nay bị suy giảm do việc mở rộng
diện tích các giống có năng suất cao (Patnaik và cộng sự, 2015) [108]..

Ở Trung Quốc từ năm 1985 đến 1997 có tổng số 61 giống lúa thơm cải
tiến đã được giới thiệu cho người nông dân, trong đó 47,5% là Indica và
52,5% Japonica. Ngoài ra còn có giống có mùi thơm đặc biệt, không giống
như Basmati hay gạo Jasmine, phục vụ nhu cầu của ngành công nghiệp chế
biến các sản phẩm đặc biệt như sô cô la thơm (Chaudhary, 2003) [56]..
Bên cạnh các giống lúa chất lượng thuộc loài phụ Indica thì hiện nay
các giống lúa chất lượng thuộc loài phụ Japonica cũng đang được thế giới
quan tâm bởi khả năng chịu lạnh tốt và chất lượng gạo cao. Lúa Japonica
thường được trồng ở các vùng ôn đới như miền Bắc Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Bắc Triều tiên, Mỹ, Italia, Úc, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Thổ
Nhĩ Kỳ, Argentina, Chile, Nga và một số nước Đông Âu. Ngoài ra lúa
Japonica còn được trồng ở vùng nhiệt đới như Đông Nam Á, Châu Phi, Châu
Mỹ La Tinh (Hill và cộng sự, 2002) [73].. Trong đó Trung Quốc là nước đứng


-17đầu thế giới về sản xuất lúa Japonica, chiếm 25,5% diện tích lúa ở Trung
Quốc và tạo ra 26% tổng sản lượng gạo ở Trung Quốc. EU cũng là nơi sản
xuất chủ yếu của lúa Japonica, gạo Japonica chiếm khoảng 65-70% tổng sản
lượng gạo EU. Hiện nay diện tích trồng lúa Japonica chiếm 20% diện tích
trồng lúa của cả thế giới (Jena and Hardy, 2012) [78]..
1.2.2.2. Sản xuất lúa chất lượng tốt ở Việt Nam
Chất lượng gạo của Việt Nam chưa cao và chưa có thương hiệu gạo Việt
Nam trên thị trường quốc tế. Có nhiều lý do dẫn đến gạo Việt Nam có giá bán
thấp hơn so với Thái Lan: thứ nhất Việt Nam sản xuất lúa theo mục tiêu năng
suất trong một thời gian dài để đảm bảo an ninh lương thực;thứ 2, chúng ta có
quá nhiều giống, toàn quốc có gần 700 giống lúa kết hợp với sản xuất manh mún
theo quy mô nông hộ nên phẩm cấp gạo không đồng đều,thứ 3, diện tích trồng
lúa của Việt Nam hiện có khoảng 4 triệu ha và tiếp tục giảm xuống 3,5 triệu ha
theo quy hoạch nên phải điều chỉnh sản xuất theo hướng năng suất cao, chất
lượng trung bình nhưng phải quy hoạch vùng trồng lúa đảm bảo chất lượng đồng

đều. Một số vùng phải quy hoạch để sản xuất lúa đặc sản phục vụ một bộ phận
dân cư có thu nhập cao (Nguyễn Văn Bộ, 2009) [3]..
Theo tác giả Nguyễn Văn Luật, Nguyễn Đức Lộc (2014)[27]., các
giống lúa cho gạo đặc sản có thể đặc trưng cho thương hiệu lúa gạo Việt Nam
là những giống lúa thuần địa phương, như lúa Tám thơm, Di hương, Dự lùn,
… ở phía Bắc; giống Nàng thơm, Nàng hương Chợ Đào, Tàu hương, Móng
chim rơi,… ở miền Nam.Tuy nhiên một số giống lúa địa phương thường có
nhược điểm là thời gian sinh trưởng dài, mẫn cảm với một số loại sâu, bệnh
hại chính, năng suất thấp; một số giống lúa cải tiến chất lượng có năng suất
cao hơn nhưng cũng mẫn cảm với một số loại sâu bệnh. Kết quả nghiên cứu
của Nguyễn Trọng Khanh, Nguyễn Văn Hoan (2014) [20]., cũng chỉ rõ để
chọn giống lúa chất lượng tốt phù hợp với vùng Đồng bằng sông Hồng, ngoài
các tiêu chí đặc thù liên quan tới chất lượng gạo, nhà chọn giống cần có định


-18hướng lai và chọn lọc theo các tiêu chí về thời gian sinh trưởng, năng suất,
khả năng chống chịu sâu bệnh hại, chống đổ.
Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long là nơi cung cấp lúa hàng hóa chủ yếu
của cả nước, sản lượng hàng năm trên dưới 20 triệu tấn lúa (khoảng 13 triệu
tấn gạo). Sau khi đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ và làm giống, vùng này
có khả năng cung cấp bổ sung cho các vùng thiếu lương thực và tăng dự trữ 3
– 4 triệu tấn/năm, cung ứng xuất khẩu 6 – 7 triệu tấn/năm. Nhưng diện tích
lúa đảm bảo nguồn gạo chất lượng cung cấp cho xuất khẩu chủ yếu trồng
trong vụ mùa từ các tỉnh thuộc bán đảo Cà Mau chỉ chiếm trên dưới 10%
(800.000 tấn/năm) (Nguyễn Văn Sơn, 2013) [128].. Đồng Tháp là một trong
những tỉnh sản xuất lúa gạo hàng đầu của Việt Nam, đứng thứ 3 về sản lượng
lúa gạo, sau An Giang và Kiên Giang. Diện tích lúa chất lượng cao chiếm
47,3%, giống lúa chất lượng thấp IR50404 chiếm 47,2%. Mặc dù cơ cấu
giống lúa chất lượng cao đã được chú trọng trong sản xuất, nhưng tỷ lệ giống
IR50404 vẫn còn cao (Trần Minh Vĩnh và cộng sự, 2014) [46]..

Cùng với Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng cũng là
vùng có tỷ lệ sản xuất lúa đặc sản cao so với diện tích gieo trồng của cả nước,
ở đây có nhiều giống lúa chất lượng cao, được thị trường ưa chuộng. Theo tác
giả Vũ Trọng Bình và cộng sự (2004) [2]., trong nhóm các giống lúa đặc sản
có giống lúa Tám tồn tại chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng, tập đoàn lúa
Tám đa dạng trên 20 giống khác nhau, nhưng chỉ có 2 giống được ưa chuộng
hơn là Tám thơm và Tám xoan. Kết quả nghiên cứu sau đó của tác giả
Nguyễn Xuân Dũng và cộng sự (2013) [13]., cho thấy bộ giống lúa chất
lượng được sử dụng ngoài sản xuất phong phú hơn, có nhiều giống lúa cải
tiến chất lượng như T10, Bắc Thơm Số 7 (BT7), Hương thơm 1 (HT1), HT6,
LT2, N46,… trong đó hai giống được gieo trồng phổ biến nhất là Bắc Thơm
Số 7 (BT7),Hương thơm 1 (HT1), nhưng hai giống này có nhược điểm là khả
năng chống chịu kém, đặc biệt là bệnh bạc lá và rầy nâu, chất lượng cơm còn


-19dính và nát. Khi tiến hành khảo sát về diện tích gieo trồng lúa tẻ thơm cho
thấy, tỉnh có nhiều diện tích trồng lúa tẻ thơm nhất vùng đồng bằng sông
Hồng là tỉnh Nam Định (49.830ha), tiếp đến là các tỉnh Hải Dương
(26.958ha), Thái Bình (25.945ha), Hưng Yên, Hà Nam, Hà Nội (trên
20.000ha), Ninh Bình (19.702,1ha),... tỉnh Vĩnh Phúc (3.139,2ha).
Như vậy bộ giống lúa thơm chất lượng cao của Việt Nam cũng rất
phong phú, nhưng chưa tạo thành sản phẩm hàng hoá và xuất khẩu được
nhiều. Những giống có chất lượng gạo thơm ngon nổi tiếng trong nước như:
Nàng thơm Chợ Đào, Nàng Nhen thơm, Tài nguyên, Một bụi đỏ, Huyết
rồng…cũng mới chỉ là tiềm năng. Ngoài ra cũng có những giống lúa
thơm/thơm nhẹ do các nhà khoa học chọn tạo nhưng chưa được khai thác cho
xuất khẩu, ví dụ OM 3536, OM 4900, OM 7347, OM 6162, ST 3, ST 5, MTL
495… Gạo thơm chúng ta đang xuất khẩu hầu hết đều có nguồn gốc từ nước
ngoài ví dụ: Jasmine 85, Khao Dawk Mali 105, DS 10, DS 20… nên nếu xây
dựng thương hiệu cũng gặp nhiều khó khăn (Nguyễn Công Thành, 2013)

[129].. Chi phí vật tư có nguồn gốc dầu mỏ mà chủ yếu là nhiên liệu, phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật tăng cao do lệ thuộc nhập khẩu và chi phí phân
phối, tiếp thị cao. Chi phí lao động, nhất là công đoạn thu hoạch cao, vì thiếu
hụt lao động nông nghiệp và mức độ cơ giới hóa trong công đoạn thu hoạch
còn quá thấp. Các vấn đề này tác động làm cho chất lượng gạo xuất khẩu
thấp, giá thành sản xuất cao và tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch quá cao (ước tính
từ 10-12% tổng sản lượng) (Lê Thu Thủy, 2014) [37]..
1.3. Nghiên cứu về giống lúa chất lượng cao trên thế giới và Việt Nam
1.3.1. Nghiên cứu chọn, tạo giống lúa chất lượng tốt trên thế giới
Năm 1933, giống lúa Basmati 370 được chọn lọc thành công bằng kỹ
thuật chọn dòng thuần ở Kala Shah Kaku của Pakistan. Giống này thơm, chất
lượng gạo tốt, được trồng khá phổ biến ở Ấn Độ và Pakistan, đồng thời trở
thành tiêu chuẩn giống xuất khẩu của nhóm lúa này (Shobha Rani, 2006)


-20[112].. Tuy nhiên, Basmati có năng suất thấp (1,7 tấn/ha năm 2006 ở phía Tây
Punjab, 2,1 tấn/ha ở Pakistan, và 3,8 tấn/ha ở phía Đông Punjab của Ấn Độ)
(Giraud, 2010) [67].. Giống Khao Dawk Mali 105 của Thái Lan được những
nông dân chọn lọc trong quần thể lúa địa phương từ năm 1945. Đến nay,
giống này là giống xuất khẩu chủ lực của Thái Lan.
Nhiều giống lúa thơm khác cũng được các nhà khoa học chọn tạo thành
công như giống lúa thơm MRQ50, MRQ74 ở Malaysia; giống lúa cải tiến
Tainung Sen 72 ở Đài Loan; chín giống lúa thơm được giới thiệu cho sản xuất
từ năm 1993 đến 2000 tại Hàn Quốc có hàm lượng amylose biến động từ
15,1% đến 19% (Choi và cộng sự, 2004) [57]..
Dubraj là giống lúa ở Ấn Độ có chất lượng cao nhưng năng suất thấp,
cây cao và dài ngày, dễ bị đổ ngã, do vậy khó mở rộng trong sản xuất. Patnaik
và cộng sự (2015) [108]. đã sử dụng phương pháp chọn lọc phả hệ để chọn
lọc quần thể lai của tổ hợp Pusa 44/Dubraj. Việc chọn lọc nghiêm ngặt chiều
cao cây, chất lượng hạt và hương thơm đã chọn được dòng IET 21.044 có

năng suất cao, cây thấp, hạt lúa ngắn và thơm, sau 4 năm khảo nghiệm đã
được giới thiệu cho sản xuất tại Ấn Độ.
Các giống lúa thơm được đặc trưng bởi hương thơm nhẹ đến mạnh.
Mùi thơm các giống lúa được nhóm lại thành ba loại tức là Basmati, Jasmine
và không phải nhóm Basmati hoặc Jasmine. Các giống Basmati có nguồn gốc
từ Ấn Độ và Pakistan, được đặc trưng bởi hàm lượng amylose trung gian,
thấp đến trung bình, nhiệt độ hóa hồ và độ bền thể gel trung bình so với các
giống Jasmine của Thái Lan. Các giống lúa Jasmine có chiều dài hạt gạo lớn
hơn so với các giống Basmati Tuy nhiên đặc điểm đặc trưng của nhóm gạo
Basmati là khả năng nở theo chiều dài hạt gạo. Hạt gạo gần như tăng gấp đôi
chiều dài ban đầu của chúng sau khi nấu. Không giống gạo thơm nào có đặc
điểm này, ngay cả khi một vài giống nở theo chiều dài hạt gạo nhưng không


-21đạt bằng các giống Basmati (Singh và cộng sự, 2000) [113]., đây là một tính
trạng quý để sử dụng vào các chương trình chọn tạo giống.
1.3.2. Nghiên cứu chọn, tạo giống lúa chất lượng tốt ở Việt Nam
Rất nhiều giống thơm có sẵn trong nguồn gen cây lúa của Việt Nam. Ba
loại có thể được phân biệt: truyền thống, cải tiến và nhập nội. Các giống
truyền thống đã bị bỏ quên trong một thời gian dài do thời gian sinh trưởng
dài và năng suất thấp, không phù hợp với thâm canh. Tuy nhiên, chất lượng
hạt của các giống này rất cao được người Việt Nam ưa chuộng, đặc biệt là
Nàng Thơm Chợ Đào và Tám Xoan ở Đồng bằng sông Hồng. Các giống cải
tiến với thời gian sinh trưởng ngắn và năng suất tiềm năng cao như giống Hoa
nhài, Jasmin 85, VD20 và OM3536. Cuối cùng, các các giống nhập nội liên
quan đến hai giống thơm nổi tiếng được trồng trên thế giới: Khao Dawk Mali
105 (KDML105) từ Thái Lan và Basmati 370 từ Ấn Độ. Khao Dawk Mali đã
được giới thiệu thành công ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong nhiều
năm nay, trong khi Basmati 370 không thích nghi (Bui Chi Buu, 2000) [54]..
Các giống lúa đặc sản miền Bắc tuy cho cơm dẻo và rất thơm ngon

nhưng thời gian sinh trưởng dài, chỉ gieo cấy được trong vụ Mùa. Bên cạnh
đó các giống lúa Tám thơm là giống địa phương cổ truyền nên thích ứng hẹp,
chỉ gieo cấy được ở vùng ven biển của tỉnh Nam Định và một số ít vùng của
các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ, không mở rộng được trên đất vàn cao, đất nghèo
dinh dưỡng ở vùng Trung du miền núi. Nhóm nghiên cứu Nguyễn Minh Công
và cộng sự (2002) [10].đã nghiên cứu chọn tạo giống lúa Tám thơm đột biến
từ giống lúa Tám thơm Hải Hậu bằng phương pháp xử lý đột biến với tia
gamma (Co60). Kết quả chọn lọc thu được giống lúa Tám thơm đột biến không
phản ứng với điều kiện ánh sáng ngày ngắn, thời gian sinh trưởng trung bình,
thích ứng rộng hơn, chịu rét và chịu khô nóng, gieo trồng được cả hai vụ,
năng suất và hương thơm tương đương như giống lúa Tám Hải Hậu.


-22Sử dụng phương pháp chọn lọc trên quần thể lai, Nguyễn Thị Trâm và
cộng sự (2006) [41]. đã chọn tạo được giống lúa thơm Hương Cốm từ các
giống Hương 125s, MR365, Tám Xoan đột biến (TX93), Maogô và R9311 có
hàm lượng amylose 17,5%, hàm lượng protein 8,7%, nhiệt hóa hồ thấp, độ
bền thể gel mềm, chống đổ ngã rất tốt. Cũng bằng kỹ thuật này, Nguyễn
Thanh Tuyền và cộng sự (2007) [45]. đã thực hiện tổ hợp lai giữa DT10 và
Amber và chọn tạo được giống Tẻ Thơm số 10 (T10) có đặc điểm chính
tương đương với giống Bắc Thơm số 7 như thơm, ngon cơm, mềm dẻo, ráo
rời, gạo trắng đục, hàm lượng protien đạt 9,8%.
Để đánh giá mùi thơm của lúa, nhóm nghiên cứu Nguyễn Văn Mười và
cộng sự (2009) [29]. sử dụng phương pháp chọn lọc phả hệ (pedigree) từ quần
thể phân ly F2 và các thế hệ tiếp theo của tổ hợp lai giữa 5 giống bố mẹ có
nguồn gốc xa nhau. Mùi thơm của giống Hương cốm giảm rất nhanh qua các
thế hệ chọn lọc. Nghiên cứu này được tiến hành để đánh giá năng suất, chất
lượng, đặc biệt là tính thơm qua các thế hệ chọn siêu nguyên chủng của giống
lúa Hương cốm nhằm duy trì sự ổn định mùi thơm, năng suất, chất lượng gạo
phục vụ cho việc mở rộng sản xuất. Đánh giá độ thơm trên lá và nội nhũ thực

hiện từ G0 (F12) đến G2 cho thấy, tính trạng mùi thơm không ổn định qua các
thế hệ nhân. Do vậy trong quá trình chọn lọc, ở ngay thế hệ G1 cần phải chọn
các cá thể có mùi thơm trên lá và nội nhũ đạt điểm 2 (thơm) thì tính thơm của
giống ổn định hơn ở các lần nhân tiếp theo.
Tác giả Trần Tấn Phương và cộng sự (2011) [32]. đã sử dụng phương
pháp lai kết hợp nhiều bố mẹ để tạo giống lúa thơm, kết quả tạo chọn được
giống lúa thơm mới ST20 có thời gian sinh trường ngắn 115 ngày, cây thấp,
tiềm năng năng suất cao, hạt dài, hàm lượng amylose 12,4%, hàm lượng
protein 10,84%, cơm thơm đậm, mềm dẻo. Giống ST20 có chứa gen thơm
badh2.1, có hàm lượng chất 2-acetly-1- pyroline (2-AP) là 8,8ppb cao hơn
giống Jasmine 85.


-23Kết hợp các phương pháp truyền thống và ứng dụng công nghệ sinh
học nhằm đẩy nhanh quá trình tạo giống mới đang được áp dụng rộng rãi. Tác
giả Phạm Văn Phượng và và cộng sự (2011) [33]. đã ứng dụng qui trình kỹ
thuật điện di SDS-PAGE protein để phân tích, sàng lọc các giống lúa có
nguồn gốc địa phương và các dòng lai và lựa chọn được 11 giống/dòng gồm
TPCT1, TPCT2, TPCT6, Jasmine 01, Jasmine 08, Jasmine 10, VĐ20-03,
VĐ20-07, VĐ20-17, VĐ20-17 để khảo nghiệm trong vụ Hè Thu năm 2008.
Kết quả tất cả các giống/dòng khảo nghiệm đều có mùi thơm, thời gian sinh
trưởng ngắn (dưới 100 ngày), ít bị sâu bệnh, có năng suất cao hơn giống đối
chứng, có hạt gạo thon dài và chất lượng hạt gạo tốt, đạt mục tiêu đề ra, đáp
ứng được tiêu chuẩn của gạo xuất khẩu.Kết quả nuôi cấy bao phấn của 20 tổ
hợp lai của tác giả Nguyễn Thị Lang và và cộng sự (2012) [26]. cho thấy các
tổ hợp có tỷ lệ tái sinh cao như IR64/ OM 3536 (43,75%), OM 1490/Hoa Lai
(Hương Lài) (17,81%), OM3536/IR75997-159 (14,20%). Đây là kết quả quan
trọng rất có ích đối với chọn giống bố mẹ đáp ứng yêu cầu cao của quá trình
nuôi cấy bao phấn nhằm nuôi cấy lúa đơn bội và thiết lập quần thể đơn bộ kép
bền vững. Có 6 tổ hợp lai Fl: IR64/OM 3536, IR 72/OM3536, OM 3536/IR

73689-76,

OM

536/IR75997-159,

OMCS2000/Jasmine

M



Tequang/OM3536 cho năng suất và chất lượng cao, trong đó có tổ hợp có mùi
thơm cao như OM 3536/1R75997-159 và IR 64/ OM 3536.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng gạo
1.4.1. Yếu tố di truyền
Di truyền các tính trạng chất lượng ở cây lúa khá phức tạp, chịu tác
động nhiều của môi trường như tính thơm, hàm lượng amylose, nhiệt độ hóa
hồ, hàm lượng protein,… Phân tích di truyền của các tính trạng chất lượng
nhằm hỗ trợ cho công tác chọn tạo giống chất lượng có cơ sở và dễ thành
công hơn.
1.4.1.1. Tính thơm


-24Di truyền của tính trạng thơm khá phức tạp, Nguyễn Minh Công và
cộng sự(2007)[11]. xác định tính thơm của lúa Tám Xuân Đài được kiểm soát
bởi ít nhất 2 gen lặn tác động cộng tính. Các allen hương thơm xuất hiện
trong gạo thơm, gạo Japonica nhiệt đới và Indica nhiều hơn so với Japonica
ôn đới (Kovach và cộng sự, 2009)[91]..
Nghiên cứu của Khuất Hữu Trung, Nguyễn Thúy Điệp (2012) [42]. khi

đánh giá mùi thơm của 50 giống lúa chất lượng của Việt Nam có 33 giống có
gen BAD2 ở trạng thái đồng hợp tử lặn, 9 giống có gen BAD2 ở trạng thái
đồng hợp tử trội, 8 giống lúa có gen BAD2 ở trạng thái dị hợp tử. Như vậy, do
tự phối mà quần thể tồn tại cả gen đồng hợp tử lặn, đồng hợp tử trội và dị hợp
do đó biểu hiện mùi thơm ở mức độ khác nhau khi đánh giá bằng cảm quan.
1.4.1.2. Chiều dài hạt gạo
Chiều dài và hình dạng hạt gạo được phân nhóm theo tiêu chuẩn của
Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế. Thị hiếu về chiều dài và hình dạng hạt gạo
thay đổi tuỳ theo từng thị trường. Có thị trường thích gạo hạt tròn, có nơi thích
gạo dài trung bình, nhưng hạt gạo thon dài có xu hướng được ưa chuộng nhiều
nhất trên thị trường quốc tế. Các nước châu Âu, Trung Đông, vùng Caribê,
Singapore, Malaysia, Hồng Kông ưa chuộnggạo hạt dài có phẩm chất cao.
Tính trạng kích thước hạt là tính trạng di truyền số lượng, McKenzie và
cộng sự (1983) [97]. đã nghiên cứu sáu tổ hợp lai SD7/72-3764, CI9858/DDI,
L-201/M7, 7601014/ED7, 7803012/M-101 và SD7/B18355, ở thế hệ F2 thấy
hiện tượng phân ly tăng tiến dương về chiều dài lẫn chiều rộng hạt, tác giả kết
luận: chiều dài và chiều rộng hạt được kiểm soát bởi những gen số lượng.
Theo Kato (1989) [85]., chiều dài hạt được kiểm soát bởi các allen trội có xu
hướng gây ra trung bình chiều dài hạt của con lai ngắn hơn trung bình chiều
dài hạt của bố mẹ.
1.4.1.3. Hàm lượng amylose


-25Chất lượng cơm được xác định bởi hàm lượng amylose và nhiệt hóa hồ
mà ít phụ thuộc vào hàm lượng protein. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học chỉ ra rằng di truyền hàm lượng amylose giữa lúa nếp và lúa tẻ khác nhau.
Độ dẻo được kiểm soát bởi một gen lặn wx (Lin, 1989) [94]., nên nội nhũ của
gạo nếp chỉ chứa amylopectin với kiểu gen 3n=wxwxwx, ngược lại ở gạo tẻ
bao gồm cả amylose và amylopectin được kiểm soát bởi gen trội Wx. Alen
Wxa (mã hóa 25-30% hàm lượng amylose) nâng cao lượng amylose mạnh hơn

so với Wxb (mã hóa 15-22% hàm lượng amylose) (Yu-Chia Hsu và cộng sự,
2014) [123].. Alen Wxb đã chiếm ưu thế trong loại gạo Japonica, trong khi
hầu hết các giống thuộc loài phụ Indica có chứa alen Wxa (Zhao và cộng sự,
2010) [124]..
1.4.1.4. Hàm lượng protein tổng số
Nghiên cứu của Chang và cộng sự (1979) [55]. cho biết di truyền tính
trạng protein do đa gen điều khiển và có hệ số di truyền khá thấp; có thể do
ảnh hưởng tương tác mạnh mẽ giữa kiểu gen và môi trường. Kết quả nghiên
cứu trên 200 giống lúa địa phương của tác giả Nguyễn Thị Lang, Bùi Chí Bửu
(2005) [24]. cho thấy hàm lượng protein trong cây lúa biến động từ 5,4 % đến
10,9 %. Tỉ lệ này cao hay thấp thường do yếu tố giống quyết định 40% và còn
60% do ảnh hưởng của môi trường và thời gian bảo quản hạt. Di truyền của
tính trạng hàm lượng protein trong hạt rất phức tạp, giống có hàm lượng
protein cao thường liên kết với đặc tính thời gian sinh trưởng ngắn và khối
lượng hạt nhẹ. Chỉ thị RM234 định vị trên nhiễm sắc thể số 7, cho đa hình
với 3 alen với kích thước lần lượt là 163bp, 156bp,145bp đã được Viện Lúa
Đồng bằng sông Cửu Long khai thác trong cải tiến giống lúa có hàm lượng
protein cao (>8%).
1.4.1.5. Nhiệt độ hóa hồ
Hạt tinh bột bị tác động bởi nhiệt độ hoặc hóa chất thì các phân tử tinh
bột bị phá vỡ thông qua sự nóng chảy hay còn gọi là nhiệt hóa hồ. Nhiệt hóa


×