Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Báo cáo thực tập địa chất tại THÀNH PHỐ LẠNG SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.93 KB, 43 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Địa chất là môn khoa học chuyên nghiên cứu về trái đất , các vật liệu hình thành trái đất ,
cấu trúc của những vật liệu đó và các quá trình hoạt động của chúng , nó bao gồm các
nghiên cứu về nguồn gốc sinh vật trên trái đất , địa chất học là môn nghiên cứu về thành
phần , nguồn gốc của quá trình , cấu trúc của trái đất thay đổi theo thời gian . Để không
ngừng củng cố thêm kiến thức đã được học là làm quen với công việc địa chất sau này .
Đợt thực tập ngoài thực địa nhằm mục đích củng cố các kiến thức từ giáo trình môn học :
Địa chất Đại cương , Địa chất cấu tạo , Thạch học , … Qua việc vận dụng lý huyết thực tế
, tìm tòi sáng tạo trong thực tập và làm tổng kết lý luận . Đợt thực tập giúp sinh viên làm
quen với những công việc sau này , giúp sinh viên hình dung và định hướng được công
việc sẽ làm trong tương lai .
Để đạt được mục đích và kết quả cao trong đợt thực tập sinh viên phải tuân thủ những
yêu cầu đặt ra trong đợt thực tập , phải đảm bảo thực tập đúng nội dung , đúng quy chế
thực tập do nhà trường đề ra như : Đảm bảo lộ trình , tuân thủ quy định lao động , đàm
bảo việc thu nhập mẫu , ghi chép đầy đủ cá nhân , bảo quản tài liệu thực tập và các nhu
cầu sinh hoạt .
Yêu cầu chuyên môn có 3 phần lớn :
+ Phải nhận biết , nghiên cứu và xác định các cấu tạo địa chất theo các tuyến lộ trình
cũng như trong vùng nghiên cứu .
+ Bước đầu làm quen với công việc đo vẽ bản đồ địa chất .
+ Tăng khả năng nhận biết đất đá , sử dụng bản đồ địa hình , địa bàn địa chất , búa và
các dụng cụ khác trong khi thực tập .
Trong đợt thực tập chúng tôi đã vận dụng các phương pháp phân tích cấu trúc địa chất
như : các phương pháp địa mạo , viễn thám , môi trường ,… Nhằm phát hiện và làm rõ
các cấu trúc nằm dưới sâu , những cấu trúc bị lộ hoặc bị che khuất bởi đất phong hóa và
trầm tích Đệ Tứ .
Đợt thực tập này gồm 2 phần lớn : phần thực địa và phần trong phòng , diễn ra trong 2
tuần từ 3/6/2017 đến 17/6/2017 và được chia làm 3 giai đoạn :
-

Giai đoạn 1 : từ ngày 3/6/2017 đến ngày 5/6/2017 . Đây là thời gian chuẩn bị


dụng cụ học tập , tư trang , tài liệu địa chất cấu tạo và đo vẽ bản đồ địa chất và


các điều kiện về vật chất để tiến hành thực tập . Giai đoạn này được thực hiện ở
nhà và một phần ở Lạng Sơn .
-

Giai đoạn 2 : Sau giai đoạn chuẩn bị đó là giai đoạn thực địa . Giai đoạn này
chúng tôi thực hiện tại khu vực TP Lạng Sơn gồm những lộ trình có sự hướng
dẫn của thầy giáo và những lộ trình độc lập .
Lộ trình 1 : Nhị Thanh – Nà Pàn
Lộ trình 2 : Đông Kinh – Kéo Tào
Lộ trình 3 : Phai Vệ - Nà Chuông
Lộ trình 4: Khòn Pát – Bình Cầm
Lộ trình 5 : Kỳ Lừa – Nậm Dân

- Giai đoạn 3: Giai đọan trong phòng, giai đọan này chúng tôI làm một
phần ở Lạng Sơn và phần lớn tại Hà Nội. Đâyy là giai đọan làm báo cáo
tổng kết, sơ đồ địa chất, địa mạo, kiến tạo, vẽ mặt cắt địa chất và bảo vệ
kết quả thực tập.
Lớp ĐH5KS và lớp CĐ14CĐC gồm 19 thành viên được chia làm 4 nhóm , mỗi nhóm
có từ 4-5 thành viên , trong đó chúng tôi thuộc nhóm 3 gồm các thành viên sau :
1. BÙI ĐĂNG ĐỒNG

( Nhóm trưởng )

2. HOÀNG THÙY DUNG ( Viết nhật ký )
3. NGUYỄN MINH HOÀNG ( Lấy mẫu )
4. BÙI CÁT LINH ( Đo địa bàn )
5. NGUYỄN QUANG TRƯỜNG ( Viết Etiket và bảo quản mẫu )

Dưới sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô trong khoa địa chất đã giúp chúng tôi trong
đợt thực tập này .
1. NGUYỄN CHÍ CÔNG
2. PHẠM VĂN CHUNG
3. Ts NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG
Với sự nỗ lực của từng thành viên trong nhóm, cùng với sự hướng dẫn
nhiệt tình của các thầy, chúng tôi đá hoàn thành báo cáo thực tập địa
chất cấu tạo và đo vẽ bản đồ địa chất vùng thánh phố Lạng Sơn.


Báo cáo gồm 3 chương :
Chương 1 : ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN – KINH TẾ - NHÂN VĂN VÀ
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT VÙNG THÀNH PHỐ LẠNG SƠN
Chương 2 : ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Địa tầng
2.2. Kiến tạo
2.3. Địa mạo
2.4. Địa chất thủy văn và địa chất công rình
2.5. Khoáng sản có ích
2.5.1 Khoáng sản kim loại
2.5.2 Khoáng sản phi kim loại
2.5.3 Khoáng sản nguyên liệu
Chương 3 . CÁC LỘ TRÌNH THỰC HIỆN


Chương 1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ - NHÂN VĂN VÀ
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT VÙNG THÀNH PHỐ LẠNG SƠN

1.1 Đặc điểm địa lý tự nhiên.


1.1.1 Vị trí
Vùng thực tập là thành phố Lạng Sơn, ở phía Đông Bắc nước ta. Trung tâm thành
phố cách Hà Nội khoảng 154 km theo đường thẳng, cách biên giới Việt Trung
18km. Khu vực thực tập có diện tích 81 km2 phía Bắc giáp với khu vực thị trấn
Đồng Đăng, Phía Tây giáp với huyện Cao Lộc, phía Đông và Đông Nam giáp với
huyện Lộ Bình.

1.1.2 Địa hình
Vùng thành phố Lạng Sơn thuộc địa hình núi thấp có độ cao tuyệt đối từ 250m –
800m . Thành phố Lạng Sơn nằm trong thung lũng dạng hình thoi, kéo dài theo
phương Tây Bắc – Đông Nam. Chiều dài thung lũng khoảng 6m, chiều rộng khoảng
vài trăm mét đến 44,5 km, chiều rộng nơi rộng nhất phần trung tâm thành phố và
hẹp ở hai đầu. Bề mặt thung lũng có độ chênh cao không lớn và hơi nghiên về phía
trung tâm và phía Đông Nam. Trong thung lũng của các núi sót đá vôi phía Tây Kỳ
Lừa như Tam Thanh, Nhị Thanh và nằm rải rác ở một số nơi như: Chùa Tiên, Đông
Kinh...ở phía Nam và Đông Nam thành phố Lạng Sơn phân bố hai khu đồng bằng
khá bằng phẳng , bề mặt phủ bởi phù sa sông Kỳ Cùng . Một số nơi ở khoảng giữa
các đồi và núi có nhiều dải thung lũng nhỏ có bề mặt tương đối bằng phẳng. Đây là
nơi canh tác nông nghiệp của nhân dân địa phương.

1.1.2.1 Địa hình đồi núi.
Đồi núi chiếm diện tích khá lớn trong vùng nghiên cứu , phân bố xung quanh
thành phố Lạng Sơn. Đặc điểm địa hình ở đây là không có núi cao, hầu hết là đồi
núi thấp, phân bố thành từng dải liên tục hoặc ở dạng các đồi núi riêng biệt. Độ cao
phổ biến từ 280 đến 800m. Đỉnh núi cao nhất ở phía Tây Bắc có độ cao 800m. Các
đồi có vòm rộng, sườn thoải, độ dốc thay đổi từ 150 đến 450. Các núi thường có
đỉnh sườn dốc từ 35 đến 600.Cấu tạo nên địa hình này là là các đá trầm tích lục
nguyên, lục nguyên cacbonat và magma phun trào. Phần lớn bề mặt đồi núi bị
phong hóa với mức độ khác nhau. Một số nơi vỏ phong hóa dày, sườn dốc mạnh mẽ
dễ gây ra tai biến địa chất như: trượt nở, lũ quét...



1.1.2.2 Địa hình núi đá vôi


Địa hình núi đá vôi là một trong những đặc trưng của địa hình của khu vực thành phố
Lạng Sơn. Núi đá vôi ở đây không cao hoặc nằm đơn lẻ dạng núi sót. Độ cao tuyệt đối
phần lớn các núi là 300m . Mức độ phân cắt hay độ chênh cao giữa các đỉnh núi và địa
hình xung quanh không quá 200m. Các núi đá vôi tập trung ở khu vực Tam Thanh, Nhị
Thanh. Các núi đá vôi ở đây có dạng tháp, sườn dốc, đỉnh lởm chởm tai mèo , răng cưa
sắc nhọn như ở khu vực Đông Kinh. Trong khối đá vội phát triển nhiều hang động. Một
số hang động có cảnh đẹp như ở Tam Thanh, Nhị Thanh, động Chùa Tiên.

1.1.2.3 Địa hình đồng bằng và thung lũng.
Địa hình đồng bằng và thung lũng phân bố ở phía Nam và một số nơi xung quanh thành
phố Lạng Sơn. Về nguồn địa hình này được tao thành do các quá trình ngoại sinh như:
bóc mòn và tích tụ.
Thung lũng lớn nhất là thung lũng thành phố Lạng Sơn, ngoài ra còn xuất hiện thung
lũng ở khu vực Mai Pha, và thung lũng Nà Chuông. Do địa hình bằng phẳng nên ở trung
tâm thành phố giao thông khá thuận tiện, là nơi tập trung dân cư, kinh tế phát triển.

1.1.3 Sông suối.
Các sông suối phân bố ở phía Nam thành phố Lạng Sơn và một số nơi khác trong vùng.
Sông Kỳ Cùng chảy qua thành phố theo hướng từ Đông sang Tây.
Sông Kỳ Cùng bắt nguồn từ dãy núi Mẫu Sơn ở phía Đông, chảy theo hướng Đông Nam
- Tây Bắc. Sông Kỳ Cùng độ dài 243 km, diện tích lưu vực: 6660 km2 , bắt nguồn từ
vùng núi Bắc Xa cao khoảng 1166m thuộc huyện Đình Lập, sông Kỳ Cùng thuộc lưu vực
sông Tây Giang Trung Quốc. Đây là con sông duy nhất ở miền Bắc Việt Nam chảy theo
hướng Đông Nam – Tây Bắc, do vậy mảnh đất xứ Lạng còn được gọi là “ nơi dòng sông
chảy ngược”.


1.1.3 Khí hậu.
Vùng thành phố Lạng Sơn nằm trong khí hậu nhiệt đới gió mùa . Một năm có hai mùa
rõ diệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, lượng mưa
trung bình thay đổi từ 1700mm đến 1800mm. Trong mùa mưa xuất hiện những trận lũ bất
thường làm cho nhân dân thành phố và công tác nghiên cứu địa chất gặp không ít khó


khăn. Mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa ít từ 100mm đến
200mm. Nhiệt độ trung bình từ 10 – 200C , cá biệt có ngày đến dưới 00C , có hiện tượng
tuyết rơi trên đỉnh núi Mẫu Sơn. Trong mùa khô có nhiều đợt gió mùa Đông Bắc kèm
theo mưa phùn. Tuy nhiên về mùa này cơ bản về thời tiết khô ráo phù hợp với công tác
nghiên cứu khảo sát địa chất

1.2 Đặc điểm kinh tế.
1.2.1

Giao thông

Nhìn chung điều kiện giao thông của thành phố Lạng Sơn khá phát triển bao gồm các
tuyến đường săt, đường bộ và đường không

1.2.1.1 Đường sắt

Tuyến đường sắt chạy từ Hà Nội qua Bắc Ninh, Bắc Giang lên Lạng Sơn và nối với
đường sắt Trung Quốc.

1.2.1.2 Đường bộ

- Quốc lộ 1A: Hà Nội - Lạng Sơn

- Quốc lộ 1B: Lạng Sơn – Thái Nguyên
- Quốc lộ 4A: Lạng Sơn – Cao Bằng
- Quốc lộ 4B: Lạng Sơn –Quảng Ninh
Đặc biệt là tuyến đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn đã được nâng cấp, mở rộng rút ngắn thời
gian đi lại giữa hai thành phố, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông giữa các khu vực
nói trên. Ngoài đường quốc lộ trong vùng còn có tuyến đường liên huyện từ thành phố đi
các nơi trong tỉnh.

1.2.2 Công nghiệp
Nhìn chung công nghiệp trong vùng chưa phát triển không có nhiều công trường và các
công sở công nghiệp có quy mô lớn và hiện đại. Khu vực thành phố chưa thu hút được


nhiều các doanh nghiệp trong và ngoài nước đến đầu tư sản xuất tại nơi đây. Các cơ sở
lớn nhất là Công ty Vật liệu Xây dựng Lạng Sơn.

1.2.2

Nông nghiệp.

Nông nghiệp của vùng phát triển chưa cao, một phần do điều kiện địa hình khí hậu
không thuận lợi cho khai trồng các loại cây công nghiệp và phần cơ bản khác là phương
thức canh tác còn lạc hậu. Tuy nhiên, địa hình khí hậu thuận lợi cho việc trồng cây hoa
màu và rau có chất lượng cao. Sản phẩm rau quả ở đây được ưa chuộng tại địa phương và
các vùng xung quanh. Trong những năm gần đây nông nghiệp và lâm nghiệp đã được chú
ý hơn nên diện tích đồi núi trọc đã giảm đáng kể đồng thời nạn phá rừng đã cơ bản được
hạn chế.

1.2.3 Thương nghiệp.
Trong những năm gần đây chính sách mở cửa Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho

việc phát triển kinh tế thương nghiệp. Giao lưu hàng hóa giữa Lạng Sơn với Trung Quốc
lưu thông hàng hóa tập trung tại các khu vực Kỳ Lừa, Đông Kinh, Tân Thanh, Đồng
Đăng. Hàng năm lưu lượng hàng hóa qua biên giới là rất lớn.
Tuy nhiên, ở khu vực này buôn lậu hàng hóa qua biên giới rất khó khăn được giải quyết
gây không ít khó khăn cho đời sống, kinh tế ở nơi này.

1.3 Đặc điểm nhân văn.
1.3.1 Dân số, dân cư.

Thành phố Lạng Sơn là trung tâm kinh tế, văn hoá giáo dục của tỉnh Lạng Sơn. Hiện tại
thành phố có hơn 5 vạn dân, chủ yếu là người Kinh, bên cạnh đó là người Tày, người
Dao, người Nùng. Tuy có nhiều dân tộc khác nhau cư trú trên cùng địa bàn, nhưng hầu
hết đồng bào có tính đoàn kết xây dựng. Điều này đã được chứng minh qua những năm
chiến tranh và xây dựng đất nước.

1.3.2

Văn hoá.
Phần lớn trình độ văn hóa của người dân thành phố Lạng Sơn và vùng lân cận ở


mức trung bình. Tuy nhiên trong vùng có khá nhiều trẻ em thất học đặc biệt là con
em dân tộc ít người.
Vùng nghiên cứu là một trong những khu vực có nhiều danh lam thắng cảnh nổi
tiếng như: Thành Nhà Mạc - Động Tam Thanh, Nhị Thanh, chù Tam Thanh, cửa
Nhị Thanh, Chùa Tiên. Hàng năm lượng khách du lịch đến Lạng Sơn là khá đông.
Trên cơ sở đặc điểm địa lý - kinh tế - nhân văn, chúng tôi thấy rằng vùng thành
phố Lạng Sơn rất thuận lợi cho việc thực tập nghiên cứu địa chất. Nơi này có
nhiều đồi núi thấp cây cao và thưa dễ dàng phát hiện các đất đá và đặc điểm địa
chất.


1.4 Lịch sử nghiên cứu địa chất vùng thành phố Lạng Sơn.

Việc nghiên cứu địa chất vùng thành phố Lạng Sơn có liên quan trực tiếp đến lịch sử
địa chất vùng Đông Bắc Việt Nam. Nghiên cứu lịch sử địa chất được bắt đầu vào cuối
thế kỷ XIX và có thể sớm hơn nữa. Dựa vào mức độ nghiên cứu và kết quả theo thời
gian, có thể chia lịch sử nghiên cứu địa chất vùng thành phố Lạng Sơn thành 3 giai
đoạn.
1.4.1. Giai đoạn trước 1945
Việt Nam nằm dưới sự cai trị của thực dân Pháp từ cuối thế kỷ XIX đến trước năm
1945, do đó việc nghiên cứu địa chất vùng cơ bản là do các nhà Địa chất người Pháp
tiến hành với mục đích phục vụ cho chính quyền ở đây.
Năm 1945, Bausset đã có công trình nghiên cứu vùng Đông Bắc Việt Nam. Ông gọi
các đá trầm tích sét kết, bột kết, có hóa đá chân rìu ở Lạng Sơn là đá phiến đới sông
Hiến.
Năm 1926, Epatte đã nghiên cứu đá phun trào ở Bắc Bộ và xếp các trầm tích ở Lạng
Sơn vào tuổi Trias.
Giai đoạn 1945 - 1954
Trong thời kỳ do chiến tranh nên việc nghiên cứu địa chất ở nước ta nói chung và ở
Lạng Sơn nói riêng chưa tiến hành được nhiều.
1.4.2.

1.4.3. Giai đoạn 1954 đến nay
Trong giai đoạn này miền Bắc Việt Nam đã trở lại hoà bình và bắt tay vào công cuộc
xây dựng và phát triển kinh tế. Việc thăm dò khoáng sản là một trong những nhu cầu
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô, Việt nam đã


thành lập bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam với tỷ lệ 1:500.000.
Năm 1965 A.E.Dopjicop cùng các nhà Địa chất Việt Nam đã phân chia các đá vùng

thành phố Lạng Sơn thành các phân vị địa tầng sau:
- Hệ tầng Lạng Sơn (Tiils)
- Hệ tầng Sông Hiến (T2ash)
- Hệ tầng Mẫu Sơn (T3cms)
Năm 1962, Bùi Phú Mỹ, Gazenco và một số nhà Địa chất đã xếp Bauxit vùng Đồng
Đăng vào tuổi Trias. Trong công trình nghiên cứu trùng lỗ Paleozoi thượng của
Nguyễn Văn Liêm năm 1966, ông đã xếp Bauxit ở khu vực này vào Hệ tầng Đồng
Đăng (P3đđ) và xếp đá vôi khu vực Tam Thanh, Nhị Thanh vào hệ tầng Bắc Sơn (CP2bs).
Năm 1972 Trần Văn Trị và một số nhà Địa chất khác đã thành lập bản đồ địa chất
miền Bắc Việt Nam với tỷ lệ 1: 1.000.000. Trong đó đá phun trào ryolit ở khu vực
thành phố Lạng Sơn được xếp vào bậc Anizi, trầm tích có hóa đá chân rìu, chân đầu
nằm trên đá phun trào xếp vào bậc Lađini.
Từ đầu năm 1969 đến nay các thầy giáo và sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất
đã khảo sát khu vực này với mục đích đào tạo và nghiên cứu khoa học, phục vụ đời
sống kinh tế quốc phòng đã làm rõ cấu trúc địa chất khu vực cùng những vấn đề liên
quan, trong đó có địa chất được phân chia từ trẻ đến già như sau:
Giới Kainozoi (KZ)
- Đệ Tứ (Q)
- Hệ Neogen hệ tầng Na Dương (N1cms)
Giới Mzozoi (MZ)
- Hệ Trias
+ Thống trên, hệ tầng Mẫu Sơn (T3cms)
+ Thống giữa, hệ tầng Nà Khuất (T2lnk); hệ tầng Sông Hiến (T2ash)
+ Thống dưới, hệ tầng Kỳ Cùng (T1okc); hệ tầng Lạng Sơn (T1ils)
Giới Paleozoi (PZ)
- Hệ Pecmi
+ Thống trên, hệ tầng Đồng Đăng (P3đđ)
- Hệ Cacbon, hệ Pecmi thống giữa, hệ tầng Bắc Sơn (C-P2bs)
Các công việc này đã góp phần đào tạo đội ngũ kỹ sư địa chất công trình phục vục
cho các ngành kinh tế của nước ta.



CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT KHU VỰC NGHIÊN CỨU
ĐỊA TẦNG
Trong tài liệu bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam năm 1965, khu vực thành phố Lạng
Sơn là nơi giao nhau của ba đới tướng cấu trúc: đới sông Hiến từ Nà Pàn về phía Tây
Bắc, đới An Châu từ Nà Chuông về phía Đông Nam, đới Hạ Lang từ Lộc Bình về phía
Đông Bắc.
Khu vực nghiên cứu gồm các địa tầng có tuổi từ già đến trẻ được phân chia như sau:
Giới Paleozoi (PZ)
- Hệ Cacbon - hệ Pecmi, thống giữa - Hệ tầng Bắc Sơn (C-P2bs)
- Hệ Pecmi, thống trên - Hệ tầng Đồng Đăng (P3đđ)
Giới Mezozoi (MZ)
- Hệ Triat thống dưới - bậc Indi - hệ tầng Lạng Sơn (T1ils)
- Hệ Triat thống dưới - bậc Olenec - hệ thầng Kỳ Cùng (T1okc)
- Hệ Triat thống dưới - bậc Anizi - hệ tầng Khôn Làng (T1akl)
- Hệ Triat thống dưới - bậc Lanizi - hệ tầng Nà Khuất (T2lnk)


- Hệ Triat thống trên - bậc Cacni - hệ tầng Mẫu Sơn (T3cms)
- Hệ Jura thống trên - bậc Kreta - hệ tầng Tam Lung (J3-Ktl)
Giới Mezozoi - Giới Kainozoi (MZ - KZ)
- Hệ Kreta thống trên - hệ Paleozoi - Hệ tầng Tam Danh (K3-Etd)
Giới Kainozoi (KZ)
- Hệ Neogen thống Mioxen - Hệ tầng Na Dương (N1nd)
- Hệ Đệ Tứ (Q)
Sự phân bố các hệ tầng trong thành phố Lạng Sơn có quy luật khá rõ. Phần trung tâm là
hệ tầng Bắc Sơn, sau đó xa dần là hệ tầng Đồng Đăng, Lạng Sơn, Kỳ Cùng, Khôn Làng,
Nà Khuất và Mẫu Sơn.
1. Giới Paleozoi (PZ)


1.1. Hệ cacbon - hệ Pecmi thống dưới, giữa - hệ tầng Bắc Sơn (C-p2bs)
Hệ tầng Bắc Sơn được nhà Địa chất người Pháp Sauriu đã nghiên cứu và đặt ra
năm 1956. Năm 1965 nhà Địa chất người Liên Xô A.E.Dopjcov trong loại bản đồ
địa chất miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1:500.000 do ông chủ biên đã xác định các đá
vôi ở vùng Bắc Sơn và ở thành phố Lạng Sơn có tuổi Cacbon trung - Pecmi sớm
(C-P1bs)
Năm 1977, Trần Văn Trị và một số tác giả khác xếp các đá vôi nói trên vào loạt
Bắc Sơn. Sự phân bố của thành tạo này khá rộng. Ở khu vực thành phố Lạng Sơn
loại hệ tầng Bắc Sơn chiếm phần lớn diện tích thành phố, kéo dài theo phương Tây
Bắc - Đông Nam, rộng nhất ở khu vực thành phố và kéo dài ở đầu Tây Bắc và
Đông Nam.
Nghiên cứu mặt cắt hệ tầng Bắc Sơn từ Đông Kinh qua Nhị Thanh, Tam Thanh và
ở khu vực Cò Lèng, Việt Thắng cũng như một số nơi lân cận, thấy rõ:
+ Phần dưới chủ yếu là đá vôi dạng khối, màu xanh xám, xám sáng, kết tinh yếu,
khá đồng nhất.
+ Phần trên là đá vôi màu xám sáng, xám đen, cấu tạo phân lớp vừa đến dày.
+ Trong đá vôi vó hệ tầng có nhiều hóa đá trùng lỗ, san hô, tay cuộn. Các hóa đá
điển hình là: Verbeekina Verbecki Misellina Compretsa, Fusulinellbocki…
Về dạng nằm và cấu trúc của các đá của hệ tầng Bắc Sơn thấy rõ ở phần dưới cùng
của cột địa tầng. Trong vùng nghiên cứu chưa thấy hệ tầng nào có tuổi già hơn hệ
tầng Bắc Sơn. Các lớp đá vôi ở đây thường nằm nghiêng và nghiêng thoải trong
cấu tạo nếp uốn ngắn có vòm rộng, cánh thoải, dạng vung, dạng chảo.
Căn cứ vào các hóa đá, vị trí địa tầng, căn cứ vào cấu trúc địa chất, liên hệ so với
các vùng lân cận xếp các đá vôi ở trên vào hệ tầng Bắc Sơn, tuổi Cacbon đến
Pecmi trung.
Quan hệ phía dưới của hệ tầng Bắc Sơn với hệ tầng già hơn chưa quan sát được.


Một số nơi ở Cao Bằng và miền Bắc nước ta thấy chúng phủ bất chỉnh hợp lên các

đá già hơn. Phía trên các đá này bị các trầm tích của hệ tầng Đồng Đăng phủ bất
chỉnh hợp lên.
Nghiên cứu các mặt cắt khoan tìm kiếm Bauxit ở khu vực phía Tây Tam Thanh
thấy Bauxit ở đây ở dạng vỉa nằm trong các tập đá vôi nằm nghiêng, phía dưới là
hệ tầng Bắc Sơn, phía trên được cho là hệ tầng Đồng Đăng, nhưng không rõ tính
chất riêng biệt của chúng.
Trên mặt cắt này Bauxit có nguồn gốc trầm tích thực thụ, được thành tạo trong mặt
cắt liên tục từ dưới lên trên. Như vậy có thể xếp ba tập trên vào một hệ tầng: hệ
tầng Bắc Sơn.
Từ kết quả nghiên cứu trong các lỗ khoan, ta thấy Bauxit ở khu vực thành phố
Lạng Sơn khả năng có ba loại:
+ Bauxit dạng vỉa có tuổi đầu Pecmi giữa.
+ Bauxit dạng vỉa có tuổi Pecmi muộn như ở Bản Lóng.
+ Bauxit được hình thành do phóng hóa làm giàu thứ sinh các lớp xét giàu nhôm
và silic như ở Tam Lung, Bản Pịt, Chi Mạc và Bản Lóng…
Như vậy quy mô hệ tầng Bắc Sơn có thể từ Cacbon kéo dài từ Pecmi trung, còn hệ
tầng Đồng Đăng thực thụ có tuổi Pecmi muộn (P3) và chuyển tiếp dần lên Trias
sớm. Trên cơ sở đã nêu có thể xếp đá vôi Quán Lóng, đá vôi ở Nam Mai Pha vào
hệ tầng Bắc Sơn. Bauxit Quán Lóng và Bauxit ở Tam Lung xếp vào hệ tầng Đồng
Đăng.
Chiều dày của hệ tầng Bắc Sơn trên 1000m.
1.2. Hệ Pecmi thống trên – hệ tầng Đồng Đăng (P3dđ)
Năm 1956, nhà Địa chất người Pháp F.Sauriu đã nghiên cứu trầm tích silíc, Bauxit đá vôi
ở Lạng Sơn và xác định chúng có tuổi Pecmi sớm. Sau đó năm 1962, một số nhà Địa chất
Liên Xô cũ như Gazenco, Trepotaricov và nhà Địa chất Việt Nam Bùi Phú Mỹ đã nghiên
cứu trâm tích lục nguyên, silic, Bauxit, đá vôi ở Lạng Sơn và xếp chúng vào Trias sớm.
Năm 1966, Nguyễn Văn Liêm đã nghiên cứu trầm tích silic, Bauxit và đá vôi nói trên và
xếp chúng vào hệ tầng Đồng Đăng, tuổi Pecmi muộn (P2)
Từ năm 1969 đến nay, các thầy giáo của bộ môn Địa chất cảu Trường Đại học Mỏ - Địa
chất Hà Nội đã nghiên cứu các trầm tích Đồng Đăng phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu

khoa học, đã xếp các thành tạo nói trên vào hệ tầng Đồng Đăng tuổi Pecmi muộn (P3)
ở khu vực thành phố Lạng Sơn trầm tích của hệ tầng Đồng Đăng tạo thành các dải không
rộng dạng viễn quanh trầm tích và hệ tầng Bắc Sơn.
ở phía Tây Nam trầm tích hệ tầng Đồng Đăng mở rộng ở khu vực Chùa Tiên, chủ yếu là
các thành tạo lục nguyên và sét than.


ở một số nơi khác trầm tích này độc lập và bị bao quanh là các trầm tích trẻ hơn như ở
khu vực Quán Lóng, gần UBND xã Quang Lạc.
Mặt cắt trầm tích hệ tầng Đồng Đăng quan sát tốt ở khu vực Quán Lóng, Phai Lây, Cao
Lộc, Kéo Tàu… Từ dưới lên trên, hệ tầng Đồng Đăng gồm các phần:
+ Phần dưới gồm cuội kết, cát kết, sét kết, đá silic có chứa hóa đá fusullina… các lớp cấu
tạo phân lớp mỏng đến vừa. Các trầm tích này thường đóng vai trò nhân nếp lồi như ở
Quán Lóng, Chùa Tiên…
+ Phần giữa chủ yếu là đá vôi màu xám sáng, xám đen, đá vôi dăm kết, vôi silic. Phần
lớn chúng có cấu tạo phân lớp dày, cấu tạo khối.
+ Phần trên là silic, đá vôi phân lớp mỏng có nhiều tạp chất sét, sét kết, đá silic dạng
khối,các bột sét kết silic.
Các trầm tích nói trên bị chính các hoạt động đứt gãy, bóc mòn yếu tác động trong quá
trình trầm tích nên tạo ra hiện tượng mất lớp, mất vỉa, vát vỉa hoặc vỉa và các lớp dôc,
dốc mạnh điều này rõ nét ở nơi các trầm tích Pecmi – Trias và gần đá vôi hệ tầng Bắc
Sơn.
Về thành phần của trầm tích hệ tầng Đồng Đăng có một số điểm đặc trưng là:
+ Tập dưới cùng và trên cùng đều là trầm tích lục nguyên, cát kết, bột kết, sét kết.
+ Phần trên của tập dưới và có các lớp Bauxit.
+ Phần trên cùng có đá silic và đá vôi.
Sự có mặt của các trầm tích trên phản ánh quá trình thay đổi môi trường trầm tích và điều
kiện cổ địa lý tương đá trong quá trình thành tạo. Ban đầu mới hạ vọng, trầm tích ven bờ,
môi trường pH thấp. Sau đó biển tiến mạch hơn, đáy trầm tích sâu hơn, nhiệt độ nóng ẩm
hơn, trầm tích các thành tạo cácbonat. Cuối Pecmi muộn có hiện tượng biển lùi, đáy biển

nông dần, trầm tích các sản phẩm cơ học vụn thô lẫn silic.
Về cấu trúc, phần lớn hệ tầng Đồng Đăng nằm ở dưới dạng cánh các phức nếp lồi các đá
già hơn thuộc hệ tầng Bắc Sơn. Một số nơi chúng phát triển hoàn chỉnh cấu tạo nếp lồi,
nếp lõm với biên độ đứng không lớn.
Trên cơ sở tuổi của các đá có ở tầng này trong khu vực thành phố Lạng Sơn, xem xét các
khu vực xung quanh và căn cứ vào các thành tạo già hơn và trẻ hơn, xếp các đá trên vào
hệ tầng Đồng Đăng, tuổi Pecmi muộn (P3)
Quan hệ phía dưới là quan hệ bất chỉnh hợp trên đá vôi hệ tầng Bắc Sơn. Đây là bất chỉnh
hợp khá lớn, gặp ở nhiều nơi trong vùng và miền Bắc.
Quan hệ phía trên là quan hệ chỉnh hợp, được các đá cát kết, bột kết, sét kết, sét vôi, sét
than của hệ tầng Lạng Sơn phủ chỉnh hợp lên trên. Các vết lộ ở khu cực nhà hàng Hoàng
Di, Cao Lộc và Mai pha đã xác định điều đó.
Xác định được đúng các quan hệ địa tầng nhờ đó mà giải quyết các mấu chốt vấn đề cấu
trúc thành phố Lạng Sơn. Trước đây nhiều chỗ của vùng được vẽ dưới dạng quan hệ kiến


tạo, chủ yếu là đứt gãy nghịch, mặt trượt thường nghiêng về phía tầng Bắc Sơn. Trong đó
hệ tầng Bắc Sơn nâng lên, hệ tầng Đồng Đăng hạ xuống.
Hiện nay các nghiên cứu trong vùng cho thấy cơ bản quan hệ giữa hệ tầng Đồng Đăng và
Lạng Sơn là quan hệ chỉnh hợp địa tầng. Điều này có ý nghĩa to lớn trong nghiên cứu cấu
trúc, khoáng sản, môi sinh, môi trường và quy hoạch thành phố. Chiều dày hạ tầng 100200m.
2. Giới Mezozoi (MZ)
2.1. Hệ Trias thống dưới, bậc Indi – hệ tầng Lạng Sơn (T1ils)
Điệp Lạng Sơn do A.E.Dovjieov xác lập cho các trầm tích lục nguyên chứa hóa đá chân
rìu tuổi Trias sớm vào năm 1965. Đến năm 1977 Đoàn Kỳ Thuỷ tách điệp này ra thành hệ
tầng Lạng Sơn (T1ils) và hệ tầng Kỳ Cùng (T1oks). Trên cơ sở khác nhau về thành phần
thạch học, cấu trúc lớp, các tầng, các hóa đá và điều kiện thành tạo trầm tích.
Phạm vi lộ ra của hệ tầng Lạng Sơn khoảng 9km2, phân bố ven khu vực trung tâm thành
phố Lạng Sơn. Dải phía Tây kéo dài khoảng 3,5 km, dải phía Đông kéo dài theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam, dài 8km.

Mặt cắt quan sát tốt của hệ tầng này là từ Đông Kinh đi Bản Lỏng (dọc quốc lộ 1A) và
theo tuyến lộ trình Đông Kinh – Nà Pàn. Mặt cắt gồm hai phần:
+ Phần dưới chủ yếu gồm các trầm tích lục nguyên như cát kết, bột kết, sét kết có cấu tạo
phân nhịp điển hình, đôi nơi gặp đá vôi màu xám xanh.
+ Phần trên: Cát kết, bột kết, sét kết có mãu xám lục, màu vàng.
Các lớp của hệ tầng này có mặt lớp rõ ràng, có cấu tạo phân lớp gợn sóng, xiên chéo song
song đặc trưng cho cấu tạo trầm tích biển nông.
Hóa đá đặc trưng của hệ tầng này là hóa đá chân rìu, chân đầu. Đây là hóa đá định tầng
dùng để xác định tuổi cho hệ tầng Lạng Sơn.
Quan hệ dưới với hệ tầng Đồng Đăng là quan hệ chỉnh hợp. Quan hệ trên với hệ tầng Kỳ
Cùng cũng là quan hệ chỉnh hợp. Bề dày của hệ tầng là 800-100m.
2.2. Hệ Trias thống dưới – Bậc Olenec – hệ tầng Kỳ Cùng (T1okc)
Trước đây hệ tầng này là phần trên của hệ tầng Lạng Sơn. Hiện nay, Kỳ Cùng đã tách ra
thành một hệ tầng riêng. Hệ tầng Kỳ Cùng phân thành hai dải kéo dài theo phương Tây
Bắc - Đông Nam.
Dải thứ nhất nằm ở phía Tây thành phố dài khoảng 6km, dải thứ hai nằm ở phía Đông
thành phố, dài khoảng 2,5km
Các đất đá thuộc hệ tầng này được quan sát rõ nhất là ở khu cực Nà Pàn, Nà Chuông và
phía Đông Mai Pha. Mặt cắt của hệ tầng được chia làm ba phần.


+ Phần dưới: gồm bột sét kết, cát kết có cấu tạo phân lớp mỏng, xen kẽ là các lớp sét vôi
mỏng.
+ Phần giữa: đá vôi phân lớp mỏng, có màu xám xanh, xám đen. Trong thành phần có
nhiều sét, quan sát ở đây có các mạch canxit, bề mặt bị phong hóa rạn nứt dạng dăm,
dạng que…
Hóa đá có trong hệ tầng này là Nordophicerassp.
Do hóa đá có trong tầng mà xác định tuổi của hệ tầng này, là hệ tầng độc lập với hệ tầng
Lạng Sơn.
Quan hệ trên của hệ tầng là quan hệ chỉnh hợp và bất chỉnh hợp với hệ tầng Khôn Làng.

Quan hệ dưới nằm chỉnh hợp lên trên hệ tầng Lạng Sơn. Hệ tầng có chiều dày khoảng
200m.
2.3. Hệ Trias – thống giữa – bậc Aniz – hệ tầng Khôn Làng (T2akl)
Nhà Địa chất Pháp E.Patte đã xếp phun trào ở Bắc Bộ vào hệ Trias. Năm 1992 các tác giả
của cục Địa chất xếp hệ tầng này vào một đơn vị riêng gọi là hệ tầng Khôn Làng.
Cấu trúc của hệ tầng này có hai phần rõ rệt:
+ Phần dưới: chủ yếu là ryolit, tuf, tufit có cấu tạo khối. Đá có màu lục, xám xanh, xanh
lá cây tuỳ thuộc vào hàm lượng sắt và độ sâu thành tạo, đá khá rắn chắc.
Một số nơi ryolit xuyên cắt các đá phần dưới của hệ tầng Kỳ Cùng và hệ tầng Lạng Sơn,
chúng trẻ hơn các đá nêu trên.
+ Phần trên của hệ tầng chủ yếu là cát, bột, sét kết, chuyển tiếp dần lện hệ tầng nà Khuất.
Một số lớp của hệ tầng Nà Khuất có hóa đá xác định tuổi lađini.
Màu sắc phụ thuộc vào điều kiện thành tạo. Trong môi trường khử (biển), điều kiện khí
hậu bình thường, mát mẻ, chúng thường có màu xanh. Tuy nhiên trong điều kiện thiếu
oxi, môi trường khử khô nóng, giàu các vật chất tro, tuf… chúng có màu tím nâu như ở
khu vực Phai Lây đi Phai Luông.
Các đá phan trào của hệ tầng Khôn Làng phủ chỉnh hợp trên sét, bột kết hạ tầng Kỳ Cùng
(Khu Nà Pàn). Trong đó phun trào thấy cát, bột, sét kết hệ tầng Kỳ Cùng bị ryolit bao
quanh. Vì vậy các đá nói trên trẻ hơn hệ tầng Kỳ Cùng, xếp vào tuổi Olene, đầu Anizi.
Như thế hệ tầng Khôn Làng được thành tạo trong khoảng thời gian từ cuối Trias sớm đến
đầu Trias trung, ứng với kỳ Anizin (T2a). Chiều dày của hệ tầng khoảng 450m.
2.4. Hệ Trias – thống giữa – bậc Ladizi – Hệ tầng Nà Khuất (T2lnk)
Năm 1965, Dovjicov thành lập hệ tầng này đặc trưng cho các trầm tích ở khu vực Nà
Khuất.
Năm 1977, Trần Văn Trị xếp các trầm tích trên vào tuổi Ladizi.


Năm 1984, Trần Đăng Tuyết xếp các trầm tích nói trên vào hệ tầng Nà Khuất.
Hiện nay tập thể các thầy giáo bộ môn Địa chất gọi trầm tích đã nêu là hệ tầng Nà Khuất.
Hệ tầng có diện lộ khá lớn ở phía Đông Bắc - Đông Nam vùng nghiên cứu gồm các đá

cát, bột, sét kết có màu vàng, xám xanh, màu tím gan gà đặc trưng. Mặt cắt nghiên cứu rõ
của hệ tầng này là tuyến Đông Kinh – Lộc Bình và tuyến Pò Lèo – Bản Cằm:
+ Phần dưới là các lớp cát kết, bột kết, sét kết màu xám lục, xám xanh ghi, màu vàng.
+ Phần trên là các lớp cát sét, bột kết, sét kết phân nhịp có màu vàng, xám vàng, nâu
vàng, tím gan gà.
+ Phần trên cùng là các lớp cát kết, bột kết, sét kết màu đỏ nâu.
Các trầm tích hệ tầng Nà Khuất nằm chuyển tiếp dần lên các trầm tích lục nguyên trào
của hệ tầng Khôn Làng. Dọc tuyến lộ Phai Lây – Phai Luông và một số nơi khác, phía
trên các trầm tích này chuyển dần sang các trầm tích của hệ tầng Mẫu Sơn.
Tuy nhiên một số nơi do bào mòn cục bộ hoặc đứt gãy thấy các đá hệ tầng Mẫu Sơn phủ
bất chỉnh hợp lên phía trên các đá của hệ tầng Nà Khuất.
Cơ sở xác định tuổi của hệ tầng Nà Khuất là các hóa đá chân rìu và chân đầu ở một số nơi
như Phai Luông, Nà Chuông… Căn cứ vào các hóa đá này, xếp các trầm tích nói trên vào
kỳ Ladizi. Chiều dài của hệ tầng từ 550-1200m.
2.5. Hệ Trias – thống trên – Bậc Cacni – Hệ tầng Mẫu Sơn (T3cms)
Điệp Mẫu Sơn do A.E.Dovjicov xác lập năm 1965 cho các trầm tích lục nguyên có màu
nâu đỏ ở Đồng Bằng Bắc Bộ.
Năm 1977 Trần Văn Trọ xếp các trầm tích nói trên vào hệ tầng Mẫu Sơn (T3cms).
Phạm vi phân bố của hệ tầng khoảng 7km2 chủ yếu ở khu vực Đông bắc của vùng thực
tập.
Mặt cắt quan sát tốt nhất dọc tuyến lộ trình cầu Nà Mừng đi Lộc Bình và Pò Lèo qua bản
Nậm Dần đến Bản Cằm. Trầm tích của hệ tầng gồm các phần sau:
+ Phần dưới chủ yếu là dăm, cuội, sạn kết, cát kết có màu nâu đỏ phân lớp dày.
+ Phần giữa chủ yếu là bột kết, sét kết màu đỏ, tím nâu.
+ Phần trên là cuội sạn kết, cát kết màu đỏ.
Trong vùng nghiên cứu, trầm tích này thường nằm ở cấu trúc phức nếp lõm, ứng với địa
hình đảo ngược như ở khu vực Nam Bản Nậm Dần, Đông Bắc Nà Chuông và một số nơi
khác.
Phía dưới là các trầm tích của hệ tầng Nà Khuất chuyển tiếp dần lên hệ tầng Mẫu Sơn.
Quan hệ phía trên thấy ở một số nơi ngoài vùng nghiên cứu là quan hệ bất chỉnh hợp với

trầm tích Jura, Kreta.
Chiều dài của hệ tầng khoảng 500m.


2.6. Hệ tầng Tam Lung (J3-Ktl)
Hệ tầng Tam Lung do Nguyễn Kinh Quốc thành lập năm 1992. Hệ tầng phân bố ở phía
Tây Bắc vùng nghiên cứu thuộc khu vực xã Hoàng Đồng. Các đá cơ bản là: cuội kết, sạn
kết, cát kết, bột kết, ryolit porphyry và tur của chúng.
ở khu vực Hoàng Đồng, bên trái đường Lạng Sơn - Đồng Đăng gần Đồng én đã khoan
thăm dò cấu trúc hệ tầng này. Cột địa tầng lỗ khoan cho thấy các đá chính như đã nêu.
Căn cứ vào quan hệ của hệ tầng với các đá già hơn và trẻ hơn, căn cứ vào đặc điểm địa
chất khu vực (khu vực Tú Lệ, Đông Nam Bộ, Lạng Sơn…) căn cứ vào tuổi tuệt đối của
các đá mangan, xếp các thành tạo đã nêu vào tuổi Jura muộn - Kreta.
Tổng chiều dài của hệ tầng là 350-380m.
3. Giới Mezozoi - Giới Kainozoi (MZ - KZ)
3.1. Hệ Kreta - Hệ Paleogen - Hệ tầng Tam Danh (K3-Etd)
Hệ tầng Tam Danh do Nguyễn Kinh Quốc xác lập năm 1992. Trong khu vực nghiên cứu,
hệ tầng phân bố ở khu vực phía Bắc và Tây Bắc xã Hoàng Đồng.
Các đá chủ yếu của hệ tầng là: bazan, varyolit, andezit, andezito bazan, sạn kết lẫn tro núi
lửa, cát kết tufogen, sạn kết tufogen. Các đá của hệ tầng nằm bất chỉnh hợp trên hệ tần
Tam Lung.
Chiều dày của hệ tần khoảng 150-200m.
4. Giới Kainozoi (KZ)
4.1. Hệ Neogen- Thống - Hệ tần Na Dương (N1nd)
Hệ tầng này do A.E. Dovjicov xác lập năm 1965.
Năm 1977 Trần Văn Trị, Trần Đình Nhân, Trịnh Danh và một số tác giả khác xác lập hệ
tầng này.
Trong vùng nghiên cứu hệ tầng phân bố ở phía Đông kéo dài từ phía Đông Phai Lây qua
Hợp Thành đến phía Tây Bắc Cầu Nà Mừng. Chiều rộng thay đổi từ vài chục mét đến
1km.

Mặt cắt quan sát ở khu vực Hợp Thành, từ Cao Lộc đến Pò Lèo.Có thể thấy thành tạo của
hệ tầng gồm hai phần rõ rệt:
+ Phần dưới chủ yếu là cát kết hạt nhỏ, bột kết, sét kết có các dải sét than, limonit…
Trong các lớp trầm tích đã nêu thấy rõ cấu tạo phân lớp xiên chéo. Căn cứ vào chiều dày
ổn định và dạng mặt lớp song song, có thể thấy phân bố tương đối rộng. Đặc điểm này
cho thấy phần dưới được thành tạo vào đầu giai đoạn hạ võng trầm tích khá trên phạm vi
rộng.


+ Phần trên là các lớp cuội sạn kết, cát kết, bột kết, sét kết và các lớp than nâu mỏng. Các
lớp nói trên thường ở dạng thấu kính, vát vỉa, thay đổi nhanh về góc dốc, chiều dàu và
đường phương. Phần lớn chúng nằm dốc về phía Tây Nam, càng gần đứt gãy Cao Bằng Lộc Bình - Tiên Yên chúng càng dốc hơn. Như thế các trầm tích đã nêu thực sự được
thành tạo trong các trũng kéo toác dọc theo đứt gãy Cao Bằng - Lộc Bình - Tiên Yên vào
cuối Neogen sớm.
Các thành tạo nói trên nằm bắt chỉnh hợp địa tầng và kiến tạo trên hệ tầng Khôn Làng,
Nà Khuất, Mẫu Sơn.
Chiều dày của hệ tầng khoảng 80-200m.
4.2. Hệ Đệ Tứ
Các thành tạo Đệ Tứ phân bố chủ yếu dọc theo sông Kỳ Cùng và các suối chính trong
vùng như suối Na Sa, suối Kỳ Ket và suối LauLI.
Các trầm tích của hệ tầng này là cuội tảng, cuội, cát, dăm, sạn, cát pha, sét pha. Các trầm
tích nói trên được thành tạo từ Pleistoxen trung cho tới nay.
Bên cạnh các trầm tích chính đã nêu, dọc theo các suối, nằm giữa các thung lũng thành
tạo các trầm tích hỗn hợp Proluvi (lũ tích), aluvi (bồi tích), hỗn hợp proluvi - aluvi như
dọc thung lũng Na Sa, như ở khu vực Bản Cằm, Nà Chuông… các thành tạo này chủ yếu
là cuội, mảnh vụn, sạn, cát, cát pha, sét pha, sét than và mùn hữu cơ.
Chiều dày của các thành tạo Đệ Tứ nói trên từ vài chục cm đến 20cm.

KIẾN TẠO
Khu vực thành phố Lạng Sơn là nơi có hoạt động kiến tạo đối mạnh, nhất là trong giai

đoạn Paleozoi muộn - Mezozoi và Kainozoi.
Một số nhà Địa chất theo thuyết địa máng xếp vùng thành phố Lạng Sơn vào nơi giao
nhau của ba đới tướng cấu trúc: đới Sông Hiến, đới Hạ Long và đới An Châu, thuộc miền
hoạt hóa kiến tạo Paleozoi muộn - Mezozoi.
Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt là công nghệ vũ trụ và các phương pháp
địa vật lý trong thời gian gần đây đã đi đến nhận định cấu trúc cơ bản của Trái Đất. Trong
đó, phần ngoài cùng là thạch quyển gồm phần trên của Manti và vỏ Trái Đất là các thành
tạo cứng có thành phần chủ yếu là các silicat chuyển dịch về các phía khác nhau trên
quyển mềm của Manti trên.
Do chuyển động quay của Trái Đất, các dòng đối lưu, các tác động va chạm hành tinh và
mối quan hệ hấp dẫn giữa các hành tinh mà từng phần của thạch quyển chuyển dịch về
các phía khác nhau, trượt trên quyển mềm tạo thành các mảng. Quan hệ giữa các mảng


cùng với các đột biến về va chạm hành tinh là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hình
thành cấu trúc vùng thành phố Lạng Sơn và phần lớn cấu trúc ở nước ta…
Ở đây các đá già nhất có tuổi Cacbon- Pecmi trung. Đồng thời có phổ biến các thành tạo
lục nguyên, cacbonat, phun trào tuổi Mezozoi - Kainozoi. Tuy nhiên về mặt cấu trúc,
chưa quan sát thấy hiện tượng hút chìm và các cấu tạo nên tăng trưởng cũng như đặc
trưng của các cấu trúc trên.
Cấu trúc của khu vực mang tính cấu trúc vùng rift - địa hào cạnh khu vực hoạt động
mạnh như Lai Châu - Sơn La - Ninh Bình và liên quan với đột biến chảy vỏ phun trào
magma có nguyên nhân là các vụ va chạm hành tinh vào cuối Pecmi muộn đầu Trias
sớm. Trên cơ sở khoa học đã nêu phân tích cấu trúc và lịch sử hình thành cấu trúc vùng
thành phố Lạng Sơn và sát thực tế hơn.
Theo các tài liệu của thế giới và Việt Nam, thì khu vực thực tế ở Đông Nam của mảnh
Đông á. Một số tác giả xếp khu vực này vào phần Nam của mảng Dương tử hoặc mảng
Việt Trung. Một vài tác giả phân chia ra rìa thụ động, rìa tích cực…
ĐỊA MẠO
Vùng TP Lạng Sơn thuộc vùng đồi núi thấp ở Đông Bắc nước ta, nơi đây có địa hình đồi

núi, núi đá vôi, thung lũng và đồng bằng được cấu thành bởi các trầm tích lục nguyên
carbonat, đá phun trào, phát triẻn trên cấu trúc dạng phức nếp lồi thành tạo từ kỷ cacbon
đến nay. Vùng ghiên cứu trải qua chế độ lục địa lâu dài trong dới khí hậu nóng ẩm mư
nhiều thuận lợi cho quá trình xói mòn, hòa tan, xâm thực thành tạo các kiểu địa hình có
nguồn gốc khác nhau.
Do các thnàh tạo carbonat hệ tầng Bắc Sơn có tuổi cổ nhất có vai trò nhận dạng các nếp
uốn và nằm trong các điều kiện không gian thời gian đã nêu. Mà đây là nơi các đá bị hòa
tan, xâm thực bóc mòn mạnh nhất tạo nên dải thung lũng thấp nhất trong vùng nghiên
cứu, càng xa trung tâm các đá càng trẻ hơn tạo thành địa hình đảo ngược rất đặc trưng.
Trên cơ sở đã trình bày thấy rõ địa hình ở đây có mối quan hệ chặt chẽ với thành phần đất
đá với cấu trúc địa chát kiêns tạo trẻ. Và với điều kiện trong điều kiện tổng hòa các mối
quan hệ ở trên đá hình thành tại đây là kiểu địa hình nguồn gốc hình thái đặc trưng đó
là :
- Kiểu địa hình xâm thực bóc mòn
- Kiểu địa hình Karst
- Kiểu địa hình tích tụ
Kiểu địa hình xâm thực bóc mòn
Kiểu địa hình này phân bố chủ yếu trên các đồi núi tháp xung quanh thành phố Lạng Sơn.
Đây là kiểu địa hình có diện tích lớn nhất trong toàn vùng nghiên cứu nh. Phần lớn kiểu


địa hình này là đồi, núi thấp xen các thung lũng nhỏ kéo dài hoặc dạng phức tạp. Mức độ
phân cắt và cường độ phân cắt ngang ở mức độ trung bình do mật dộ sông ở đây khá lớn.
Trên cơ sở nghiên cứu mức độ và đặc điểm bóc mòn, vận động kiến tạo, chúng tôi chia
kiểu địa hình này làm hao phụ kiểu sau:
- Phụ kiểu địa hình xâm thực bóc mòn mạnh
- Phụ kiểu dịa hình xâm thực bóc mòn yếu.
1. Phụ kiểu địa hình xâm thực bóc mòn mạnh
Phụ kiểu địa hình này phân bố chủ yếu ở các đồi cao và các núi thấp thuộc các dải
nâng tương đối mạnh. Chúng được phân bố ở phía Bắc Nà Chuông và phía Tây

Chùa Tiên.
Các đá cấu thành nên phụ kiểu địa hình này là các đá phụn trào ryolit, đá trần tích
cát kết, bột kết, cuội kết của hệ tầng Khôn Làng, Lạng Sơn, Mẫu Sơn. Cấu trúc địa
chất phần lớn là cấu trúc đơn nghiêng, nếp uốn và nếp lõm nhỏ. Độ nứt nẻ của đá
không lớn tạo điều kiện cho độ vững cho độ cao của địa hình có dạng dốc.
Đặc điểm chính của phụ kiểu địa hình này là: độ dốc địa hình không lớn khoảng từ
20-30, vó phong hoá mỏng có chỗ lộ ra đá gốc, sườn địa hình phần lớn là dạng lồi.
Quá trình xâm thực bóc mòn này phát triển manh dạng chữ V ở phía Đông Bắc và
Tây bắc của vùng nghiên cứu, vì vậy mà phụ kiểu địa hình này có nhiều đặc điểm
để phân biệt với các kiểu mà phụ kiểu khác của nó.
2. Phụ Kiểu xâm thực bóc mòn yếu
Phụ kiểu địa hình này phát triển trên các dải đồi, đồi thấp xung quanh thành phố Lạng
Sơn, nằm gần trung tâm hơn kiểu địa hình xâm thực bóc mòn mạnh.
Các đá cấu thành nên phụ kiểu địa hình này là cát kết, bột kết, sét kết, sạn kết và đá phun
trào ryolit thuộc hệ tàng Đồng Đăng, Lạng Sơn, Kỳ Cùng, Khôn Làng, Nà Khuất, Mẫu
Sơn. Cấu trúc chủ yếu là các nếp uốn nhỏ, thoải, đơn nghiêng. Địa hình của phụ kiểu này
là cấc đồi thoải có góc dốc nhỏ vừa từ 15-300. Đỉnh đồi thường tròn hoặc vuông, vỏ
phong hoá phát triển mạnh. Do địa hình đồi thoải và khí hậu nóng ẩm nên vỏ phong hoá
dầy, từ vài mét đến vài chục mét. Đây cũng là điều kiện thuận cho thực vật phát triển trên
kiểu địa hình này.
3. Kiểu đại hình Karst
Kiểu địa hình này được hình thành do quá trình hoà tan đá vôi dưới tác dụng của nước,
cácbonic và các yếu tố khác.
Kiểu địa hình này được phân bố ở thung lũng Lạng Sơn ứng với dạng nhân phức nếp lồi,
nó còn phân bố ở một số nơI khác. Do đặc điểm cấu trúc các lớp đá vôi nhất là các khe


nứt, đứt gãy nên điều kiện hòa tan phát triển không đồng đều, một số phát triển khá mạnh
nên địa hình thấp dạng thung lũng, một số khác chuă bị hòa tan còn sót lại dưới dạng các
núi , dảI núi , khối núi đá vôI như ở Tam Thanh, Nhị Thanh, Phai Vệ…

Dựa vào các đặc điểm riêng của địa hình chúng ta có thể chia kiểu địa hình này thành hai
phụ kiểu khác nhau:
- Phụ kiểu địa hình núi sót
- Phụ kiểu địa hình bồn địa Karst
3.1. Phụ kiểu địa hình bồn địa Karst
Phụ kiểu địa hình bày có diện tích lớn hơn phụ kiểu địa hình núi sót Karst. ứng với bề
mặt đồng bằng - thung lũng Lạng Sơn, bề mặt phát triển một số gò đồi, một số dải thấp ở
sông suối.
Các gò đối rộng hàng chục hecta, thoảI và cao hơn địa hình xung quanh, trên bề mặt gò
đồi phần lớn là các lớp tàn tích do phong hóa đá vôi thành sét màu vàng, nâu vàng. Lớp
phủ này dày khoảng vài chục cm có chỗ đến vài mét. Trên các dảI thấp xuất hiện ở Đồng
Bằng lớp sét và có dạng phễu Kasrt hoặc lòng bồn địa Kart có diện tích vài trăm mét
vuông đến vài nghìn mét vuông, địa hình ở những nơi này thấp và trũng. Một số nơI là
ao, hồ nhỏ phát triển có quy mô rõ rệt. Các dảI thấp thường là dảI sụt võng Karst phát
triển dọc theo đứt gãy phần lớn có phương TB-ĐN. Bồn địa ở đây là nơI trung tâm thành
phố do đó vấn đề nước ngầm , biến dạng kiến tạo , các quá trình ngoại sinh cần được
nghiên cứu, đánh giá đúng mức.
3.2. Phụ kiểu địa hình núi sót Karst
Phụ kiểu địa hình này phân bố chủ yếu ở rìa phía Tây thành phố Lạng Sơn, tập trung ở
khu vực Tam Thanh, Nhị Thanh sau đó là khu vực chùa tiên . Phần lớn là các núi hoặc
khối đá vôi có độ cao tương đối trên dưới 100m. Bề mặt các núi có dạng lởm chởm tai
mèo sắc nhọn , sườn, vách đá vôI khá dốc, dốc đứng ở nhiều chỗ như phía Tây động Nhị
Thanh, vách đá vôI định hướng hoàn toàn theo khe nứt lớn dóc đứng kéo dài ở chân núi
thường có dạng các hang bậc và dấu vết ăn mòn của nước suối, hồ.
Trong các núi đá vôI thường gặp các hang hốc lớn, tiêu biểu là hệ thống hang Tam Thanh,
Nhị Thanh, ở đây có 4 bậc hang:
- Hang bậc một thường có quy mô dạng đường ống lưu thông tốt nằm sát mặt đất.
- Hang bậc hai nằm cao hơn hang bậc một từ 5-12m. Bậc hang này thường có các chuông
đá, nhũ đá vôi tạo ra những hình tượng và cảnh đẹp, một số nơi trở thành các danh lam
thắng cảnh lý tưởng như hang Tam Thanh, Nhị Thanh.

- Hang bậc ba cao hơn hang bậc hai khoảng 10-15m, có thấy được ở khu vưc Tam Thanh-


Nhị Thanh.
- Hang bậc 4 cao hơn hang bậc 3 từ 15-20m , sự bảo tồn kém.
Sự có mặt của các bậc hang phản ánh vận động thăng trầm ở đây.Núi Pha Vệ có cấu trúc
đơn nghiêng dạng tháp nón biểu thị cho vận động nâng mới yếu hoặc tĩnh tương đối. Ở
Nhị Thanh núi Karst có dạng tháp biểu hiện cho sự vận động hạ mới tương đói.
Từ hình dạng núi Kast ở mức độ nhất định cho phép chúng ta dự đoán hướng của các
dòng ngầm Karst dưới sâu.
4. Kiểu địa hình tích tụ
Đây là kiểu địa hình được thành tạo do quá trình tích tụ các vật liệu trầm tích trẻ Đệ Tứ
trong khu vực. Chúng phân bố dọc sông Kỳ Cùng và các suối trong vùng nghiên cứu.
Dựa vào nguồn gốc loại hình vật liệu tích tụ chúng ta chia thành hai phụ kiểu địa hình
sau:
- Phụ kiểu tích tụ thường xuyên
- Phụ kiểu tích tụ hỗn hợp
4.1. Phụ kiểu tích tụ thường xuyên
Kiểu địa hình này được thành tạo do tích tụ các vật liệu bồi tích của sông Kỳ Cùng và các
suối trong vùng. Phụ kiểu địa hình có diện tích phân bố rộng ở phía Nam thành phố. Bề
mặt kiểu địa hình này là đá tích tụ sét pha, cát pha, cát, sỏi, cuội thành tạo ở kỷ Đệ Tứ.
Do vận động kiến tạo nâng, hạ mà hình thành bốn dạng địa hình đặc trưng của phụ kiểu
địa hình này:
- Thềm bậc một
- Thềm bậc hai
- Thềm bậc ba
- Bãi bồi
a. Thềm bậc một
Thềm này có diện tích lớn nhất trong phụ kiểu địa hình tích tụ thường xuyên, phần lớn là
xã Mai Pha.

Bề mặt thềm khá bằng phẳng, ít thay đổi, phủ lớp sét pha, cát pha, màu hồng, nâu sẫm,
chiều dày từ vài mét đến hơn chục mét. Mặt thềm cao hơn mực nước sông từ 6-12m. Đây
là diện tính canh tác lớn nhất của dân địa phương còn số khác là khu nhà ở dân cư.
b. Thềm bậc hai
Thềm này có diện tích không đáng kể, phân bố chủ yếu ở Nà Chuông và một số các nơi
như ven đền thờ Trần Hưng Đạo, liền kề với thềm bậc một. Độ cao của thềm bậc hai so
với thềm bậc một khoàng 5-7m, bề mặt không bằng phẳng, đôi chỗ lồi lõm hoặc bị phân


cắt. Trên bề mặt là lớp cuội lẫn sét, cuộn có kích thước từ 4-6cm tròn cạnh, thành phần
chủ yếu là thạch anh. Sét thường có màu vàng nhạt, phớt xám lẫn cát bột kết.
Thềm bậc hai là thềm hỗn hợp có tuổi Pleistoxen.
c. Thềm bậc ba
Thềm bậc ba phân bố ở khu vực Nà Chuông, phía Thác Trà. Bề mặt thềm bị thay đổi do
bóc mòn, trên bề mặt thềm bậc ba ở khu vực Nà Chuông phủ lớp đá cuội khá cuội khá
lớn, cuội tảng khá tròn cạnh, thành phần chủ yếu là thạch anh.
d. Bài bồi
Phân bố dọc hai bên bờ sông Kỳ Cùng, bãi bồi rộng từ 50m đến hàng trăm met, dài từ
200-500m, độ cao so với mực nước sông hiện tại từ 0.5-1.0m. Bề mặt bãi bồi có dạng
lượn sóng, thoải, hơi nghiêng về phía lòng sông. Cấu tạo nên các bãi bồi chủ yếu là trầm
tích bởi rời, cuội, sỏi, cát, sét, kích thước từ 5-10cm, độ mài mòn kém trung bình.
Bãi bồi dễ bị ngập nước vào mùa mưa,dễ bị thay đổi về đặc điểm bề mặt. Bãi bồi có thể
được thành tạo vào Holoxen muộn.
4.2. Phụ kiểu địa hình tích tụ hỗn hợp
Đây là kiểu địa hình phân bố ở cấc thung lũng lớn có suối chảy qua. Trong vùng nghiên
cứu thì kiểu địa hình phân bố ở thung lũng Na Sa, Nà Chuông và phía Tây Bản Cằm.
Thành tạo nên phụ kiểu địa hình này là các vật liệu trầm tích do dòng tạm thời, dòng
thường xuyên, dòng suối. Các vật liệu chủ yếu là sét pha, cát pha, mảnh vụn, cuội, sỏi,
sạn. Nhìn chung các vật liệu này có độ chọn lọc, mài mòn ở mức độ trung bình hoặc yếu.
Bề mặt ở đây tương ứng thềm bậc một sông Kỳ Cùng dự kiến tuổi Holoxen sớm có chỗ

bề mặt không đều, dạng lõm ở giữa đã được dân địa phương canh tác ở dạng ruộng bậc
thang. Vật liệu trầm tích ở đây chủ yếu là sét pha, cát pha và một ít mảnh vụn. Bề mặt
thung lũng này có tuổi đầu Holoxen.
ĐỊA CHẤT THỦY VĂN VÀ ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH
Vấn đề địa chất thuỷ văn vùng thành phố Lạng Sơn đã được tiến hành nghiên cứu từ
nhiều năm nay, qua các cơ quan chuyên môn, qua các công việc khai thác nước ngầm và
qua việc giảng dạy thực tập, nghiên cứu ở Trường đại học Mỏ - Địa chất. Chúng tôi xin
trình bày ba vấn đề cơ bản về đặc điểm địa chất thuỷ văn của vùng nghiên cứu đó là:
- Đặc điểm nước mặt
- Phân chia các tầng và các phức hệ chứa nước dưới đất
- Khả năng lưu thông nước ngầm và cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất tại khu vực
thành phố Lạng Sơn.
1. Đặc điểm nước mặt
Lượng nước mặt trong vùng nghiên cứu bao gồm nước mưa, nước ngưng tụ, nước
sông Kỳ Cùng.


Sông Kỳ Cùng chảy qua thành phố Lạng Sơn từ Đông sang Tây với chiều dài
khoảng 20km qua đá vôi hệ tầng Bắc Sơn, qua các trầm tích và phun trào của các
hệ tầng trong vùng. Sông có nước chảy quanh năm, lưu lượng nước sông từ vài
chục mét khối đến vài nghìn mét khối nước trong một giây.
Lượng nước mặt chảy vào thành phố Lạng Sơn gồm nước sông Kỳ Cùng và các
suối trong vùng trên diện tích 81km2. Nếu lấy lượng mưa mức trung bình là
1700mm/năm, thì chỉ tính riêng lượng mưa đã có trên 200m3 nước đổ vào sông
Kỳ Cùng. Một lượng nước lớn trong số này thấm xuống sâu, bổ cập cho nước
trong các hang động Karst, các khe nứt và lỗ hổng của đất đá trong vùng.
Vùng nghiên cứu có ba con suối lớn: Suối KiKét, suối Na Sa và suối Lauti. Phần
lớn lượng nước của suối Nasa được dồn vào thành phố Lạng Sơn qua suối Lauli.
Một lượng không nhỏ của nước suối Lauli đã thấm xuống sâu. Vì vậy việc đảm
bảo vệ sinh môi trường rất cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng.

2. Phân chia các tầng và phức hệ hệ chứa nước dưới đất.
2.1. Phức hệ chứa nước trong các thành tạo Đệ Tứ
Các thành tạo Đệ Tứ phân bố rộng rãi trong vùng nghiên cứu gồm trầm tích, sườn tích,
bồi tích ven sông Kỳ Cùng. Các thành tạo này bao gồm cát pha, cuội, sỏi, dăm, sạn là vật
liệu bở rời chưa gắn kết. Chiều dày của các thành tạo này từ vài chục cm đến 10cm.
Trong vùng nghiên cứu chưa phát triển tầng cát, sạn, cuội, sỏi thuần khiết có tuổi Đệ Tứ
có khả năng cấp nước ngầm tốt. Nước mưa với hàm lượng nhỏ trong tầng chủ yếu là
nước thấm, nước không màu, không mùi cùng nhiều nước trong tầng dễ bị nhiễm bẩn.
2.2. Tầng chứa nước trong hệ tầng Na Dương
Các trầm tích hệ tầng Na Dương phân bố dọc thung lũng Nasa với chiều rộng từ 100300m, kéo dài hơn 4km. Các đá gồm sạn kết, cát kết, sạn cát kết, bột kết có lẫn vật chất
thải, ở dạng thấu kính, dạng tuổi Neogen.
Trong thành phần trầm tích trên rất giày sét cao lanh do phong hoá từ Felpat, nên chúng
lấp đầy các lỗ hổng làm nước ngầm rất khó lưu thông lượng nước trong tầng này nhỏ.
Nước thuộc dạng khe nứt, nước thấm rỉ lưu lượng từ 0,01-0,07lit/s. Nước không màu,
không mùi, không vị thuộc loại CloruaNatri, Clorua Canxi.
2.3.a. Tầng chứa nước trong các thành tạo hệ tầng Tam Danh và Tam Lung
Các thành tạo cảu hệ tầng Tam Danh và Tam Lung phân bố ở phía Tây Bắc vùng nghiên
cứu chủ yếu thuộc xã Hoàng Đồng.
Các đá cuội, sạn kết, cát kết, bột kết, ryolit, andezit, varyolit, bazan. Địa hình bao gồm
các đá nói trên có độ cao tương đối lớn so với vùng.
Nước dưới đất là nước khe nứt, nước trong đứt gãy, nước trong lỗ hổng của các đá cát
kết, sạn kết, cuội kết. Nước trong tầng phong hoá cũng có giá trị nhất định. Trong nước
dưới đaats thuộc hai phân vị nói trên có chứa nhiều sắt, canxi, silic tùy thuộc vào môi
tường khu vực tàng trữ và lưu thông nước dưới đất.


×