Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN: Thực tiễn tương tư pháp về dân sự của cư quan có thẩm quyền của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.59 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

BÀI TẬP LỚN CUỐI KỲ
Môn: Luật Tương trợ tư pháp
ĐỀ TÀI: “Thực tiễn tương tư pháp về dân sự của cư quan có thẩm quyền

của Việt Nam”

Họ và tên: ĐẶNG CHÍ NGUYỆN
MSSV

: 1453801010182

Lớp

: K2I

Hà Nội 2017
1


Thực tiễn tương tư pháp về dân sự của cư quan có thẩm quyền của Việt Nam

2


MỤC LỤC

3



A.

MỞ ĐẦU
Thế giới đang phát triển theo xu thế hợp tác toàn cầu, vì vậy hội nhập quốc tế

là nhu cầu tất yếu cho sự tồn ại và phát triển của mỗi quốc gia trong cộng đồng
quốc tế. Trong quá trình hội nhập, các quóc gia hợp tác với nhau làm phát sinh
nhiều mối quan hệ khác nhau không chỉ có các mối quan hệ giữa các quốc gia này
với các quốc gia khác mà còn là mối quan hệ giữa công dân, pháp nhân các nước
với nhau. Kéo theo đó là sự gia tăng tranh chấp dân sự, thương mại có yếu tố nước
ngoài đòi hỏi phải giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả.
Do đặc điểm về pháp luật giữa các quốc gia là khác nhau, nên việc điều
chỉnh các quan hệ phát sinh giữa công dân, pháp nhân các nước gặp nhiều khó
khăn. Hơn nữa, để giải quyết vụ việ dân sự có yếu tố nước ngoài, thì cơ quan tư
pháp của một nước phải thực hiện hành vi tố tụng trên lãnh thổ của nước khác.
Trong khi đó, theo nguyên tắc chủ quyền quốc gia, cơ quan tư pháp của một nước
chỉ có quyền thực hiện các hành vi tố tụng theo thẩm quyền trong phạm vi lãnh thổ
nước mình. Vì vậy, Pháp luật quốc tế có những quy định về việc tham gia thảo
luận, ký kết các điều ước quốc tế, các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự nhằm
hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài.
Việt Nam đã tham gia ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự với
nhiều quốc gia trên Thế giới, bên cạnh đó còn thông qua và ban hành Luật Tương
trợ tư pháp 2007 và các văn bản dưới luật khác có liên quan đến vấn đề tương trợ tư
pháp về dân sự. Tuy nhiên, đó là trên vấn đề lý luận, để tìm hiểu thực tiễn, em xin
chọn và nghiên cứu đề tài “Thực tiễn tương tư pháp về dân sự của cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam”. Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành bài tiểu luận
còn gặp nhiều thiếu sót, mong thầy cô góp ý để hoàn thiện bài làm của mình. Em
xin chân thành cảm ơn.
4



B.

NỘI DUNG
1. Khái quát chung về tương trợ tư pháp về dân sự
1.1 Khái niệm tương trợ tư pháp về dân sự
a. Định nghĩa
Trên Thế giới có rất nhiều quan điểm về tương trợ tư pháp về dân sự. Từ các

quan điểm của các nhà nghiên cứu quốc tế cho đến các quan điểm nêu trong các
văn bản pháp luật ở nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cũng như là các Điều ước
quốc tế.
Nhìn chung, các quan điểm này đều thể hiện rõ định nghĩa của tương trợ tư
pháp về dân sự như sau: “Tương trợ tư pháp về dân sự là việc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền của các nước trợ giúp lẫn nhau thực hiện các hành vi tố tụng riêng
biệt theo những trình tự, thủ tục, thể thức nhất địnhtrên cơ sở điều ước quốc tế
giữa các nước hữu quan hoặc trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại, nhằm giải quyết
các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài”1.
b.

Phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự

Theo pháp luật các nước, hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự thường bao
gồm các vấn đề:
-

Tống đạt giấy tờ, tài liệu;
Thu thập chứng cứ;
Triệu tập đương sự, nhân chứng;

Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, phán
quyết của Trọng tài nước ngoài về các vấn đề dân sự.

Phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự và thương mại quy định trong các hiệp định đã
ký kết hoặc các dự thảo hiệp định đang được đàm phán giữ Việt Nam và các nước
phù hợp với Điều 10, Luật tương trợ tuơng trợ tư pháp năm 2007 của Việt Nam. Cụ
thế, bao gồm các nội dung sau:
1 Nguyễn Quốc Việt, Giáo trình luật tương trợ tư pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Tr. 61

5


-

Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự;
Triệu tập người làm chứng, người giám định;
Thu thập, cung cấp chứng cứ và các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về dân

-

sự;
Trao đổi tài liệu, thông tin giữa các cơ quan tư pháp;
Công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài và
phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
Trong năm nội dung trên, riêng nội dung về công nhận và cho thi hành bản

án, quyết định của Tòa án nước ngoài và của Trọng tài nước ngoài được tách ra,
thực hiện theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
1.2


Sự cần thiết phải có hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự

Xu hướng hội nhập quốc tế là một nhu cầu tất yếu khách quan, sự hội nhập
kéo theo sự phát sinh nhiều mối quan hệ, đặc biệt là dân sự. Tương trợ tư pháp về
dân sự như là một “công cụ” giúp giải quyết các tranh chấp phát sinh mà việc giải
quyết này đã được loại bỏ tối đa các khó khăn mắc phải.
Hơn nữa, quyền tài phán của mỗi quốc gia là bất khả câm phạm, không một
quốc gia nào có thể thực hiện được quyền tài phán trên lãnh thổ của một quốc gia
khác. Vì vậy, hoạt động tương trợ tư pháp về dân là hết sức cần thiết để các quốc
gia có thể giúp đỡ lẫn nhau trong việc giải quyết các tranh chấp về dân sự.
1.3

Mục đích của tương trợ tư pháp về dân sự

Bất cứ hoạt động nào cũng vì mục đích nhất định, hoạt động tương trợ tư
pháp về dân sự cũng không ngoại lệ. Tương trợ tư pháp về dân sự ra đời nhằm
hướng đến mục đích lớn nhất là xóa bỏ rào cản và khó khăn nhằm giải quyết các
tranh chấp trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, để phục vụ cho mục đích đó, tương
trợ tư pháp về dân sự phải nhằm hướng đến các mục đích cơ bản khác.

6


Thứ nhất, tương trợ tư pháp về dân sự nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi
cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia để hoàn thành, nhiệm vụ của
mình. Để thực hiện được hết chức năng, nhiệm vụ của mình đã là vấn đề, thực hiện
chức năng của mình trên lãnh thổ của quốc gia khác càng khó hơn gấp bội. Do đó,
hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự tạo điều kiện thuận lợi nhất và giúp đỡ cho
các cơ quan có thẩm quyền hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, hoạt động tương trợ tư pháp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà

nước, của cá nhân, pháp nhân mỗi nước trên lãnh thổ của nhau. Một khi bảo vệ
được lợi ích nhà nước là bảo vệ được chế độ, bảo vệ được các mối quan hệ xã hội.
Hơn nữa, các cá nhân, pháp nhân sinh sống và hoạt động trên lãnh thổ của nước
khác thường gặp nhiều khó khăn, vì vậy cần phải bảo vệ các chủ thể này.
Thứ ba, góp phần củng cố, tăng cường tình hữu nghị, hợp tác giữa các quốc
gia. Hoạt động tương trợ tư pháp là hoạt động có sự chung tay phối hợp, giúp đỡ
giữa các quốc gia với nhau. Dần trong quá giúp đỡ lẫn nhau làm cho mối quan hệ
giữa các quốc gia trở nên bền chặt và tốt đẹp hơn.
2.

Thực tiễn tương trợ tư pháp về dân sự ở Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đã ký kết với 21 nước, khu vực Hiệp định song phương
về tương trợ tư pháp, bao gồm: Liên bang Nga, Séc, Xlôvakia, Ba Lan, Hungari,
Bungari, CuBa, CHDCND Lào, Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên, Ucraina,
Belarut, Pháp, Mông Cổ, ASEAN… Bên cạnh đó còn thông qua và ban hành Luật
tương trợ tư pháp năm 2007 và quy định về một số vấn đề tương trợ tư pháp về dân
sự như công nhận quyết định của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài
nước ngoài,...tại một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

7


2.1 Thực tiễn thi hành pháp luật về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực
dân sự của cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam2
a) Thực tiễn thi hành pháp luật về tương trợ tư pháp tại Toà án nhân dân
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Toà án nhân dân các tỉnh, Thành phố
trực thuộc Trung ương và các Toàphúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội, Đà
Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, từ ngày 01-7-2008 đến ngày 31-12-2010 toàn
ngành Toà án đã nhận được 310 yêu cầu tương trợ tư pháp của nước ngoài trong đó

đã thực hiện được 268 yêu cầu (đạt 86,5%) và 42 yêu cầu chưa thực hiện được
(chiếm 13,5%).
Đối với các yêu cầu uỷ thác tư pháp do các Toà án gửi đi trong 3 năm vừa
qua, trong tổng số 3.179 yêu cầu uỷ thác do các toà án gửi đi chỉ có 182 yêu cầu có
kết quả (chiếm 5,7%), còn lại 2.997 yêu cầu chưa có kết quả uỷthác tư pháp (chiếm
94,2%). Nếu so sánh tỉ lệ này ở các khoảng thời gian khác nhau trong 3 năm vừa
qua có thể thấy công tác thực hiện Luật tương trợ tư pháp đã ngày càng đem lại kết
quả tốt hơn.
- Thời gian từ 01-7-2008 đến 31-12-2009: tổng số yêu cầu uỷ thác tư pháp
của các Toà án gửi đi là: 2.683 yêu cầu, có 16 yêu cầu có kết quả (chiếm 0,6%);
- Thời gian từ 01-01-2010 đến 31-6-2010: tổng số yêu cầu uỷ thác tư pháp
của các Toà án gửi đi là: 119 yêu cầu, có 3 yêu cầu có kết quả (chiếm 2,5%);
- Thời gian từ 01-7-2010 đến 31-12-2010: tổng số yêu cầu uỷ thác tư pháp
của các Toà án gửi đi là: 372 yêu cầu, có 163 yêu cầu có kết quả (chiếm 43,8%).

2 Số liệu thống kê, tổng hợp trong phần này được trích dẫn từ Dự thảo Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Luật Tương
trợ tư pháp của Bộ Tư pháp tháng 10/2011.

8


b) Thực tiễn thi hành pháp luật về tương trợ tư pháp tại Bộ Tư pháp, Bộ
Ngoại giao và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài
Theo thống kê của Bộ Tư pháp, trong thời gian từ 01 tháng 7 năm 2008 đến
30 tháng 6 năm 2011, Bộ Tư pháp đã thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự cụ thể
như sau:
* Đối với yêu cầu tương trợ tư pháp do các cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam gửi đi nước ngoài:
- Tổng số hồ sơ gửi đến Bộ Tư pháp: 8823 hồ sơ
- Tổng số hồ sơ không hoàn thiện Bộ Tư pháp gửi lại để hoàn thiện: 767

(chiếm 8,7%)
- Tổng số hồ sơ có kết quả gửi về: 281 (chiếm 3,1 %).
Các hồ sơ gửi ra nước ngoài yêu cầu ủy thác tư pháp chủ yếu là tống đạt giấy
tờ, tài liệu, bản án, thu thập chứng cứ lấy lời khai của đương sự.
Năm địa phương có yêu cầu ủy thác ra nước ngoài nhiều nhất: Toà án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa-Vũng Tàu, Vĩnh Long, Tây Ninh.
Năm nước Việt Nam gửi yêu cầu ủy thác nhiều nhất: Hoa Kỳ, Trung Quốc
(Đài Loan), Úc, Canada, Hàn Quốc.
* Đối với yêu cầu tương trợ tư pháp của nước ngoài gửi tới Việt Nam:
- Tổng số: 826 hồ sơ
- Kết quả đã thực hiện: 288 yêu cầu (chiếm 34,9%)
- Trả lại: 09 hồ sơ (chiếm 1.08%)

9


Trong đó số lượng ủy thác tư pháp đến của những nước đã ký Hiệp định
tương trợ tư pháp với Việt Nam là 317; số lượng ủy thác tư pháp đến của những
nước chưa có Hiệp định với Việt Nam là 498.
Các hồ sơ của nước ngoài yêu cầu thực hiện ủy thác tư pháp phần lớn là tống
đạt hồ sơ, tài liệu, thu thập chứng cứ lấy lời khai, cung cấp thông tin về hộ tịch. Số
lượng 5 nước có yêu cầu ủy thác lớn nhất: Hàn Quốc, Pháp, Đức, Séc, Ba Lan.
Số lượng 5 địa phương thực hiện ủy thác của nước ngoài nhiều nhất: Hải
Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hà Nội.
Thực tiễn thực hiện tương trợ tư pháp trong 3 năm qua có thể thấy một số
điểm như sau:
- Xét về tổng thể, tỉ lệ các yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam ra nước
ngoài vẫn không đạt hiệu quả như mong muốn. Trong khi đó yêu cầu ủy thác xử lý
hàng năm ngày càng tăng về số lượng, phức tạp và đa dạng hơn về nội dung, đối
tượng, quốc gia thực hiện và yêu cầu thực hiện ủy thác tư pháp.

- Trước khi có Luật Tương trợ tư pháp, tình hình thực hiện ủy thác tư pháp ra
nước ngoài chỉ thuận lợi đối với những nước có hiệp định tương trợ tư pháp tuy
nhiên kết quả thực hiện cũng chậm. Đối với những nước chưa có hiệp định tương
trợ tư pháp thì về cơ bản là không có kết quả. Kể từ khi có Luật Tương trợ tư pháp
đến nay, thực trạng này vẫn chưa có gì thay đổi đáng kể.
- Việc thực hiện ủy thác tư pháp được thực hiện trên cơ sở điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết với các nước. Trong trường hợp chưa có điều ước quốc tế
quy định thì việc ủy thác tư pháp được thực hiện trên cơ sở có đi có lại. Tuy nhiên
thực tế cho thấy, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tiếp nhận và thực hiện
các yêu cầu ủy thác tư pháp của nước ngoài đạt kết quả khá tốt (trong lĩnh vực ủy

10


thác tư pháp về dân sự đạt 34,9%). Trong khi đó, kết quả thực hiện ủy thác tư pháp
của cơ quan nước ngoài đối với yêu cầu củaViệt Nam rất hạn chế.
- Sai sót trong việc lập hồ sơ ủy thác tư pháp: nhiều hồ sơ yêu cầu nước
ngoài thực hiện ủy thác do các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam lập không
đúng quy định của Luật Tương trợ tư pháp cả về nội dung lẫn hình thức, cụ thể
như: ngôn ngữ sử dụng trong yêu cầu tương trợ tư pháp không đúng với ngôn ngữ
của quốc gia được yêu cầu; địa chỉ ở nước ngoài của các đương sự không chính
xác; không rõ quốc tịch của đương sự; không rõ tên và địa chỉ của cơ quan được ủy
thác;… nên các cơ quan đầu mối thực hiện ủy thác phải gửi trả lại cơ quan yêu cầu
ủy thác để hoàn thiện dẫn đến mất nhiều thời gian, công sức.
- Đối với các hồ sơ của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài gửi, do tiếng Việt
không có dấu nên nhiều trường hợp không rõ tên cụ thể, địa chỉ, hay nhiều đương
sự sau khi nhập cảnh về Việt Nam không còn ở địa chỉ cũ đã khiến việc tống đạt
gặp nhiều khó khăn, mất thời gian điều tra, xác minh.
- Thực hiện thủ tục ủy thác không đúng: việc tuân thủ quy trình, thủ tục
tương trợ tư pháp theo Luật chưa được triệt để hay không xác định được cơ quan có

thẩm quyền thực hiện ủy thác do không xác định được quốc tịch đương sự nên
không đạt được kết quả, đồng thời gây khó khăn cho cơ quan đầu mối trong công
tác quản lý.
Qua tổng kết tình hình thực hiện ủy thác tư pháp trong thời gian qua, có thể
thấy hiệu quả công tác ủy thác tư pháp còn hạn chế do những bất cập trong quá
trình thực hiện công tác ủy thác tư pháp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiệu quả
tương trợ tư pháp thấp, trong đó nguyên nhân quan trọng đó là chưa có văn bản
hướng dẫn thi hành Luật Tương trợ tư pháp, đặc biệt là các quy định hướng dẫn về
việc lập hồ sơ ủy thác tư pháp, trình tự, thủ tục ủy thác tư pháp tại Tòa án… Để
khắc phục tình trạng này, ngày 15 tháng 9 năm 2011, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao
11


và Tòa án nhân dân tối cao đã ký ban hành Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLTBTP-BNG-TANDTC ngày 15-9-2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong
lĩnh vực dân sự của Luật Tương trợ tư pháp (sau đây viết tắt là Thông tư liên tịch số
15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC). Theo các quy định của Thông tư liên tịch số
15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC thì về cơ bản nhiều vấn đề vướng mắc trong
thực tiễn tương trợ tư pháp trong thời gian qua đã được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng.
Nội dung tiếp theo của chuyên đề này, chúng tôi xin giới thiệu khái quát các quy
định của Luật Tương trợ tư pháp và Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTPBNG-TANDTC về hai nội dung: yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự đối với cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài; và thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự của
nước ngoài.
2.2 Bất cập trong tương trợ tư pháp về dân sự ở Việt Nam
Từ thực tiễn hoạt động tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại,
có thể thấy một số khó khăn, vướng mắc còn tồn tại trong việc đàm phán, ký kết
các hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại như sau:
Thứ nhất, đối với hoạt động đề xuất đàm phán điều ước quốc tế tương trợ tư
pháp về dân sự, thương mại còn chưa có tính chủ động: Điều 8 Luật Điều ước quốc
tế 2016 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm

toán nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi là cơ
quan đề xuất), căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của mình, yêu cầu hợp tác quốc tế,
đề xuất với Chính phủ để Chính phủ trình Chủ tịch nước về việc đàm phán điều
ước quốc tế nhân danh Nhà nước, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về việc đàm
phán điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ.”. Theo quy định tư pháp năm 2007,
ngoài Bộ tư pháp là cơ quan dẫn đầu mối thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự,
thương mại thì việc thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự , thương mại còn được tiến
12


hành bởi các cơ quan khác như: Bộ ngoại giao, tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân
dân tỉnh/ thành phố trực thuộc trung ương,v.v.. Tuy nhiên, hành động đề xuất đàm
phán, ký các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, thương mại từ trước đến nay do
bộ tư pháp đề xuất. Như vậy, hiện nay, chưa có cơ chế rõ ràng trong việc phối hợp
cung cấp thông tin và nhu cầu đàm phán, ký kết các hiệp định trong lĩnh vực này
thường xuyên do Bộ tư pháp với những nước cụ thể để bảo đảm sát với nhu cầu
thực tế và tính chủ động trong đàm phán.
Thứ hai, Hoạt động đề xuất đàm phán,ký hiệp định tương trợ tư pháp trong
lĩnh vực dân sự, thương mại với nước ngoài gặp phải những khó khăn nhất định do
một 5 bên không có nhu cầu do bản thân nước đó đã tham gia các thiết chế đa
phương có liên quan, mặc dù trong nhiều trường hợp Việt Nam muốn được đàm
phán, ký hiệp định tương trợ tư pháp. Nhìn chung với những nước phát sinh nhiều
yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự, thương mại, Việt Nam có chủ động đề xuất với
đối tác đó để ký hiệp định song phương.
Thứ ba, Quá trình đàm phán nhiều hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực
dân sự, thương mại kéo dài và chậm đưa đến một thỏa thuận chung trong dự thảo
hiệp định. Ví dụ: Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự mà Việt nam đang đàm
phán với liên hiệp vương quốc Anh và Bắc Ailen được khởi động đàm phán từ năm
2008 tại Hà Nội, kết thúc đàm phán vòng đầu tiên, nhiều điểm trong dự thảo hiệp
định do phía Việt Nam chuẩn bị khôngđược phía liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc

Ailen chấp nhận. Liên quan đến hiệp định này, vấn đề công nhận và thi hành không
thuộc thẩm quyền đàm phán của EU, liên hiệp vương quốc Anh và Bắc Ailen phải
tuân theo các quyết định của EU, vấn đề hôn nhân và gia đình không thuộc phạm vi
điều chỉnh của hiệp định. Theo các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký
thì tương trợ tư pháp bao gồm cả hôn nhân, gia đình cũng như vấn đề công nhận và
thi hành. Ngoài ra, có trường hợp việc đàm phán hiệp định tương trợ tư pháp về dân
sự đối với Hàn quốc cũng là một ví dụ nổi bật khi hai bên đã tiến hành hai vòng
13


đàm phán về hiệp định nhưng chưa thống nhất được khá nhiều nội dung như công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài và quyết định của
trọng tài nước ngoài, vấn đề triệu tập người làm chứng, người giám định, các quy
định về miễn giảm án phí v.v… Ngoài những điểm mới của Hiến pháp năm 2013
về ký kết, thực hiện điều ước quốc tế như đã đề cập ở trên, Luật Điều ước quốc tế
2016 cũng có những quy định chưa đảm bảo thuận lợi cho hoạt động đàm phán ký
kết hiệp địnhtương trợ tư pháp song phương trong lĩnh vực dân sự, thương mại.
Theo quy định tại điều 13 Luật điều ước quốc tế 2016, điều ước quốc tế phải được
đề xuất lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, ý kiến kiểm tra của Bộ
Ngoại giao và ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp. Như vậy, việc thẩm định phải
được tiến hành trước thời điểm tổ chức vòng đàm phán thứ nhất. Tuy nhiên, quy
định này chỉ phù hợp đối với việc đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế song
phương như các hiệp định tương trợ tư pháp thì cần áp dụng quy trình khác vì trên
thực tế, chỉ sau khi kết thúc vòng đàm phán đầu tiên, các bên mới có thể nắm được
tương đối đầy đủ, sâu sắc quan điểm của bên kia về việc đàm phán, ký kết cũng
như vềcác nội dung cơ bản của dự thảo điều ước quốc tế. Trong nhiều trường hợp
dự thảo điều ước quốc tế sau vòng đàm phán thứ nhất có nội dung khác hơn nhiều
so với dự thỏa điều ước quốc tế được chuẩn bị để trình Chính phủ về việc đàm
phán, ký điều ước quốc tế. Việc tiến hành thẩm định trước vòng đàm phán thứ nhất
sẽ hạn chế tính chủ động linh hoạt của đoàn đàm phán, đặc biệt là trong trường hợp

có khác biệt cơ bản về quan điểm xây dựng dự thảo giữa việt nam và đối tác nước
ngoài. Chính vì vậy, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước nhằm khắc phục
những hạn chế gây khó khăn cho hoạt động đàm phán, ký các hiệp định tương trợ
tư pháp về dân sự, thương mại đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, sai sót trong việc lập hồ sơ ủy thác tư pháp: nhiều hồ sơ yêu cầu
nước ngoài thực hiện ủy thác do các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam lập
không đúng quy định của Luật Tương trợ tư pháp cả về nội dung lẫn hình thức nên
14


các cơ quan đầu mối thực hiện ủy thác phải gửi trả lại cơ quan yêu cầu ủy thác để
hoàn thiện dẫn đến mất nhiều thời gian, công sức.
Thứ năm, thực hiện thủ tục ủy thác không đúng: việc tuân thủ quy trình, thủ
tục tương trợ tư pháp theo Luật chưa được triệt để hay không xác định được cơ
quan có thẩm quyền thực hiện ủy thác do không xác định được quốc tịch đương sự
nên không đạt được kết quả.
Thứ sáu, Quy trình thực hiện Ủy thác tư pháp ( UTTP ) còn quá phức tạp :
Đối với công dân Việt Nam trong nước thì trong quá trình giải quyết Tòa án cấp
huyện thấy cần thiết UTTP thì phải làm hồ sơ chuyển lên cấp Tỉnh để thực hiện
UTTP theo thủ tục chung (Quy định tại Luật tương trợ tư pháp và Thông tư số
15/TTLTBTP-BNG-TANDTC) - Thời gian thực hiện UTTP không phù hợp với
thời gian yêu cầu tống đạt một số loại tài liệu, giấy tờ của Tòa án như Thông báo
thụ lý vụ án phải trả lời trong thời hạn 30 ngày, Quyết định đưa vụ án ra xét xử,
giấy triệu tập phiên tòa 30 ngày...trong khi thời gian để UTTP tống đạt các loại giấy
tờ trên có thể lên đến vài tháng, đặc biệt có vụ án đã chờ kết quả thực hiện UTTP
lên đến hàng năm.
2.3 Một số kiến nghị, đề xuất
Thứ nhất, tăng cường ký kết các Điều ước quốc tế giữa các quốc gia. Đồng
thời hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực
dân sự. Tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, giúp việc thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự

được dễ dàng, thuận lợi và hiệu quả hơn.
Thứ hai, đối với quy trình thực hiện Ủy thác tư pháp: Đối với việc ủy thác tư
pháp cho công dân Việt Nam ở nước ngoài không nhất thiết ủy thác tư pháp qua Bộ
tư pháp, Bộ ngoại giao mà ủy thác tư pháp trực tiếp qua cơ quan đại diện Việt Nam
(hoặc tổ chức có thẩm quyền) ở nước thực hiện việc ủy thác tư pháp.
15


Thứ ba, tăng cường hoạt động ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp với các
nước trên thế giới: Số liệu thống kê cũng cho thấy rõ, kết quả thực hiện ủy thác tư
pháp với các nước trên cơ sở có điều ước quốc tế cũng cao hơn nhiều so với các
nước không ký Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam. Điều này thể hiện sự cần
thiết phải đẩy mạnh hoạt động đàm phán, ký các điều ước quốc tế về tương trợ tư
pháp để tạo cơ sở pháp lý quốc tế hỗ trợ cho quá trình thực hiện tương trợ tư pháp
giữa Việt Nam với nước ngoài đạt hiệu quả cao hơn.
C.

KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên đây, phần nào hiểu hơn vấn đề tương trợ tư pháp

về dân sự, cụ thể là thực tiễn, bên cạnh đó là những bất cập, khó khăn, vướng mắc
trong tương trợ tư pháp về dân sự. Từ đó thấy rằng, tuy thực tế vẫn còn tồn tại một
số trở ngại nhưng giữa các quốc gia cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động tương trợ
và thực hiện một cách hiệu quả. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với việc đảm
bảo lợi ích pháp nhân, công dân của mỗi nước, với quá trình giải quyết các tranh
chấp dân sự mà còn có ý nghĩa đối với lợi ích của quốc gia khi tăng cường sự giao
lưu, hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực dân sự. Thực tiễn
cho thấy hoạt động tương trợ tư pháp còn nhiều bất cập hạn chế, tuy nhiên vẫn có
giải pháp cho những vấn đề này. Từ đó làm cho hoạt động tương trợ tư pháp về dân
sự trở nên hiệu quả hơn.


16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO




Giáo trình
Giáo trình luật tương trợ tư pháp, trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Nxb.
Chính trị Quốc gia – Sự thật, năm 2017.
Văn bản pháp luật
1. Luật Tương trợ tư pháp năm 2007;
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
3. Luật Điều ước quốc tế năm 2016;
4. Thông tư liên tịch số 15/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011
Hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực



dân sự của Luật Tương trợ tư pháp.
Bài viết
1. Nguyễn Văn Cường, “Một số vấn đề về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực
dân sự”, đăng trên website www.toaan.gov.vn của Tòa án nhân dân Tối
2.

cao, truy cập ngày 20/3/2017;
“Bộ Tư pháp tổng kết 6 năm thi hành Luật Tương trợ tư pháp”, Tạp chí


3.

Cộng sản ngày 30/9/2014;
“Quy trình thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự thực tiễn áp dụng và
những bất cập”, đăng trên website www.tks.edu.vn của Trường Đại học
Kiểm sát Hà Nội truy cập ngày 20/3/2017.

17



×