I. Tên sáng kiến:
HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHƯƠNG PHÁP TỰ QUẢN
Ở LỚP CHỦ NHIỆM
II. Mô tả ý tưởng
a. Hiện trạng và nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng
* Hiện trạng:
Hiện nay, song song với việc dạy học văn hóa theo hướng hiện đại, tăng
cường tính chủ động, sáng tạo và phát huy tính tích cực của HS thì việc đổi
mới giáo dục nhân cách HS theo hướng đó cũng được đặt ra cấp thiết . Trong việc
giáo dục nhân cách HS, giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò hết sức quan trọng .Vì vậy
đổi mới công tác chủ nhiệm được đặt ra đối với giáo viên được phân công đảm nhận
công việc này. Và xây dựng lớp học tự quản được xem là khâu đột phá trong nội
dung đổi mới công tác chủ nhiệm, công tác giáo dục nhân cách HS.
Việc rèn luyện, giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm theo hướng tự quản là việc
làm cần thiết của bất kì GVCN nào. Vì GVCN không thể làm thay mọi việc của học
sinh và không phải lúc nào chủ nhiệm cũng có mặt trên lớp để chỉ đạo những công
việc thường ngày của lớp. Mặt khác, sự quá nhiệt tình của GVCN lúc nào cũng hiện
diện ở lớp sẽ khiến cho học sinh nảy sinh tâm lí ỷ lại, trông chờ ở GVCN, thiếu
trách nhiệm với bản thân và với tập thể, làm lu mờ vị trí, vai trò của chính các em
ngay tại ngôi nhà mà các em là chủ nhân đang sống và gắn bó. Cần phải làm cho học
sinh nhận thức được rằng tập thể lớp chính là ngôi nhà nhỏ của chính các em. Chính
các em chứ không phải ai khác là người có trách nhiệm gắn bó xây dựng, tô điểm
ngôi nhà thân thương của mình. Trong quá trình ấy, GVCN chỉ là người đóng vai trò
cố vấn, điều khiển từ xa. Vì vậy, không có con đường nào khác, GVCN phải có biện
pháp rèn luyện, giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm theo hướng tự quản.
* Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng:
- Về phía giáo viên:
Trong chuyên môn, chúng ta đang sôi nổi thực hiện PPGD tích cực, lấy học
trò làm trung tâm, không lẽ trong công tác CN chúng ta lại để tồn tại mãi cách giáo
dục thụ động, máy móc- thầy là trung tâm của tất cả, còn trò cứ mãi mãi thụ độngPhải đổi mới, phải thực sự lấy học trò làm trung tâm, không chỉ trong chuyên môn
mà cả trong công tác CN. Phải biến quá trình GD thành tự GD, tự ý thức, tự quản lấy
chính mình, tổ , lớp mình. Chỉ có như thế nhân cách HS mới được xác lập bền vững.
Chất lượng giáo dục của chúng ta mới không bị tụt hậu, mới sánh ngang tầm các
nước trong khu vực, mới đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống
hiện đại.
- Về phía học sinh:
Học sinh THPT trong độ tuổi mới lớn, rất thích hoạt động, ham hiểu biết,
muốn thể hiện mình. Các em không chỉ ước ao khám phá bí mật thế giới xung
quanh, mà còn muốn khám phá chính bản thân mình. Hàng ngày, không em nào
không nảy sinh ý thức muốn tự khẳng định mình, chứng tỏ mình, và cũng muốn tập
thể công nhận mình. Xây dựng lớp học tự quản không những thoả mãn tâm lý này
của các em mà còn tạo cho các em cơ hội để được trải nghiệm, chia sẽ và được nuôi
dưỡng,rèn luyện, phát triển theo hướng tích cực.
Kết quả nghiên cứu tâm- sinh lí của học sinh và điều tra xã hội học gần đây
trên thế giới cũng như ở nước ta cho thấy thanh thiếu niên có những thay đổi trong
sự phát triển tâm- sinh lí, đó là sự thay đổi có gia tốc. Trong điều kiện phát triển của
các phương tiện truyền thông, trong bối cảnh hội nhập, mở rộng giao lưu, học sinh
được tiếp nhận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú từ nhiều mặt của cuộc
sống, hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn so với các thế hệ cùng lứa tuổi
trước đây mấy chục năm, đặc biệt là học sinh bậc trung học. Trong học tập, học sinh
không thoả mãn với vai trò của người tiếp thu thụ động, không chỉ chấp nhận các
giải pháp đã có sẵn được đưa ra.
Thực tế học sinh trường THPT ATK Tân Trào nói chung và học sinh lớp 10A3
nói riêng, phần lớn các em thuộc con em các dân tộc thiểu số. Nhận thức của các em
còn nhiều hạn chế. Một thực tế vẫn tồn tại rất rõ ở các vùng miền quê đó là phân
biệt, chia bè nhóm gây mất đoàn kết của học sinh giữa một số xã.
b. Ý tưởng:
Trong thực tế, có những giáo viên chủ nhiệm đã tốn rất nhiều công sức nhưng
chưa đạt kết quả như mong muốn, học sinh vẫn chưa ngoan, nề nếp lớp chưa tốt, ý
thức tự giác và tinh thần học tập của học sinh chưa cao. Ở đâu đó vẫn còn có những
giáo viên bắt phạt học trò bằng nhiều hình thức như bắt học sinh đứng phạt hàng loạt
trên bảng trong giờ dạy, đuổi học sinh ra khỏi lớp, … mà học sinh vẫn hư, thậm chí
còn vô lễ hoặc coi thường thầy cô giáo. Có giáo viên đã đưa ra những hình thức kỉ
luật khắt khe lạnh lùng, khép học sinh vào nề nếp hoặc bỏ ra rất nhiều thời gian để la
mắng, thậm chí còn dùng đến những lời lẽ gay gắt đối với các em, để rồi giờ học trở
thành áp lực vô cùng nặng nề đối với học sinh và thầy cô trở thành đối tượng để học
sinh sợ hãi, xa lánh.
Làm thế nào để có thể tổ chức, xây dựng được một lớp học vừa có nề nếp tự quản tốt
vừa là một tập thể học sinh đoàn kết, có tinh thần học tập và tham gia các hoạt động
của nhà trường một cách tự giác, mà không làm mất đi sự hồn nhiên, trong sáng của
các em. Để mỗi ngày đến trường của các em thực sự là một ngày vui và thầy cô thực
sự là người được các em yêu quý trân trọng.
Xây dựng lớp học tự quản cần được xem là nội dung quan trọng trong việc đổi
mới công tác chủ nhiệm, công tác giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng hợp tác cho học
sinh, đặc biệt là học sinh ở lứa tuổi THPT.
Mục đích của việc làm này nhằm nâng cao tính tự giác trong học tập của học sinh,
phát huy tính tích cực, chủ động của tất cả học sinh trong lớp ở từng mảng công việc
để làm tốt từ những công việc nhỏ quen thuộc như dọn dẹp vệ sinh đến việc xây
dựng nền nếp, học tập, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao,… Đồng thời giúp học
sinh mạnh dạn tự tin hơn trong các hoạt động, phong trào của trường lớp.
- Thực chất của xây dựng lớp tự quản là quá trình từng bước chuyển hoá tâm
huyết, nhiệt tình của thầy cô thành ý thức tự quản tự giác đầy trách nhiệm và thích
thú của HS, cũng có nghĩa là biến lớp học của những cá nhân học sinh thành một tập
thể học sinh biết tự quản dưới sự quản lý, chỉ đạo của GVCN. Mỗi HS trong lớp là
một chủ thể có tính tự giác cao. Ban cán sự lớp triển khai và tổng kết các hoạt động
trong tuần, tháng, GVCN đóng vai trò tham mưu khi cần thiết.
3. Nội dung công việc
3.1. Nghiên cứu, khảo sát tình hình học sinh lớp chủ nhiệm:
Thông qua kết quả học tập của học sinh cấp đầu năm. Qua kết quả rèn luyện 2
mặt của học sinh sơ bộ ta biết được tình hình học tập và đạo đức của các em. Trong
phần này GVCV cần đặc biệt lưu ý và ghi rõ những học sinh ngoan, học tốt để có thể
lựa chọn làm đội ngũ cán sự lớp và sau này phân công kèm cặp HS chậm tiến bộ.
Những HS có lực học yếu, kém, đạo đức không tốt. Đây là những HS GVCV cần ghi
rõ ràng tất cả những thông tin cần thiết như chỗ ở, nghề nghiệp của bố, mẹ, thậm chí
cần tìm hiểu ngay cả hoàn cảnh gia đình và những HS có mối quan hệ với những em
đó.
3.2. Rà soát, phân loại HS, ổn định công tác tổ chức lớp:
Đây là công việc đòi hỏi người GVCV linh hoạt, tế nhị vừa đảm bảo thực hiện
đúng quy định của Nhà trường vừa đảm bảo phù hợp với tình hình lớp học.
3.3. X©y dùng ®éi ngò c¸n bộ, tổ chức lớp lớp:
* Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp:
Đây là một việc hệ trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của việc xây
dựng lớp học tự quản nói riêng và công tác chủ nhiệm nói chung. Để làm công việc
này không thể không nghiên cứu kĩ lí lịch trích ngang, thăm dò ý kiến HS trong lớp,
tham khảo ý kiến của GVBM. Trên cơ sở đó, chọn ra 04 hạt nhân tích cực nhất hội
tụ đầy đủ cả đức và tài cho 4 chức danh làm nên bộ khung Ban cán sự lớp gồm 01
lớp trưởng và 3 lớp phó phụ trách các mảng hoạt động của lớp suốt cả năm học.
GVCN giao công việc cụ thể gắn với trách nhiệm từng HS .
Ban cán sự chịu trách nhiệm trước GVCN về công việc được giao. Cụ thể:
Lớp phó học tập đảm nhiệm công việc liên quan đến mặt học tập như: chữa bài tập,
theo dõi tình hình học tập của lớp; Lớp Phó lao động phụ trách mảng lao động có
nhiệm vụ phân công công việc, đôn đốc, nhắc nhở các tổ trực nhật làm vệ sinh hàng
ngày trong lớp học, trong khuôn viên trường theo qui định. Lớp Phó văn thể phụ
trách hoạt động văn nghệ, thể thao, trang trí lớp; Lớp trưởng là linh hồn của lớp, là
người điều hành BCS lớp, quản lí mọi mặt của lớp khi không có GVCNnhắc nhở các
thành viên trong lớp thực hiện nội qui của trường, của lớp. Thành viên nào không
chấp hành mệnh lệnh của lớp trưởng được xem như không chấp hành mệnh lệnh của
GVCN và đương nhiên phải được xem xét đánh giá về mặt đạo đức.
* Sắp xếp chỗ ngồi: Chia đều học sinh ở các xã về các tổ, tránh hiện tượng học sinh
tạo bè cánh, nói chuyện gây mất đoàn kết trong lớp. Sau thời gian học 2 đến 3 tuần
cần họp với cán bộ lớp, lấy ý kiến nếu thấy chưa hợp lý ở vị trí nào thì đổi ở vị trí
đó, không thay đổi nhiều, đặc biệt không theo yêu cầu riêng của từng học sinh nếu
không có lí do chính đáng.
- Giữa các tổ có sự đồng đều về số lượng, tương đương về giới tính, về xếp loại học
tập và hạnh kiểm cũng như nơi ở. Sau đó các thành viên trong tổ họp lại bầu một bạn
có uy tín làm tổ trưởng.
- Trong quá trình quản lý lớp GVCN nên nâng cao vai trò của đội ngũ cán bộ lớp, để
các em tự thấy được trách nhiệm của mình và những học sinh khác dần thấy được
vai trò của đội ngũ cán bộ lớp, từ đó mới có thể dần đưa lớp theo hướng tự quản
được.
3.4. Phổ biến các nội quy của trường, lớp:
- Ngay thời gian đầu, ngoài việc nhấn mạnh những nội quy của nhà trường,
đoàn đề ra, GVCN cần đưa thêm một số quy định khác cho lớp thực hiện xong
không cần yêu cầu nhiều quá.
3.5. Tìm hiểu và giải quyết đối với những học sinh có hoàn cảnh khó khăn:
- Cần tìm hiểu kĩ những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt để có hướng uốn nắn
xử lí kịp thời. GVCN cần bám sát những học sinh này, xử lí vừa khéo léo vừa đảm
bảo nghiêm khắc để làm gương cho những học sinh khác.
- Phân công những học sinh học tập tốt theo dõi kèm cặp những học sinh
chậm tiến bộ, kiểm tra, giúp đỡ nhau chặt chẽ hơn trong 15 phút truy bài.
3.6. Phân chia thời gian trong 15 phút đầu giờ:
- GVCV không nhất thiết phải nói nhiều quá. Nên khéo léo nhắc một số việc
cơ bản như xem lại bài cũ, tình hình bài mới, hỏi qua cán sự lớp về tình hình lớp
học...
3.7. Đối với công tác lao động:
- GVCN giao nhiệm vụ cho lớp phó lao động, kiểm tra việc phân công, kế
hoạch, thời gian. GVCN chịu trách nhiệm kiểm tra, theo dõi học sinh thực hiện,
nghiệm thu, nhận xét, đánh giá.
3.8. Tổ chức sinh hoạt lớp:
- Hàng tuần, hàng ngày GVCN có gặp gỡ, trao đổi với Ban cán sự lớp để
nắm thông tin, làm công tác cố vấn, tháo gỡ những vướng mắc cho cán bộ lớp. Nhìn
chung GVCN chỉ nên điều hành từ xa trừ những công việc hs không thể làm thay
CN được.
+ Về phía cán bộ lớp, GVCN cũng thường xuyên nhắc nhở, yêu cầu mỗi thành viên
trong BCS lớp phải thực sự gương mẫu trong mọi hoạt động. Ngoài việc thực hiện
tốt nhiệm vụ của một người học sinh, cán bộ lớp phải xung phong, đứng mũi chịu
sào trong các hoạt động chung của lớp, của trường và Đoàn thanh niên.
+ Hàng ngày cán bộ lớp và tổ trưởng nhắc nhở, có sổ ghi chép việc theo dõi các
thành viên trong tổ, trong lớp (coi trọng lấy nhắc nhở làm chính để ngăn ngừa vi
phạm nội qui).
+ Vào tiết sinh hoạt lớp cuối tuần, CN giao quyền cho tổ trưởng và ban cán sự lớp
tiến hành nhận xét, tuyên dương kịp thời, phê bình đối với các thành viên trong tổ,
trong lớp một cách công khai. Trên cơ sở việc theo dõi thực hiện nội qui, đến tiết
sinh hoạt cuối tháng, tổ trưởng và Ban cán sự lớp tiến hành bình bầu hạnh kiểm, thi
đua của từng bạn trong lớp. Lớp sẽ có phần thưởng để động viên đối với những HS
có thành tích cao. Trên cơ sở nắm bắt kế hoạch hành động của Đoàn trường hàng
tuần/ tháng, BCS lớp tiến hành xây dựng kế hoạch hành động thích ứng, cụ thể.
Những kế hoạch này được thảo luận dân chủ, cởi mở, được đông đảo thành viên
trong lớp tích cực góp ý, đề xuất nội dung lẫn giải pháp thực hiện và được biểu
quyết nhất trí thông qua với tỉ lệ tuyệt đối. Hễ còn có điều gì băn khoăn thì cả lớp
phải tìm cách giải quyết nốt băn khoăn đó để đạt được sự đồng thuận cao.
4. Triển khai thực hiện
a. Quy trình:
- Từ 25/ 09/ 2015: Hoàn thiện tên sáng kiến kinh nghiệm.
- Từ 30/ 09/ 2015: Nghiên cứu, khảo sát tình hình học sinh lớp chủ nhiệm. Rà soát,
phân loại HS, ổn định công tác tổ chức lớp. Kiểm tra kết quả rèn luyện 2 mặt của HS
trong sổ học bạ cấp 2.
- Từ 01/ 10/ 2015: Chia nhóm, tổ, ổn định tổ chức.
- Từ 10/ 10/ 2015: Báo cáo chất lượng rà soát trước tổ. Đưa ra phương pháp áp dụng
vào quản lí lớp.
- Từ 30/ 12/ 2015: Tổng hợp, đánh giá qua lần thứ nhất: Kết quả rèn luyện 2 mặt của
HS.
- Từ 10/ 05/ 2016: Tập hợp số liệu, đánh giá. Báo cáo kết quả trước tổ và BGH.
b. Cách thức:
- Lập kế hoạch, trình và thảo luận trước tổ.
- Dựa theo kế hoạch, tiến hành các công việc đối với lớp chủ nhiệm.
- Thu thập số liệu.
- Rút kinh nghiệm.
- Báo cáo.
c. Thời gian:
- Bắt đầu thực hiện: 25/ 09/ 2015.
- Kết thúc: 10/ 05/ 2016.
d. Phương tiện:
- Đối tượng là học sinh lớp chủ nhiệm (lớp 10A3, Trường THPT ATK Tân Trào).
e. Sự phối hợp để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm:
- Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn, nhóm bộ môn, các GV chủ nhiệm trong trường.
- Ban đại diện phụ huynh học sinh.
5. Kết quả đạt được:
a. Sản phẩm thu được:
* Kết quả khảo sát thực tế đầu năm ở lớp 10A3: Tổng số 34 học sinh
- Học tập:
Xếp loại
Số lượng
%
- Hạnh kiểm:
Giỏi
0
0
Khá
2
5.9
Trung bình
21
61.8
Yếu
11
32.3
Kém
0
Xếp loại
Số lượng
%
Tốt
10
29.4
Khá
16
47.1
Trung bình
8
23.5
Yếu
0
0
Kém
0
0
* Kết quả áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ở lớp 10A3: Tổng số 34 học sinh
a. Sản phẩm thu được:
- Xếp loại thi đua chung của lớp: 4/19.
- Học tập:
Xếp loại
Số lượng
%
-Hạnh kiểm:
Giỏi
0
0
Khá
4
11.8
Trung bình
25
73.5
Yếu
5
14.7
Kém
0
0
Xếp loại
Số lượng
%
Tốt
14
41.1
Khá
17
50.1
Trung bình
3
8.8
Yếu
0
0
Kém
0
0
b. Đánh giá hiệu quả thực hiện so với trước khi thực hiện sáng kiến
- Ý thức thực hiện nội quy trường lớp của học sinh tiến bộ rõ rệt so với năm học
trước. Tuy là lớp học đại trà, xong kết thúc đợt sơ kết học kỳ I tập thể lớp 10A3
xếp thứ 4/19 lớp( đứng sau 3 lớp chọn). Trong lớp không có hiện tượng học sinh vi
phạm hoặc bị kỉ luật.
- Về học tập tôi nhận thấy, số học sinh khá tăng lên thêm 2 học sinh so với năm
học trước, học sinh yếu giảm từ 11 học sinh xuống 5 học sinh. Đặc biệt không khí
học tập của lớp rất tiến bộ, được các thầy cô giáo bộ môn đánh giá khá cao.
- Các nhóm học tập vẫn duy trì liên tục, sự tiến bộ về học tập của các cá nhân
trong từng nhóm không những thúc đẩy được không khí học tập mà các em cũng
giúp nhau nhiều khó khăn trong cuộc sống.
- Ngoài ra các phong trào văn nghệ, thể dục thể thao do Đoàn trường tổ chức các
em tham gia rất nhiệt tình, đạt được nhiều kết quả cao.
6. Khả năng tiếp tục phát huy, mở rộng sáng kiến đã thực hiện
- Nội dung sáng kiến có thể áp dụng ở tất cả các trường THPT trong tỉnh, các trường
có học sinh có điều kiện khó khăn, nhiều con em dân tộc ít người.
- Sáng kiến có thể tiếp nhận ý kiến điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tế ở
từng trường.
Minh Thanh, ngày 20 tháng 05 năm 2016
Người viết sáng kiến
…..
Ý kiến xác nhận của hội đồng khoa học Nhà trường
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
T/M HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
CHỦ TỊCH
……