Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và vận dụng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ NGỌC AN

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÂNG CAO TINH THẦN
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ VẬN DỤNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI –2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ NGỌC AN

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÂNG CAO TINH THẦN
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ VẬN DỤNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 60.31.02.04

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS LẠI QUỐC KHÁNH

HÀ NỘI –2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong luận văn này là kết
quả thu hoạch tài liệu và nghiên cứu của cá nhân tôi và chưa được công bố
trên các công trình khác. Luận văn được trích dẫn đầy đủ những kết quả của
những công trình nghiên cứu khác. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
những thông tin, dữ liệu đã công bố trong luận văn này./.
Hà Nội, ngày … tháng… năm 2016
Tác giả luận văn

Phạm Thị Ngọc An


LỜI CẢM ƠN
Xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới những người đã giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này.
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới PGS. TS. Lại Quốc
Khánh, người thầy đã tận tâm chỉ dạy và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu để hoàn thành được luận văn này. Sự biết ơn của học
viên tới thầy giáo hướng dẫn, Thầy là người đã thông cảm và tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi về thời gian cũng như sự động viên và những lời khuyên chân
thành về mặt tinh thần và lý tưởng khoa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới khoa Khoa học chính trị, nơi
tôi đã học tập và gắn bó suốt quá trình học tập từ khi là sinh viên đến khi là
học viên cao học ở khoa, cũng là nơi tôi gặp được những người thầy giáo, cô
giáo có trình độ và có tâm huyết với nghề, với học trò của mình, để từ đó tôi
được truyền thụ rất nhiều điều quý báu từ tri thức sách vở đến những hiểu biết
xã hội. Và cũng xin cảm ơn những người mà tôi chưa hề gặp mặt, nhưng
những tư tưởng, công trình nghiên cứu của họ đã có sự tác động mạnh mẽ và
sâu sắc tới tôi, tới quá trình nghiên cứu của tôi, giúp tôi có niềm tin và động

lực để hoàn thành công trình khoa học này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban Kinh điển – Lý luận, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Sự thật – nơi tôi đang công tác – đã tạo điều kiện về thời
gian và sự động viên để tôi có thể hoàn thành được luận văn này.
Và cuối cùng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp,
nhưng người đã luôn khích lệ và ủng hộ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................. 9
6. Đóng góp của Luận văn .............................................................................. 9
7. Ý nghĩa của Luận văn ................................................................................. 9
8. Cấu trúc của Luận văn .............................................................................. 10
NỘI DUNG..................................................................................................... 11
Chƣơng I. Cơ sở hình thành và nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên .............. 11
1.1. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên ........................................................................ 11
1.1.1. Truyền thống nêu cao tinh thần trách nhiệm của dân tộc .................... 11
1.1.2. Quan niệm về trách nhiệm trong truyền thống tư tưởng – văn hóa
phương Đông ................................................................................................... 13
1.1.3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về tinh thần trách nhiệm của
người cộng sản ................................................................................................ 24
1.1.4. Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh ................................................... 26

1.2. Nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần trách
nhiệm ............................................................................................................... 29
1.2.1. Quan điểm về tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên ................ 29
1.2.2. Quan điểm về sự cần thiết và biện pháp nâng cao tinh thần trách nhiệm .. 46
Chƣơng II. Thực trạng và giải pháp nâng cao tinh thần trách nhiệm của
cán bộ, đảng viên hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ........................... 61


2.1. Thực trạng và nguyên nhân .................................................................. 61
2.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân....................................................................... 61
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân ....................................................................... 69
2.2. Giải pháp nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên theo
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh .................................................................................. 86
2.2.1. Giải pháp đối với cá nhân cán bộ, đảng viên ....................................... 87
2.2.2. Giải pháp đối với tổ chức Đảng và Nhà nước ...................................... 89
2.2.3. Giải pháp đối với xã hội........................................................................ 96
KẾT LUẬN .................................................................................................. 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh - niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, biểu hiện cho ý chí,
khát vọng của dân tộc và xu hướng phát triển của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là nhà yêu nước, người anh hùng giải phóng dân tộc, được tổ chức Giáo
dục - Khoa học - Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đánh giá là đã “để lại
dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại”- đã làm rạng rỡ dân tộc ta,
nhân dân ta, non sông đất nước ta. Tư tưởng và lý luận cách mạng mà Người
để lại cho dân tộc ta và nhân loại là một di sản vô cùng quý giá. Đại hội Đại

biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá của nhân loại” và “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh
của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc
ta”[2, tr. 83-84]. Chính vì vậy, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng
và nhân dân Việt Nam.
Trước hết, phải khẳng định rằng, cả cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người là tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời về thực hành nâng cao tinh
thần trách nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà tư tưởng lớn
mà Người còn là một nhà thực hành biện chứng lớn, nói đi đôi với làm, luôn
đề cao tinh thần trách nhiệm và nâng cao tinh thần đó trong mỗi nhiệm vụ mà
Đảng và nhân dân giao phó và luôn thực hiện tinh thần tự phê bình và phê
bình, Người chính là tấm gương sáng về việc thực hiện đúng trách nhiệm và
nâng cao tinh thần trách nhiệm cho toàn bộ cán bộ, đảng viên. Đối với cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức, Người yêu cầu vừa phải thực hiện đạo đức
1


công dân, vừa thực hiện đạo đức của người cán bộ - đạo đức cách mạng,
nghĩa là: “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận
hiếu với dân”, cần nhận thức rõ, nâng cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng, hết
sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, là mục đích và bản chất của Đảng.
Chúng ta khẳng định rằng, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là một trong những tư tưởng có giá trị to lớn đối với toàn Đảng và
toàn dân nói chung và đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
và đảng viên nói riêng, nhằm đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,

đạo đức cách mạng và lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, để củng
cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Năm 2016, tổng kết 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới chúng ta đã
đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng sự suy đồi về đạo đức của một số
cán bộ, đảng viên ở một số cơ quan, bộ phận ngày càng trở nên khó kiểm
soát, dân chủ trong nhân dân có lúc không được thực hiện đúng và ở một số
nơi đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo còn nhiều khó khăn, tình trạng xa dân,
quan liêu của cán bộ cấp cao là tình trạng đang diễn ra ngày càng trầm trọng,
nói nhưng không làm hoặc làm không đúng, xa rời thực tiễn. Đặc biệt, ở một
số bộ phận ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên những
người giữ những chức vụ nhất định trong bộ máy Nhà nước và Đảng trở nên
yếu kém, không làm tròn trách nhiệm với đúng vị trí của mình, hoặc lảng
tránh trách nhiệm, hoặc không thừa nhận trách nhiệm của mình và không thực
hiện việc tự phê bình và phê bình một cách đúng đắn. Trong hoàn cảnh đó,
thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã ký ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) Vềmột số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay, trong đó vấn đề cấp bách thứ ba là về việc thiếu ý thức
trách nhiệm của cản bộ, đảng viên, cụ thể: Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định
2


rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót,
khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm
vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người
đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách
làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu
cầu lợi ích cá nhân. Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu và vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm và nâng cao tinh thần trách

nhiệm là vô cùng cấp thiết.
Từ những năm 90 của thế kỷ 20, việc nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí
Minh ở nước ta được quan tâm và phát triển mạnh, với những công trình
nghiên cứu khoa học, Hội thảo khoa học lớn và sách báo được xuất bản.
Năm 1990, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh (1890-1990), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật đã xuất bản bộ
sách Hồ Chí Minh toàn tập lần thứ nhất với 10 tập. Năm 1996, bộ Hồ Chí
Minh toàn tập được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản lần
thứ nhất với 10 tập sách. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và tìm hiểu về Hồ Chí
Minh chưa phải đã hoàn thành và kết thúc, năm 2011, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia - Sự thật đã cho xuất bản bộ Hồ Chí Minh toàn tập với 15 tập, chứng
tỏ rằng những nghiên cứu về Hồ Chí Minh chưa thể dừng lại ở đó và còn tiếp
tục, bởi, để hiểu Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng những tư
tưởng của Người là không hề dễ dàng. Trong bối cảnh thế giới luôn luôn thay
đổi và đặc biệt trong thời kỳ Việt Nam Đổi mới, việc xây dựng Đảng và cán
bộ, đảng viên phải ngày càng được quan tâm, việc nghiên cứu về tư tưởng Hồ
Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm và
nâng cao tinh thần trách nhiệm trong tư tưởng của Người nói riêng sẽ góp
phần củng cố vững chắc các tổ chức của Đảng, Nhà nước, để Đảng thật sự
trong sạch và vững mạnh, cán bộ, đảng viên xứng đáng là “người đầy tớ trung
thành của nhân dân”.
3


Từ những lý do trên tôi chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng
cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và vận dụng trong giai đoạn
hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình, với mục tiêu làm rõ tư tưởng
Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần trách nhiệm và vận dụng tư tưởng đó
trong hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu

Các công trình nghiên cứu khoa học, sách và báo, tạp chí tập trung nghiên
cứu rất nhiều về vấn đề đạo đức trách nhiệm, đạo đức cách mạng, nâng cao tinh
thần trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh;
những vấn đề liên quan đến giải pháp nâng cao tinh thần trách nhiệm: chống chủ
nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm; và những công trình có nội dung vận dụng tư
tưởng nâng cao tinh thần trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên hiện nay theo Hồ
Chí Minh.
2.1. Những công trình khoa học về xây dựng và kiện toàn tổ chức
Đảng cộng sản Việt Nam có đề cập tới vấn đề tinh thần trách nhiệm và
nâng cao tinh thần trách nhiệmtheo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân
dân trải qua hai cuộc kháng chiến, cứu nước chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược thắng lợi hoàn toàn. Có thể nói, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam là một nhân tố có tính quyết định đối với sự thành công của cách
mạng Việt Nam. Do vậy, sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, xét cho cùng,
phải bắt đầu từ đổi mới toàn diện và chỉnh đốn Đảng. Vì vậy, bên cạnh việc
xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng chính là
nhiệm vụ then chốt, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản
thân mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã và đang
được Đảng Cộng sản vận dụng, chỉ đạo thực tiễn cách mạng nước ta, xây
dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đầy tớ thật sự trung thành của nhân dân. Các nhà lãnh đạo,
4


nhà khoa học với những công trình khoa học có liên quan đến để tài là:
Nguyễn Phú Trọng, Trần Đình Huỳnh, Phùng Hữu Phú, Hoàng Chí Bảo,
Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong,Trương Ngọc Nam, Hoàng Anh,…
Trong số đó tiêu biểu là tác phẩm: Xây dựng chỉnh đốn Đảng: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn của đồng chí Nguyễn Phú Trọng (2012), tác phẩm

gồm ba phần: phần một viết về một số vấn đề chung về Đảng và công tác xây
dựng Đảng; phần hai cụ thể những vấn đề về xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng; phần ba là xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ; phần bốn tập trung viết
về rèn luyện đạo đức, lối sống. Tác phẩm đề cập nhiều vấn đề phong phú cả
về lý luận và thực tiễn của công tác xây dựng Đảng, rút ra một số bài học và
kết luận quan trọng giúp chúng ta tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác xây dựng
Đảng, thực hiện thắng lợi toàn diện công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Đảng ta là đạo đức là văn minh của hai tác giả Trương Ngọc Nam,
Hoàng Anh (2011), trong đó, phần thứ nhất chọn lọc những bài nói và bài viết
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng Đảng là văn minh, đạo đức,
đào tạo cán bộ có tinh thần trách nhiệm và phần thứ hai tập trung phân tích tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, mà trọng tâm là đưa ra những quan
điểm về vấn đề đạo đức cách mạng cán bộ, nâng cao tinh thần trách nhiệm
bằng cách chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng; đồng thời đưa ra biện
pháp nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên để xây dựng
một Đảng trong sạch, đạo đức, văn minh.
Ngoài ra, còn một số tác phẩm có nội dung liên quan tới vấn đề nâng
cao tinh thần trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên: Xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố (Cao Khoa Bảng
(2008)), Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo cuộc đổi mới (Bùi Kim Đỉnh
(2009),…
Một số bài viết về xây dựng và công tác đảng, trong đó liên quan tới
vấn đề tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên: Xây dựng và thực hành
5


văn hóa Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền (Hoàng Chí Bảo (Tạp chí
Cộng sản, 2012)), Xây dựng đảng cầm quyền theo “Di chúc” của Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay (Phạm Thành Dung (Tạp chí Giáo dục lý luận,
2009)),…

Một số luận án tiến sĩ có nội dung về nâng cao tinh thần trách nhiệm
của cán bộ, đảng viên hiện nay: Hoàn thiện việc xây dựng đội ngũ công chức
hành chính nhà nước chuyên nghiệp ở Việt Nam (Chu Xuân Khánh(2012)),
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách của Đảng trong
tình hình hiện nay (Trương Thị Thông (1996)),… Nội dung những luận án
này đề cập rất rõ tới thực trạng cán bộ, đảng viên, đồng thời đưa ra biện pháp
nâng cao chất lượng cũng như nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong thời kỳ này.
2.2.Nhóm những tác phẩm viết về đề tài tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá
nhân và vận dụng trong hoàn cảnh hiện nay
Đạo đức là gốc rễ của cách mạng, đạo đức của một người cán bộ, đảng
viên có ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của công việc họ
được giao. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhất đến đạo đức của
Đảng nói chung và đặc biệt là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên nói
riêng. Trong tất cả những lời căn dặn lại, Người đều nhắc nhở phải nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chính vì vậy, đề tài đạo đức
cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là vấn đề được nhiều học giả
nghiên cứu và vận dụng. Trong đó, phải kể đến những học giả: Vũ Khiêu,
Hoàng Chí Bảo, Phùng Hữu Phú, Song Thành, Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc
Anh, Vũ Văn Phúc, Ngô Văn Thạo,…
Trong đó, tác phẩm tiêu biểu:Những giải pháp và điều kiện thực hiện
phòng, chống suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên
của tập thể tác giả Phùng Hữu Phú, Vũ Văn Phúc và Ngô Văn Thạo (2011),
6


tác phẩm nêu ra thực trạng của việc thiếu tinh thần trách nhiệm, biểu hiện cụ
thể là sự suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên hiện nay với
những số liệu rất đầy đủ và cụ thể, đồng thời đưa ra những giải pháp chi tiết

cho từng vấn đề, từng tổ chức, đối tượng về những giải pháp và điều kiện để
phòng chống chủ nghĩa cá nhân cũng là biện pháp nâng cao tinh thần trách
nhiệm cho cán bộ, đảng viên hiện nay.
Tác phẩmHồ Chí Minh – ngôi sao sáng mãi trên bầu trời Việt Nam của
tác giả Vũ Khiêu (2014), đối với tác phẩm này, trong những bài viết nói về
quá trình đi tìm đường cứu nước, về tư tưởng đạo đức, về tư tưởng văn hóa
của Người thì yếu tố đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên được
nhấn mạnh nhiều nhất, cụ thể là tinh thần trách nhiệm của mỗi người và biện
pháp để nâng cao tinh thần trách nhiệm được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến
trong những bài nói và bài viết và được tác giả phân tích và tổng hợp lại. Đặc
biệt là những yếu tố về tinh thần trách nhiệm và những nguyên tắc đối với cán
bộ, đảng viên để nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng được tác giả nhấn mạnh
và phân tích rõ ràng.
Ngoài ra, các bài viết trên các tạp chí: Đạo đức Hồ Chí Minh - Một kiểu
mẫu về sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động của tác giả Hoàng Chí Bảo
đăng trên tạp chí Lịch sử Đảng; Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo
đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân của cán bộ đảng viên của tác giả
Phan Ngọc Liên đăng trên tạp chí Giáo dục lý luận,…
Tuy nhiên, đó là những tác phẩm nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng, đạo đức và đạo đức cách mạng chung có một nội dung
liên quan tới tinh thần trách nhiệm và nâng cao tinh thần trách nhiệm, chưa
thấy tác phẩm nào đi sâu phân tích về tinh thần trách nhiệm và nâng cao tinh
thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong quan niệm Hồ Chí Minh; đặc
biệt trong hoàn cảnh hiện nay vấn đề này trở nên cấp bách khi ý thức trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên hiện nay có xu hướng tiêu cực, chưa làm tròn và
7


đúng trách nhiệm được nhân dân giao phó. Như vậy, vẫn cần phải có những
nghiên cứu cụ thể, đi sâu vào từng vấn đề trong tư tưởng của Người và vận

dụng được điều đó trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên; phân tích, đánh giá thực trạng, đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viênhiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ nội dung củatư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh
thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, phân tích thực trạng tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng
viên ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nâng cao tinh thần thức trách nhiệm
của cán bô, đảng viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng của Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm và nâng cao tinh
thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên thể hiện trong các bài nói, bài viết và chỉ đạo thực tiễn của Người.
- Vấn đề nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong bối
cảnh Việt Nam hiện nay ở một số ngành: Y tế, giáo dục, công an nhân dân.

8


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Những lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến tinh thần
trách nhiệm và nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Đồng
thời, có tham khảo một số công trình nghiên cứu của các học giả trong nước
có liên quan đến đề tài của luận văn này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học của
ngành Khoa học xã hội – nhân văn và các phương pháp nghiên cứu đặc thù
trong nghiên cứu chuyên ngành tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó tập trung sử
dụng các phương pháp logic - lịch sử, phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp thống kê - so sánh và phương pháp hệ thốngtrên cơ sở kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn, nhằm làm sáng tỏ những luận điểm được đưa ra lý
giải trong công trình.
6. Đóng góp của Luận văn
Làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần trách nhiệm,
phân tích thực trạng và nguyên nhân và đã đề xuất được những giải pháp để
nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.
7. Ý nghĩa của Luận văn
Khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh
thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên
Nghiên cứu này có thể sử dụng như một tư liệu tham khảo cho chuyên
ngành Hồ Chí Minh và một số vấn đề liên quan như công tác xây dựng Đảng,
công tác cán bộ.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc học tập và
nghiên cứu các vấn đề như: tinh thần trách nhiệm, nâng cao ý thức trách
9



nhiệm của cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng, đạo đức, đạo đức cách mạng
của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
8. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục
Luận văn gồm 2 chương và 4 tiết.

10


NỘI DUNG
Chƣơng I
Cơ sở hình thành và nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nâng
cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên
1.1. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên
1.1.1. Truyền thống nêu cao tinh thần trách nhiệm của dân tộc
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Hồ Chủ tịch là người Việt Nam, Việt Nam hơn bất cứ người Việt Nam nào
hết” [4, tr. 425], ở Hồ Chí Minh kết tinh của những giá trị tốt đẹp nhất của
con người Việt Nam. Có thể nói, tinh hoa của dân tộc đã hình thành nên con
người kiệt xuất Hồ Chí Minh và một trong những giá trị truyền thống đó là
luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm.
Truyền thống nêu cao tinh thần trách nhiệm của dân tộc đã hình thành
nên một Hồ Chí Minh: Trách nhiệm cộng đồng sâu sắc, chủ nghĩa yêu nước,
thương nòi, yêu thương, hy sinh, đoàn kết lẫn nhau, cùng nhau giải quyết
những công việc chung của cộng đồng, của dân tộc.
Đất nước Việt Nam có đặc điểm là một nước nông nghiệp trồng lúa
nước nên trong công việc đồng áng rất cần sự cố kết cộng đồng và cần tinh
thần trách nhiệm của mỗi thành viên trong cộng đồng để cùng nhau chung sức
trong phòng chống thiên tai, tổ chức sản xuất. Nông nghiệp trồng lúa nước, có

đặc trưng là công việc đắp đê trị thủy và công việc phòng chống hạn hán, lũ
lụt cần trách nhiệm chung của cả làng, xóm. Cùng với đặc trưng về tự nhiên,
yếu tố lịch sử, xã hội cũng góp phần hình thành nên truyền thống nêu cao
trách nhiệm với đất nước của mỗi con dân nước Việt khi liên tục chịu sự dòm
ngó, xâm lăng của các thế lực phong kiến phương Bắc. Giá trị của tinh thần
trách nhiệm và nâng cao tinh thần trách nhiệm luôn luôn được khẳng định và
là giá trị quan trọng trong truyền thống văn hóa Việt Nam, từ tinh thần trách
11


nhiệm của vua tôi với đất nước, với nhân dân đến trách nhiệm của từng người
dân với quê hương, nơi mình gắn bó, đã hình thành nên những phẩm chất tốt
đẹp của con người Việt Nam qua bao thế hệ.
Trong thời chiến tranh, tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu đất
nước trước hết là đứng ra đấu tranh và bảo vệ người dân của mình trước giặc
ngoại xâm. Đó là Hội nghị Diên Hồng, khi vua tôi cùng thể hiện tinh thần
trách nhiệm bàn bạc để lấy ý kiến toàn dân trong cuộc kháng chiến chống
Nguyên Mông (1284). Câu hỏi của những người đứng đầu Nhà nước Đại Việt
đặt ra cho các bô lão - tầng lớp được tôn trọng nhất trong xã hội truyền thống
nước ta - về việc nên đánh hay nên hòa thuở đó, chính là nhằm khơi dậy, phát
huy tinh thần trách nhiệm của toàn dân tộc, củng cố sức mạnh đoàn kết của
toàn dân trước thử thách của lịch sử. Khi vua Trần Nhân Tông ướm hỏi vị tư
lệnh chiến trường của mình là Trần Quốc Tuấn: “Thế giặc to như vậy mà
chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ
chịu hàng để cứu muôn dân?” thì lập tức nhận được câu trả lời rằng: “Bệ hạ
nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng tôn miếu, xã tắc thì sao? Nếu bệ hạ muốn
hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi hãy hàng”. Như thế là đã có
dân, lại có cả tướng chung một ý chí quyết đánh, chung một tinh thần trách
nhiệm trước dân tộc, như sử chép trai tráng Đại Việt xăm hai chữ “sát thát”
vào cánh tay rồi đầu quân ra trận. Sau ba lần kháng chiến chống quân Nguyên

Mông thắng lợi, đặc biệt là sau trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng, ý chí
được người xưa chép lại rất mộc mạc “muôn người cùng hô một tiếng như bật
ra từ một cửa miệng” chính là bài học lớn nhất mà lịch sử dân tộc Việt Nam
đã đúc kết, không chỉ với sự nghiệp giữ nước. Và mãi mãi sẽ ăn sâu và trao
truyền trong tâm thức của người dân Việt Nam như một sức mạnh của truyền
thống gắn liền với mục tiêu phấn đấu cho nền dân chủ hiện đại, khi tinh thần
trách nhiệm của toàn dân tộc được hội tụ với lòng yêu nước cao nhất.

12


Hồ Chí Minh là một người Việt Nam, từ khi sinh ra đến khi trưởng
thành, đã được nuôi dưỡng từ truyền thống văn hóa ấy. Với Hồ Chí Minh, yêu
nước là một động lực mạnh mẽ của dân tộc, sức mạnh ấy có thể “nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”, ở mỗi thời kỳ lịch sử lòng yêu nước
được thể hiện khác nhau nhưng xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam chưa bao
giờ nguội tắt. Dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam đã cùng nhau trải qua
bao cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực bên ngoài. Mỗi cá nhân đều có
ý thức đồng thuận cao trong nhận thức về tình yêu quê hương, đất nước, về
trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân đối với cộng đồng với quê hương đất nước
Lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý
báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi
sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước
[37, tr. 38].
Chính việc tiếp thu tinh thần trách nhiệm truyền thống, lòng yêu nước,
thương nòi và từ đó kết hợp với tinh hoa nhân loại, sự rèn luyện của bản thân
đã làm nên một Hồ Chí Minh luôn yêu nước, thương dân, thương nhân loại
khổ đau với một tinh thần trách nhiệm, một đức hy sinh vô hạn. Hồ Chí Minh

đã dành trọn cuộc đời để chiến đấu cho cách mạng, cho nhân dân, cho dân
tộc, luôn nêu cao trách nhiệm với Tổ quốc, với dân tộc mình và nhân loại.
1.1.2. Quan niệm về trách nhiệm trong truyền thống tư tưởng - văn
hóa phương Đông
1.1.2.1. Quan niệm của Nho giáo về tinh thần trách nhiệm
Nho giáo do Khổng Tử sáng lập ở Trung Quốc vào cuối thế kỷ VI
trước công nguyên. Ra đời trong tình hình chính trị xã hội, đạo đức, trật tự, kỷ
cương xã hội bị đảo lộn, rối loạn, nên lý tưởng chính trị của Khổng Tử xây
dựng dựa trên học thuyết về Nhân - Lễ - Chính danh. Trong đó, nhân là hạt
13


nhân là nội dung của học thuyết chính trị, lễ là hình thức của nhân, chính
danh là con đường đạt tới điều nhân, nhân là kết tinh cao nhất của triết học
Khổng Tử. Nho giáo vào Việt Nam trước hết giữ vai trò của một học thuyết
chính trị - đạo đức giúp nhà vua trị nước, yên dân và xây dựng một trật tự xã
hội phù hợp với cương thường lễ nghĩa. Nói về Khổng Tử, ông đã cùng học
trò của mình đi hầu khắp các nước vùng Hoa Hạ, trải qua bao khó khăn nguy
hiểm với mong muốn đạo của ông được chấp nhận và thi hành trên đất nước
nào đó. Chỉ riêng đặc điểm này thôi đã thấy trách nhiệm với đời, với thời thế
luôn hiện hữu trong suy nghĩ của Khổng Tử. Quan niệm về người quân tử của
Nho giáo có điểm giống với quan niệm đạo đức của người cán bộ cách mạng,
“quân tử chu nhi bất tỉ, tiểu nhân tỉ nhi bất chu” – quân tử chung khắp mọi
nhà mà không tây vị, tiểu nhân tây vị mà không chung, nghĩa là, là một người
quân tử phải có trách nhiệm với bản thân, với sự nghiệp trị nước, cứu dân. Dù
không nói cụ thể về vấn đề trách nhiệm nhưng những hành động, lời nói và tư
tưởng của Khổng Tử luôn thể hiện trách nhiệm của mình trước thế cuộc. Ông
đi từ nước Lỗ sang nước Tề rồi về lại nước Lỗ, rồi lại sang nước Vệ cũng
mong được hành đạo cứu nước, cứu dân của mình, không màng danh lợi hay
địa vị. Ông nói: “Sung sung vãng lai, bằng tòng nhĩ tư” [22, tr. 43] – vẩn vơ

đi lại, lẩn quẩn với ý nghĩ của riêng mình, có nghĩa rằng, khi mình chỉ nghĩ về
một điều thì chỉ cảm được cái ấy và chỉ có cái ấy ứng lại mà thôi, chứ không
cảm ứng được với những cái khác nữa. Sâu xa hơn, một người khi lấy tâm tư
nghĩ về việc lợi hại, hơn thiệt riêng, thì cái trực giác mờ tối đi, không nhìn
thấy rõ cái thiên lý lưu hành trong thiên hạ nữa, đó chính là nói về tinh thần
trách nhiệm của từng người, đã mang trên mình trách nhiệm phải lo lắng cho
thiên hạ thì không nên chỉ biết nghĩ cho bản thân mình.
Sinh ra trong gia đình có truyền thống Nho học, Hồ Chí Minh có một
quá trình tiếp thu và học tập Nho giáo rất căn bản và có hệ thống. Người tiếp
thu di sản Nho học từ cha, học tập các thầy đồ nổi tiếng, và trao đổi với các
14


nhà nho thế hệ tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, cho đến quá
trình tự học lâu dài, bền bỉ, Hồ Chí Minh đã kế thừa, sử dụng nhiều phạm trù
của Nho giáo, đồng thời đã bổ sung, phát triển những nội dung mới, phù hợp
với hoàn cảnh Việt Nam. Một số phạm trù của Nho giáo mà Hồ Chí Minh đã
sử dụng như nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, trung, hiếu. Hồ Chí Minh tiếp thu
các phạm trù của Nho giáo và thể hiện quan điểm của mình rõ nhất ở hai
phạm trù trung và hiếu. Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung
với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới.
Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào” [34, tr. 170]. Rõ
ràng, ở Hồ Chí Minh, nếu chữ Trung mang một nội hàm hoàn toàn mới, từ
trung với vua trở thành trung với nước, thì chữ Hiếu lại được mở rộng trên cơ
sở phổ quát hoá đạo đức cá nhân, trong đó gốc của hiếu với dân phải là hiếu
với cha mẹ. Người cho rằng: “Người kiên quyết cách mạng nhất lại là người
đa tình, chí hiếu nhất. Vì sao? Nếu không làm cách mạng thì chẳng những bố
mẹ mình mà hàng chục triệu bố mẹ người khác cũng bị đế quốc phong kiến
dày vò… Phải hiểu chữ hiếu rộng rãi như vậy” [37, tr. 60]. Trung và Hiếu, tự
bản thân nó đã hàm ẩn yêu cầu về tình thần trách nhiệm của con người trong

gia đình và ngoài xã hội.
Những mệnh đề tư tưởng của Nho giáo mà Khổng Tử đã nói được Hồ
Chí Minh sử dụng nhiều lần như: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh;
phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất; tiên thiên
hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc,… Những mệnh đề trên được Hồ
Chí Minh tiếp thu và trong nhiều trường hợp, được Hồ Chí Minh khẳng định
chính là những phẩm chất của những người cách mạng, những người cộng sản
trong thời đại mới. Điều đó cho thấy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, giá
trị và tính thời đại của Nho giáo là rất lớn. Coi trọng tính chủ thể của con
người, coi trọng giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức, coi đức là gốc cũng
được Hồ Chí Minh kế thừa, sử dụng một cách nhuần nhuyễn trong tư duy và
15


trong thực tiễn cách mạng. Người nói: “Muôn việc thành công hoặc thất bại,
đều do cán bộ tốt hoặc kém” [35, tr. 280], “cụ Tăng Tử là một vị đại hiền, là
một tín đồ giỏi nhất của cụ Khổng Tử. Cụ Tăng đã làm kiểu mẫu cho chúng
ta. Cụ nói: Mỗi ngày tôi tự kiểm điểm mấy lần: Đối với người có thẳng thắn
không? Đối với việc có chuyên cần không? Cụ Khổng Tử nói: Mình có đứng
đắn, mới tề được gia, trị được quốc, bình được thiên hạ. Tự mình phải chính
trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người
khác chính là vô lý” [36, tr. 130]. Nho giáo đặc biệt chú ý điều này và Hồ Chí
Minh cũng đã tiếp thu ý tưởng đó, đối với nhà vua cần phải đặc biệt có trách
nhiệm giáo hóa dân, bảo vệ dân chăm lo cho dân được ấm no và như Mạnh
Tử nói: Vua hiền thì giữ mình khiêm cung, ăn tiêu tiết kiệm, có lễ độ với bề
tôi, lấy thuế của dân có chừng mực”.
Hồ Chí Minh nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm
bài diễn văn tuyên truyền” [31, tr. 284], Người nói như vậy và luôn thực hành
nguyên tắc này, chẳng hạn việc Hồ Chí Minh luôn nghiêm khắc thực hiện
nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Tất cả những điều trên,

Người đã học hỏi và vận dụng để xây dựng một người cách mạng, người cán
bộ có trách nhiệm đối với công việc, với Đảng, với nhân dân. Một người có
đức, có tài, đem tài đức cống hiến, phục vụ nhân dân, đó mới là người cán bộ,
đảng viên có trách nhiệm.
Như vậy, có thể thấy, Hồ Chí Minh đã khai thác di sản tư tưởng của
Nho giáo và ngược lại Nho giáo đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh một cách sâu
sắc trong cả tưởng và trong hành động của Người. Đặc biệt, chữ trung, hiếu
đã thấm nhuần trong tư tưởng của Người, đã được biến đổi linh hoạt, sáng tạo
với hoàn cảnh cách mạng Việt Nam, để từ đó hình thành nên tư tưởng của Hồ
Chí Minh về tinh thần trách nhiệm và nâng cao tinh thần trách nhiệm.
1.1.2.2. Giá trị tư tưởng Phật giáo trong việc hình thành Hồ Chí Minh
tư tưởng về tinh thần trách nhiệm
16


Tư tưởng văn hóa phương Đông có ảnh hưởng sâu sắc tới Việt Nam, là
tư tưởng của Nho, Phật và Lão giáo từ thế kỷ XIX trở về trước. Các tư tưởng
này đã được khúc xạ và kết hợp cùng văn hóa Việt Nam một cách hài hòa,
tích cực nhằm phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc. Hồ Chí Minh đã kế thừa những tư tưởng đó một cách sáng tạo và linh
hoạt, kết hợp giữa cái truyền thống và cái hiện đại của nhân loại. Người từng
nói: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân. Tôn giáo Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa
Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu
điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta”. Khổng Tử,
Giê su, Mác, Tôn Dật Tiên đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc
lợi cho xã hội. Do đó, Người tuyên bố: “Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ
của các vị ấy” [19, tr. 54]. Trong các giá trị tư tưởng – văn hóa phương Đông
mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu, có quan niệm về tinh thần trách nhiệm.
Phật giáo có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh

nói chung và với tư tưởng về nâng cao tinh thần trách nhiệm nói riêng. Trong
những điều giáo huấn của Phật giáo đối với con người có những điều khuyên răn
người ta cần phải sống có trách nhiệm với chính bản thân và xã hội.
Theo giáo lý của Phật, tham lam, giận dữ, si mê (Tam độc) vốn là
nguyên nhân chính gây ra đau khổ cho loài người. Để giải thoát con người
khỏi đau khổ, đem lại an vui cho mọi người, Đức Phật dạy người tu hành phải
chống tam độc mà gốc của nó chính là do tham lam và để chống tam độc,
người tu hành phải giác ngộ, dùng ý thức, trí tuệ của mình để diệt trừ lòng
tham. Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức là gốc của người cách mạng; để làm
cách mạng, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn nêu gương trong rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức theo các tiêu chí: Cần (là cần cù, chăm chỉ, siêng năng), kiệm
(là tiết kiệm tiền của, thời gian, công sức), liêm (là liêm khiết, thanh liêm,
không tham địa vị, tiền tài), chính (là ngay thẳng, công minh, chính trực), chí
công vô tư. Theo Người, chí công vô tư nghĩa là người cán bộ, đảng viên phải
17


hoàn toàn vì nhân dân, vì đất nước, không vì cá nhân mình, phải trung với
nước, hiếu với dân, điều này tương đồng với vô ngã vị tha của đạo Phật.
Trong giáo lý của Phật, chữ chính luôn được nhấn mạnh trong suốt quá
trình tu hành của con người, đức chính hết sức toàn diện từ tư duy đến hành
động, từ lời nói đến việc làm, cái đích của chính là nhằm hướng thiện, loại bỏ
cái tà, cái ác. Hồ Chí Minh nói: Đức Phật dạy tín đồ, con người thông hiểu, tu
hành từ muôn vàn giáo lý, đặng kết đọng hướng tới sống theo đức hạnh cao
nhất: Hãy gấp làm điều thiện, ngăn tâm làm điều ác và khẳng định cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư là chuẩn mực đạo đức cao quý của con người, tứ
đức ấy, đức nào cũng quý, cũng cần, như bốn mùa của trời, bốn phương của
đất, thiếu một đức, thì không thành người. Suốt cuộc đời mình, ngay cả khi đã
trở thành Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn là tấm gương mẫu mực trong rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức, nhân cách để hoàn thiện bản thân, chính điều đó đã

có sức lan tỏa, lôi kéo mãnh liệt nhân dân học tập, thực hành theo lời dạy của
Người. Đó cũng chính là tấm gương điển hình của người cán bộ, đảng viên có
trách nhiệm.
Đức tính kiên định mà giáo lý nhà Phật răn dạy cũng là một yếu tố quan
trọng đối với một người cán bộ, đảng viên cần có trong bối cảnh đất nước và
quốc tế có nhiều biến động, kiên định là ý chí, là sự vững vàng trong quyết
định, trong dự tính, trong mối quan hệ, trong lý tưởng hay con đường đã chọn.
Tùy theo bối cảnh cụ thể mà kiên định được hiểu khác nhau. Kiên định là sự
nhất quán trong pháp tu. Đức Phật đã thề nguyện bên gốc cây bồ đề trước
đêm chứng đạo là sự thể hiện cho sự kiên định vững vàng: Cho dù da thịt,
gân xương trở nên khô cằn, máu trong thân này dẫu có cạn kiệt, nhưng nếu
không đạt đạo, Ta quyết không rời chỗ này. Sự kiên định rất cần trên mọi
chặng đường tu tập và ngay trong cuộc sống đời thường kiên định rất cần thiết
để tạo lập mọi mối quan hệ trở nên lâu dài, và có sự tin tưởng lẫn nhau. Đối
với hoạt động cách mạng, chuẩn mực kiên định có thể được hiểu là tấm lòng
18


trung thành, chung thủy, sắt son với Tổ quốc, với nhân dân, với tổ chức, với
đồng đội. Đó cũng là điều được Đức Phật xác quyết trong kinh Tăng
chi: Chính trong thời gian bất hạnh mới biết được sự trung kiên của một
người, phải trong một thời gian dài không thể không khác được.. Kiên định
chính là đứng vững lập trường để hoàn thành nhiệm vụ, không bị lay chuyển
trước những cám dỗ chính trị của các thế lực, trước những lợi ích bản thân để
xây dựng và bảo vệ nhân dân, Tổ quốc và đó cũng chính là có trách nhiệm với
bản thân, xã hội và Tổ quốc.
Đức dấn thân trong giáo lý nhà Phật có thể nói là rõ nhất trong con
người của Hồ Chí Minh, dấn thân vì lợi ích của dân tộc, vì cuộc sống của
đồng bào, của xã hội, không chút tư lợi, cá nhân. Dấn thân là sự phát tâm vì
lợi ích của tha nhân vì vậy trong một số trường hợp phải chấp nhận sự hy

sinh, mất mát. Dấn thân là hành động mang tâm nguyện Bồ-tát, vì đó là sự
phát tâm đem lại lợi ích cho nhiều người. Đức Phật là minh chứng cao cả cho
sự lập nguyện, dấn thân: Ta mang cỏ munja/ Vững thay, đây đời sống/ Thà Ta
chết chiến trận/ Tốt hơn, sống thất bại. Công cuộc tự chuyển hóa mình cũng
đồng thời là một quá trình nỗ lực, dấn thân, dấn thân là hành động mang tâm
nguyện Bồ-tát. Vì cuộc đời vốn dĩ đầy bất hạnh và lắm khổ đau nên người
mang tâm nguyện Bồ-tát luôn nỗ lực bằng những gì có thể, nhằm làm vơi khổ
cho đời. Dấn thân không đồng nghĩa với sự liều mạng, quên thân, dấn thân
theo chuẩn mực Phật dạy phải dựa trên cơ sở của sức mạnh, tình thương và trí
tuệ, chỉ có như vậy thì sự dấn thân mới tròn đầy ý nghĩa, và giảm đi những
tổn thất không đáng có trong khi thực thi hạnh nguyện giúp đời. Đạo Phật
mang nghĩa vị tha, và dấn thân là một biểu hiện tạm quên đi bản ngã, dấn thân
là sự tận hiến cho đời mà không nghĩ về tư lợi. Cũng giống như Hồ Chí Minh,
Người hy sinh cho tất cả chỉ quên mình, dâng hiến cả cuộc đời, tất cả trí tuệ
và sức lực cho dân tộc, con người Việt Nam, tất cả thể hiện một con người có
tinh thần trách nhiệm cao cả.
19


×