Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Nghiên cứu xây dựng chương trình theo cấu trúc modul cho đào tạo nghề điện công nghiệp tại trường cao đẳng công nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

------------------------------------------------

Nguyễn Thanh Minh

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH
THEO CẤU TRÚC MODUL CHO ĐÀO TẠO NGHỀ
ĐIỆN CÔNG NGHIỆP TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG
CÔNG NGHIỆP VIỆT ĐỨC

Luận văn thạc sĩ sư phạm kỹ thuật

Hướng dẫn khoa học: TS Lê Viết Khuyến
GS TS Hanno Hortsch

Hà nội 2007


1

LỜI CẢM ƠN

V

ới tình cảm chân thành của tác giả, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
sâu sắc tới Ban Giám Hiệu cùng các Giáo sư, Giảng viên hai trường Đại học

Bách khoa Hà nội và trường Đại học Tổng hợp kỹ thuật Dresden (CHLB Đức) và
các Giảng viên của Viện Chiến lược và Phát triển chương trình giáo dục đã tham gia


giảng dạy lớp cao học Việt Đức- Khóa 4 năm học 2005-2007 tại Đại học Bách khoa
Hà nội, đã tạo điều kiện cho tác giả được học tập và nghiên cứu đề tài này.
Tác giả đặc biệt chân thành cảm ơn sâu sắc tới Tiến sỹ Hoàng Ngọc Vinh
cùng Tiến sỹ Lê Viết Khuyến - Bộ Giáo dục và Đào tạo và Giáo sư -Tiến sỹ Hanno
Hortsch – Đại học Tổng hợp kỹ thuật Dresden (CHLB Đức) đã trực tiếp hướng dẫn
tác giả hoàn thành cuốn Luận văn tốt nghiệp này.
Do điều kiện về thời gian cũng như hạn chế về kinh nghiệm, trình độ nghiên
cứu và sự mới mẻ của đề tài nghiên so bản thân nên đề tài nghiên cũng không tránh
khỏi những thiếu sót.
Rất mong nhận được sự đóng góp, bổ xung của Hội đồng chấm luận văn tốt
nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Hà nội, tháng 02 năm 2007
Tác giả

Nguyễn Thanh Minh


2

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các thuật ngữ viết tắt
Phần 1
MỞ ĐẦU
Phần 2

NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TIẾP CẬN CHƯƠNG TRÌNH
ĐÀO TẠO THEO MODULE
1.1 .Tổng quan về chương trình đào tạo.
1.1.1 . Khái niệm chương trình đào tạo .
1.1.2. Đổi mới mục tiêu chương trình đào tạo.
1.1.3. Đổi mới nội dung chương trình đào tạo.
1.1.4. Chương trình đào tạo và cách tiếp cận.
1.1.5 . Những thuật ngữ liên quan đến chương trình đào tạo.
1.2 . Chương trình đào tạo theo modul và các quan điểm về modul.
1.2.1. Cơ sở lý luận khi thiết kế chương trình theo module.
1.2.2. Modul và khái niệm modul.
1.2.3. Các quan điểm về thiết kế chương trình theo Module.
1.2.4. Các mục tiêu của modul.
1.3. Đánh giá và các mục tiêu đánh giá trong các khoá học module.
1.3.1. Sự quan trọng của đánh giá trong đào tạo theo modul.
1.3.2. Đánh giá liên tục.
1.3.3. Nội dung đánh giá.
1.4. Cấu trúc của Modul đào tạo nghề.
1.4.1. Khái niệm về cấu trúc modul đào tạo.
1.4.2. Các kiểu cấu trúc chương trình đào tạo nghề.
1.4.3. Ưu điểm của đào tạo theo cấu trúc mô hình module.
1.4.4. Hạn chế của đào tạo theo modul (Đào tạo nghề theo modul).
1.4.5. Các dấu hiệu cơ bản trong đào tạo theo Module.
1.4.6. Các bước xây dựng chương trình đào tạo theo module.
1.5. Cấu trúc chương trình đào tạo nghề dựa trên Năng lực thực hiện.
1.5.1.Vai trò của người học nghề
1.5.2. Đào tạo nghề dựa trên Năng lực thực hiện.
1.5.3. Mối quan hệ của các thành phần trong chương trình đào tạo nghề
theo modul


1
2
4
5
9

9
9
11
11
12
13
14
14
17
18
21
22
22
22
23
23
23
25
33
34
34
36
40

40
41
42


3

Chương 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
NGHỀ ĐIỆN CÔNG NGHIỆP TẠI TRƯỜNG CĐCN VIỆT ĐỨC
2.1. Giới thiệu về trường CĐCN Việt Đức
2.1.1. Một số đặc điểm của nhà trường
2.1.2. Điều kiện khác đáp ứng cho việc dạy và học
2.2. Phân tích đánh giá chương trình đào tạo hiện hành
2.2.1. Khái quát về chương trình các môn học.
2.2.2. Về phân phối thời gian toàn khoá.
2.2.3. Về chương trình các môn học.
2.2.4. Đặc điểm nội dung và hình thức giảng dạy ngành Điện Công
nghiệp.
2.2.5 . Những hạn chế của chương trình đào tạo hiện hành.
2.2.6 . Đề xuất cấu trúc chương trình đào tạo theo Modul cho nghề
Điện công nghiệp.
Chương 3. ĐỀ XUẤT CẤU TRÚC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THEO
MODUL CHO NGHỀ ĐIỆN CÔNG NGHIỆP
3.1. Cấu trúc chương trình đào tạo ngành Điện công nghiệp theo Modul.
3.1.1.Một số cơ sở pháp lý về xây dựng chương trình đào tạo.
3.1.2. Xác định mục tiêu dạy học.
3.1.3. Xác định modul dạy học, nội dung và thời lượng các môn học
3.1.4. Phân tích nghề.
3.1.5. Phân cấp quá trình đào tạo.
3.1.6. Cấu trúc môn học.

3.1.7. Modul và mã hoá các modul.
3.2. Mô hình cấu trúc hoá chương trình đào tạo nghề Điện công nghiệp
3.2.1. Mục tiêu chung.
3.2.2. Cấu trúc chương trình.
3.3. Cấu trúc chương trình.
3.3.1. Nội dung chương trình cụ thể.
3.3.2. Chương trình đào tạo ngành Điện công nghiệp theo modul.
3.3.3. Khung các modul kỹ năng.
3.3.4. Danh mục các modul kỹ năng
3.4. Tổng hợp thăm dò ý kiến việc đánh giá và triển khai tổ chức đào tạo
theo modul
Phần 3
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
TÀI LIẸU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

45
45
47
48
48
50
51
53
54
61

64
64
65

65
66
67
68
69
70
70
72
76
76
76
78
79
84
86
88
2


4

DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

CTM

Chương trình đào tạo theo modul

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa hiện đại hóa.


CĐCN

Cao đẳng công nghiệp

CTĐT

Chương trình đào tạo

CNKT

Công nhân kỹ thuật

DACUM

Developing A Curriculum

ĐTN

Đào tạo nghề

GD&ĐT

Giáo dục & Đào tạo

GDNN

Giáo dục nghề nghiệp

KT


Kỹ thuật

KTCS

Kỹ thuật cơ sở

KTV

Kỹ thuật viên

KNTH

Kỹ năng thực hành

LT

Lý thuyết

LTCS

Lý thuyết cơ sở

LTCM

Lý thuyết chuyên môn

MKH

Modul kỹ năng hành nghề


NLTH

Năng lực thực hiện

TCCN

Trung cấp chuyên nghiệp

TH

Thực hành

THN

Thực hành nghề

THPT

Trung học phổ thông


5

Phần 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài và lịch sử vấn đề nghiên cứu.

X

u hướng toàn cầu hóa về Khoa học- Công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên

toàn thế giới. Tiến bộ khoa học công nghệ đã làm thay đổi kỹ năng lao động,

hình thức tổ chức công việc, mô hình quản lý trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Công nghệ thay đổi càng nhanh dẫn đến kỹ năng người lao động càng chóng
lạc hậu, người lao động cần thường xuyên cập nhật tri thức, kỹ năng và thái độ
trong nghề nghiệp để đáp ứng với vấn đề thay đổi đó. Mô hình sản xuất mềm dẻo
linh hoạt thì yêu cầu kỹ năng lao động cũng phải thay đổi theo.
Đặc biệt Việt nam gia nhập tổ chức thương mại kinh tế WTO chấp nhận nền
kinh tế thị trường vì vậy đã kéo theo những thay đổi về tính chất và nội dung của hệ
thống như hình thức tổ chức công việc, mô hình quản lý, mô hình sản xuất và có thể
nhiều nghề mới xuất hiện và cũng có thể nhiều nghề cũ dần mất đi đã đặt ra những
yêu cầu khác nhau về đào tạo đó là đào tạo lại và đào tạo thay đổi nghề nghiệp.
Bên cạnh đó ảnh hưởng của toàn cầu hóa của nền kinh tế thị trường đã đòi hỏi
người lao động phải có năng lực chuyển đổi kỹ năng (nghề), nghề nghiệp trong thị
trường lao động, tại nơi sản xuất các sản phẩm thường xuyên được thay đổi kéo
theo những mô hình sản xuất mới cũng thay đổi, để đáp ứng với sự thay đổi đó bắt
buộc người lao động phải chuyển đổi nghề cho phù hợp.
Khung luật pháp thay đổi dẫn đến những yêu cầu thay đổi về trình độ. Một
việc làm trước đây chỉ yêu cầu ở trình độ sơ cấp, nhưng những quy định mới ra đời
đòi hỏi người lao động để làm việc đó phải có trình độ trung cấp. Sự thay đổi về
công nghệ, những yêu cầu mới về kỹ năng đòi hỏi người ta phải học suốt đời, học
liên tục (lifelong learning) nhiều lần không phải học một lần để cập nhất kiến thức
mà phải học thường xuyên, để đáp ứng trước sự thay đổi mạnh mẽ của khoa học
công nghệ nhất là trong điều kiện nước ta chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế
thị trường nhiều thành phần có định hướng.


6


Để thích ứng với sự biến động của nền kinh tế trong giai đoạn mới, đòi hỏi
công tác Đào tạo nghề đặc biệt là chương trình đào tạo phải được thiết kế, tổ chức,
thực hiện linh hoạt và mềm dẻo, đa dạng hóa - kết cấu chương trình theo modul là
một lựa chọn trong việc phát triển chương trình đào tạo nghề hiện nay, nhằm phù
hợp với nhu cầu của thị trường lao động cũng nhu nhu cầu của người học, hình
thành và phát triển tốt Năng lực thực hiện trong nghề nghiệp.
Trên thế giới chương trình đào tạo được thiết kế theo module đã được sử
dụng để đào tạo người lao động từ những năm 20 của thế kỷ XX ở Mỹ và sau đó ở
Anh, Pháp, Thụy điển, Đức, Oxtraylia và các quốc gia châu Á như Nhật,Thái
lan…Theo thời gian và lịch sử thì cách tổ chức đào tạo theo modul ở các nước có
thể khác nhau nhưng nó vẫn có nhũng cái chung và giống nhau như: tính trọn vẹn,
đơn lẻ, tự hoàn thiện và có thể lắp ghép. Nó chứa đựng nội dung đào tạo và có các
mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố khác nhau của quá trình đào tạo.
Ở Việt Nam, phương thức đào tạo nghề theo module đã được các nhà khoa học
tại Viện chiến lược và Chương trình giáo dục cũng như Bộ GD&ĐT quan tâm
nghiên cứu từ những thập niên 80 của thể kỷ XX. Sau đó cũng đã thử nghiệm và
biên soạn tài liệu vào đào tạo nghề ngắn hạn theo phương thức modul tại một số cơ
sở Dạy nghề.
Mặc dù, chương trình đào tạo nghề theo module có nhiều ưu điểm song vẫn còn
những hạn chế như thiếu tính hệ thống chặt chẽ của từng môn học, cấu trúc nội
dung đào tạo của một nghề kém phần logic, biên soạn tài liệu, trang thiết bị phục vụ
giảng dạy công phu, mất nhiều thời gian và tốn kém.
Do phương thức đào tạo này vẫn còn mới mẻ, chưa được tổ chức thực hiện một
cách hệ thống và phổ biến rộng rãi nhất là cho đào tạo dài hạn tại nhiều các cơ sở
đào tạo mà đang chủ yếu cho hệ đào tạo ngắn hạn tại các cơ sở Đào tạo hiện nay.
Vì vậy nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu xây dựng chương trình theo cấu trúc
module cho đào tạo nghề Điện công nghiệp tại trường Cao đẳng công nghiệp
Việt Đức” là cần thiết, giúp nhà trường chủ động trong việc tổ chức đào tạo theo



7

Modul cho đào tạo nghề Điện và các nghề khác tại nhà trường, đáp ứng phần nào
trước nhu cầu thị trường lao động hiện nay nhất là nền kinh tế hội nhập.

2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Tiến hành nghiên cứu và hoàn thiện cơ sở lý luận - thực tiễn về chương trình đào
tạo theo cấu trúc Modul của đào tạo nghề Điện Công nghiệp tại trường CĐCN ViệtĐức.

3. Đối tượng nghiên cứu.
Là cấu trúc chương trình đào tạo nghề Điện Công nghiệp theo cấu trúc modul tại
trường CĐCN Việt-Đức.

4. Khách thể nghiên cứu
Quá trình đào tạo nghề Điện công nghiệp tại trường CĐCN Việt đức.

5. Giả thiết khoa học.
Hiện nay chương trình đào tạo nghề Điện công nghiệp tại nhà trường còn
đang thực hiện theo chương trình truyền thống cũ (theo môn học) nên đã bọc lộ
nhiều nhược điểm trước sự phát triển mạnh mẽ của Khoa học- Công nghệ cũng như
trước thềm hội nhập.
Chương trình đào tạo nghề Điện công nghiệp tại nhà trường được khắc phục
những nhược điểm của chương trình truyền thống cũ nếu chương trình được xây
dựng theo cấu trúc modul dựa trên năng lực thực hiện.

6. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đề tài giới hạn chỉ tập chung nghiên cứu và hoàn thiện cơ sở lý luận - thực tiễn về
chương trình đào tạo về xây dựng chương đào tạo nghề Điện công nghiệp theo modul.
- Đánh giá chương trình đào tạo hiện tại.
- Đề xuất cấu trúc chương trình đào tạo với nghề Điện công nghiệp tại nhà trường.


7. Nhiệm vụ nghiên cứu.


Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng chương trình đào tạo

nghề Điện công nghiệp theo modul.


8



Phân tích những hạn chế của chương trình đào tạo hiện hành: Thông qua khảo

sát và hội thảo phân tích nghề DACUM làm cơ sở để xây dựng chương trình đào
tạo theo cấu trúc modul.


Đề xuất cấu trúc chương trình đào tạo nghề theo modul với nghề Điện.

8. Phương pháp nghiên cứu đề tài
™ Phương pháp nghiên cứu lý luận.
• Nghiên cứu sách, tài liệu, các văn bản pháp quy có liên quan đến đề tài, trên
cơ sở đó phân tích, tổng hợp, khái quát hoá cơ sở lý luận và kế thừa các kết quả
nghiên cứu của các công trình có liên quan để có các cứ liệu giải quyết các vấn đề
lý luận mà đề tài đặt ra.
• Mô hình hóa: Xây dựng sơ đồ cấu trúc chương trình theo modul làm cơ sở
cho việc triển khai, vận dụng.
™ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

• Phương pháp chuyên gia:Trao đổi lấy ý kiến từ chuyên gia có nhiều kinh

nghiệm trong thực tiễn đào tạo tại nhà trường. Lấy ý kiến bằng phiếu thăm dò với
đội ngũ giáo viên và doanh nghiệp sản xuất.


9

NỘI DUNG

Phần 2
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TIẾP CẬN CHƯƠNG TRÌNH
ĐÀO TẠO THEO MODULE

1.1. Tổng quan về chương trình đào tạo.
1.1.1 . Khái niệm chương trình đào tạo .
Tiếp cận modul trước khi trở thành một phương thức đào tạo là một ý tưởng
về tổ chức quá trình dạy học. Nó là thể hiện cụ thể của một cách tiếp cận trong giáo
dục và đào tạo. Chương trình đào tạo là sự thể hiện cuối cùng của các ý tưởng. Để
thực hiện một chương trình đào tạo có cấu trúc modul, khi thiết kế chương trình đều
có những ý tưởng về tiếp cận đào tạo, sau đó sẽ quyết định mục tiêu-nội dungphương pháp đào tạo. Tính hiệu quả của chương trình đào tạo phải được thể hiện
qua chất lượng "đầu ra" của người học. Người học phải có khả năng giải quyết
được nhanh chóng những nhiệm vụ do sản xuất và dịch vụ đặt ra.
Muốn vậy, chương trình đào tạo phải giúp người học phải có được các kỹ
năng thực hiện, nó phải thích hợp cho chuyển đổi và di chuyển nghề, cũng như
thích hợp cho việc kiểm tra, đánh giá.
Chương trình đào tạo là trong những thành tố quan trọng quyết định chất
lượng đào tạo và hiệu quả công tác đào tạo. Việc xây dựng một hệ thống chương

trình đào tạo đến tận cơ sở nhằm cung cấp thông tin, tư vấn, hướng dẫn quá trình tự
định hướng học tập của người học là một trong những giải pháp quan trọng hàng
đầu của các chính sách đào tạo hiện nay.
Vì thế chương trình đào tạo có vai trò quan trọng không chỉ với hoạt động
học của người học và có tác động mạnh mẽ tới các hoạt động đào tạo của nhà
trường về các mặt như

[14]

: về tính kinh tế, chất lượng đào tạo, quản lý, thị trường

đào tạo và tác động của xã hội bên cạnh đó chương trình đào tạo còn chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố như người học, người dạy, nhà tuyển dụng lao động và thay
đổi theo sự phát triển của xã hội.


10

Chương trình đào tạo là tất cả các hoạt động mà người học cần thực hiện để
theo học hết khóa học và đạt được mục đích tổng thể. Do đó với người học thì
chương trình đào tạo cho biết toàn bộ nội dung cần đào tạo, chỉ ra cho người học sẽ
thu lượm được gì sau khi kết thúc khóa học. Chương trình đào tạo còn phác họa ra
quy trình cần thiết để thực hiện nội dung đào tạo, phương pháp và hình thức kiểm
tra đánh giá kết quả học tập. Đó là bản thiết kế tổng thể cho một hoạt động đào tạo,
tất cả được sắp xếp theo thời gian biểu chặt chẽ.
Đối với nhà trường hay cơ sở đào tạo thì chương trình đào tạo cho biết
những nội dung và phương pháp dạy học cần thiết để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Đó là một kế hoạch phản ánh các mục tiêu đào tạo mà nhà trường sẽ thực hiện.
Vì vậy chương trình đào tạo có những mối quan hệ cơ bản của việc ấn định
mục tiêu học tập, nội dung học tập và tổ chức quá trình học tập.Với những phạm

vi, quan niệm khác nhau song đều thừa nhận rằng các bộ phận cơ bản cấu thành
một chương trình đào tạo bao gồm:
- Mục tiêu đào tạo (trình độ đào tạo cần hướng tới)
- Nội dung đào tạo ( đối tượng lĩnh hội mà mục tiêu đề ra)
- Phương pháp, quy trình đào tạo (phương tiện và cách thức để đạt mục tiêu)
- Tổ chức đào tạo ( kế hoạch thực hiện)
- Cách thức kiểm tra đánh giá ( kiểm tra đánh giá kết quả dạy và học)
Chúng gắn kết chặt chẽ với nhau như một chỉnh thể để đảm bảo thực hiện tốt mục
tiêu, nội dung đào tạo và đáp ứng nhu cầu và lợi ích của người học.
1.1.2. Đổi mới mục tiêu chương trình đào tạo
Trong thực tế, khi nói đến mục tiêu đào tạo cần đề cập đến diện đào tạo, trình
độ kiến thức, kỹ năng và thái độ theo yêu cầu của thực tế sử dụng mà người tốt
nghiệp phải đạt được, tức là phải đề cập đến và dựa vào tiêu chuẩn ngành nghề đào
tạo. Như vậy là cần phải xác định được mục tiêu đào tạo sao cho đáp ứng được nhu
cầu sử dụng nhân lực tại nơi làm việc và đáp ứng yêu cầu phát triển con người toàn
diện, bền vững trong từng giai đoạn phát triển của kinh tế - xã hội.


11

Việc đổi mới mục tiêu đào tạo phải đáp ứng yêu cầu trước mắt của thị trường
lao động đồng thời đảm bảo khả năng thích ứng của người học trước những thay đổi
do tiến bộ công nghệ, kinh tế và xã hội. Điều đó liên quan đến mức độ rộng hay
hẹp, nông hay sâu của mục tiêu đào tạo theo những lĩnh vực ngành nghề khác nhau.
Nếu mục tiêu đào tạo quá chuyên sâu, quá nhấn mạnh đến kỹ năng thực hành thì
người học có thể dễ nhận được việc làm ngay sau khi ra trường song lại dễ gặp phải
rủi ro khi điều kiện tại nơi làm việc thay đổi.
Bất luận ở cấp trình độ đào tạo nào, ở ngành nghề nào, ngày nay chúng ta
đều cần đặc biệt nhấn mạnh những kỹ năng nghề nghiệp và thái độ ưu tiên cần có ở
người lao động, chúng phải được thể hiện rõ trong mục tiêu đào tạo. Đó là kỹ năng

nghề nghiệp và thái độ, đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, tác phong công nghiệp,
tinh thần hợp tác, làm việc theo nhóm, ý thức pháp luật, kỷ luật lao động.
1.1.3. Đổi mới nội dung chương trình đào tạo
Việc đổi mới nội dung chương trình đào tạo trong đào tạo nghề phải đảm bảo
được các yêu cầu chủ yếu như:
o Nội dung chương trình phải phù hợp với nhu cầu thị trường lao động về
ngành nghề đào tạo và các cấp trình độ khác nhau.
o Cấu trúc của các chương trình đào tạo phải được thiết kế liên thông giữa
các cấp trình độ đào tạo để đảm bảo tính mềm dẻo, linh hoạt, tạo điều kiện cho
người lao động có thể học suốt đời, không ngừng nâng cao năng lực nghề nghiệp.
Như vậy, định hướng xây dựng nội dung chương trình đào tạo nghề theo
Modul trong tiếp cận “đào tạo theo năng lực thực hiện” là một định hướng đúng
đắn. Định hướng này phù hợp với xu hướng chung trong việc phát triển chương
trình đào tạo nghề nghiệp của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay.
1.1.4. Chương trình đào tạo và cách tiếp cận
Một phương thức đào tạo chứa đựng trong nó nhiều yếu tố tư tưởng "học
sinh là trung tâm", "tích cực hoá người học". Để có được một chương trình như


12

vậy, hẳn có nhiều cách tiếp cận trong xây dựng và phát triển chương trình đào tạo,
hiện nay có những cách tiếp cận đang được vận dụng khá phổ biến như:
Cách tiếp cận hệ thống:[14] Theo cách này mọi người học học được giả định
là nhu cầu như nhau, trước khi được đào tạo họ có đầu vào như nhau và khi tốt
nghiệp họ đạt được cùng một kết quả tương tự.Vì vậy, chỉ cần một nhóm người
(một chuyên gia) biên soạn chương trình đào tạo và quy định áp dụng thống nhất
chương trình này trong các đơn vị đào tạo liên quan.
Cách tiếp cận có sự tham gia của các bên liên quan:[5] Cách tiếp cận này cho
rằng mọi người hoàn toàn khác nhau ngay từ điểm xuất phát. Trong khi học, họ sẽ

thay đổi thông qua tương tác với các nhóm liên quan khác nhau. Việc xây dựng
chương trình đào tạo sẽ tiến hành với sự tham gia của tất cả các nhóm liên quan tùy
theo nguồn lực và mối quan tâm của mỗi nhóm đó.
Cách tiếp cận nội dung: Coi chương trình đào tạo là tập hợp các môn học
được dạy theo một thứ tự định sẵn với thời lượng tùy chọn thuộc nội dung dạy học.
Nó không thể hiện được tính tích cực của người học.
Cách tiếp cận theo mục tiêu (objective approach): nhấn mạnh mục tiêu
chương trình đào tạo, sau đó nội dung chương trình đào tạo sẽ được thiết kế theo
mục tiêu.Theo cách này thì đã khẳng định trước những kiến thức, kỹ năng và giá trị
mà người học cần đạt được sau khi học xong chương trình.
Cách tiếp cận phát triển: Chương trình đào tạo có thể coi như một bản thiết
kế được xác định qua các bước kế tiếp nhau, kết hợp chặt chẽ mục tiêu, nội dung,
phương pháp dạy và học, kiểm tra đánh giá nhằm khẳng định mức độ đạt được kết
quả học tập mong muốn của một khóa học hay một trình độ đào tạo
Hướng tiếp cận “năng lực thực hiện” và dựa vào tiêu chuẩn về kiến thức kỹ
năng thái độ của các hoạt động lao động nghề nghiệp được xác định rõ ràng để đảm
bảo chất lượng đào tạo toàn diện, đồng thời đảm bảo khả năng hành nghề của
người học sau khi tốt nghiệp.


13

Cách tiếp cận theo triển vọng của giáo dục, nội dung của các khoá học kiểu
modul có thể được đánh giá và công nhận một cách đơn giản, do đó việc học tập ưu
tiên và liên thông có thể thực hiện một cách dễ dàng.
1.1.5. Những thuật ngữ liên quan đến chương trình đào tạo.
Hiện nay có nhiều cách hiểu và diễn giải về chương trình đào tạo cũng như
các quan điểm của các nhà nghiên cứu về giáo dục, song theo luật giáo dục mới đã
điều chỉnh đưa ra một số thuật ngữ[4] :
- Chương trình giáo dục (CTDG) thể hiện mục tiêu giáo dục; quy định chuẩn

kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình
thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các
môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học hoặc trình độ đào tạo, phải bảo đảm tính hiện đại,
tính ổn định, tính thống nhất, kế thừa giữa các cấp học, các trình độ đào tạo và tạo
điều kiện cho sự phân luồng, liên thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo,
ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.
- Chương trình giáo dục nghề nghiệp (CTGDNN) thể hiện mục tiêu giáo dục
nghề nghiệp; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo
dục nghề nghiệp, phương pháp và hình thức đào tạo, cách thức đánh giá kết quả đào
tạo đối với mỗi môn học, ngành, nghề, trình độ đào tạo của giáo dục nghề nghiệp;
bảo đảm yêu cầu liên thông với các chương trình giáo dục khác.
- Chương trình môn học (CTMH) quy định những kiến thức, kỹ năng, kỳ xảo
cần trang bị cho học sinh của môn học đã được đề ra "trong kế hoạch đào tạo
(KHĐT) mỗi ngành, mỗi nghề đào tạo". Chương trình môn học là căn cứ để triển
khai việc giảng dạy, biên soạn giáo trình, sách giáo khoa cho môn học và để kiểm
tra công tác đào tạo trong nhà trường.
- Chương trình dạy nghề: Chương trình dạy nghề quy định mục tiêu, kế
hoạch, nội dung các hoạt động dạy nghề, bao gồm:
- Mục tiêu đào tạo theo trình độ đào tạo.
- Kế hoạch đào tạo: bao gồm kế hoạch giảng dạy và kế hoạch học tập.


14

- Chương trình môn học hoặc modul đào tạo.
- Kế hoạch hoạt động giáo dục hoạt động ngoại khóa.
- Chương trình môn học: Là văn bản quy định mục tiêu, nội dung, phân phối
thời gian đến từng học trình nhằm hướng dẫn người thực hiện đúng tiến độ.

1.2. Chương trình đào tạo theo modul và các quan điểm về modul.

1.2.1. Cơ sở lý luận khi thiết kế chương trình theo module.
Hoạt động dạy học đã và đang chịu tác động mạnh mẽ của các khuynh
hướng nhân văn tới việc hình thành các triết lý dạy học đó là triết lý dạy học hướng
vào người học (Learner-Centered instruction) đào tạo hướng đến đảm bảo quyền và
cơ hội học tập cho mọi người làm nền tảng cho việc xây dựng xã hội tri thức.
Trong cuốn “Tiếp cận modul trong xây dựng chương trình đào tạo nghề”[8]
tác giả đã khẳng định “ Nội dung đào tạo lấy giải quyết vấn đề làm trọng tâm” Để
có thể giúp người học giải quyết vấn đề học tập của mình, trước hết chương trình
phải được cấu trúc trên các vấn đề của người học. Hơn thế chương trình đào tạo phải
hướng tới và giúp người học giải quyết trọn vẹn và thành công vấn đề học tập của
mình. Chương trình đào tạo không chỉ vì người học, theo vấn đề người học mà còn
phải cấu trúc sao cho thích hợp với khả năng giải quyết vấn đề của người học.
Theo cách diễn đạt trong cuốn “Tiếp cận module trong xây dựng chương trình
đào tạo nghề”[8] “Cần tạo điều kiện cho người học đi từ cái chưa biết” (Letting the
learners go from known to the unknown) chứ không phải “dắt người học thụ động đi
từ cái đã biết đến cái chưa biết”(Taking the learners from the known to the
unknown). Cách diễn đạt này vận dụng qua việc xác định đặc điểm cơ bản của nội
dung dạy học trong đó:
* Nội dung đào tạo lấy giải quyết vấn đề làm trọng tâm (Problem-Centered) hơn là
lấy nội dung làm trọng tâm (Content-Centered).
* Khuyến khích sự tham gia tích cực của người học.
* Khuyến khích vận dụng kinh nghiệm sẵn có vào xử lý các tình huống mới.


15

* Đánh giá và hiệu chỉnh lại nhu cầu nguyện vọng người học.
Vì vậy một chương trình được cấu trúc trên các vấn đề trọn vẹn, thực chất là
một chương trình được cấu trúc từ các modul học tập, đơn vị học tập tron vẹn, giúp
người học giải quyết được vấn đề mà học mong muốn giải quyết.

Quá trình phát triển chương trình đào tạo và thực hiện chương trình đào tạo có
mối quan hệ khăng khít với quá trình phân tích thị trường lao động (đầu vào) và
quá trình đánh giá và xác nhận kết quả đào tạo đối với người tốt nghiệp (đầu ra)
đáp ứng các mục tiêu kinh tế xã hội sẽ giúp các ngành đào tạo có những điều
chỉnh kịp thời trong việc phát triển chương trình và thực hiện chương trình
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Được thể hiện qua hình 1.1[11]:
Nguồn:Viện chiến lược và Chương trình giáo dục-1996

Thị trường lao
động và công việc

Phát triển và thực hiện
chương trình

Người tốt nghiệp

Hình 1.1 – Mô hình phát triển chương trình đào tạo

Chương trình đào tạo cần được cấu trúc và biên soạn sao cho việc kiểm tra
đánh giá diễn ra liên tục và thuận lợi.Việc kiểm tra đánh giá do chính người học tự
thực hiện, tự xác định độ hoàn thành và tự điều chỉnh hoạt động học tập của mình.
Với việc thiết kế chương trình đào tạo có những yếu tố trọng tâm cần phải
lưu ý tới đó là: Mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp, quy trình đào
tạo, tổ chức đào tạo và cách thức kiểm tra đánh giá ( kiểm tra đánh giá kết quả
dạy và học).
Thiết kế chương trình đào tạo phải chú ý đến nhu cầu người học cũng như
kết quả đầu ra của một chương trình (learning outcomes). Trong báo cáo tổng
kết đề tài cấp bộ: B93-38-24 “Tiếp cận đào tạo nghề dựa trên năng lực thực hiện
và việc xây dựng tiêu chuẩn nghề”[11] đã đưa ra các phương án thay đổi các yếu



16

tố khi thiết kế chương trình đào tạo cần quan tâm tới nội dung và năng lực của
người tốt nghiệp có thể xét bảng dưới đây:
Các phương án thay đổi các yếu tố trong thiết kế chương trình đào tạo.
Nguồn:Viện chiến lược và Chương trình giáo dục

Phương án

Nội dung

Thời gian

Sự thành thạo (năng lực)

1

Cố định

Cố định

Cố định

2

Cố định

Cố định


Có thể thay đổi

3

Cố định

Có thể thay đổi

Cố định

4

Cố định

Có thể thay đổi

Có thể thay đổi

Phương án 1: Khó đạt được sự thành thạo như nhau vì thời gian, nội dung (cố
định).
Phương án 2: Sự thành thạo tùy thuộc vào sự nỗ lực của mỗi học viên sau khóa học.
Phương án 3: Triết lý chính là: Lý thuyết về làm chủ học tập (Theory of mastery
learning) có thể đạt đến trình độ nắm vững nội dung học tập khi: có
sự hướng dẫn tốt của người giáo viên (vai trò của người thày) và có
đủ thời gian học tập (tiếp cận dạy học cá nhân hóa)
Phương án 4: Cho thấy các khóa học linh hoạt, thay đổi phù hợp cả về thời gian và
cả về sự thành thạo theo yêu cầu.[11] Nguồn: Tiếp cận đào tạo nghề dựa
trên năng lực thực hiện.
Điểm chủ yếu của các phương án này là trong thiết kế chương trình tối đa chỉ có 2
yếu tố có thể cố định.

Khi thiết kế các khoá học modul cần thiết phải đảm bảo có đủ thời gian cho
việc giảng dạy lý thuyết cơ bản phục vụ cho hình thành kỹ năng và đủ thời gian
thực hành nhằm đảm bảo kỹ năng đã được hình thành ở người học.
Các kỹ năng giải quyết tình huống chỉ có thể trở thành hiện thực khi người
học hiểu đầy đủ về lý thuyết và cách áp dụng lý thuyết đó vào thực tiễn. Điều này
chỉ ra rằng những người thiết kế các môn học kiểu modul cũng cần phải lập kế
hoạch về nội dung và quá trình thực hiện một cách cẩn thận, luôn liên hệ với trình
độ thực tế của học viên cũng như mục đích của nghề nghiệp sẽ trang bị cho họ.


17

Cũng cần sự phối hợp của các chiến lược dạy và học nhằm giúp đỡ, củng cố
sự phát triển nhận thức của người học cũng như giúp người học có thể dễ dàng phát
triển nghề nghiệp tới mức độ cao hơn.
Như vậy chương trình đào tạo phải hướng tới và giúp người học có được kỹ
năng thực hiện, nó phải thích hợp cho việc chuyển đổi nghề.Tính hiệu quả của
chương trình khi thiết kế phải thể hiện qua chất lượng đầu ra của người học. Đó là
phải có khả năng giải quyết được nhanh chóng những nhiệm vụ do yêu cầu công
việc đặt ra.
1.2.2. Modul và khái niệm modul
Thuật ngữ modul (khối) xuất phát từ lĩnh vực công nghệ /sản xuất có xuất xứ
từ thuật ngữ La tinh “modulus” có nghĩa là thước đo dùng chủ yếu trong xây dựng.
Modul hoá là thuật ngữ được dùng để mô tả một quá trình cho phép việc chế tạo ra
sản phẩm cuối cùng dễ dàng hơn và giá thành rẻ hơn (lĩnh vực công nghệ- kỹ thuật).
Các khái niệm này được phát triển trong nhiều lĩnh vực, gồm cả lĩnh vực giáo dục
và đào tạo.
Trong lĩnh vực Đào tạo (dạy và học) từ nhiều năm trước người ta đã thiết kế
"các hệ thống modul" nhằm đơn giản hoá việc sử dụng, linh hoạt hơn với nhiều
cách khác nhau (so với cách dạy kiểu rập khuôn).

Trong sự thay đổi nhanh chóng các yêu cầu của nền công nghiệp, sự phát
triển về số lượng của các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục nghề nghiệp, yêu cầu về
tính linh hoạt, đa dạng và năng động của nhân lực, modul và modul hoá là một công
cụ hiệu quả để có thể đạt được các mục tiêu trên.
Có thể tóm tắt như sau dưới góc độ đào tạo[17]: Modul là các đơn vị học tập
độc lập với ít nhất ba đặc tính: ngắn, có thể được kết hợp theo một số cách khác
nhau để hình thành nên chương trình đào tạo, chúng có thể được đánh giá riêng rẽ
hoặc đồng thời.
Mỗi modul được xác định bởi mục tiêu, các kỹ năng cần đạt được, nội dung
và độ dài. Các nội dung cần phát triển có tầm quan trọng hơn các kiến thức cần đạt
được, nhằm thích nghi được với các tình huống đa dạng trong nghề nghiệp.


18

Mỗi modul cho phép đánh giá các kỹ năng đã được trang bị và dẫn đến việc
chứng nhận mức độ mà người học đã đạt được.
Trong phương thức đào tạo nghề theo modul hành nghề thường đề cập đến
một số khái niệm và thuật ngữ như[6]:
Modul hành nghề (Modules of Employable Skills) có thể khái niệm như là
một phần nội dung đào tạo của một hay một số nghề hoàn chỉnh được cấu trúc các
module tích hợp giữa lý thuyết và thực hành mà sau khi học xong học viên có thể
ứng dụng để hành nghề trong xã hội.
Modul được cấu trúc nội dung đào tạo nghề theo MKH, mỗi MKH chia
thành nhiều modul tương ứng với những công việc hợp thành modul hành nghề đó.
Modul là một phần của MKH được phân chia một cách logic theo từng công việc
(task) hợp thành một nghề nào đó, có mở đầu về kết thúc rõ ràng và về nguyên tắc
công việc này không chia nhỏ hơn được.
1.2.3. Các quan điểm về thiết kế chương trình theo Modul
Hiện nay khi nghiên cứu về modul đã có nhiều công trình được công bố trên

thế giới. Còn với Việt nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu từ thập kỷ 70 của
các nhà khoa học tại Viện chiến lược và chương trình giáo dục về modul cho dạy
nghề, vấn đề khó khăn nhất hiện nay là việc áp dụng rộng rãi vào các cơ sở đào tạo
bởi có nhiều yếu tố trong đó có yếu tố cơ sở vật chất.Và cũng có nhiều cách hiểu
khái niệm khác về modul đặc biệt là modul đào tạo theo những quan điểm :


Trong cuốn “Modular Desing” O’Donnel M.[19] cho rằng “Modul là một

đơn vị học tập liên kết tất cả các nội dung (aspects) của các môn học lý thuyết
(academic disciplines), các kỹ năng (skills) và các kiến thức liên quan (relate
knowledge) để tạo ra một năng lực chuyên môn (specified capability”.
Modul là đơn vị học tập trọn vẹn và có thể được thực hiện theo cá nhân hóa
và theo một trình tự xác định trước để kết thúc. Mỗi đơn vị module (modular unit)
là đơn vị trọn vẹn về mặt chuyên môn.Vì vậy nhờ những điều kiện cơ bản mỗi
modul tương ứng với khả năng việc làm (employability). Điều đó có nghĩa là việc


19

kết thúc một modul sẽ tạo ra những kỹ năng tối thiểu cần thiết cho tìm việc làm.
Đồng thời mỗi modul có thể hình thành một bộ phận nhỏ của chuyên môn của
người thợ lành nghề (qualified craftsman).
♦ Trong Ensuring Effective Learning from Modular Courses[17] đưa ra và xác
định modul đào tạo như:
Mỗi modul được xác định bởi mục tiêu, các kỹ năng cần đạt được, nội dung
và độ dài modul. Các nội dung cần phát triển có tầm quan trọng hơn các kiến thức
cần đạt được, nhằm thích nghi được với các tình huống đa dạng trong nghề nghiệp.
- Các yếu tố chung của " Kỹ năng mới/ năng lực/ khả năng chuyên môn"
- Triển vọng của "Kỹ năng mới/năng lực/ khả năng chuyên môn" đối với học

tập suốt đời.
♦ Theo quan điểm của Nhóm tác giả Bünning Frank, Hanno Horstch, Katrin
Novy về modul.[20] Đã thống nhất và đưa ra 3 quan điểm sau về modul Đào
tạo:
o Quan điểm 1: Modul được hiểu là những phần trình độ đào tạo ngắn hạn,
khép kín, và kiểm tra đánh giá được. Chỉ kiểm tra đánh giá sau mỗi modul
đào tạo, không thi tốt nghiệp giai đoạn cuối khóa.
Quan điểm này bị phê phán là dễ dẫn đến con người phát triển một cách phiến diện.
o Quan điểm 2: Modul được hiểu là những phần trình độ có thể đánh giá xác
nhận. Các modul thành phần đó luôn là một bộ phận của trình độ tổng thể.
Việc kiểm tra đánh giá theo các modul đơn lẻ không thay cho các kỳ thi tốt
nghiệp.
Quan điểm này phù hợp với đào tạo module hệ dài hạn.
o Quan điểm 3: Modul được hiểu là đơn vị học tập/học phần. Nội dung học
tập được chia nhỏ theo mục tiêu đào tạo. Module là những phần trình độ xác
định, được kiểm tra đánh giá.
Đào tạo theo modul (Modular Training) “Các đặc điểm, đặc trưng (features) gắn
liền với đào tạo modul bao gồm tính trọn vẹn, sự lĩnh hội nghề thuần thục (phương
pháp).Theo nhịp độ người học, các mục tiêu thực hiện và có sự đánh giá liên tục.


20

Tổ chức khóa học theo module (modular course organization)“ Tổ chức
khóa học theo module liên quan tới việc phân nhỏ khóa học hoặc nhiều khóa học
thành các modul sao cho các modul có thể lắp ghép lại (re-assembleed) thành các
tệp (course packages) thích hợp với người học cụ thể hoặc nhu cầu sản xuất”. Khái
niệm trình độ, chìa khóa trình độ "schlüsselqualifikationen" được đưa ra bởi
Merken[17] (Thập kỉ 70, Thế kỷ XX) nhằm đẩy mạnh việc đào tạo định hướng tương
lai. Sự mở rộng của các đặc tính của việc học tập cá nhân, các yêu cầu về kết quả

liên quan đến các hành động tự tổ chức bên trong chu kỳ "tổ chức học tập" (ví dụ
như tiến hành các nhiệm vụ của tự tổ chức), với tầm quan trọng các tiêu chuẩn chất
lượng chung cho việc phát triển chương trình và công việc đánh giá.
Tích hợp các năng lực hành động (integrierte handlungskompetenz) với các
năng lực nghề nghiệp cơ bản (fachkompetenz), năng lực xã hội (socialkompetenz),
làm chủ các tình huống thay đổi trong công việc (methodenkompetenz), gắn liền với
thiết kế khoá học tuân theo cách tiếp cận toàn bộ chương trình.
Tuy có những quan điểm khác nhau về Module, nhưng đều thống nhất ở chỗ:
Modul là những phần trình độ xác định, được kiểm tra, đánh giá, xác nhận. Đào
tạo theo modul mang tính linh hoạt, mền dẻo. Nó cho phép thích ứng liên tục
chương trình nhằm bảo đảm sự phù hợp của nó trước nhu cầu đào tạo của thị
trường lao động. Đào tạo theo modul vừa mang tính độc lập tương đối vừa mang
tính liên thông đảm bảo nguyên lý tích lũy trình độ. Modul có thể ảnh hưởng tới
việc tổ chức, kết cấu của quá trình đào tạo. Nó được thực hiện bởi thứ tự các giờ
học dưới hình thức giờ học định hướng vấn đề, giờ học dự án.
Ngoài ra, module mang tính chất trọn vẹn, tích hợp, tự hoàn thiện và có thể
lắp ghép phát triển.Vì vậy giúp người học hoàn thiện trình độ ở mức độ tổng thể cao
hơn.
1.2.4. Các mục tiêu của modul
Các nghĩa vụ về mặt kinh tế: Làm tăng trách nhiệm của hệ thống để thay đổi
các kỹ năng cần thiết. Các module dễ dàng được chỉnh sửa cũng như cập nhật hơn


21

so với các khoá học truyền thống. Các module "điều khiển bởi kết quả" rất thuận
tiện cho việc lập kế hoạch cho các chương trình đào tạo nghề nghiệp.
Thay đổi sư phạm: modul khuyến khích lấy học viên làm trung tâm, tự điều
chỉnh, học tập tích cực và độc lập. Có 2 khía cạnh cần được lưu ý trong mục tiêu
trên:

- Thứ nhất: Các modul dựa trên các dự án hoặc nhiệm vụ được sử dụng để
khuyến khích "học để học" và phát triển "các kỹ năng có thể chuyển đổi được"
như tính tự chủ, trách nhiệm, ra quyết định và khả năng giải quyết các nhiệm vụ
thực tiễn.
- Thứ hai: Các modul được sử dụng để trợ giúp việc nghiên cứu độc lập và
nhu cầu của người học, nhiệm vụ này là kiểu mẫu cho các chương trình module
thiết kế cho những người bỏ học giữa chừng, người thất nghiệp, những người
khuyết tật cũng như cho tất cả các học viên khác.
Tích hợp và hợp tác: Sử dụng để tích hợp các kiến thức cơ bản trong nhà
trường cũng như trong nghề nghiệp và nâng cao tính chặt chẽ cũng như linh hoạt
của hệ thống giáo dục nghề nghiệp.
Tuy nhiên, có một mối lo ngại rõ ràng là các khoá học kiểu modul không
nâng cao được hiệu quả học tập mặc dù trên thực tế chúng được sử dụng rộng rãi do
có những lợi thế cho người sử dụng phương pháp này.
Nhược điểm lớn của việc coi modul như là một phương pháp tổ chức nội
dung là nó có xu hướng phân đoạn quá trình tiếp thu kiến thức.
Điểm cần thiết là phải đảm bảo thực hành một cách đầy đủ và tích hợp các
modul hợp lí khi dạy học theo kiểu giải quyết vấn đề và tầm quan trọng của hành
động đánh giá, tích hợp các kiến thức thu được từ các modul.


22

1.3. Đánh giá và các mục tiêu đánh giá trong các khoá học module.
1.3.1. Sự quan trọng của đánh giá trong đào tạo theo modul.
Đánh giá là trọng tâm của các khoá học kiểu modul được điều khiển bởi nền
tảng năng lực, liên quan đến định hướng sản phẩm. Do đó khi kiểm tra đánh giá
cuối modul phải chú ý đến tính hợp lí và độ tin cậy của bài kiểm tra.
Một tính năng đặc biệt dễ phân biệt là sự công nhận chính thức và độ tin cậy
của năng lực đạt được trong một đơn vị modul /đào tạo và sau đó được kiểm tra vào

lúc cuối.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng việc lựa chọn một cách cẩn thận các nhiệm vụ
đánh giá nhằm đảm bảo tích hợp kiến thức từ các modul khác nhau với thời gian
thực hiện khác nhau không được coi là sự thay thế cho việc đánh giá cho mỗi
module, cũng không được coi đó là một module nhằm tích hợp lí thuyết và phát
triển các kỹ năng giải quyết tình huống.
1.3.2. Đánh giá liên tục
Sự đánh giá hợp lí và có hiệu quả liên quan đến tính chắc chắn trong hoạt
động nghề nghiệp trong mọi thời gian, trong các giới hạn tiếp cận học tập dựa trên
năng lực cũng như các giai đoạn phát triển kĩ năng hay nghề nghiệp. Mỗi modul
cho phép đánh giá các kỹ năng đã được trang bị và dẫn đến việc chứng nhận mức
độ mà người học đã đạt được.Tính chắc chắn trong hoạt động nghề nghiệp không
thể xác định được bằng một đánh giá. Qua một đánh giá không thể hiện hết và chính
xác được kỹ năng thực và ổn định mà người học đã được trang bị.
Nhiều vấn đề liên quan giữa đánh giá và học tập với các khoá học kiểu
modul có thể khắc phục bằng cách thực hiện nhiều đánh giá kết hợp. Các đánh giá kỹ
năng kết hợp cung cấp sự phản hồi tin cậy cũng như tạo điều kiện để điều chỉnh các
đánh giá hợp lí và tin cậy hơn. Các nghiên cứu về học tập kỹ năng cũng như sự phát
triển nghề nghiệp chỉ ra rằng sự phát triển các kỹ năng và kết hợp chúng để giải
quyết các tình huống kỹ thuật chính là mục tiêu của giáo dục và đánh giá giáo dục.


23

1.3.3 . Nội dung đánh giá
Nội dung đánh giá phải phản ánh chính xác mục tiêu đào tạo và tiêu chí
đánh giá được thay bằng các chuẩn đánh giá kết quả học tập và được trình bày rõ
trong mục tiêu để người học có thể biết trước ngay từ đầu để chuẩn bị việc học tập
của mình đạt kết quả cao. Bởi vậy nội dung đánh giá cho mỗi đơn nguyên học tập
cần trên cơ sở sau[6]:

- Phải dựa vào các chuẩn kỹ năng quốc gia đã được chấp nhận và được ban hành.
- Phải căn cứ vào các công nghệ chuẩn đang và sắp được sử dụng.
Thêm nữa, nếu chúng ta quá chú trọng đến việc đào tạo để đạt được các kỹ
năng giải quyết vấn đề thực hiện tốt nhất trong thực tế, chúng ta cần có một sự đánh
giá tổng thể về kiến thức đạt được trong mục tiêu của tất cả các modul của khoá
học, kiểm tra về sự tích hợp các kĩ năng và giải quyết vấn đề. Việc kiểm tra một
cách ngặt nghèo khi kết thúc khoá học và cấp chứng chỉ giúp cho việc đảm bảo
không chỉ việc tích hợp các kiến thức, đảm bảo các tiêu chuẩn cao mà còn là một
bằng chứng cho độ tin cậy của cơ sở đào tạo.

1.4. Cấu trúc của Modul đào tạo nghề.
1.4.1 . Khái niệm về cấu trúc modul đào tạo.
Xây dựng cấu trúc chương trình đào tạo theo cấu trúc modul dựa trên quan
điểm về đáp ứng chương trình đào tạo: có nghĩa là chương trình lấy việc giải quyết
vấn đề học tập của người học làm trọng tâm, hướng vào người học.Vì vậy, chương
trình cấu trúc theo các vấn đề học tập, các modul đào tạo là các đơn vị học tập trọn
vẹn và tích hợp. Hoàn thành một modul là người học thành công một nhiệm vụ mà
họ cần cho công việc.
Cấu trúc khoá học và các yếu tố tổ chức của khái niệm này cung cấp cho
người học những cơ hội cho việc thực hành và luyện tập dần dần từ đơn giản đến
phức tạp. Nhiều kỹ năng trong "thế giới thực" đạt được phản ánh qua nguyên lí này
và được xây dựng dần dần từ các kiến thức cơ bản. Bruner (1971)[17] cho rằng hiệu
suất học tập sẽ đạt được nhiều nhất đối với người học nghề khi có một số lần được


24

dạy các kỹ năng cơ bản giống như sự phát triển của các học viên thông qua một
khoá học hay một chương trình đào tạo .
Mỗi quá trình đều rất phù hợp với các nghiên cứu và lý thuyết với sự nêu rõ

các giới hạn mức độ kiến thức của những người học nghề. Độ phức tạp của kiến
thức được cấu trúc tăng dần từ thấp đến cao và các kỹ năng được thuần thục thông
qua các thực hành và phản hồi.Mô hình cấu trúc modul đào tạo trên hình 1.2.
Nguồn:Viện chiến lược và Chương trình giáo dục

Trình độ

Modul bao gồm:
• Học - Lý thuyết.
- Thực hành.
- Thí nghiệm.
• Thực tập xưởng.
• Kiểm tra-Kết thúc

Trình độ
đầu ra

đầu vào

Hình 1.2 - Mô hình cấu trúc modul đào tạo

Có thể phân chia nội dung một khoá học thành các modul theo yêu cầu quản
trị, tuy nhiên cần phải lưu ý xem các module đó có xung đột với nhau hay không?
dễ hiểu hay không? có mạch lạc hay không và có tích hợp thành một thể thống nhất
hay không? Việc lập kế hoạch một cách chi tiết về việc ôn tập và tích hợp kiến thức
là một vấn đề lớn đối với các khoá học modul bởi vì các modul thường được chia
nhỏ hơn nữa theo thời gian. Điều này đưa ra thủ tục học tập và sự tự động hoá kĩ
năng, loại bỏ nhiều yếu tố không cần thiết sau khi đã thực hành đáng kể.
- Mỗi modul đào tạo bao gồm nhiều thành phần từ mục tiêu, nội dung đến
cách thức thực hiện trong quá trình đào tạo. Có thể tóm tắt bằng sơ đồ hình1.3 [10]:



×