Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Bản sắc và truyền thống văn hóa việt nam trong luật hôn nhân gia đình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (802.9 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẰNG

BẢN SẮC VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA
VIỆT NAM TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA
ĐÌNH VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẰNG

BẢN SẮC VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM
TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGÔ HUY CƢƠNG

Hà Nội – 2017

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận
văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hằng

iii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1............................................................................................................. 10
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢN SẮC VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA
VIỆT TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM ........................ 10

1.1. Một số vấn đề lý luận về bản sắc và truyền thống văn hóa Việt .................. 10
1.1.1. Lý luận chung về Văn hóa .......................................................................... 10
1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hóa Việt ................................................................ 13
1.1.3. Khái niệm truyền thống văn hóa ................................................................ 15
1.1.4. Đặc điểm và biểu hiện của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt ............ 16
1.1.5. Nguồn gốc hình thành và phát triển của Văn hóa Việt.............................. 20
1.1.6. Bản sắc và truyền thống văn hóa Việt trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
.............................................................................................................................. 22
1.2. Một số vấn đề lý luận chung về Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam....... 25
1.2.1. Khái niệm Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam ...................................... 25
1.2.2. Vị trí của Luật Hôn nhân và Gia đình ....................................................... 26
1.2.3. Đặc điểm của Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam ................................ 27
1.3.2. Tác động của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay đối với bản
sắc và truyền thống văn hóa Việt ......................................................................... 34
CHƢƠNG 2............................................................................................................. 39
BIỂU HIỆN CỦA BẢN SẮC VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VIỆT TRONG
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY ............................. 39
2.1. Biểu hiện trong nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình ............. 39
2.2. Biểu hiện thông qua các quy định về áp dụng phong tục, tập quán ............. 40
2.2.1. Thông qua quy định về việc ghi nhận áp dụng phong tục, tập quán về hôn
nhân và gia đình ................................................................................................... 40
2.2.2. Loại bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu để giữ gìn những nét đẹp của
bản sắc và truyền thống văn hóa Việt trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ....... 44

iv


2.2.3. Quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về tuyên truyền, vận động
nhân dân áp dụng tập quán.................................................................................. 45
2.3. Biểu hiện trong các quy định về vấn đề kết hôn ........................................... 48

2.3.1. Thứ nhất, tôn trọng tình yêu nam nữ - biểu hiện của bản sắc và truyền
thống văn hóa Việt trong Luật Hôn nhân và gia đình ......................................... 48
2.3.2. Tôn trọng, phát huy sự chung thủy trong quan hệ vợ chồng, đảm bảo tính
trật tự, tôn ti trong gia đình – một biểu hiện của bản sắc và truyền thống văn hóa
Việt trong Luật Hôn nhân và gia đình ................................................................. 49
2.3.3. Thứ ba, biểu hiện trong các quy định khác về điều kiện kết hôn nhằm vấn
đề duy trì nòi giống – một trong những chức năng quan trọng của gia đình ..... 52
2.4. Sự biểu hiện trong quy định về quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng........... 53
2.4.1. Thứ nhất, trong quan hệ nhân thân ........................................................... 53
2.4.2. Thứ hai, trong quan hệ tài sản: ................................................................ 56
2.5. Biểu hiện trong quy định về quan hệ giữa cha mẹ và con cái ...................... 63
2.5.1. Trong quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái ............ 63
2.5.2. Trong quy định về quyền và nghĩa vụ của con cái với cha mẹ .................. 67
2.6. Biểu hiện trong quy định về quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình
.............................................................................................................................. 69
2.6.1. Quan hệ giữa ông bà và cháu .................................................................... 70
2.6.2. Quan hệ giữa anh, chị, em ......................................................................... 70
2.6.3. Quan hệ giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột ............................... 72
2.7. Biểu hiện trong quy định về mang thai hộ và sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm ................................................................................................. 73
2.8. Biểu hiện trong quy định về nuôi con nuôi ................................................... 74
CHƢƠNG 3............................................................................................................. 76
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM
NÂNG CAO VAI TRÕ CỦA BẢN SẮC VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA
VIỆT TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY .... 76
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam hiện nay ....................................................................................................... 76
3.1.1. Những kết quả đã đạt được ........................................................................ 76
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế ............................................................................... 79
v



3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế ............................................................... 86
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay
nhằm nâng cao vai trò của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt ....................... 88
3.2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình nhằm nâng
cao vai trò của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt......................................... 88
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình nhằm nâng cao vai
trò của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt ..................................................... 90
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 110

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bản sắc, truyền thống văn hóa, pháp luật đều là những bộ phận quan trọng của kiến
trúc thƣợng tầng. Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau và mỗi quốc gia dân tộc
khác nhau thì sự tác động giữa các bộ phận trong kiến trúc thƣợng tầng có sự khác
nhau do sự khác biệt về đặc điểm lịch sử, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội. Đối với một quốc gia đa sắc tộc nhƣ Việt Nam, bản sắc và truyền thống văn
hóa ở mỗi vùng miền khác nhau nên sự ảnh hƣởng của nó đến hệ thống pháp luật
nói chung và Luật Hôn nhân và Gia đình nói riêng, thể hiện tính độc đáo của dân
tộc Việt. Cụ thể, trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Luật Hôn nhân và
gia đình đều hƣớng tới việc thể hiện bản sắc và truyền thống văn hóa của ngƣời
Việt trong các chế định, các quy phạm pháp luật. Ví dụ: quy định “cấm kết hôn
giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ và có họ trong phạm vi ba đời”
nhằm đảm bảo giống nòi đƣợc phát triển khỏe mạnh và bảo vệ luân thƣờng đạo lý,
thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nhƣ vậy, sự liên hệ qua lại giữa bản sắc và truyền

thống văn hóa với pháp luật là một quy luật tất yếu. Đặc biệt, trong nhiều trƣờng
hợp, các quan hệ xã hội đang đƣợc điều chỉnh bởi quy phạm tập quán có nội dung
phù hợp với đời sống xã hội, không trái với đạo đức sẽ đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận
có giá trị pháp lý. Thấy đƣợc tầm quan trọng của bản sắc và truyền thống văn hóa
đối với pháp luật, trong những năm vừa qua, nhiều học giả đã phân tích đƣợc mối
quan hệ giữa văn hóa và pháp luật nói chung nhƣng chƣa chỉ ra đƣợc mối liên hệ
giữa văn hóa với Luật Hôn nhân và gia đình - một ngành luật mà các quy phạm
pháp luật gắn bó mật thiết với các quy phạm đạo đức, lẽ sống trong xã hội.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Việc bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là rất cần
thiết, là việc phải làm, nên làm, nhưng quan trọng hơn lại là việc biết vận dụng và
phát triển những bản sắc văn hóa ấy vào cuộc sống” [12 – tr. 431]. Thiết nghĩ, đó
1


chính là cách tốt nhất để bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trƣớc đây,
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 chỉ quy định chung chung về áp dụng phong
tục, tập quán và những quy định liên quan đến bản sắc và truyền thống văn hóa
Việt trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình đã tạo ra nhiều kẽ hở, gây khó khăn cho
Tòa án trong việc áp dụng. Hiện nay, mặc dù Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
đã quy định cụ thể hơn về vấn đề này nhƣng những quy định này vẫn chƣa thật sự
hoàn thiện. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi pháp luật. Với mong muốn
nghiên cứu sâu hơn nữa về vấn đề này, dựa trên cơ sở những kiến thức đã đƣợc
tích lũy trong quá trình học tập, tác giả đã lựa chọn đề tài “Bản sắc và truyền
thống văn hóa Việt trong Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam” để làm luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, ở nƣớc ta đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề
tài “Bản sắc và truyền thống văn hóa Việt trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam”. Có thể phân loại các công trình nghiên cứu này thành bốn nhóm lớn nhƣ
sau:

2.1. Nhóm các luận văn, luận án:
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong nhóm này có:
“Ảnh hưởng của Nho giáo đến các quy định của pháp luật Việt Nam về mối quan
hệ vợ chồng”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Đinh Hạnh Nga năm 2007, Khoa
Luật – ĐHQGHN. Trong Luận văn tác giả đã nêu bật đƣợc những vấn đề cơ bản về
giá trị tốt đẹp của Nho giáo và những giáo lý khắt khe của Nho giáo trong mối
quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, luận văn chƣa nêu bật đƣợc ý nghĩa,
vai trò của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt trong Nho giáo đến những quy
định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Mà mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá,
nhận xét những quy định của Nho giáo đối với mối quan hệ vợ chồng.

2


“Áp dụng phong tục, tập quán về Hôn nhân và gia đình đối với đồng bào dân tộc
thiểu số theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn
Thị Minh Phƣơng năm 2015, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội. Đối với Luận văn này,
tác giả cũng đã đƣa ra đƣợc những phong tục, tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia
đình của các đồng bào dân tộc thiểu số, nêu lên thực trạng của việc áp dụng phong
tục, tập quán và những kiến nghị nhằm phát huy vai trò của áp dụng phong tục, tập
quán về Hôn nhân và gia đình đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, luận
văn chƣa nêu bật lên đƣợc ý nghĩa của việc áp dụng phong tục, tập quán trong giải
quyết các vấn đề hôn nhân và gia đình – với tƣ cách là một trong những biểu hiện
của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt.
“Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Vũ Thị Thanh Huyền năm 2007. Trong
luận văn tác giả đã nêu lên đƣợc ý nghĩa của ngƣời phụ nữ trong hôn nhân và gia
đình, những nét đẹp truyền thống của ngƣời phụ nữ. Tuy nhiên, luận văn mới chỉ
dừng lại ở việc phân tích vai trò của ngƣời phụ nữ để từ đó phát huy quyền bình
đẳng đối với ngƣời phụ nữ mà chƣa đặt vị trí, vai trò của ngƣời phụ nữ trong bản

sắc và truyền thống văn hóa Việt. Để từ đó có cái nhìn bao quát hơn về vai trò của
bản sắc và truyền thống văn hóa Việt đối với Luật Hôn nhân và gia đình và những
biểu hiện cụ thể của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt trong Luật Hôn nhân và
gia đình.
Ngoài ra còn có các luận văn, luận án liên bản đến nội dung của bản sắc và truyền
thống văn hóa học trong chuyên ngành văn hóa. Tuy nhiên, những luận văn, luận
án này mới chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu về bản sắc và truyền thống văn hóa
Việt chứ chƣa đi sâu vào lĩnh vực hôn nhân và gia đình, đặc biệt là chƣa gắn liền
với những vấn đề mang tính chất pháp lý – Pháp luật hôn nhân và gia đình.
Nhƣ vậy, các công trình này có phạm vi nghiên cứu rộng và hẹp khác nhau trong
vấn đề , có công trình nghiên cứu riêng và chuyên sâu về bản sắc và văn hóa Việt
3


nhƣng thiếu góc nhìn luật học, có công trình lại quá thiên về yếu tố pháp lý mà
chƣa đề cập đến các yếu tố cội nguồn mà pháp luật hƣớng tới để điều chỉnh. Dù
rằng các công trình nghiên cứu trên đã giải quyết đƣợc khá nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn song cũng còn một số vấn đề chƣa đƣợc làm rõ trong nội dung mà học
viên muốn nghiên cứu.
2.2. Nhóm giáo trình, sách chuyên khảo:
Trong nhóm này phải kể đến một số công trình tiêu biểu nhƣ: Giáo trình Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam (Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân,
2008); Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Nguyễn Ngọc
Điện, Nxb Trẻ, 2004); Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, Nxb Tƣ pháp, 2008); Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về Luật HN&GĐ năm 2000 (Tác giả Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hƣờng,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002), Văn hóa pháp luật và đạo đức (Tác giả
Hoàng Thị Kim Quế), Văn hóa pháp luật- Những vấn đề lý luận cơ bản và ứng
dụng chuyên ngành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, (tr. 79-1010), Cơ sở văn hóa
Việt Nam (tác giả Nguyễn Văn Thâm, Nxb văn học, 2005)….

Trong các cuốn sách trên, việc đề cập đến các yếu tố bản sắc, truyền thống văn hóa
Việt đã đƣợc phân tích một cách tổng quát, nhƣng chƣa làm rõ đƣợc mối liên hệ
qua lại cụ thể và những biểu hiện của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt trong
Luật Hôn nhân và gia đình.
2.3. Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí:
Có thể kể đến một số bài nhƣ: “Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hôn nhân gia đình hiện hành” (Nguyễn
Hồng Hải, 2003, Tạp chí Luật học, số 5); “Chế độ tài sản theo thoả thuận của vợ
chồng liên hệ từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam” (Bùi Minh Hồng,
2009, Tạp chí Luật học, số 11); Phùng Trung Tập, “Khái niệm, vị trí, vai trò và
một số nội dung chính của luật tục từ góc độ nghiên cứu pháp luật”, Tọa đàm Luật
4


tục trong mối quan hệ với luật dân sự, Hà Nội, 22/02/2001…. Nguyễn Hải An
(2014), “Áp dụng tập quán trong công tác xét xử án dân sự, hôn nhân và gia đình
của Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân tối cao, số 4,
số 5, số 6; Lê Thị Thái Hòa (2008), “Tìm hiểu vấn đề hôn nhân và gia đình trong
luật tục Chăm”, Tạp chí Dân tộc, số 09…
Các bài viết này thƣờng phân tích rất sâu một vấn đề cụ thể, nhƣng do tính chất của
một bài viết nghiên cứu, các tác giả chỉ đề cập bản sắc văn hóa Việt trong Luật
Hôn nhân và Gia đình nhƣ một luận cứ mà không phân tích toàn diện các khía
cạnh của vấn đề này.
2.4. Nhóm các đề tài khoa học pháp lý:
Hiện nay, khoa học pháp lý ở nƣớc ta có rất nhiều công trình nghiên cứu trên khía
cạnh lý luận chung về mối quan hệ giữa pháp luật và phong tục, tập quán. Tuy
nhiên, những nghiên cứu cụ thể về áp dụng phong tục, tập quán về HN &GĐ với tƣ
cách là một đối tƣợng nghiên cứu riêng thì vẫn còn rất mới mẻ. Hiện nay đã và
đang có nhiều ý kiến trao đổi, các cuộc hội thảo về những vấn đề này và hiện nay
Bộ Tƣ pháp đang triển khai đề tài "Ảnh hưởng của phong tục, tập quán đối với

đăng ký hộ tịch" trong đó có việc đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi… Tuy
nhiên, các tham luận tại các hội thảo mới chỉ xem xét, giải quyết những khía cạnh
liên quan đến vấn đề. Những vấn đề có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn về việc áp
dụng phong tục, tập quán trong pháp luật hôn nhân và gia đình đối với đồng bào
dân tộc thiểu số chƣa đƣợc nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống. Thiết nghĩ, đây là
một vấn đề quan trọng đối với việc nghiên cứu hiệu quả thực hiện Luật Hôn nhân
và gia đình cũng nhƣ tạo cơ sở lý luận và thực tiễn làm sáng tỏ một khía cạnh trong
việc áp dụng pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền có kết cấu
dân cƣ phức tạp nhƣ nƣớc ta.
Một điểm chung của các nhóm công trình nghiên cứu kể trên, đó là phần lớn các
tác giả thƣờng thiên về việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật quy định về
5


các chế định trong Luật hôn nhân và gia đình và đánh giá tính hợp lý thông qua
việc đối chiếu với các nét văn hóa, truyền thống của ngƣời Việt. Do đó học viên
tin rằng đề tài của học viên sẽ trình bày và lý giải rõ các vấn đề liênquan tới “Bản
sắc và truyền thống văn hóa Việt trong Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở tìm hiểu các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam cùng
các nét văn hóa đặc trƣng của ngƣời Việt, luận văn phân tích, đánh giá việc áp
dụng pháp luật, nhận dạng những thuận lợi cũng nhƣ những bất cập, hạn chế trong
quá trình áp dụng pháp luật, trên cơ sở đó chỉ ra những điểm còn thiếu sót, chƣa
phù hợp của luật thực định và đƣa ra một số kiến nghị, giải pháp có tính chất khả thi
nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp luật.
Để đạt đƣợc mục tiêu nêu trên, luận văn xác định những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về bản sắc và truyền thống văn
hóa Việt, những vấn đề cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, tìm hiểu vai trò của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình với Luật hôn nhân và gia đình và ngƣợc lại. Nghiên cứu biểu

hiện của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt lĩnh vực hôn nhân và gia đình trong
Luật Hôn nhân và gia đình hiện nay. Thông qua đó thấy đƣợc sự tác động của các
yếu tố văn hóa với thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó, đánh giá về những thành
công và hạn chế của việc áp dụng pháp luật hiện hành.
Thứ ba: Trên cơ sở phân tích những nội dung trên, luận văn kiến nghị một số giải
pháp nhằm nâng cao vai trò bản sắc và truyền thống văn hóa Việt trong Luật Hôn
nhân và gia đình.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung vào một số vấn đề
sau:

6


- Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề cơ bản về bản sắc và truyền thống văn hóa
Việt và Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay;
- Thứ hai, quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam hiện nay liên quan
tới bản sắc và văn hóa Việt lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
- Thứ ba, sự tác động của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt tới thực tiễn áp
dụng các quy định pháp luật hiện hành. Trong đó, tập trung vào một số vấn đề khó
khăn, vƣớng mắc, điển hình,… tìm hiểu và nghiên cứu những ví dụ cụ thể từ đó
bình luận và phân tích những nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả áp dụng pháp
luật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài vận dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn vận dụng một số phƣơng
pháp cụ thể nhƣ:
- Phƣơng pháp lôgic và lịch sử .
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp đƣợc sử dụng khi phân tích các vấn đề liên
quan và khái quát những nội dung cơ bản đƣợc nghiên cứu trong luận văn.

- Phƣơng pháp so sánh đƣợc thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật hiện
hành với hệ thống pháp luật trƣớc đây của Việt Nam cũng nhƣ pháp luật của một
số nƣớc khác.
- Phƣơng pháp thống kê đƣợc thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn.
- Phƣơng pháp phân tích quy phạm.
6. Những điểm mới của luận văn
- Luận văn hệ thống hoá và phân tích khái niệm bản sắc và truyền thống văn
hóa Việt, vai trò của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt đối với Luật Hôn nhân và
gia đình và của Luật Hôn nhân và gia đình với bản sắc và truyền thống văn hóa Việt.
- Phân tích những biểu hiện của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay.

7


- Từ những ví dụ cụ thể về thực tiễn áp dụng pháp luật, luận văn nhận dạng những
quy định chƣa phù hợp, những điểm còn khiếm khuyết của pháp luật hiện hành
dƣới góc độ pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó, luận văn kiến
nghị một số giải pháp có tính chất khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật, nâng cao vai trò của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt đối với Luật Hôn
nhân và Gia đình Việt Nam hiện nay. Đồng thời tiến tới hoàn thiện pháp luật về
Hôn nhân và gia đình hiện nay.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học:
- Luận văn là cơ sở tham khảo cho các công trình nghiên cứu sau này về vấn đề
Bản sắc và truyền thống văn hóa Việt đối với hệ thống pháp luật nói chung và Luật
Hôn nhân và gia đình nói riêng .
- Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu
và học tập các môn học nhƣ Giáo dục công dân, Đạo đức, Việt Nam học, Luật Hôn
nhân và gia đình … tại các cơ sở đào tạo từ cấp 1 cho tới sau đại học.

Ý nghĩa thực tiễn:
Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực cho mọi cá nhân, đặc biệt là giới học
giả và những ai quan tâm tới việc cải cách pháp luật về Hôn nhân và gia đình; biết
đƣợc các nét văn hóa Việt và sự luật hóa các nội dung đó trong Luật Hôn nhân và
Gia đình; biết đƣợc sự tác động của các yếu tố văn hóa đối với việc thực hiện pháp
luật về Hôn nhân và Gia đình; rút ra đƣợc kinh nghiệm lập pháp từ những quy
phạm đã đƣợc phân tích và thực tiễn áp dụng trong cuộc sống …. Từ đó, góp phần
sửa đổi pháp luật và xây dựng môi trƣờng pháp lý để giữ gìn, bảo vệ các nét văn
hóa tiến bộ trong đời sống hôn nhân và gia đình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm ba chƣơng nhƣ sau:

8


Chương 1. Những vấn đề lý luận về bản sắc và truyền thống văn hóa Việt trong
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Chương 2. Biểu hiện của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt trong Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam hiện nay
Chương 3. Thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao vai
trò của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam hiện nay

9


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢN SẮC VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN
HÓA VIỆT TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM

1.1. Một số vấn đề lý luận về bản sắc và truyền thống văn hóa Việt
1.1.1. Lý luận chung về Văn hóa
1.1.1.1. Định nghĩa Văn hóa
Hiện nay có hàng trăm các định nghĩa, quan điểm khác nhau về văn hóa dựa trên
nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu khác nhau.
Có định nghĩa tiếp cận từ góc độ lịch sử qua việc nhấn mạnh các quá trình kế thừa
xã hội, truyền thống và tính ổn định thì cho rằng: “Văn hóa chính là bản thân con
người, cho dù là những người hoang dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho
một hệ thống phức hợp của tập quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo
truyền thống.” [10 - tr.10].
Một số định nghĩa dựa vào chuẩn mực bằng cách nhấn mạnh đến các quan niệm về
giá trị: “Văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội như các thiết chế, tập tục, phản
ứng cư xử,... của một nhóm người” [10 - tr.10]; hay các đặc điểm tâm lý qua việc
nhấn mạnh vào quá trình thích nghi với môi trƣờng, quá trình học hỏi, hình thành
thói quen, lối ứng xử của con ngƣời: “Văn hoá là tổng thể những thích nghi của
con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn minh...
Những sự thích nghi này được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ thuật
như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa.” [10 – tr.12],
Chính vì sự đa dạng, muôn vẻ của khái niệm “văn hoá”, tổ chức UNESCO (năm
2002) chỉ đƣa ra một định nghĩa mang tính gợi ý rằng: “Văn hóa nên được đề cập
đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc
cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn

10


học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền
thống và đức tin.” [9 – tr.256].
Nhƣ vậy, ở mỗi định nghĩa lại cho chúng ta một khía cạnh của văn hóa. Bản thân
cái “văn”, cái “đẹp” vốn đã khó định hình khi mà tƣ duy thẩm mĩ phụ thuộc vào

mỗi ngƣời, mỗi thời đại, mỗi bƣớc đi của lịch sử. Mặc dù có nhiều cách hiểu khác
nhau về văn hóa nhƣng hiện nay quan điểm văn hóa đƣợc coi là toàn bộ những giá
trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo ra đƣợc coi là quan điểm đƣợc nhiều
quốc gia sử dụng.
1.1.1.2. Chức năng của Văn hóa
Ngày nay, văn hóa có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ đối với sự phát triển
kinh tế xã hội của một quốc gia, dân tộc mà văn hóa đã và đang chi phối toàn bộ
quá trình hình thành và phát triển của con ngƣời nói riêng và nhân loại nói
chung. Văn hóa tổ chức và điều chỉnh xã hội, giúp con ngƣời giao tiếp và thông tin,
văn hóa giáo dục và đƣa con ngƣời gia nhập vào cộng đồng xã hội. Văn hóa vừa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu và động lực phát triển của xã hội.
Văn hóa có những chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, văn hóa có chức năng tổ chức: Điểm đặc biệt của xã hội loài ngƣời là
đƣợc tổ chức theo những cách thức đặc biệt thành những làng xã, quốc gia, đô thị,
tổ nhóm, v.v. mà giới động vật không thể thực hiện. Để làm đƣợc điều đó, đó là
nhờ văn hóa. Trong khi đó, làng xã, quốc gia, đô thị… của mỗi dân tộc lại cũng có
sự khác nhau – cái đó cũng là do sự chi phối của văn hóa. Chính tính hệ thống của
văn hóa là cơ sở để văn hóa có chức năng này.
Thứ hai, văn hóa có chức năng điều chỉnh: Mọi sinh vật đều có khả năng thích
nghi với môi trƣờng xung quanh bằng cách tự biến đổi mình sao cho phù hợp với
tự nhiên qua cơ chế di truyền và chọn lọc tự nhiên. Con ngƣời hành xử theo một
cách thức hoàn toàn khác hẳn: dùng văn hóa để biến đổi tự nhiên phục vụ cho
mình bằng cách tạo ra đồ ăn, quần áo, nhà cửa, vũ khí, máy móc, thuốc men… Mặt
11


khác, văn hóa điều chỉnh cách hành xử của con ngƣời với con ngƣời trong xã hội
để đảm bảo tính nhân văn hơn. Tính giá trị là cơ sở cho chức năng điều chỉnh của
văn hóa. Nhờ có chức năng điều chỉnh, văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển trong xã hội loài ngƣời.

Thứ ba, văn hóa có chức năng giao tiếp: Một trong những đặc điểm khác biệt của
con ngƣời với động vật là ở sự hợp quần thành xã hội, mà xã hội không thể hình
thành và tồn tại đƣợc nếu thiếu sự giao tiếp. Văn hóa đã tạo ra những điều kiện và
phƣơng tiện (nhƣ ngôn ngữ và các hệ thống ký hiệu) cho sự giao tiếp ấy, văn hóa
là môi trƣờng giao tiếp của con ngƣời. Đồng thời, đến lƣợt mình, văn hóa cũng là
sản phẩm của giao tiếp: các sản phẩm của văn hóa còn có thể đƣợc tạo ra bằng hoạt
động của các cá nhân riêng rẽ chứ bản thân văn hóa thì chỉ có thể là sản phẩm của
hoạt động xã hội mà thôi.
Thứ tư, văn hóa có chức năng giáo dục: Thông qua sự tích lũy và chuyển giao
những giá trị tƣơng đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dƣới những
khuôn mẫu xã hội trong cộng đồng ngƣời qua không gian và thời gian và đƣợc cố
định hóa dƣới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dƣ luận... từ
thế hệ này sang thế hệ khác tạo nên truyền thống văn hóa trên cơ sở tính lịch sử của
nó chính là chức năng giáo dục của văn hóa. Nhƣng văn hóa thực hiện chức năng
giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả
những giá trị đang hình thành. Văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình
thành nhân cách ở con ngƣời, trồng ngƣời (dƣỡng dục nhân cách), tạo nên nền tảng
tinh thần của xã hội. Văn hóa đƣa con ngƣời gia nhập vào cộng đồng xã hội; bởi
vậy mà có ngƣời gọi chức năng này của văn hóa là chức năng xã hội hóa.
Ngoài bốn chức năng cơ bản trên, còn có thể nói đến các chức năng khác của văn
hóa nhƣ chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ, chức năng giải trí…
1.1.1.3. Đặc trưng của Văn hóa Việt

12


- Thứ nhất, Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng. Cộng đồng 54
dân tộc anh em có những phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội
nhiều ý nghĩa mang tính sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín
ngƣỡng, sự khoa dung trong tƣ tƣởng, giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính câu từ,

cặn kẽ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật.
- Thứ hai, sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc, dân cƣ đã
tạo ra những vùng văn hóa có những nét đặc trƣng riêng tại Việt Nam. Ở mỗi vùng
dân tộc khác nhau, mỗi khu vực sinh sống khác nhau có những đặc trƣng khác
nhau giữa các tộc ngƣời nhƣ khu vực đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu
Long… thì cách thức tổ chức đời sống sinh hoạt dân cƣ, văn hóa ăn uống, trang
phục có sự khác nhau.
- Thứ ba, với lịch sử có từ hàng nghìn năm của ngƣời Việt cùng với những hội tụ
về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của ngƣời Việt cổ từ thời Hồng
Bàng đến những ảnh hƣởng từ bên ngoài trong hàng nghìn năm nay. Với những
ảnh hƣởng từ xa xƣa của Trung Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hƣởng của
Pháp từ thế kỷ thứ XIX, phƣơng Tây trong thế kỷ XX và toàn cầu hóa từ thế kỷ
XXI. Việt Nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những
khía cạnh mất đi nhƣng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền
văn hóa Việt Nam hiện đại.
1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hóa Việt
Nếu nhƣ văn minh là tìm cách hòa mình vào dòng chảy không ngừng của nhịp độ
phát triển đi lên với thế giới thì tìm về văn hóa lại là cú lội ngƣợc dòng vào trong
tâm khảm để tìm lại những giá trị bền vững, truyền thống, tinh hoa đƣợc kết tụ
ngàn năm trong mỗi con ngƣời, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Không có một đất nƣớc
nào chỉ công nghiệp hóa, lãng quên vào việc giữ gìn văn hóa mà có thể tồn tại cân
đối và lâu dài. Và có lẽ, trên thế giới này, chẳng một dân tộc nào chịu phải trả một

13


cái giá quá đắt khi đánh rơi đi cái tôi riêng, khuôn mặt riêng, cá tính riêng của họ.
“Cái tôi văn hóa”, hay ngƣời ta vẫn gọi là bản sắc văn hóa ấy, tiêu tốn không biết
bao nhiêu giấy mực mà vẫn còn là một dấu hỏi lớn.
Hiện nay cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về bản sắc văn hóa. Có quan

điểm cho rằng “bản sắc dùng để chỉ tính chất, mầu sắc tiêng tạo thành phẩm chất
đặc biệt của mội sự vật tức là nói tới sắc thái, đặc tính, đặc thù riêng của sự vật
đó” [10 – tr.11]. Trong thực tế, khi nói bản sắc thƣờng là nói tới cái riêng, cái rất
riêng của một sự vật để phân biệt nó với các sự vật khác trong thế giới khách quan.
"Bản sắc" là từ một ghép có gốc Hán - Việt nên có một cách tiếp cận khác là phân
tích trên ngữ nghĩa của hai từ "bản" và "sắc". Theo đó, "bản" là cái gốc, cái căn
bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của một sự vật; "sắc" là sự biểu hiện cái căn bản, cái
cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngoài. Cách tiếp cận thứ hai này có tính hợp lý hơn bởi
khái niệm "bản sắc" đƣợc nhận thức trên cả 2 mặt: mặt bản chất bên trong và mặt
biểu hiện bên ngoài và giữa hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong
đó, mặt bên trong phản ánh tính đồng nhất, bản chất của một lớp đối tƣợng sự vật
nhất định và mặt bên ngoài phản ánh những dấu hiệu, những sắc thái riêng của sự
vật để làm cơ sở phân biệt sự khác nhau giữa sự vật này với sự vật khác.
Thuật ngữ bản sắc thƣờng đƣợc sử dụng gắn với văn hóa và dân tộc. Nói đến dân
tộc là nói đến văn hoá, bản sắc văn hoá và nói đến văn hoá là nói đến dân tộc, bản
sắc dân tộc. Có thể hiểu bản sắc văn hoá là hệ thống các giá trị đặc trƣng bản chất
của một nền văn hoá đƣợc xác lập, tồn tại, phát triển trong lịch sử và đƣợc biểu
hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản sắc văn hóa, các giá trị đặc trƣng
bản chất là cái trừu tƣợng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái biểu hiện của nó có
tính tƣơng đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn. Tuy nhiên, nếu dừng lại ở đây thì
khái niệm bản sắc văn hóa vẫn là một khái niệm vô định, vì nói tới văn hóa là nói
tới con ngƣời và nói tới những dân tộc cụ thể đã sinh ra, duy trì và phát triển nó. Vì

14


vậy, chỉ khi tiếp cận đến bản sắc văn hóa của dân tộc thì ý nghĩa của nó mới đƣợc
thể hiện một cách trọn vẹn.
Văn hóa đƣợc coi là kết quả của một quá trình chọn lọc lâu dài của tự nhiên và xã
hội thì bản sắc văn hóa hơn tất cả là tinh hoa kết đọng cuối cùng của quá trình

chuyển mình không ngừng ấy. Nó là văn hóa đƣợc tinh chế lần hai, do một cá
nhân, một dân tộc chọn để làm bộ mặt,để tổn tại thông qua lăng kính thẩm mĩ của
riêng mình.
Trong quan hệ quốc tế, bản sắc văn hóa dân tộc đƣợc xem nhƣ cái là cốt cách của
mỗi dân tộc thể hiện trên mọi phƣơng diện quan hệ ngoại giao về kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, bản sắc văn hoá là yếu tố mang sức mạnh tinh
thần dân tộc, giúp dân tộc vƣợt qua những thử thách của lịch sử, bởi vì “bản sắc
dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc sức
mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển
của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất,
tính nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển” [9 – tr. 257].
Chính vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đã và đang đƣợc
nhiều quốc gia dân tộc coi trọng và có những giải pháp cụ thể trong quá trình phát
triển.
Nói tới bản sắc văn hoá dân tộc là nói tới tính hai mặt của nó, một mặt, là những
giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, những giá trị hạt nhân của một nền văn hoá dân tộc;
mặt khác, là những sắc thái biểu hiện đặc sắc của mỗi dân tộc đƣợc thể hiện qua
tính đa dạng và thống nhất, truyền thống và hiện đại, tự tôn dân tộc và hoà hợp dân
tộc.
1.1.3. Khái niệm truyền thống văn hóa

15


Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo ra. Nên
văn hóa có tính lịch sử. Do đó, nó cho phép phân biệt văn hóa nhƣ sản phẩm của
quá trình và đƣợc tích lũy qua nhiều thế hệ với văn minh nhƣ sản phẩm cuối cùng,
chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo nên cho văn hóa một
bề dày, một chiều sâu, nó buộc văn hóa thƣờng xuyên phải có sự điều chỉnh, phân

bố lại các giá trị. Tính lịch sử đƣợc duy trì bằng truyền thống văn hóa. hiện nay
cũng có nhiều quan điểm khác nhau về truyền thống văn hóa.
Có quan điểm cho rằng “truyền thống văn hóa là những tập tục, thói quen và là
những kinh nghiệm xã hội được hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ
của con người, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.” [9 – tr. 259],
Hay “truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (kinh nghiệm tập
thể) được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian,
được đúc kết thành những khuôn mãu xã hội và cố định dưới dạng ngôn ngữ,
phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…”[22- tr. 13].
Nguyên tắc chung của việc giữ gìn và phát huy truyền thống là phải bảo đảm sự kế
thừa biện chứng với 4 nội dung:
Một là, loại bỏ những yếu tố tiêu cực, phản tiến bộ của quá khứ (tập tục lạc hậu,
tàn dƣ tƣ tƣởng phong kiến, tâm lý sản xuất nhỏ...);
Hai là, giữ lại những yếu tố tích cực, tiến bộ (tinh thần yêu nƣớc, lao động cần cù
sáng tạo, tinh thần nhân đạo cao cả...);
Ba là, ngay các yếu tố tích cực, tiến bộ đó cũng không giữ lại nguyên xi, mà phải
đƣợc cải biến cho phù hợp với điều kiện mới, hoàn cảnh mới;
Bốn là, các thế hệ mới phải sáng tạo ra những yếu tố hoàn toàn mới mà các thế hệ
cha anh hoặc không có khả năng, hoặc không có điều kiện để thực hiện.
1.1.4. Đặc điểm và biểu hiện của bản sắc và truyền thống văn hóa Việt
- Thứ nhất, về ngôn ngữ

16


Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của lịch sử xã hội loài
ngƣời. Ngôn ngữ đƣợc vừa là sản phẩm vừa là nhân tố cấu thành nên văn hóa. Khi
tiếp xúc với một nền văn hóa, cái đầu tiên chúng ta bắt gặp trƣớc hết đó hẳn là lời
ăn tiếng nói, chữ viết. Ở mỗi dân tộc có một dấu ấn ngôn ngữ khác nhau. Khi
ngƣời Trung Quốc xâm lƣợc nƣớc ta, bắt nƣớc ta học tiếng Hán để nhằm đồng hóa

đồng bào ta cũng là lúc ra đời chữ Nôm - loại chữ riêng của ngƣời Việt Nam thể
hiện lập trƣờng và ý chí cũng nhƣ trí tuệ của ông cha ta. Ngay từ xa xƣa, vai trò
tiên quyết của ngôn ngữ đã đƣợc khẳng định. Đến khi chữ La tinh du nhập, trên cơ
sở bộ chữ La tinh, ngƣời Việt cũng sáng tạo nên ngôn ngữ riêng của dân tộc. Đó là
tiếng Việt mà ngày nay đƣợc sử dụng làm ngôn ngữ toàn dân. Trên địa bàn Việt
Nam có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, mỗi dẫn tộc lại có một tiếng nói riêng,
mang đậm bản sắc văn hóa riêng. Tuy nhiên ngƣời Việt trên cơ sở dân số đã chọn
tiếng Việt- tiếng nói và chữ Viết của ngƣời Kinh (ngƣời Việt) là tiếng nói chung.
Thông qua ngôn ngữ (lời nói, chữ viết), nhiều nét bản sắc văn hóa với các giá trị
đặc trƣng của văn hóa tộc ngƣời đƣợc bộc lộ, đƣợc bảo tồn và phát huy trong các
mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên - xã hội và giữa con ngƣời với nhau.
- Thứ hai, về tập quán - tín ngưỡng - nghi lễ
Mỗi dân tộc, mỗi tộc ngƣời thƣờng có các hệ thống tập quán, tín ngƣỡng, nghi lễ
của riêng mình. Mức độ và trình độ nhận thức để cấu thành nên thành tố văn hóa
này gắn bó chặt chẽ với truyền thống văn hóa của chính dân tộc đó. Chúng ta
thƣờng nhận thấy một số loại sinh hoạt văn hóa tín ngƣỡng - nghi lễ bộc lộ đặc
trƣng khác nhau giữa các tộc ngƣời, các dân tộc thiểu số:
Tập quán - tín ngƣỡng thờ vật tổ, sùng bái tự nhiên.
Nghi lễ vòng đời ngƣời từ trƣớc khi sinh ra đến sau khi mất đi.
Các đồ vật dùng cho nghi lễ và các hình thức tế lễ.
Những tập quán, tín ngƣỡng, nghi lễ tốt đẹp đƣợc truyền từ đời này sang đời khác
đã tạo nên bản sắc và truyền thống văn hóa Việt. Ở Việt Nam, các tập quán, tín
17


ngƣỡng, tôn giáo rất phong phú và đa dạng. Do chúng ta là một quốc gia có nhiều
dân tộc anh em cùng sinh sống. Nhƣng những nghi lễ, tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên
vẫn là bản sắc và truyền thống tốt đẹp đƣợc tựu chung lại ở các dân tộc anh em.
- Thứ ba, luật tục, phong tục
Luật tục, phong tục là luật pháp riêng của cộng đồng nhằm thiết lập và đƣợc mọi

thành viên tuân theo. Ở mỗi dân tộc, mỗi tộc ngƣời, các điều luật tục, phong tục
cũng khác nhau, thể hiện quan niệm, quan điểm của ngƣời dân trƣớc việc quy định
các sự việc, hiện tƣợng, điều khiển các hành vi, hành động của từng cá nhân, phục
vụ mục đích bảo vệ môi trƣờng sinh thái, bảo vệ và ổn định, phát triển đời sống xã
hội và gìn giữ an ninh cộng đồng.
Thông qua luật tục, phong tục tốt đẹp của mỗi dân tộc ta thấy bản sắc văn hóa của
từng dân tộc trong quá trình giáo dục nhân cách, đạo đức của con ngƣời theo
những chuẩn mực văn hóa nhất định do cộng đồng quy định.
Ở Việt Nam, do nƣớc ta là một quốc gia có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống,
nên vẫn còn nhiều luật tục, phong tục của nhiều đồng bào dân tộc. Những luật tục,
phong tục tốt đẹp đã trở thành bản sắc và truyền thống văn hóa của dân tộc ta.
- Thứ tư, lễ hội
Là trung tâm sinh hoạt văn hóa mang tính tổng hợp nhất và là nơi bộc lộ rực rỡ
nhất bản sắc văn hóa của một cộng đồng nhất định. Quy tụ tại đây mọi loại hình tín
ngƣỡng, mọi sắc thái trang phục, sinh hoạt dân ca, trò chơi dân gian, và các hình
thái nghi lễ của tộc ngƣời, của dân tộc. Hàng năm, ở các dân tộc Việt, lễ hội đƣợc
diễn ra rất phong phú, đa dạng, lễ hội chùa chiền, lễ hội xuống đồng, lễ hội vào
mùa…. Lễ hội đã bảo lƣu rõ nét nhất cho bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam và
ngày nay đƣợc chúng ta giữ gìn và phát triển.
- Thứ năm: về trang phục - trang sức
Trang phục là nơi thể hiện ý thức thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ và là nơi gửi gắm
những nhận thức về thế giới tự nhiên và xã hội cũng nhƣ môi trƣờng sống nói
18


chung thông qua các biểu tƣợng hoa văn, màu sắc, hình ảnh đƣợc thêu trên áo,
quần và các đồ trang sức khác nhau. Nhìn vào trang phục và cách trang sức ta có
thể dễ nhận ra bản sắc văn hóa của một tộc ngƣời, của một dân tộc. Đối với nƣớc
ta, trang phục, trang sức của các dân tộc anh em cũng hết sức đa dạng, phong phú.
Và có rất nhiều nhà văn hóa nghiên cứu, tìm hiểu về trang phục của ngƣời Việt họ

đều cho rằng mỗi dân tộc đều có nét đặc trƣng khác nhau. Nhƣng vẻ đẹp truyền
thống toát lên mà nhiều quốc gia và thế giới đƣợc biết đến vẫn là tà áo dài truyền
thống của ngƣời Việt. Đây cũng là bản sắc văn hóa riêng của dân tộc Việt Nam,
đƣợc lƣu giữ và phát triển cho đến này nay.
- Thứ sáu: Trò chơi dân gian
Trò chơi dân gian đƣợc tồn tại, phát triển thông qua đời sống, trong các hoạt động
lễ tiết, lễ hội của các dân tộc Việt Nam và nó thể hiện những bản sắc văn hóa riêng
theo quan niệm và sáng tạo của ngƣời dân, đáp ứng nhu cầu giải trí, giáo dục thể
chất và truyền dạy các tri thức về tự nhiên, xã hội hay gửi gắm những khuyên răn
về nhân cách, đạo đức của thế hệ trƣớc với thế hệ sau.
- Thứ bảy: về nhà cửa - kiến trúc
Ngôi nhà chính là nơi, là tấm gƣơng phản ánh truyền thống văn hóa của một tộc
ngƣời, một dân tộc. Sự hiện diện của cách kiến trúc và hình thức kiến trúc từ một
ngôi nhà cụ thể không chỉ nơi nghỉ ngơi, sinh hoạt, tránh mƣa nắng, mà còn thể
hiện những tín ngƣỡng, tập tục, những nhận thức về cách ứng xử với môi trƣờng tự
nhiên và quan niệm về tín ngƣỡng, tôn giáo.
- Thứ tám, Sinh hoạt văn hóa nghệ thuật trình diễn
Mỗi dân tộc đều sáng tạo cho mình những thể loại dân ca với các làn điệu độc đáo,
tạo nên bản sắc riêng, phản ánh tâm tƣ, tình cảm và đời sống sinh hoạt văn hóa
cộng đồng. Các hệ thống nhạc cụ đƣợc ngƣời dân sáng tạo từ nguyên vật liệu của
vùng đất mình cƣ trú, góp phần tạo ra diện mạo của nghệ thuật âm thanh và nghệ

19


×