Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam qua thế giới biểu tượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.35 KB, 4 trang )

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam qua thế giới
biểu tượng
Bàn về bản sắc Văn hoá dân tộc quả là một việc làm hết sức khó khăn. Biết bao nhiêu công trình và bút
mực nhằm tập trung vào câu hỏi “bản sắc dân tộc là gì?”, nhưng cuộc hành trình truy tìm này vẫn còn tiếp
tục. Không thể nói việc làm này là viển vông và không có thật.
Bản sắc văn hoá dân tộc bao hàm những mặt được hình thành và gắn bó với dân tộc từ thưở xa xưa, các
mặt này được duy trì theo quá trình của lịch sử. Đó là các kiểu quan hệ hay một kiểu lựa chọn riêng của
một cộng đồng về một phương thức ứng xử nào đó, khiến cho mỗi dân tộc hiện ra với những nét độc đáo
nhằm phân biệt với các dân tộc khác.
Có thật nhiều cách trả lời khác nhau về bản sắc dân tộc, và mọi người cũng mặc nhiên công nhận rằng
bản sắc dân tộc là cái có thật, nên rất nhiều công trình gắng công tìm hiểu. Nhưng truy tìm theo hướng
nào và bằng cách nào là điều cần bàn đến. Bởi một lẽ ngay trong bản thân khái niệm văn hoá cho đến nay
vẫn còn nhiều tranh cãi do đứng ở nhiều góc độ khoa học khác nhau để nghiên cứu. Song ở đây chúng ta
không sa đà vào việc truy tìm một cách kiệt cùng về định nghĩa của văn hoá, vì càng đi sâu tìm hiểu khái
niệm này thì càng thêm phức tạp. Tựu chung, xét về mặt biểu hiện, văn hoá là một hiện tượng xã hội mà
không phải là hiện tượng tự nhiên, và nó thuộc về giá trị tinh thần. Theo nghĩa chung nhất, văn hoá được
xem là toàn bộ những hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ cũng như trong hiện tại tạo thành
những chuẩn mực – giá trị, thị hiếu và truyền thống, gọi chung là hệ giá trị- xã hội, một thành tố cơ bản
làm nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc. Hệ giá trị xã hội nào cũng đều nhằm vào sự thoả mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, nó được biểu hiện trở thành các biểu tượng văn hoá - các
khuôn mẫu và chuẩn mực văn hoá.
Theo toàn thư quốc tế về phát triển văn hoá (International Thesaurus on Cultural Development) của
UNESCO: “Văn hoá là một tập hợp các hệ thống biểu tượng, nó quy định thế ứng xử của con người và
làm cho một số đông người có thể giao tiếp với nhau, liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng biệt” [1].
Sự hình thành và phát triển văn hoá luôn dựa vào năng lực của con người trong việc nhận thức và sáng
tạo ra các loại hình ngôn ngữ kí hiệu – biểu tượng ( Symbol). Bởi lẽ, biểu tượng luôn chứa đựng trong nó
những giá trị, mà đằng sau các giá trị thường ẩn dấu một nhu cầu nào đó của con người. Trong mọi nhu
cầu của đời sống xã hội thì nhu cầu văn hoá là nhu cầu cao nhất – nhu cầu giải trí và sáng tạo ra các tác
phẩm văn hoá. Sự đa dạng của văn hoá biểu hiện tính phong phú và tính nhiều vẻ của thế giới biểu tượng.
Khi nhấn mạnh đặc trưng cơ bản của văn hoá là mang tính biểu tượng (Symbolic) thì đó cũng là lý do
khiến phải xem xét kĩ hơn về loại hình ngôn ngữ – kí hiệu tượng trưng này.


Biểu tượng là gì? Để tạm hiểu, ta có thể gọi nó là cái được dùng để biểu thị một cái gì đó. Nó là hình ảnh
tượng trưng được phô bày ra khiến người ta cảm nhận một giá trị trừu suất tức là thế giới của ý nghĩa,
cũng là thế giới của văn hoá.
Từ điển Petit Larousse cho rằng: “Biểu tượng là dấu hiệu hình ảnh, con vật sống động hay đồ vật biểu
hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì đó”. [2]
C.G.Jung – nhà phân tâm học người Thuỵ Sỹ cũng quan niệm về biểu tượng như sau:
“Biểu tượng là một danh từ, một tên gọi hay một đồ vật, ngay cả khi là quen thuộc ở trong đời sống hàng
ngày, nhưng vẫn chứa đựng những mối liên hệ về mặt ý nghĩa, bổ sung vào cái ý nghĩa ước định hiển
nhiên và trực tiếp của chúng”. [3]
Trong Dịch thuyết cương lĩnh của Chu Hy, nhà triết học đời Tống cũng giải thích: “Tượng là lấy hình này
để tỏ nghĩa kia” [4] , tức là dùng cái tri giác để nói lên cái khó có thể tri giác, hay dùng cái tĩnh để nói cái
động, dùng cái cụ thể để nói cái trừu tượng, dùng cái hữu hình để nói cái vô hình v.v…
Biểu tượng là loại hình “kí hiệu” rất cổ xưa ra đời từ buổi bình minh của lịch sử hình thành nhân loại.
Biểu tượng được coi như là công cụ của tư duy trong tiến trình nhận thức của con người. Nó là con đẻ của
sự liên tưởng và tưởng tượng, giúp cho con người khám phá ra thế giới đầy ý nghĩa. Nhiều nhà nhân học
văn hoá còn cho rằng “đơn vị cơ bản” của văn hoá chính là biểu tượng - vật hàm chứa thông tin, và là hạt
nhân “di truyền xã hội” đầu tiên của loài người.
Thế giới biểu tượng là thế giới của ý nghĩa. Quá trình sáng tạo ra hệ thống các biểu tượng cũng là quá
trình “khách thể hoá” những“năng lực bản chất người” để tạo nên thế giới văn hoá. Có thể xem văn hoá
là toàn bộ thế giới thông tin, không kể di truyền sinh vật, là biện pháp nhằm tổ chức, bảo vệ và truyền bá
thông tin. Như vậy, biểu tượng chính là hình thức ngoại hiện của văn hoá, còn hệ thống ý nghĩa nằm bên
trong mỗi biểu tượng là nội dung cơ bản của nó. Văn hoá được coi như là một “văn bản” các hệ thống
biểu tượng.
Biểu tượng bao gồm mọi dạng thức hình ảnh tác động chủ yếu đến thính giác và thị giác gây cho con
người những rung động, những cảm xúc về chúng theo nhiều mức độ khác nhau. Biểu tượng có mặt hầu
hết trong các mặt biểu hiện của đời sống từ lĩnh vựctôn giáo, nghệ thuật, chính trị, văn hoá – xã hội… cho
đến cả trong giấc mơ của con người. Thực chất cuộc sống ngoài những nhận thức bằng tư duy lý tính
mang tính khoa học thông qua những hệ thống khái niệm và phạm trù v.v… thì còn biết bao điều không
thể hiểu biết trực tiếp được, nên người ta đã dùng một “vật môi giới” làm trung gian nhằm để hiểu được
những điều khó có thể tri giác, ta gọi đó là biểu tượng như: “Rồng” biểu tượng cho quyền uy tối

cao; “Rùa” biểu tượng cho sự trường tồn, phúc thọ; “Bồ câu” biểu tượng cho hoà bình; “Hoa sen” biểu
tượng cho sự thanh cao; “Cái bắt tay” biểu tượng cho sự thân thiện v.v…
Biểu tượng là phương thức nhận thức của con người, nó biểu thị toàn bộ tâm cách cũng như tính cách của
một dân tộc, tính phong phú của biểu tượng cũng là sự tương ứng với tính đa dạng của cuộc sống, mà con
người cần truy tìm và nắm bắt lấy nó, nhằm thoả mãn mọi nhu cầu của con ngưới trong đời sống xã hội.
Thế giới biểu tượng là một vùng mù đầy ý nghĩa mà con người là một động vật có năng lực biểu trưng và
biết sử dụng các biểu tượng (Homo – Symbolius).
Biểu tượng sống tiềm ẩn từ cõi vô thức, mà sự sáng tạo ra các biểu tượng lại ở thế giới hữu thức, tức nó ra
đời trong lòng đời sống của con người. Do đó biểu tượng có những chức năng mà qua đó con người có
thể khám phá cũng như nhận thức sâu sắc cuộc sống của mình, từ đó tạo ra những biến đổi rất lớn trong
sự phát triển toàn diện về nhân cách của mỗi con người, nói khác biểu tượng có chức năng chung nhất là
điều chỉnh và định hướng trở lại đời sống xã hội. Nó có vai trò làm động lực thúc đẩy cho xã hội phát
triển. Đó cũng là tính văn hoá của biểu tượng.
Về chức năng của biểu tượng như đã biết, chức năng đầu tiên của nó là chức năng khám phá ra những giá
trị, tức tri giác những điều khó có thể tri giác bằng khái niệm. Đó là sự truy tìm của trí tuệ vào cõi vô
minh, nhằm tìm cách biểu hiện ra những ý nghĩa nào đó mà lý trí khó nắm bắt được.
Biểu tượng mở rộng trường ý thức trong mọi lĩnh vực, điều mà không thể xảy ra được nếu như đòi hỏi ở
biểu tượng một sự chính xác, cụ thể, theo kiểu tư duy logic – khoa học. Vì khoa học là sự biểu hiện bằng
các kí hiệu mang tính chính xác như dấu hiệu của toán học. Còn biểu tượng không mang tính cụ thể,
chính xác mà nó là cái trừu tượng, đa nghĩa như các biểu tượng Âm – Dương trong Kinh Dịch: Vạch liền
(-) là tượng Dương, còn hiểu là cha, mặt trời, lửa, ngày, hoà bình v.v…; Vạch đứt (–) là tượng Âm còn
hiểu là mẹ, mặt trăng, nước, đêm, chiến tranh v.v…
Ngoài ra, biểu tượng còn có chức năng thay thế, nhằm trả lời những câu hỏi hay thoả mãn một ước vọng
nào đó của con người, vàchức năng siêu nghiệm để tiếp cận các yếu tố thuộc lĩnh vực tâm linh. Chức
năng giao tiếp nhằm giúp cho con người liên kết lại với nhau. Song quan trọng hơn cả là chức năng liên
kết xã hội và chức năng giáo dục của biểu tượng.
Chức năng liên kết xã hội của biểu tượng thể hiện tính liên kết của cộng đồng. Nó làm cho người ta hoà
đồng với môi trường xã hội và nhóm như: biểu tượng “Rồng”, “Tiên” khiến chúng ta nhớ về cội nguồn
dân tộc, biểu tượng “Cờ Tổ quốc” cho ta nghĩ mình là người dân đất Việt. Biểu tượng trở thành ngôn ngữ
chung của toàn nhân loại, nó biểu thị được những giá trị mang tính chất toàn cầu như những biểu

tượng “Hoà bình”, “Tự do” v.v… Ngoài ra, biểu tượng còn có khả năng phát ra những tín hiệu và lập
khắc sau đó nó trở thành mệnh lệnh, thúc đẩy mọi người hành động theo mệnh lệnh của trái tim một cách
tự nguyện, tự giác mà không cần một sự áp đặt nào của quyền lực. Đó chính là chức năng giáo dục của
biểu tượng.
Về vai trò của biểu tượng thì nó là nhân tố gợi mở cho ta phát hiện và sáng tạo ra các giá trị mới – giá trị
văn hoá. Bởi biểu tượng luôn ở vị trí trung tâm của đời sống văn hoá. Nó là hạt nhân tâm lý cho sự tưởng
tượng, làm bộc lộ ra những bí mật của cõi vô thức và trở thành động lực cho sự sáng tạo của thế giới hữu
thức… Biểu tượng thực sự vén mở cho ta thấy chân trời của trí tuệ bằng sự cảm nhận những giá trị đúng
đắn của cuộc sống. Sau cùng, biểu tượng còn hình thành nên các “khuôn mẫu văn hoá” - khuôn mẫu hành
vi trong mọi ứng xử của con người. Các khuôn mẫu này được lắp đi lắp lại nhiều lần trong đời sống xã
hội, theo chiều dài lịch sử đã trở thành nếp sống, lối sống, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng dân tộc
khác nhau. Thực chất, biểu tượng đã thể hiện được sắc thái riêng của mỗi nền văn hoá và đã tạo
thành “cái gen” di truyền của nền văn hoá đó, và biểu tượng đã trở thành “khuôn mẫu gốc” (Archetype)
và chuẩn mực văn hoá của mỗi cộng đồng.
Sự tìm hiểu biểu tượng cũng là sự nỗ lực của con người muốn vươn tới sự “giải mã” các biểu tượng. Biết
bao nhiêu giá trị của biểu tượng đang còn chìm khuất trong huyền thoại, trong nếp sống, cả trong kho
tàng văn học – nghệ thuật và lễ hội truyền thống chưa được khám phá. Nói khác đi, các giá trị chuẩn
mực xã hội được đúc kết và được biểu hiện trở thành các biểu tượng và đến lượt nó biểu tượng là sự thị
hiện ra bên ngoài các giá trị xã hội. Có thể hiểu biểu tượng là hình thức biểu đạt các giá trị, ý nghĩa mà
con người đã tìm kiếm và chọn lựa theo một kiểu ứng xử nào đó, một quan hệ nào đó với tự nhiên và xã
hội, và các giá trị đó được biểu hiện ra bằng các biểu tượng. Nhận thức các hệ thống biểu tượng và “giải
mã” nó để hiểu về những giá trị, những tư tưởng được chìm ẩn trong thế giới của biểu tượng. Đó là một
cách thức để chấp nhận, để khám phá ra được tâm lý, tính cách cũng như tinh thần của một dân tộc. Và đó
cũng là phương thức để nhận biết về “bản sắc dân tộc”.
Để làm rõ quan hệ này, ta có thể tìm hiểu thêm về tính biểu tượng trong huyền thoại truyền thống của mỗi
dân tộc. Huyền thoại của nhiều cộng đồng người được bảo lưu cho đến nay thường bị coi là hoang đường
và thần thoại, nếu so với cái hiện đại. Nhưng nếu so sánh với quá khứ của lịch sử nhân loại thì chúng ra
đời ở một thời điểm đã khá muộn mằn, tức trình độ tư duy và nhận thức con người đã được phát triển.
Con người có thể ghi lại những suy ngẫm của mình về vũ trụ, về thế gian mình đang sống và huyền thoại
ra đời như một sản phẩm tinh thần thông qua sự cảm thụ, sự nhận thức của con người về hiện thực khách

quan và được phản ánh vào trong huyền thoại. Do đó những chất liệu làm nên huyền thoại là có thật chứ
không huyền. Có chăng phương pháp sáng tác huyền thoại là phương pháp khái quát hoá, mô hình hoá
bằng một loại hình ảnh tượng trưng gọi là biểu tượng và chính các biểu tượng đã chứa đựng trong nó
những giá trị, tư tưởng mà cả cộng đồng dân tộc gửi gắm vào đó như biểu tượng mặt trời, một biểu tượng
được suy tôn ở hầu hết các dân tộc Đông Nam Á, mà phương Đông là phương của mặt trời mọc. Nó nói
lên ý nghĩa là ánh sáng đem lại sự sinh tồn cho vạn vật. Hay biểu tượng “Con Hồng – Cháu Lạc” đã trở
thành biểu tượng về nguồn gốc của dân tộc Việt. Ở đây, Hồng Bàng có nghĩa là “chim ngỗng trời lớn”, và
như vậy cũng có thể hiểu thêm về một dân tộc được hình thành bởi nền văn hoá sông nước và trở thành
nền văn minh lúa nước sau này. Vậy “Hồng Bàng” ở đây không chỉ định một dòng họ mà là một đặc
trưng của một thị tộc được dùng để định tên tộc ấy và nó đã trở thành một biểu tượng chung của cả một
cộng đồng – dân tộc.
Từ những phân tích trên đây, nếu giả định có thể chấp nhận là biểu tượng ra đời trước hết từ nhu cầu sở
thuộc xã hội và tính cấu kết cộng đồng. Chúng ra đời trên cơ sở của môi trường sinh tồn tự nhiên mà chỉ
các thành viên cộng đồng đó mới cảm nhận được theo cách nghĩ riêng và cách lựa chọn của mình để biến
nó thành giá trị tinh thần của cả cộng đồng, như “Rồng” và “Chim” là biểu tượng của tính cộng đồng
Bách Việt. “Rồng” và “Chim” đẻ ra trứng là biểu tượng của sự nảy nở, sự phồn sinh, tràn đầy viên mãn.
Biểu tượng đã được xác định bằng chính lý do ra đời của nó. Biểu tượng là dấu hiệu biểu hiện ra bên
ngoài để nhận biết sở thuộc cộng đồng. Chính biểu tượng đã tồn tại trong lòng cộng đồng và mỗi thành
viên trong cộng đồng đó. Biểu tượng buộc người ta thừa nhận nó nếu như người ta muốn tồn tại và mỗi
thành viên sẽ là người tự nguyện chấp nhận nó, bởi trong nó luôn chứa đựng những giá trị và nó điễn đạt
được những điều mong muốn cũng như những khát vọng của mọi thành viên trong cộng đồng. Ta thấy
biểu tượng có một giá trị đối với nhóm, đối với cộng đồng và xã hội, nó có quyền năng tập hợp hay đồng
tình về một giá trị, một tư tưởng của cả cộng đồng. Biểu tượng luôn mang xã hội tính vì nó có sức mạnh
liên kết xã hội như khi nói: “Con Hồng – cháu Lạc”, hay“Tóc dài – răng đen” thì đó là sự kêu gọi ý thức
cộng đồng.
Có thể nói bản sắc văn hóa dân tộc chính là sự thể hiện của tâm lý dân tộc, được biểu hiện ra ở lối sống,
nếp sống, ở phong tục và tập quán, ở sự ưa thích, cách suy nghĩ và ở cả thang bảng giá trị xã hội, bao gồm
cả sở trường và sở đoản. Tất cả cùng hiện ra những nét độc đáo, đặc sắc nhằm phân biệt giữa dân tộc này
với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc là sự biểu hiện về bản lĩnh sáng tạo của mỗi dân tộc. Nó được
kết tinh thành những biểu tượng văn hóa và thông qua các hệ thống biểu tượng, ta có thể hiểu được tính

cách của dân tộc đó.
Để tìm bản sắc dân tộc Việt Nam ta có thể tìm thấy một vài biểu hiện của những giá trị truyền thống
thông qua các biểu tượng văn hóa cụ thể như: Trống đồng, Cồng, Chiêng, Rượu cần, Trầu cau v.v… Tất
cả biểu hiện này đã nói lên một nền văn hóa Nam Á bản địa. Và các biểu tượng khác thuộc về văn hóa
ứng xử như: “Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn”, “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần” hay“Một cây
làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” v.v… Ở đây nội dung của chúng đã thể hiện được
tính cộng đồng của cả dân tộc.
Qua một số ví dụ trên, ta nhận thấy các hệ thống biểu tượng văn hóa – dân tộc đã hàm chứa trong lòng nó
những giá trị tư tưởng hết sức sâu sắc và đầy hàm súc, nó thể hiện được tâm lý dân tộc trong quá trình
chọn lựa một kiểu ứng xử, một kiểu quan hệ với nhau trong đời sống văn hóa – xã hội. Từ đó, ta có thể
hiểu thêm phần nào về bản sắc văn hóa cổ truyền Việt Nam được định hình ở một nền văn minh lúa
nước và một nền văn hóa làng xã. Để có thể nắm bắt một cách đầy đủ và chuẩn xác về bản sắc của một
nền văn hóa nói chung cũng như bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam nói riêng, chúng ta không chỉ thông
qua một vài biểu tượng đơn lẻ mà có thể kết luận ngay điều đó, mà còn phải đi sâu nghiên cứu một cách
nghiêm túc toàn bộ các hệ thống biểu tượngtruyền thống từ trong các huyền thoại, lễ hội, văn hóa và nghệ
thuật dân gian cho đến các khuôn mẫu ứng xử v.v… Có như vậy, mới có thể khái quát một cách chính
xác về bản sắc văn hoá dân tộc.
Cuộc sống luôn thay đổi, biểu tượng cũng có những đổi thay, nhưng nếu xác định kiểu lựa chọn về những
giá trị nào đó, thông qua hệ thống biểu tượng của cả cộng đồng, ta sẽ nhận ra sự khác biệt về mặt tâm
cách cũng như tính cách của một dân tộc. Chính sự khác nhau này đã làm nên sự đặc sắc của mỗi nền văn
hóa và đó cũng chính là sự thể hiện bản sắc riêng của mỗi dân tộc.
Có thể nói, muốn tìm được bản sắc văn hóa dân tộc một cách chính xác thì cần phải tìm thông qua các hệ
thống biểu tượng có trong lòng mỗi dân tộc.

×