Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

NHỮNG điểm mới của bộ LUẬT dân sự 2015 về bảo vệ QUYỀN sở hữu, QUYỀN KHÁC đối với tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.59 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................18

SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

1

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, quyền sở hữu luôn được ghi nhận
là quyền cơ bản của con người. Với ý nghĩa là cơ sở cho mọi quan hệ kinh tế, chi
phối chế độ kinh tế trong xã hội, quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ bằng nhiều
phương thức khác nhau. Ở nước ta cũng không ngoại lệ, bảo vệ quyền sở hữu là chế
định quan trọng trong hệ thống pháp luật và được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân
sự. Việc nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam sẽ
đóng góp thêm các vấn đề lý luận quanh đề tài này cũng như đánh giá được những
khác biệt của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự làm cơ sở
cho các chủ thể lựa chọn phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong thực tế.
Ngoài ra, bên cạnh việc kế thừa có sửa đổi quy định về quyền sở hữu, BLDS
năm 2015 còn bổ sung chế định quyền khác đối với tài sản với nội hàm là quyền của
chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác, bao
gồm 3 quyền (Quyền đối với bất động sản liền kề; Quyền hưởng dụng và Quyền bề
mặt). Vì vậy việc bảo vệ quyền khác đối với tài sản cũng là một nội dung quan
trọng, cần phải quan tâm trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong thời gian qua chưa có
nhiều công trình nghiên cứu về nội dung này. Do đó tôi quyết định chọn đề tài


“Những điểm mới của BLDS 2015 về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản vừa là hành vi thực tế, vừa là
sản phẩm của quá trình lập pháp nhằm thiết lập cơ chế đảm bảo sự thừa nhận và
thực thi quyền sở hữu trong đời sống xã hội. Do đó, bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác theo quy định của pháp luật dân sự là phương thức bảo vệ nhận được nhiều sự
quan tâm, nghiên cứu từ các nhà làm luật, người giảng dạy cho đến các nghiên cứu
sinh, sinh viên chuyên ngành Luật.
Năm 2007, Bộ môn Luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội đã tổ chức một
hội thảo khoa học chuyên đề về “các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp
luật dân sự Việt Nam” với nhiều ý kiến, quan điểm tiếp cận khác nhau của các giảng
viên trong trường về vấn đề quyền sở hữu như: vấn đề kiện đòi lại tài sản là động
sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình; vấn đề thực
tiễn trong việc kiện đòi nhà, đất do người khác chiếm hữu không có căn cứ pháp luật
tại Tòa án nhân dân...
Bên cạnh đó, nhiều tác giả cũng đã công bố các công trình, bài viết liên quan
đến đề tài bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự như “Phương thức bảo vệ
quyền sở hữu cá nhân trong Luật dân sự Việt Nam”, “Bảo đảm và bảo vệ quyền sở
hữu tài sản của công dân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hà Thị Mai Hiên... cùng

SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

2

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung



với nhiều tiểu luận, khóa luận có nội dung xoay quanh vấn đề bảo vệ quyền sở hữu
theo pháp luật dân sự.
Mỗi công trình nghiên cứu, bài viết tiếp cận vấn đề bảo vệ quyền sở hữu theo
các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn các công trình tiếp cận theo hướng gắn
liền bảo vệ quyền sở hữu với các quy định về quyền sở hữu theo quy định của pháp
luật dân sự, cũng như phân tích, đánh giá từng biện pháp bảo vệ quyền sở hữu cụ thể
và đưa ra các đánh giá cũng như giải pháp hoàn thiện mà chưa có một đề tài mang
tính tổng quan, khái quát nghiên cứu chung các quy định về bảo vệ quyền sở hữu và
quyền khác đối với tài sản.
Bên cạnh đó, BLDS 2015 vừa được ban hành và có hiệu lực trên thực tế đã có
nhiều thay đổi về nội dung các quy định về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản nhưng chưa có nhiều đề tài nghiên cứu. Chính vì vậy, trên cơ sở những
nghiên cứu của các đề tài trước đó về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản, và các quy định mới của BLDS 2015 tôi quyết định đi tìm hiều các quy định
hiện hành về bảo vệ quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản trong BLDS 2015,
so sánh đối chiếu các quy định này với BLDS 2005 để làm nổi bật lên các điểm mới
về chế định này trong BLDS 2015.
3. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và các quy
định của pháp luật dân sự hiện hành trong quy định chung về bảo vệ quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản. Đồng thời, so sánh đối chiếu với quy định BLDS 2005
để làm rõ những điểm mới của BLDS 2015 về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản.
3.2. Ý nghĩa
Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự hiện hành về bảo vệ quyền
sở hữu, quyền khác đối với tài sản, nhằm cung cấp những kiến thức của pháp luật
dân sự hiện hành về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, từ đó biết
được các phương thức để bảo vệ quyền sở hữu quyền khác đối với tài sản khi sảy ra
các xâm phạm đến quyền sở hữu quyền khác đối với tài sản trên thực tế.

Đề tài này cũng giúp cho chúng ta hiểu được quyền sở hữu, quyền sở hữu khác
cần được ghi nhận, bảo vệ và thể hiện một cách nhất quán trong các quy định về tài
sản và sở hữu cũng như các quy định liên quan.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản theo quy định của BLDS 2015 và các điểm mới về chế
định này so với BLDS 2005.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

3

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


Trong phạm vi đề tài tôi chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của BLDS 2015
về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản quy định từ điều 163 đến điều
170. Đồng thời trên cở sở đó tiến hành so sánh với các quy định về bảo vệ quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản trong BLDS 2005 để làm nổi bật các điểm mới của
BLDS 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề đã đặt ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khác nhau như phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh luật học.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài
gồm 02 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với

tài sản
Chương 2. Những điểm mới của Bộ Luật dân sự 2015 về bảo vệ quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản.

SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

4

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ QUYỀN
SỞ HỮU, QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU, QUYỀN
KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN
1.1.1. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu quyền khác đối với tài sản
Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là các quyền cơ bản, quan trọng nhất
của công dân, pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để bảo
vệ các quyền này. Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định cụ thể để bảo vệ các
quyền này.
Hệ thống pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
thông qua nhiều ngành luật khác nhau. Tuy nhiên, mỗi ngành luật lại bảo vệ quyền
sở hữu, quyền khác đối với tài sản bằng cách thức riêng biệt tùy theo chức năng vốn
có của nó.
Luật hành chính bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thông qua
việc quy định những thể lệ nhằm quản lý và bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và
cá nhân. Đồng thời Luật Hành chính cũng quy định về các biện pháp hành chính mà

Nhà nước sử dụng đê thực hiện việc bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản như thu hồi tài sản, xử phạt hành
chính...
Luật Hình sự cũng có nhiệm vụ bảo vệ quyền sở hữu. Với tính chất cưỡng chế
nghiêm khắc của chế tài hình sự, Nhà nước quy định trong BLHS những hành vi
nào xâm phạm đến quyền sở hữu bị coi là tội phạm và quy định mức phạt tương ứng
với tính chất là mức độ của hành vi đó.
Luật Dân sự, bằng những đặc điểm riêng của mình bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản bằng những biện pháp, cách thức khác so với những ngành luật
khác. Theo quy định tại Điều 164, BLDS 2015 thì: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền
khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ người nào có hành vi xâm
phạm quyền của mình bằng những biện pháp không trái với quy định của pháp luật.
Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải
trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
BLDS 2015 cho phép chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có thể
tự mình yêu cầu người có hành vi xâm hại chấm dứt hành vi xâm hại hoặc yêu cầu
tòa án yêu cầu người có hành vi xâm hại, cản trở quyền sỡ hữu, quyền khác đối với
tài sản chấm dứt hành vi xâm hại cản trở chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác thực
hiện quyền năng sở hữu, quyền khác của mình đối với tài sản.

SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

5

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung



Do đó có thể thấy: “Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được hiểu
là những biện pháp tác động bằng pháp luật đối với hành vi, xử sự của con người
qua đó bảo đảm cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản được thực
hiện các quyền năng của quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản theo quy định
của pháp luật”.
1.1.2 Chủ thể bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
Chủ thể đầu tiên được thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu đầy đủ và
triệt để nhất chính là chủ sở hữu tài sản. Chủ sở hữu là người có đầy đủ 03 quyền
năng sở hữu được quy định tại Điều 158, BLDS 2015 đó là quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt tài sản.
Chủ thể tiếp theo thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản theo quy định của pháp luật chính là người chiếm hữu hợp pháp.
Chủ thể cuối cùng là chủ thể rất đặc biệt được thực hiện các biện pháp được
thực hiện bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự là người chiếm
hữu tài sản trên cơ sở quyền sử dụng đất, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền
kề.
Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tham gia quá trình bảo vệ quyền sở
hữu theo pháp luật dân sự với tư cách là chủ thể trung gian, hỗ trợ chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp bảo vệ quyền sở hữu của mình khi có yêu cầu.
1.1.3 Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản:
Trong thực tế, việc xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản rất
phong phú và đa dạng. Vì vậy, BLDS 2015 đã ghi nhận các biện pháp bảo vệ quyền
sở hữu, quyền khác đối với tài sản tại các điều 164, 166, 167, 168, 169, 170.
- Một trong những phương thức bảo vệ quyền sở hữu đó là việc pháp luật quy
định và công nhận: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự
bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng
những biện pháp không trái với quy định của pháp luật” (Khoản 01, Điều 164
BLDS 2015).
- Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ

người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật. Tuy nhiên, Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu
của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó (Điều 166, BLDS 2015).
- Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ
người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được
động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định
đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có
quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị
chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu (Điều 167, BLDS 2015).
- Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động
sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng
SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

6

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển
giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn
cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô
hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp
người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có
thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là
chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa (Điều 168, BLDS 2015).

- Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chủ thể có quyền yêu
cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó hoặc có quyền
yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt
hành vi vi phạm (Điều 169, BLDS 2015).
- Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu người có
hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bồi thường thiệt hại
(Điều 170, BLDS 2015).
1.1.4 Ý nghĩa của bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
Quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân,
nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để bảo vệ quyền
sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
Bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là những biện pháp tác động bằng pháp luật
đối với hành vi, cách xử sự của con người. Qua đó, bảo đảm cho chủ sở hữu, chủ thể
có quyền khác đối với tài sản thực hiện được các quyền năng của quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản thuộc sở hữu, chiếm hữu của mình.
Pháp luật nước ta bảo vệ quyền sở hữu thông qua nhiều ngành luật khác nhau.
Tuy nghiên, mỗi ngành luật lại bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác bằng cách thức
riêng biệt theo chức năng được quy định.
Luật Dân sự, bằng những đặc điểm riêng của mình bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác bằng những biện pháp, cách thức khác so với những ngành luật khác.
Ví dụ: Theo quy định tại Khoản 01, Điều 164, BLDS 2015 thì “Chủ sở hữu,
chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ người
nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp không trái với quy
định của pháp luật”. Quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu được hiểu là quyền của chủ sở
hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có thể dùng bất kỳ biện pháp nào mà
pháp luật không cấm để bảo vệ tài sản và quyền sở hữu tài sản của mình như cất giữ,
quản lý...
1.2. QUY ĐỊNH CHUNG CỦA BLDS 2015 VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU,
QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN


SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

7

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


1.2.1. Quy định về nguyên tắc bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản
Điều 163, BLDS 2015 quy định về bảo vệ quyền sở hữu và quyền khác đối với
tài sản như sau:
“1. Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản.
2. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc
gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng
dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.”
Việc quy định như trên được hiểu là chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với
tài sản có mọi quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thuộc sở hữu của mình,
được pháp luật bảo vệ, được thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản theo quy định của pháp luật và không bị hạn chế, tước đoạt trái
luật quyền đối với tài sản của mình.
Nhà nước chỉ trưng mua hoặc trưng dụng trong các trường hợp vì lý do quốc
phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai
và được bồi thường theo giá thị trường.
Ví dụ: khi Nhà nước triển khai các dự án mở rộng các tuyến đường Quốc lộ sẽ
ảnh hưởng đến tài sản của chủ sở hữu khi dự án đi qua. Nhà nước sẽ thu hồi để phục
vụ dự án và có bồi thường cho chủ sở hữu theo giá thị trường hoặc theo quy định
của pháp luật…

1.2.2. Quy định về biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản
Điều 164, BLDS 2015 quy định về biện pháp bảo vệ quyền sở hữu và quyền
khác đối với tài sản như sau:
“1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn
chặn bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp
không trái với quy định của pháp luật.
2. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải
trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
Theo quy định tại Khoản 01, Điều 164, BLDS 2015 thì “Chủ sở hữu, chủ thể
có quyền khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ người nào có
hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp không trái với quy định
của pháp luật”. Quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu được hiểu là quyền của chủ sở hữu,
chủ thể có quyền khác đối với tài sản có thể dùng bất kỳ biện pháp nào mà pháp luật
không cấm để bảo vệ tài sản và quyền sở hữu tài sản của mình như cất giữ, quản
lý…
SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

8

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


Ngoài ra, quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu còn gắn liền với quyền ngăn cản bất
kỳ chủ thể nào khác có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác của mình; có
quyền truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có

căn cứ pháp luật. Bên canh quyền tự bảo vệ, BLDS còn quy định cho chủ sở hữu,
chủ thể có quyền khác đối với tài sản khi không tự bảo vệ được tài sản còn có
quyền: “yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành
vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc
thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
1.2.3. Quy định về chiếm hữu có căn cứ pháp luật
Điều 165, BLDS 2015 quy định về chiếm hữu có căn cứ pháp luật như sau:
“1. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp
sau đây:
a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;
c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù
hợp với quy định của pháp luật;
d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là
chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù
hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có
liên quan;
đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù
hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có
liên quan;
e) Trường hợp khác do pháp luật quy định.”
Theo quy định tại điều luật này, dựa trên cơ sở chủ thể chiếm hữu, chiếm hữu
có căn cứ pháp luật được phân thành chiếm hữu có căn cứ pháp luật của chủ sở hữu
và chiếm hữu có căn cứ pháp luật của người không phải là chủ sở hữu.
1. Trước hết, chiếm hữu tài sản là một trong ba quyền năng cơ bản thuộc quyền
sở hữu của chủ sở hữu. Chính vì vậy, Điều 186 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định
Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài
sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
2. Người không phải là chủ sở hữu chiếm hữu tài sản chỉ được coi là hợp pháp
trong các trường hợp sau đây:

- Được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản. Trong trường hợp này, người được
ủy quyền thực hiện việc chiếm hữu trong phạm vi, cách thức, thời hạn do chủ sở
hữu xác định (Điểm b, Khoản 01, Điều 165 Bộ luật Dân sự năm 2015)
- Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù
hợp với quy định của pháp luật; (Ví dụ: theo hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng gửi
giữ tài sản...). Trường hợp này người được giao tài sản phải thực hiện quyền chiếm
SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

9

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


hữu tài sản phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch (Điểm c, Khoản 01, Điều
165 Bộ luật Dân sự năm 2015).
- Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ
sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm; Người
phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều
kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan (Điểm
c, đ, Khoản 01, Điều 165 Bộ luật Dân sự năm 2015).
- Các trường hợp khác do pháp luật quy định như chiếm hữu trên cơ sở một
mệnh lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc do pháp luật quy định có
quyền đương nhiên chiếm hữu vật (Điểm e, Khoản 01, Điều 165 Bộ luật Dân sự
năm 2015).
Xuất phát từ quy định trên cho thấy, chủ sở hữu đương nhiên là chủ thể có
quyền chiếm hữu tài sản, nhưng chủ thể chiếm hữu tài sản không nhất thiết là chủ sở
hữu. Vì vậy, việc quy định chiếm hữu có căn cứ pháp luật của người không phải là
chủ sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định quyền của người chiếm

hữu, nhưng không phải là chủ sở hữu và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cả
chủ sở hữu và của chủ thể có quyền khác đối với tài sản không phải là chủ sở hữu.
Việc chiếm hữu của chủ sở hữu không bị giới hạn nếu không trái pháp luật và đạo
đức xã hội, còn quyền chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu sẽ phụ thuộc
vào sự thỏa thuận của chủ sở hữu hoặc các quy định pháp luật trong trường hợp các
chủ thể (không phải là chủ sở hữu) thực hiện quyền chiếm hữu tài sản theo quy định
của pháp luật.
1.2.4. Quy định về quyền đòi lại tài sản
a. Quy định chung về quyền đòi lại tài sản
Điều 166 BLDS 2015 quy định về quyền đòi lại tài sản như sau:
“1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản
từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn
cứ pháp luật.
2. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang
có quyền khác đối với tài sản đó.”
Như vậy trên cơ sở quy định về các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản tại điều 164 BLDS 2015 và quy định tại điều này, có thể thấy,
BLDS 2015 đã dự liệu các khả năng đề bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản theo hướng:
Thứ nhất, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự mình
yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có
căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản thuộc quyền chiếm hữu sử dụng quyền khác đối
với tài sản cho mình.

SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

10


GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


Thứ hai, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài
sản thông qua việc yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc
người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản.
Đồng thời, tại khoản 2 điều cũng nhấn mạnh lại một lần nữa quyền khác đối
với tài sản của chủ thể có quyền khác được pháp luật bảo vệ và chủ sở hữu không có
quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản
đó.
b. Quy định về quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ
người chiếm hữu ngay tình
Trên thực tế việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản là động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu là rất khó, bởi lẽ đối với tài sản là động sản không phải đăng
ký quyền sở hữu, rất khó đề chứng minh quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản. Do
đó, có rất nhiều trường hợp sảy ra trên thực tế, loại tài sản này được chuyển giao cho
người thứ ba nhưng người thứ ba lại không biết và không xác định được chủ thể
chuyển giao đó không phải là chủ sở hữu của tài sản. Vì vậy, BLDS 2005 đã có quy
định cụ thể về quyền đòi lại tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ
người chiếm hữu ngay tình của chủ sở hữu.
Trên cơ sở kế thừa những quy định BLDS 2005, Điều 167 BLDS 2015 quy
định về trường hợp này như sau:
“Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ
người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được
động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định
đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có
quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị
chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”
Như vậy, theo quy định này, chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu tài sản từ người chiếm hữu ngay tình trong các trường hợp

sau:
- Trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp
đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản.
Ví dụ: Anh A bị mất 01 chiếc điện thoại. Sau đó, anh A biết được anh B đã mua
chiếc điện thoại đó từ 01 cửa hàng cầm đồ. Anh A có quyền đòi lại chiếc điện thoại.
- Trường hợp trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này
thông qua hợp đồng có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản nếu động
sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở
hữu.
Ví dụ: Anh C nhận chuyển nhượng 01 chiếc xe máy (có giấy chứng nhận đăng
ký mang tên anh D) từ anh E thông qua hợp đồng mua bán có đền bù nếu xảy ra hư

SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

11

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


hỏng. Tuy nhiên, chiếc xe máy và giấy chứng nhận đăng ký mang tên anh D đã bị
mất từ trước đó. Anh D có quyền đòi lại chiếc xe máy.
c. Quy định về quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất
động sản từ người chiếm hữu ngay tình
Khác với động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, việc xác định chủ sở hữu
đối với động sản phải đăng ký quyền sở hữu, bất động sản dễ dàng hơn. Về nguyên
tắc, chủ thể nào có tên trên chứng nhận đăng ký quyền sở hữu thì được pháp luật
công nhận và bảo vệ quyền sở hữu. Do đó để bảo vệ quyền sở hữu của mình, các
chủ thể phải tiến hành đăng ký quyền sở hữu đối với động sản mà pháp luật quy

định phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản.
Trên thực tế, có rất nhiều giao dịch dân sự, vì trốn tránh các nghĩa vụ thuế mà
các chủ thể không tiến hành việc đăng ký này, dẫn đến xảy ra rất nhiều tranh chấp.
BLDS 2015 kế thừa những quy định cũ từ BLDS 2005 trong quy định về quyền đòi
lại tài sản của chủ sở hữu tài sản đối với động sản phải đăng ký quyền sở hữu, bất
động sản nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể khi tham gia giao dịch dân
sự. Theo đó
Điều 168. BLDS 2015 quy định:
“Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động
sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133
của Bộ luật này”
BLDS 2015 công nhận quyền đòi lại tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở
hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình của chủ sở hữu, đồng thời dẫn
chiếu các trường hợp chủ sở hữu không có quyền này trong quy định tại khoản 2
điều 133 BLDS 2015. Theo quy định dẫn chiếu này thì chủ sở hữu không có quyền
đòi lại tài sản trong các trường hợp:
Thứ nhất, người thứ ba ngay tình nhận được tài sản thông qua một giao dịch
với người không phải là chủ sở hữu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Thứ hai, người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá
tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này
không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.
1.2.5. Quy định về quyền yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chủ thể có quyền yêu
cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó hoặc có quyền
yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt
hành vi vi phạm.


SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

12

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


Bằng các quy định cụ thể của pháp luật, BLDS 2015 đã tạo điều kiện để chủ sở
hữu thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt quyền khác đối với tài sản thuộc
sở hữu của họ, bảo vệ quyền hợp pháp đó và cấm mọi hành vi gây cản trở chủ sở
hữu thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. Ngoài ra, BLDS cũng cho
phép chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự mình bảo vệ
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bằng cách yêu cầu người có hành vi cản
trở pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản phải chấm dứt
hành vi đó. Nếu người có hành vi gây cản trở trái pháp luật không tự nguyện chấm
dứt thì chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án
hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, áp dụng các biện pháp ngăn chặn và
buộc người có hành vi gây cản trở trái pháp luật chấm dứt những hành vi đó.
1.2.6. Quy định về quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
Điều 170, BLDS 2015 quy định về quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại như sau:
“Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu người có
hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bồi thường thiệt hại”.
Việc yêu cầu bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối
với tài sản chỉ được áp dụng trong trường hợp khi người chiếm hữu hợp pháp hoặc
bất hợp pháp đã bán tài sản cho người khác mà không tìm thấy người mua nữa hoặc
tài sản bị tiêu huỷ…Lúc này chủ sở hữu không lấy lại được tài sản của mình và luật
cho phép chủ sở hữu lựa chọn phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại.
Khi gây thiệt hại cho tài sản của chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài

sản thì sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho chủ sở hữu hoặc chủ thể có quyền khác đối với tài sản có thể đặt ra với
trường hợp bồi thường trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng.
Đối với việc bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, các bên tham gia ký kết có
thể đã thỏa thuận với nhau về điều kiện bồi thường, cách thức bồi thường, mức bồi
thường cụ thể… do vậy khi giải quyết Tòa án, cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào
nội dung đã được các bên thỏa thuận trong hợp đồng về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại.

CHƯƠNG 2. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ
BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN
SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

13

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
2.1. ĐIỂM MỚI CHUNG TRONG QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU,
QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN
- BLDS 2005 quy định về bảo vệ quyền sở hữu gồm 02 phần, một phần quy
định chung tại Điều 169; đồng thời, dành riêng 01 chương XV để quy định về vấn
đề này. Việc quy định như trên tại thời điểm ban hành Luật là một điểm mới tiến bộ
so với BLDS 1995 nhằm khẳng định nguyên tắc chung rất cơ bản trong việc bảo vệ
của chủ sở hữu. Sau đó, đi vào những quy định cụ thể để bảo vệ quyền sở hữu
(Chương XV). Ví dụ: Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ
người chiếm hữu ngay tình (Điều 257) hoặc Quyền đòi lại động sản phải đăng ký

quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình (Điều 258). Tuy
nhiên, trải qua 10 năm thi hành BLDS 2005 đã xuất hiện nhiều bất cập do có sự thay
đổi về hệ thống pháp luật, nhiều văn bản pháp luật được ban hành, trong đó có nội
dung bảo vệ quyền sở hữu. Để khắc phục những tồn tại, bất cấp đó BLDS 2015 chỉ
gói gọn quy định trong Mục 2, Chương XI, Quy định chung trong phần thứ hai về
quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản để thuận tiện cho việc áp dụng pháp luật
dân sự về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
- BLDS 2015 không tách riêng một điều về bảo về quyền khác đối với người
chiếm hữu không phải là chủ sở hữu như quy định tại điều 261 BLDS 2005 mà
trong các quy định về bảo vệ quyền sở hữu cũng được áp dụng cho chủ thể có quyền
khác đối với tài sản bằng cách bổ sung cụm từ quyền khác đối với tài sản trong các
Điều 163, 164, 166, 169, và Điều 170.
2.2. ĐIỂM MỚI VỀ NGUYÊN TẮC BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU, QUYỀN
KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN
Tại Điều 169, BLDS 2005 quy định các nguyên tắc bảo vệ quyền sở hữu chung
với biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu.
Nội dung của nguyên tắc bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản quy định tại Điều
169, BLDS 2005 được giữ nguyên tại Điều 163, BLDS 2015, chủ sở hữu có mọi
quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu của mình, được pháp luật bảo vệ, được
thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản theo quy định của pháp
luật và không bị hạn chế, tước đoạt trái pháp luật quyền đối với tài sản của mình.
Nhà nước chỉ trưng mua hoặc trưng dụng trong các trường hợp vì lý do quốc phòng,
an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai và được
bồi thường theo giá thị trường.
2.3. ĐIỂM MỚI VỀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU, QUYỀN KHÁC
ĐỐI VỚI TÀI SẢN
Biện pháp tự bảo vệ quy định trong BLDS 2005 của chủ sở hữu được nhắc lại
02 lần trong các Điều 169 và Điều 255. Đối với người chiếm hữu mà không phải là
chủ sở hữu chỉ quy định trong Điều 255, BLDS 2005.
SVTH: Chu Đăng Khoa


Lớp K713LHV.KT

14

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


Tuy nhiên, trong BLDS 2015 đã quy định nội dung này trong duy nhất Điều
164. Ngoài ra, thay thế tên gọi chủ thể người chiếm hữu mà không phải là chủ sở
hữu bằng chủ thể có quyền khác đối với tài sản. Bên canh quyền tự bảo vệ, Điều
164 BLDS 2015 cũng quy định cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài
sản khi không tự bảo vệ được tài sản còn có quyền: “yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài
sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
2.4. ĐIỂM MỚI VỀ QUYỀN ĐÒI LẠI TÀI SẢN
2.4.1. Về quy định chung Quyền đòi lại tài sản
Quyền đòi lại tài sản theo quy định tại điều 256 BLDS 2005 cơ bản được giữ
nguyên tại điều 166 BLDS 2015. Theo đó chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản từ
người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi từ tài sản không có căn cứ
pháp luật.
Tuy nhiên nếu như trước đây, điều 256 BLDS 2005 về quyền đòi tài sản có quy
định “Trong trường hợp tài sản đang thuộc chiếm hữu của người chiếm hữu ngay
tình thì áp dụng điều 257 và điều 258 của Bộ luật này” thì điều 166 BLDS 2015 đã
cắt bỏ phần quy định dẫn chiếu quy định áp dụng trong trường hợp người chiếm hữu
ngay tình của điều 256 BLDS 2005.
Việc cắt bỏ phần dẫn chiếu này, không làm ảnh hưởng đến nội dung cũng như
quá trình áp dụng quy định về bảo vệ quyền sở hữu khi bị chiếm hữu ngay tình, bởi
lẽ điều 166 BLDS 2015 chỉ là những quy định chung về quyền đòi lại tài sản, nếu

sau khi yêu cầu mà có căn cứ xác định người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng các
quy định về bảo vệ quyền sở hữu khi người chiếm hữu ngay tình
2.4.2. Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người
chiếm hữu ngay tình
Nội dung quy định về quyền đòi lại động sản không phải đăng ký được quy
định tại điều 257 BLDS 2005 vẫn được giữ nguyên về nội dung trong quy định tại
điều 167 BLDS 2015.
2.4.3. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản
từ người chiếm hữu ngay tình
Nhìn chung, nội dung quy định về quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền
sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình trong BLDS 2015 không có
nhiều thay đổi so với BLDS 2005. Tuy nhiên, nếu như tại Điều 258, BLDS 2005
quy định cụ thể những trường nào chủ sở hữu được đòi lại tài sản và trường hợp nào
không được đòi lại tài sản: “Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền
sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận
được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó
SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

15

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa” thì
Điều 168 BLDS 2015 lại quy định theo hướng dẫn chiếu các trường hợp chủ sở hữu
không thể đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản tại khoản 2
điều 133 về bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu: “Chủ sở

hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người
chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật
này”. Có thể thấy quy định tại điều 168 ngắn gọn và dễ hiểu hơn, giải thích được cụ
thể từng trường hợp trong một điều luật khác, tránh lặp lại những quy định đã quy
định trước đó trong cùng một văn bản luật.
2.5. QUYỀN YÊU CẦU CHẤM DỨT HÀNH VI CẢN TRỞ TRÁI PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN SỞ HỮU
Cũng giống như Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất
động sản từ người chiếm hữu ngay tình, nội dung của quyền yêu cầu chấm dứt hành
vi cản trở pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu không có nhiều sự thay đổi.
Nếu như Điều 119, BLDS 2005 quy định chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại là chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp thì BLDS 2015 quy định chủ thể có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đó là chủ sở hữu và chủ thể có quyền khác đối
với tài sản.
Tuy nhiên, tại Điều 119, BLDS 2005 quy định việc yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền khác chỉ được thực hiện nếu người vi phạm không có sự chấm
dứt tự nguyện: “Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở
hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp
luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền
yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành
vi vi phạm” thì Điều 169, BLDS 2015 lại bỏ quy định về việc không có sự chấm dứt
tự nguyện mới được yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác “Khi
thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chủ thể có quyền yêu cầu người
có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó hoặc có quyền yêu cầu
Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi
phạm”
2.6. QUYỀN YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
Việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong BLDS 2015 không có
nhiều thay đổi so với BLDS 2005. Nếu như Điều 120, BLDS 2005 quy định chủ thể
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại là chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp

thì BLDS 2015 quy định chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đó là chủ sở
hữu và chủ thể có quyền khác đối với tài sản. Cụ thể:
- Điều 120 (Bộ luật Dân sự 2005) quy định:
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”.
SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

16

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


- Điều 170 (Bộ luật Dân sự 2015) thì quy định:
“Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu người có
hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bồi thường thiệt hại”.
Việc thay đổi như trên không làm ảnh hưởng đến nội dung của quy định, đó là
việc yêu cầu tòa án buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản phải bồi thường thiệt hại cho mình.

KẾT LUẬN
Cùng với những biện pháp được quy định trong các văn bản pháp luật khác như
hành chính, hình sự, đất đai…, những chế định bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối
SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

17


GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


với tài sản được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 đã xây dựng khá đầy đủ hành
lang pháp lý một cách rõ ràng, thống nhất và hoàn thiện hơn so với Bộ luật Dân sự
2005. Trong thực tế, việc bảo vệ quyền sở hữu của cá nhân hay của các chủ thể hợp
pháp khá phức tạp vậy nên cá nhân, pháp nhân cần có cái nhìn đầy đủ hơn về các
chế định, các phương thức bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản chính
xác. Và việc chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tàu sản được bảo vệ quyền
lợi một cách chặt chẽ sẽ có thể thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN hiện nay và tạo niềm tin vững chắc về vai trò của pháp luật, của Nhà
nước trong lòng Nhân dân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ luật Dân sự năm 2005;
[2] Bộ luật Dân sự năm 2015;

SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

18

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


[3] Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 - NXB Hồng
Đức, PGS. TS Đỗ Văn Đại (Chủ biên);
[4] Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư
pháp, PGS.TS Hoàng Thế Liên (Chủ biên)

[5] Bộ luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
[6] Luật nhà ở năm 2014;
[7] />[8] />[9] />[9] />
SVTH: Chu Đăng Khoa

Lớp K713LHV.KT

19

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung



×