Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Đánh giá tác dụng ức chế enzym acetylcholinsterase in vitro của các phân đoạn dịch chiết hoàng liên ô rô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 60 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA Y- DƢỢC

PHAN KẾ SƠN

ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG ỨC CHẾ
ENZYM ACETYLCHOLINSTERASE
IN VITRO CỦA CÁC PHÂN ĐOẠN
DỊCH CHIẾT HOÀNG LIÊN Ô RÔ
(Mahonia Nepalensis DC., HỌ
Berberidaceae)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH DƢỢC HỌC

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA Y- DƢỢC

Ngƣời thực hiện: PHAN KẾ SƠN

ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG ỨC CHẾ
ENZYM ACETYLCHOLINSTERASE
IN VITRO CỦA CÁC PHÂN ĐOẠN
DỊCH CHIẾT HOÀNG LIÊN Ô RÔ
(Mahonia Nepalensis DC., HỌ
Berberidaceae)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH DƢỢC HỌC

KHÓA: QH.2012.Y


NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. BÙI THANH TÙNG

HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Khi tôi được nhận đề tài khóa luận này, tôi đã cảm thấy mình là người
may mắn vì tôi có cơ hội được làm nghiên cứu về lĩnh vực mà tôi đam mê và
theo đuổi bấy lâu nay. Và bây giờ, khi đã hoàn thành khóa luận, tôi vẫn cảm
thấy tôi là người may mắn vì tôi có cơ hội học hỏi được nhiều điều. Trong
quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp
đỡ quý báu của các thầy cô, bạn bè và những người thân yêu trong gia đình
của tôi.
Lời đầu tiên, tôi xin gửi đến người thầy mà tôi vô cùng kính mến và
ngưỡng mộ - TS. Bùi Thanh Tùng – Phó trưởng phòng Quản lý khoa học và
hợp tác phát triển - Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội. Thầy không chỉ
là người hướng dẫn cho tôi thực hiện đề tài khóa luận, thầy còn là hình mẫu
để tôi tin rằng trong cuộc sống vẫn có những người vô cùng dễ mến và tốt
bụng, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác không vì bất cứ lý do nào.
Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban chủ nhiệm Khoa Y Dược,
cùng toàn thể các thầy cô bộ môn Dược lý – Dược lâm sàng, bộ môn Bào chế
và Công nghệ Dược phẩm, bộ môn Hóa Dược và Kiểm nghiệm thuốc đã hết
lòng quan tâm, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi thực hiện nghiên cứu
và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin cảm ơn Trung tâm thông tin – thư viện, Đại học Quốc gia
Hà Nội đã cung cấp cho tôi những tài liệu cần thiết và bổ ích trong quá trình
thực hiện khóa luận.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn và sự yêu thương đến gia
đình, người thân và bạn bè, những người đã luôn ở bên cổ vũ, động viên và
tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và thực hiện đề tài khóa

luận này.
Hà Nội, ngày 3 tháng 6 năm 2017
Sinh viên
Phan Kế Sơn


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
ACh
AChE
ATCI
DTNB
EtOAc
FDA
nAChRs
n-BuOH
SD


Acetylcholin
Enzym acetylcholinsterase
Acetylthiocholin iodid
Acid 5-5‟-dithiobis-2-nitrobenzoic
Ethylacetate
Hiệp hội Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ
Receptor nicotinic acetylcholin
n-buthanol
Độ lệch chuẩn (Standard Deviation)
Giá trị trung bình



DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Bảng 2.1

Bảng 2.2
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3

Tên bảng
Trang
Thành phần hỗn hợp phản ứng khảo sát ảnh hưởng của
25
nồng độ dung dịch cơ chất ACTI và thuốc thử DTNB
đến phương pháp thử
Thành phần hỗn hợp phản ứng khảo sát ảnh hưởng của
26
hoạt độ enzym đến phương pháp thử
Ảnh hưởng của nồng độ cơ chất ACTI và thuốc thử
29
DTNB đến phương pháp thử
Thành phần của hỗn hợp phản ứng
31
Giá trị IC50 của các phân đoạn dịch chiết từ Hoàng liên
34
ô rô và Berberin clorid


DANH MỤC CÁC HÌNH
STT

Hình 1.1

Tên hình
Sơ đồ quá trình sinh tổng hợp Acetylcholin

Hình 1.2
Hình 1.3
Hình 1.4

Ba vị trí hoạt động trên bề mặt enzym của acetylcholin
Hai khung alcaloid chính có nhân Isoquinolin
Hai alcaloid có khung protoBerberin được tìm thấy đầu
tiên trong cây Hoàng liên ô rô
Cấu trúc phân tử của Palmatine
Một số alcaloid có khung bisbenzylisoquinoline trong
cây Hoàng liên ô rô
Cấu trúc phân tử của Magnoflorine
Sơ đồ phản ứng tạo màu với thuốc thử Ellman
Sơ đồ chiết xuất phân đoạn thân cây Hoàng liên ô rô
Đồ thị biểu diễn sự tương quan giữa độ hấp thụ quang và
thời gian phản ứng của các hỗn hợp ở 3 mức hoạt độ
enzym AChE
Sơ đồ quy trình phương pháp đánh giá tác dụng ức chế
enzym AChE
Đồ thị biểu diễn tác dụng ức chế hoạt độ enzym AChE
của các phân đoạn dịch chiết cây Hoàng liên ô rô
Đồ thị biểu diễn tác dụng ức chế hoạt độ enzym AChE
của Berberin clorid
Đồ thị biểu diễn mối tương quan giữa giá trị độ hấp thụ
quang với thời gian phản ứng của cơ chất ACTI ở các

nồng độ khác nhau
Đồ thị Lineweaver-Burk cho phân đoạn dịch chiết nBuOH
Đồ thị biểu diễn mối tương quan giữa giá trị độ hấp thụ
quang với thời gian phản ứng của phân đoạn dịch chiết

Hình 1.5
Hình 1.6
Hình 1.7
Hình 2.1
Hình 3.1
Hình 3.2

Hình 3.3
Hình 3.4
Hình 3.5
Hình 3.6

Hình 3.7
Hình 3.8

Trang
9
10
17
18
18
19
19
23
28

30

32
33
34
36

37
38


Hình 3.9

n-BuOH ở các nồng độ khác nhau
Đồ thị Dixon cho phân đoạn dịch chiết n-BuOH để xác
định hằng số ức chế Ki

39


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 1. TỔNG QUAN ............................................................................... 3
1.1. Bệnh Alzheimer ...................................................................................... 3
1.1.1. Tổng quan về bệnh Alzheimer .......................................................... 3
1.1.2. Dịch tễ học và các yếu tố nguy cơ..................................................... 3
1.1.3. Đặc điểm lâm sàng ............................................................................ 5
1.1.4. Điều trị bệnh Alzheimer .................................................................... 6
1.2. Acetylcholin, enzym acetylcholinsterase và giả thuyết về vai trò của
hệ cholinergic đối với bệnh Alzheimer .......................................................... 8

1.2.1. Acetylcholin ...................................................................................... 8
1.2.2. Enzym acetylcholinsterase .............................................................. 10
1.3. Một số phƣơng pháp thƣờng dùng trong nghiên cứu ức chế enzym
acetylcholinsterase in vitro............................................................................ 12
1.3.1. Phương pháp sử dụng thuốc thử Ellman ......................................... 12
1.3.2. Phương pháp sử dụng thuốc thử muối Fast Blue B ........................ 14
1.4. Vị trí phân loại, đặc điểm thực vật chi Mahonia, phân bố một số
loài ở Việt Nam và đặc điểm của cây Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis
DC.)………….. ............................................................................................... 15
1.4.1. Vị trí phân loại thực vật ................................................................... 15
1.4.2. Phân bố, một số loài ở Việt Nam .................................................... 15
1.4.3. Đặc điểm thực vật học của cây Hoàng liên ô rô.............................. 16
1.4.4. Thành phần hóa thực vật ................................................................. 17
1.4.5. Tác dụng và công dụng ................................................................... 20
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 21
2.1. Nguyên vật liệu và thiết bị .................................................................. 21
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu ...................................................................... 21
2.1.2 Chuẩn bị mẫu nghiên cứu ................................................................ 21
2.1.3 Hóa chất, thiết bị ............................................................................. 21
2.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................ 22


2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................... 22
2.4. Phƣơng pháp xử lý số liệu ................................................................... 27
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 28
3.1. Chiết xuất và phân đoạn dịch chiết Hoàng liên ô rô ....................... 28
3.2. Xây dựng phƣơng pháp đánh giá tác dụng ức chế enzym AChE .. 28
3.3. Đánh giá tác dụng ức chế enzym acetylcholinsterase in vitro của
dƣợc liệu Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC, họ Berberidaceae)
...................................................................................................................... 33

Chƣơng 4. BÀN LUẬN ................................................................................. 40
4.1. Về xây dựng phƣơng pháp đánh giá tác dụng ức chế enzym AChE
...................................................................................................................... 40
4.2. Về đánh giá tác dụng ức chế enzym acetylcholinsterase in vitro của
dƣợc liệu Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC, họ Berberidaceae)
...................................................................................................................... 41
Chƣơng 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
Bệnh Alzheimer là bệnh thoái hóa thần kinh tiến triển liên quan đến
tuổi, làm suy giảm khả năng nhớ và nhận thức, là một vấn đề đáng lo ngại,
đặc biệt ở người cao tuổi [38]. Bệnh Alzheimer hiện chưa có liệu pháp chữa
trị hay phòng ngừa hiệu quả. Thống kê ở châu Á cho thấy có khoảng 35 triệu
người mắc bệnh Alzheimer, con số này được dự đoán sẽ tăng gấp đôi vào
năm 2050, lên tới 62,8 triệu người. Việt Nam có khoảng hơn 9 triệu người bị
sa sút trí tuệ mà dạng bệnh điển hình là Alzheimer [9]. Bệnh nhân bị
Alzheimer sẽ bị giảm khả năng xét đoán, định hướng không gian và thời gian,
ngôn ngữ, tư duy nhận thức, hành động,… ảnh hưởng nặng nề đến chức năng
và chất lượng cuộc sống, gây nhiều khó khăn cho người bệnh, cho gia đình và
cộng đồng xã hội. Theo giả thuyết cholinergic, việc phát sinh bệnh Alzheimer
có liên quan đến sự thiếu hụt chất dẫn truyền thần kinh acetylcholin trong não
tới gần 90% [74]. Acetylcholin (ACh) có một vai trò quan trọng trong hoạt
động của hệ thần kinh. Nó là chất dẫn truyền thần kinh tại khe synap, và nồng
độ ACh được duy trì ổn định bởi enzym acetylcholinsterase (AChE). AChE là
một enzym có chức năng làm ngăn chặn các dẫn truyền xung động thần kinh
tại các synap thần kinh cholinergic thông qua việc thủy phân ACh tạo thành
cholin và acid acetic. Khi nồng độ cơ chất và enzym ở trạng thái cân bằng thì

hoạt động của hệ thần kinh được duy trì ở mức bình thường. Ở các bệnh nhân
Alzheimer, do có sự tích tụ các mảng lão hóa β-amyloid và các đám rối thần
kinh, khiến cho nồng độ ACh bị suy giảm đáng kể [37]. Việc ức chế AChE sẽ
duy trì nồng độ và thời gian hoạt động ACh tại các khe synap, từ đó có tác
dụng duy trì khả năng ghi nhớ và học tập. Do vậy, các thuốc ức chế enzym
AChE đóng một vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn sự tiến triển của
bệnh Alzheimer.
Theo ước tính, trong gần 20 năm trở lại đây có khoảng 50% các thuốc
được đưa ra thị trường đều trực tiếp hoặc gián tiếp có nguồn gốc từ các hợp
chất thiên nhiên [45]. Do đó, các hợp chất thiên nhiên là một nguồn quan
trọng cung cấp những hợp chất tiềm năng dùng điều trị các bệnh khác nhau,
trong đó có bệnh Alzheimer. Các thuốc điều trị hiện nay chủ yếu là các chất
1


ức chế AChE như Rivastigmine, Donepezine, Tacrine, Galanthamine và
Huperzine–A, trong đó Rivastigmine, Galanthamine và Huperzine–A đều là
các hợp chất có nguồn gốc tự nhiên [2]. Ở Việt Nam, y học cổ truyền có một
lịch sử lâu đời và đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống chăm sóc sức
khỏe. Nhiều dược liệu đã được sử dụng để điều trị bệnh và nhiều bài thuốc cổ
truyền vẫn được lưu giữ đến ngày nay. Tuy nhiên, các nghiên cứu về sàng lọc
dược liệu và đánh giá về hóa thực vật, tác dụng ngăn ngừa và điều trị bệnh
Alzheimer rất ít, chưa phát huy được tiềm năng của các dược liệu quý của
Việt Nam. Do đó, rất cần thiết có các phương pháp sàng lọc nhanh và chính
xác dược liệu có tác dụng ức chế enzym AChE.
Hoàng liên ô rô có tên khoa học là Mahonia neplensis DC, thuộc họ
Hoàng liên gai (Berberidaceae). Ngoài ra dân gian còn gọi là cây mật gấu,
dùng chữa các bệnh về gan, bệnh về đường tiêu hóa và nhiều tác dụng quý
khác. Cây còn có tên khác là thập đại công lao, nghĩa là cây có tất cả 10 tác
dụng. Trong cây Hoàng liên ô rô có chứa các hợp chất alcaloid, saponin,

đường khử, acid amin, sterol. Các alcaloid chính trong cây có cấu trúc khung
protoberberin như berberin, palmatin,…[7]. Theo kinh nghiệm dân gian,
Hoàng liên ô rô có tác dụng thanh nhiệt ở phế vị, can thuận, lợi tiểu và làm
dịu kích thích và thường được dùng để chữa ho lao, sốt cơn, đau lưng gối,
chữa viêm ruột, ỉa chảy, viêm da, dị ứng, ăn uống không tiêu [7,12]. Mặc dù
đã có một số nghiên cứu liên quan đến tác dụng kháng khuẩn, chống viêm,
chống oxy hóa của Hoàng liên ô rô nhưng chưa có nghiên cứu về khả năng ức
chế enzym AChE. Với thực tế nêu trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài
“Đánh giá tác dụng ức chế enzym acetylcholinsterase in vitro của các
phân đoạn dịch chiết Hoàng liên ô rô (Mahonia Nepalensis DC., Họ
Berberidaceae)” với hai mục tiêu:
1. Xây dựng được phương pháp đánh giá tác dụng ức chế enzym
acetylcholinsterase in vitro của dược liệu
2. Đánh giá được tác dụng ức chế enzym acetylcholinsterase in vitro
của Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC, họ Berberidaceae)

2


Chƣơng 1. TỔNG QUAN
1.1. Bệnh Alzheimer
1.1.1. Tổng quan về bệnh Alzheimer
Tại cuộc họp lần thứ 37 của Hiệp hội các nhà tâm thần học vùng Tây
Nam nước Đức vào ngày 3 tháng 11 năm 1906 tại Turbingen, ông Alois
Alzheimer đã lần đầu tiên mô tả đặc điểm lâm sàng và giải phẫu thần kinh học
của một căn bệnh sa sút trí tuệ (dementia) ở một bệnh nhân nữ 51 tuổi,
Auguste Deter. Sau khi bệnh nhân tử vong, Alois Alzheimer đã lấy mẫu sinh
thiết (biopsy) não bộ và tìm ra những dấu hiệu bất thường là những mảng lão
hóa β- amyloid (plaque) ở ngoài tế bào thần kinh và những đám rối (tangle) ở
trong tế bào thần kinh. Mảng và đám rối là những protein bất thường không

tan được, lắng đọng ở các tế bào thần kinh và ảnh hưởng đến sự hoạt động
của chúng. Mảng và đám rối hiện nay là thước đo vàng để chẩn đoán bệnh
Alzheimer. Năm 1910, Kraepelin đã lấy tên ông đặt cho tên bệnh – bệnh
Alzheimer trong tái bản lần thứ 8 bài viết Tâm thần học (Psychiatrie) của
mình [61]. Alzheimer công bố thêm ba trường hợp vào năm 1909 và một
trường hợp biến thể (Josef F.) chỉ xuất hiện mảng bám (Plaque – only) vào
năm 1911. Từ hai trường hợp Auguste và Josef, ông đã chỉ ra mảng bám cũng
như đám xơ rối là các giai đoạn khác nhau của cùng một quá trình phát triển
bệnh lý [46].
1.1.2. Dịch tễ học và các yếu tố nguy cơ
Theo ước tính trên toàn thế giới số lượng người bị sa sút trí tuệ là 24
triệu trong năm 2005, ước tính lên đến 81 triệu trường hợp vào năm 2040
[41]. Bệnh Alzheimer là nguyên nhân phổ biến nhất của chứng mất trí ở hầu
hết các quốc gia, chiếm khoảng hai phần ba các trường hợp. Trong nước Mỹ,
ước tính có khoảng 5,4 triệu người mắc bệnh Alzheimer. Tỷ lệ mắc bệnh của
bệnh Alzheimer tăng dần theo tuổi, 96% là từ 65 tuổi trở lên. Chi phí cho việc
chăm sóc sức khỏe, chăm sóc dài hạn, và các dịch vụ viện chăm sóc đặc biệt ở
nước Mỹ được ước tính 200 tỷ USD mỗi năm [22]. Việt Nam có khoảng hơn
9 triệu người bị sa sút trí tuệ mà dạng bệnh điển hình là Alzheimer [9]. Yếu tố

3


di truyền và không di truyền đều có liên quan với nguy cơ mắc bệnh
Alzheimer.
Tăng huyết áp tâm thu và tăng cholesterol máu sẽ có nguy cơ cao bị
Alzheimer hơn những người bình thường [18]. Hội chứng Down: người bị
chứng này sẽ bị Alzheimer khi sống đến 40 tuổi và những bà mẹ sinh con bị
Down sẽ có nguy cơ cao bị Alzheimer [18].
1.1.2.1. Các yếu tố nguy cơ di truyền

Yếu tố di truyền đến nay đã được xác nhận là một trong các nguyên
nhân gây bệnh Alzheimer. Yếu tố di truyền được thấy ở 5% các bệnh nhân
Alzheimer và là bệnh Alzheimer khởi phát sớm. Tuy nhiên, do tác động của
môi trường dẫn đến sự khác nhau về tuổi khởi phát bệnh cũng như biểu hiện
các triệu chứng trong gia đình người mang các biến dị nhiễm sắc thể gây bệnh
Alzheimer. Những đột biến gây bệnh liên quan đến thay thế một nucleotide
trong chuỗi DNA (đa hình nucleotide đơn) bao gồm các gen xác định mã hóa
các protein amyloid precursor (gen APP trên nhiễm sắc thể 21), và hai protein
presenilin (presenilin 1, mã hóa bởi gen PSEN1 trên nhiễm sắc thể số 14;
presenilin 2, từ gen PSEN2 trên nhiễm sắc thể số 1). Các presenilin tạo thành
một phần của enzym gamma-secretase, tham gia vào sự phân tách các protein
amyloid precursor. Những đột biến này làm tăng cường sản xuất Aβ, tỷ lệ
tương đối của Aβ42 so với Aβ40, hoặc các dạng sợi nhỏ của Aβ. Những đột
biến di truyền này rất hiếm gặp, chỉ chiếm khoảng 13% các trường hợp
thường khởi phát sớm [25].
Các biến thể ε4 (alen) của gen mã hóa apolipoprotein E (APOE), nằm
trên nhiễm sắc thể 19, cũng là yếu tố nguy cơ di truyền cho bệnh khởi phát
muộn Alzheimer. Nó ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh xuất hiện sớm. Ở
những người châu Âu, tần số của các allele ε4 là khoảng 14%. Trong não,
apolipoprotein E vận chuyển lipid trong thời gian sửa chữa tế bào thần kinh
[51]. Vì cơ chế đó chưa rõ ràng, Aβ tăng lên trong não của những người mang
alen ε4. Những người có kiểu gen ε3/ε4 có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer cao
hơn gấp khoảng ba lần khi so sánh với kiểu gen phổ biến hơn ε3/ε3. Tuy
nhiên, có một sự khác biệt về giới tính, phụ nữ mang alen ε4 đối mặt với nguy
4


cơ cao hơn nam giới mang alen ε4 [28,40]. Các alen ε2 ít phổ biến hơn nên
nguy cơ thấp hơn. APOE thường được coi như là một gen nhạy cảm làm tăng
nguy cơ, nhưng nó cũng được mô tả là một gen trội không hoàn toàn. Sự gia

tăng nguy cơ tương đối các alen ε4 hiện rõ nhất giữa khoảng tuổi 65 và 80, ở
tuổi 65 có nguy cơ ít hơn đối với bệnh mất trí nhớ và nguy cơ xuất hiện sớm
bệnh Alzheimer sau 80 tuổi [42].
1.1.2.2. Các yếu tố nguy cơ không di truyền
Tuổi là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với bệnh Alzheimer. Ở
người trên 60 tuổi, cả tỷ lệ mắc chung và tỷ lệ mắc mới bệnh Alzheimer ước
tính tăng gấp đôi cứ sau 5-6 năm: ở nhóm tuổi 65-69 số người bị bệnh là 2%;
ở nhóm tuổi 80-85 số người bị bệnh là 30-40% [67].
Giới tính cũng là một yếu tố nguy cơ quan trọng. Phụ nữ có nguy cơ
mắc bệnh Alzheimer cao hơn khoảng 1,5-2 lần so với nam giới. Phần lớn của
sự khác biệt này là do thực tế tuổi thọ của phụ nữ dài hơn. Tại Hoa Kỳ, sự
khác biệt là khoảng 5 năm [23,67].
Nghiên cứu gần đây đã cho thấy một mối quan hệ nghịch đảo giữa bệnh
ung thư và bệnh Alzheimer [56]. Có thể suy đoán rằng các quá trình sinh hóa
thúc đẩy thoái hóa thần kinh và tế bào chết sẽ được chống lại bởi các quá
trình và con đường tín hiệu thúc đẩy sự tăng sinh tế bào bất thường.
1.1.3. Đặc điểm lâm sàng
Sự bắt đầu của bệnh thường rất từ từ nên thường khó có thể ghi nhận
được chính xác thời gian khởi phát bệnh. Tiến triển chậm, do vậy bệnh nhân
vẫn duy trì được các năng lực xã hội cho đến giai đoạn toàn phát. Thường là
bệnh nhân không nhận biết được những thay đổi bệnh lý của mình ở giai đoạn
này [18].
Bệnh cảnh lâm sàng là một hội chứng sa sút trí tuệ điển hình và tiến
triển của bệnh có thể được chia thành 3 giai đoạn chính như sau:
1.1.3.1. Giai đoạn 1
Thường kéo dài 2 – 3 năm, được đặc trưng bởi các triệu chứng: suy
giảm trí nhớ, giảm hiệu suất trong giải quyết các công việc thường ngày, rối
loạn định hướng không gian. Đồng thời có thể có các khí sắc rõ rệt dẫn đến
5



trạng thái bất an, bồn chồn, đứng ngồi không yên, dễ bị kích thích, hoặc
ngược lại dẫn đến bàng quan, sững sờ, trầm cảm từ giai đoạn sớm của bệnh.
1.1.3.2. Giai đoạn 2
Suy giảm trí tuệ diễn ra nhanh chóng, rõ rệt. Nhân cách của người bệnh
cũng bắt đầu có những biến đổi. Thường gặp các triệu chứng biểu hiện tổn
thương thùy đỉnh: rối loạn ngôn ngữ, rối loạn tri giác, rối loạn hành vi, thay
đổi tính cách. Các rối loạn ngoại tháp đặc trưng là rối loạn tư thế, dáng điệu,
tăng trương lực cơ và đặc biệt các triệu chứng giống Parkinson thấy có ở gần
2/3 các bệnh nhân Alzheimer.
1.1.3.3. Giai đoạn 3
Giai đoạn cuối cùng. Bệnh nhân có thể nằm liệt giường, rối loạn đại
tiểu tiện, các triệu chứng loạn thần (hoang tưởng, ảo giác,…) thường xuất
hiện rõ rệt trong bệnh cảnh lâm sàng. Có thể xuất hiện các rối loạn thần kinh
như liệt nhẹ nửa người co cứng, bệnh nhân nằm co quắp, run tay chân, có các
phản xạ nắm, mút. Các cơn động kinh toàn thể (cơn lớn) gặp trong nhiều
trường hợp. Sút cân nhanh chóng mặc dù vẫn duy trì ăn ngon miệng.
1.1.4. Điều trị bệnh Alzheimer
Kết quả chẩn đoán bệnh Alzheimer sẽ làm thay đổi cuộc sống của cả
bệnh nhân và gia đình họ. Cho tới thời điểm hiện tại, vẫn chưa có loại thuốc
nào có thể chữa khỏi bệnh Alzheimer mà chỉ có thể giúp làm chậm tiến triển
của bệnh và làm giảm một số triệu chứng.
Tất cả các bệnh nhân mắc Alzheimer cần được ổn định cân bằng
chuyển hóa và cân bằng thể dịch, đồng thời duy trì trọng lượng cơ thể ở mức
bình thường, điều chỉnh huyết áp, mỡ máu cũng như các vấn đề khác gây khó
chịu cho người bệnh. Ngoài ra cần áp dụng các biện pháp chăm sóc y tế cơ
bản tùy theo mức độ nặng nề và suy giảm trí nhớ của người bệnh và các triệu
chứng xuất hiện thêm về sau [18].

6



1.1.4.1. Điều trị bệnh Alzheimer bằng thuốc
 Các thuốc hiện đang sử dụng để điều trị triệu chứng liên quan đến nhận
thức trong bệnh Alzheimer [13]
Hiệp hội Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê chuẩn
lưu hành hai loại thuốc dùng để điều trị các triệu chứng liên quan đến nhận
thức của bệnh Alzheimer:
- Chất ức chế Cholinesterase giúp ngăn ngừa sự giảm hàm lượng
acetylcholin, một chất dẫn truyền thần kinh quan trọng cho quá trình
ghi nhớ và học hỏi. Ba loại chất ức chế cholinesterase thường được kê
đơn thuốc là:
+ Donepezil (Aricept) được dùng để điều trị trong tất cả các giai đoạn
của bệnh Alzheimer.
+ Rivastigmin (Exelon) được dùng để điều trị bệnh Alzheimer's trong
giai đoạn nhẹ và vừa.
+ Galantamin (Razadyne) được cấp phép dùng để điều trị bệnh
Alzheimer trong giai đoạn nhẹ và vừa.
- Các thuốc kháng thụ thể N: Memantin (Namenda) giúp điều hòa hoạt
động của glutamate, một loại chất chuyển dẫn truyền thần kinh khác
liên quan đến quá trình ghi nhớ và học hỏi. Loại thuốc này được Cục
Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ cấp phép dùng để điều trị
bệnh Alzheimer trong giai đoạn vừa và nặng [13].
 Điều trị các bệnh phối hợp: Nếu bệnh nhân có các bệnh kèm theo thì
cũng cần điều trị đồng thời các bệnh đó ngay như tăng huyết áp, đái
tháo đường,… [13].
1.1.4.2. Biện pháp không dùng thuốc
Các biện pháp bổ sung bao gồm việc tạo ra một cuộc sống ổn định
tránh căng thẳng hàng ngày, và hỗ trợ thân nhân của người bệnh về cách
chăm sóc. Thúc đẩy các nhóm trợ giúp và hỗ trợ tại gia đình rất có nhiều lợi

ích cho người bệnh. Ngoài ra, cần hỗ tr;ợ thêm các hoạt động sinh hoạt trong

7


cuộc sống hàng ngày, huấn luyện hành vi và biện pháp hòa nhập xã hội có thể
hữu ích [18].
1.2.

Acetylcholin, enzym acetylcholinsterase và giả thuyết về vai trò
của hệ cholinergic đối với bệnh Alzheimer
1.2.1. Acetylcholin
1.2.1.1. Đặc điểm
Acetylcholin (ACh) được tìm thấy ở động vật có xương sống, động vật
chân khớp; và là một trong những chất chính mà nhờ đó xung điện được
truyền giữa các tế bào thần kinh với nhau hoặc từ tế bào thần kinh tới cơ vân
và cơ trơn. ACh được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1867 dưới dạng một
chất tổng hợp và được phát hiện trong cơ thể người năm 1906 từ dịch chiết
tuyến thượng thận [15].
Trong những năm gần đây, ACh được chứng minh có liên quan tới
nhiều chức năng khác bên cạnh chức năng dẫn truyền thần kinh. Trong đó,
ACh được xem là có liên quan đến sự tiến triển của bệnh viêm dây thần kinh
và quá trình sản sinh sợi amyloid, những đặc điểm điển hình được thấy trong
tế bào não của bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer [15].
1.2.1.2. Quá trình sinh tổng hợp Acetylcholin
Acetylcholin được tổng hợp bắt đầu với phản ứng của choline với
acetate (hình1.1) trong tế bào thần kinh. Acetate được kích hoạt bởi coenzym
A và nó trở thành Acetyl Co-enzym A. Phản ứng giữa Acetyl Co-enzym A và
choline được xúc tác bởi enzym choline transferase. ACh sau khi được tổng
hợp, được lưu giữ ở vị trí cuối dây thần kinh, trong các túi (bóng synap). Các

chất trong túi được giải phóng khi vị trí cuối dây thần kinh bị khử cực và khi
đó ACh được giải phóng vào khe synap và gắn với thụ thể. ACh sau khi được
giải phóng có thời gian bán thải rất ngắn vì sự có mặt của AChE. Đây là
enzym thủy phân dây nối este trong phân tử ACh tạo ra cholin và acid acetic.
Cholin sau đó được thu nhận lại vào tế bào thần kinh để tổng hợp ACh. Do
đó, những chất có tác dụng ức chế AChE sẽ kéo dài thời gian tồn tại và thời
gian tác dụng của ACh [15].

8


Hình 1.1. Sơ đồ quá trình sinh tổng hợp Acetylcholin [15]
Receptor acetylcholin được chia thành hai loại chính dựa trên đặc tính
dược lý: receptor muscarinic và receptor nicotinic. Receptor nicotinic
acetylcholin (nAChRs) là tuýp phụ của receptor acetylcholin và là thành viên
của siêu họ các receptor kênh ion [31]. Kết hợp các pentamer của nhiều tiểu
đơn vị α và β tạo thành một lượng lớn các receptor nicotinic trong não. Các
nAChRs đóng vai trò quan trọng trong nhiều chức năng sinh lý và bệnh lý.
Một lượng lớn các nAChRs có mặt tại tế bào thần kinh trong hệ thần kinh
trung ương, nơi chúng tham gia vào quá trình kết nối chức năng nhận thức với
trí nhớ, điều khiển hoạt động của cơ và giảm đau [32], tăng cường sự tập
trung, kích thích và nhận cảm giác quan. Não được coi là trung tâm của sự
hình thành bộ nhớ và lưu trữ rất giàu nAChRs. Nicotin và các chất chủ vận
nAChRs khác tăng cường nhận thức và trí nhớ, trong khi tổn thương ở những
vùng giàu nAChRs làm suy yếu hình thành trí nhớ. Tương tự như vậy đầu vào
của các nAChRs để dẫn truyền thần kinh cholinergic có vai trò đáng kể của
các nAChRs ở trước và sau synap như autoreceptors và hetroreceptors điều
tiết sự giải phóng tại khe synap của acetylcholin và các chất dẫn truyền thần
kinh khác như dopamine, norepinephrine, serotonin, glutamate và γ-aminobutyric acid. Do ảnh hưởng điều biến của chúng trên hệ dẫn truyền thần kinh,
9



các nAChRs là mục tiêu mang lại lợi ích tiềm năng cho việc quản lý các cơn
đau của bệnh động kinh và các hội chứng tâm thần và thoái hóa thần kinh như
bệnh Alzheimer, bệnh Parkinson, Schizopherenia, lo âu, trầm cảm và điều trị
cai nghiện thuốc lá [33,34].

Hình 1.2. Ba vị trí hoạt động trên bề mặt enzym của acetylcholin [31]
1.2.2. Enzym acetylcholinsterase
1.2.2.1. Cấu tạo
AChE là một enzym xúc tác cho phản ứng chuyển hóa, thủy phân của
chất dẫn truyền thần kinh acetylcholin, từ đó làm ngừng lại sự hoạt động của
chúng tại các khe synap cholinergic ở cả thần kinh trung ương và ngoại biên.
AChE là một enzym gắn vào màng sau synap bằng kiên kết cộng hóa trị với
nhóm glycolipid. Enzym này có số quay vòng hoạt động rất nhanh vì nó đã
đạt tới sự hoàn thiện về động học xúc tác, có giá trị kcat/km là 2x108 M-1.S-1.
Hiệu lực xúc tác cao của AChE cho phép các synap truyền đi thế năng hoạt
động với tần số lớn [39].
Cấu trúc không gian ba chiều của enzym AChE được xác định lần đầu
tiên vào năm 1991. Trung tâm hoạt động xúc tác phản ứng thủy phân của
enzym có cấu tạo gồm 500 acid amin nằm sâu trong cấu trúc và bị ẩn ở dưới
đáy của một rãnh hẹp và sâu, cách bề mặt 20 Ao. Khi nghiên cứu cấu trúc của
enzym này người ta thấy rằng cấu trúc của trung tâm hoạt động cũng tương tự
như cấu trúc của enzym xúc tác phản ứng thủy phân α/β – hydrolase [39].
10


Quá trình thủy phân ACh được xúc tác bởi AChE diễn ra ở đáy của hẻm
enzym theo cơ chế khá phức tạp. AChE là một trong những enzym thủy phân
nhanh nhất. Hoạt tính của nó mạnh gấp khoảng 10 lần so với serin protease

hoặc butyrylcholinesterase ở cùng điều kiện nhiệt độ và pH [47].
1.2.2.2. Đặc điểm
Hai đặc tính của enzym AChE là khả năng xúc tác cho phản ứng thủy
phân ACh xảy ra nhanh, và khả năng khu trú tác dụng của nó tại các synap
thần kinh cholinegic. Các chất dẫn truyền thần kinh được đưa đến các khe
synap trong các bóng synap. Khi đến màng trước synap, ACh được giải
phóng vào khe synap, tại đó nó liên kết với các receptor, tiếp đó enzym AChE
sẽ thủy phân ACh tạo thành choline và acid acetic. Choline được bơm trở lại
màng trước synap nhờ chất mang và được tái sử dụng cho quá trình tổng hợp
tiếp theo. Tuy nhiên khi có chất đối kháng chilinesterase liên kết với enzym sẽ
làm ngăn cản quá trình thủy phân ACh và nó có thể tiếp tục thực hiện vai trò
dẫn truyền thần kinh của mình. Việc giữ cho chu kỳ hoạt động của ACh ổn
định trong não sẽ giúp duy trì khả năng ghi nhớ và nhận thức [24].
AChE chủ yếu bị bất hoạt bởi gốc phosphate hữu cơ, carbamate và một
số chất gây độc thần kinh. Trong trường hợp ngộ độc thuốc trừ sâu hay hóa
chất bảo vệ thực vật nhóm phospho hữu cơ, carbamat thì enzym AChE giảm,
nếu ngộ độc phospho hữu cơ thì enzym giảm mạnh. Do vậy, việc định lượng
AChE được sử dụng để chẩn đoán và điều trị khi bị ngộc độ thần kinh trung
ương. Trong trường hợp này, các chất kháng cholinergic (ví dụ như atropine)
có khả năng hoạt hóa lại các enzym này. Khi enzym được hoạt hóa lại thì nó
sẽ tiếp tục thực hiện chức năng thủy phân ACh, và các triệu chứng ngộ độc
mất dần [57].
Theo giả thuyết cholinergic, các chất đối kháng cholinergic gây ra suy
giảm trí nhớ và khả năng nhận thức của con người còn các chất đối kháng
muscarinic thì có tác dụng ngược lại [65]. Do vậy, việc ức chế AChE sẽ duy
trì nồng độ và thời gian hoạt động của ACh tại các khe synap, từ đó có tác
dụng duy trì khả năng ghi nhớ và khả năng học tập của con người [58]. Sự
giảm sút nồng độ ACh thường gặp ở các bệnh nhân Alzheimer, theo nghiên
11



cứu của tác giả Di Giovanni S. và cộng sự, trong não của bệnh nhân
Alzheimer có sự thiếu hụt đến gần 90% lượng chất dẫn truyền thần kinh này
[35]. Trong khi nguyên nhân gây bệnh còn chưa được các nhà khoa học làm
rõ thì các chất ức chế AChE là lựa chọn hàng đầu cho các bệnh nhân
Alzheimer, thông qua việc duy trì nồng độ ACh trong não, các chất này có tác
dụng làm giảm các triệu chứng và ngăn chặn sự tiến triển của bệnh [54].
AChE chủ yếu có mặt trong hệ thần kinh trung ương, xúc tác thủy phân
chất dẫn truyền ACh. Quá trình này cần thiết để chuyển tế bào thần kinh hệ
cholinergic từ trạng thái hoạt động sang tình trạng nghỉ [15,47]. Ở bệnh nhân
Alzheimer thấy có sự giảm trầm trọng nồng độ chất dẫn truyền thần kinh
ACh. Tình trạng này gây suy giảm khả năng nhận thức đối với người bệnh.
Giả thuyết về vai trò của hệ cholinergic trong bệnh Alzheimer được đưa ra lần
đầu tiên vào năm 1982 bởi tác giả Whitehouse và cộng sự. Sau đó, giả thuyết
này nhanh chóng trở thành động lực cho quá trình nghiên cứu theo hướng cải
thiện chức năng hệ cholinergic trên bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer. Theo giả
thuyết này, những chất ức chế sự hoạt động của AChE làm tăng nồng độ và
thời gian hoạt động của ACh ở synap thần kinh từ đó cải thiện triệu chứng
bệnh [65].
Một số phƣơng pháp thƣờng dùng trong nghiên cứu ức chế
enzym acetylcholinsterase in vitro
Ngày nay, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã tiến hành nhiều
phương pháp thử nghiệm để xác định hoạt tính của enzym AChE, bao gồm:
phương pháp đo quang, phương pháp điện di, phương pháp huỳnh quang với
cơ chất phát huỳnh quang, phương pháp sử dụng thang pH hay xác định hoạt
độ điện hóa của enzym AChE. Đối với nghiên cứu tác dụng ức chế enzym
AChE in vitro, có 2 phương pháp thường được sử dụng là phương pháp sử
dụng thuốc thử Ellman và phương pháp sử dụng thuốc thử muối Fast Blue B.
1.3.


1.3.1. Phƣơng pháp sử dụng thuốc thử Ellman
Trong số những phương pháp được sử dụng đánh giá tác dụng ức chế
AChE in vitro, phương pháp sử dụng thuốc thử Ellman được xây dựng và ứng
dụng sớm nhất. Hiện nay, phương pháp này vẫn được sử dụng khá phổ biến ở
12


nhiều nghiên cứu cùng hướng, trong đó, phương pháp đo quang được sử dụng
nhiều hơn phương pháp sắc ký lớp mỏng sinh học. Phương pháp này sử dụng
cơ chất là acetylthiocholin iodid (ATCI) và thuốc thử là 5,5‟ - dithiobis nitrobenzoic acid (DTNB).
1.3.1.1. Phƣơng pháp đo quang
Phương pháp của Ellman dùng để xác định hoạt tính của enzym AChE
dựa vào đo quang được tác giả này mô tả lần đầu tiên vào năm 1961 [36].
Nguyên tắc của phương pháp: cơ chất ATCI bị thủy phân nhờ xúc tác của
cholinesterase tạo thiocholin. Thiocholin phản ứng với thuốc thử DTNB giải
phóng ra hợp chất 5-thio-2-nitrobenzoic acid màu vàng. Hợp chất này được
xác định bằng cách đo độ hấp thụ của dung dịch ở bước sóng 412 nm.
Sau đó, nhiều nghiên cứu sàng lọc về tác dụng ức chế AChE in vitro
khác tiếp tục được thực hiện. Tuy nhiên, so với phương pháp gốc được công
bố bởi Ellman, phương pháp được triển khai trong các nghiên cứu sau đó đều
có một số thay đổi về: nguồn gốc và hoạt độ của enzym, loại đệm sử dụng,
nồng độ dung dịch cơ chất và thuốc thử… cũng như tỷ lệ phối hợp của chúng
vào hỗn hợp phản ứng [55,59].
1.3.1.2. Phƣơng pháp sắc ký lớp mỏng sinh học
Trên cơ sở phương pháp đo quang sử dụng thuốc thử Ellman, phương
pháp sắc ký lớp mỏng sinh học đã được phát triển. Ở phương pháp này, sau
khi bản mỏng được triển khai, hỗn hợp gồm dung dịch thuốc thử DTNB và cơ
chất ATCI được phun lên bản mỏng, sau đó mới phun dung dịch enzym.
Những chất gây ức chế AChE sẽ làm xuất hiện các vết màu trắng trên nền
vàng [21].

Một trong những hạn chế của phương pháp sắc ký lớp mỏng sinh học là
có thể gặp phải hiện tượng dương tính giả, hiện tượng vết màu trắng xuất hiện
trên bản mỏng không phải do tác dụng ức chế enzym AChE. Để khắc phục
hạn chế này, bên cạnh bản mỏng thử phải tiến hành làm thí nghiệm với một
bản mỏng khác (bản đối chiếu). Các bước tiến hành trên bản đối chiếu tương
tự như trên bản thử chỉ khác ở giai đoạn phun thuốc thử hiện màu. Đối với
bản thử, hỗn hợp dung dịch thuốc thử DTNB và cơ chất ATCI được phun
13


trước, sau đó mới phun dung dịch enzym AChE. Với bản đối chiếu, dung dịch
thuốc thử DTNB được phun trước, sau đó hỗn hợp gồm dung dịch cơ chất
ATCI và dung dịch enzym AChE được phun sau. Cách bố trí thử nghiệm như
trên nhằm đảm bảo những vết màu trắng xuất hiện trên cả hai bản là những
vết cho phản ứng dương tính giả [20].
1.3.2. Phƣơng pháp sử dụng thuốc thử muối Fast Blue B
So với phương pháp sử dụng thuốc thử Ellman, số lượng nghiên cứu sử
dụng phương pháp này để đánh giá tác dụng ức chế AChE in vitro khá hạn
chế. Phương pháp này sử dụng cơ chất là α-naphthyl acetat và thuốc thử là
muối Fast Blue B (muối O-dianisidin bis(diazotized) zinc double).
1.3.2.1. Phƣơng pháp đo quang
Thử nghiệm đo quang sử dụng thuốc thử muối Fast Blue B được công
bố lần đầu tiên bởi tác giả Van Asperen K. vào năm 1962 [63]. Nguyên tắc
của phương pháp: cơ chất α-naphthyl acetat bị thủy phân bởi enzym esterase
giải phóng chất α-naphthol. Chất này sau đó phản ứng với thuốc thử muối
Fast Blue B tạo thành sản phẩm màu diazo. Hợp chất này được xác định bằng
cách đo độ hấp thụ của dung dịch ở bước sóng 600 nm. Tuy nhiên, sau đó,
không có nhiều nghiên cứu sử dụng phương pháp này để nghiên cứu sàng lọc
tác dụng ức chế AChE in vitro và một trong số đó là nghiên cứu của tác giả
Di Giovanni S. [35,53]. Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu của tác

giả này có một số thay đổi so với phương pháp của tác giả Van Asperen về:
nguồn gốc và hoạt độ của enzym, hóa chất để bất hoạt enzym và nồng độ
dung dịch cơ chất.
1.3.2.2. Phƣơng pháp sắc ký lớp mỏng sinh học
Muối Fast Blue B cũng được sử dụng như một thuốc thử trong phương
pháp sắc ký lớp mỏng sinh học để nghiên cứu sàng lọc tác dụng ức chế enzym
AChE in vitro và được phát triển bởi Marston năm 2002. Ở phương pháp này,
sau khi bản mỏng được triển khai, dung dịch enzym được phun lên bản mỏng.
Sau đó, hỗn hợp gồm dung dịch cơ chất α-naphthyl acetat và dung dịch thuốc
thử muối Fast Blue B được phun lên bản mỏng. Những chất gây ức chế AChE
sẽ làm xuất hiện các vết màu trắng trên nền màu tím sẫm [35,66]. Cũng giống
14


phương pháp sắc ký lớp mỏng sinh học sử dụng thuốc thử Ellman, phương
pháp sắc ký lớp mỏng sinh học sử dụng thuốc thử muối Fast Blue B cũng có
thể gặp phải hiện tượng dương tính giả. Để loại trừ các vết dương tính giả,
một bản mỏng đối chiếu tương tự với bản mỏng thử được triển khai. Sau đó,
các dung dịch α-naphthol và muối Fast Blue B được phun lên bản mỏng mà
không có dung dịch enzym. Nếu xuất hiện vết màu trắng thì vết đó là vết
dương tính giả.
Ngoài việc sử dụng 2 phương pháp trên, để nghiên cứu sàng lọc tác
dụng ức chế AChE in vitro trong nghiên cứu, tác giả Tang Z. M. và cộng sự
đã sử dụng phương pháp điện di mao quản [62]. Tuy nhiên, hiện nay mới chỉ
có rất ít nghiên cứu sử dụng phương pháp này được công bố, do phương pháp
này đòi hỏi phải có trang thiết bị phù hợp với thao tác thử nghiệm tương đối
phức tạp. Ngoài ra, những hạn chế về số lượng mẫu thử được đánh giá ở mỗi
lần thao tác máy cũng góp phần cản trở việc ứng dụng phương pháp điện di
mao quản trong nghiên cứu sàng lọc.
Vị trí phân loại, đặc điểm thực vật chi Mahonia, phân bố một số

loài ở Việt Nam và đặc điểm của cây Hoàng liên ô rô (Mahonia
nepalensis DC.)
1.4.1. Vị trí phân loại thực vật
Theo hệ thống phân loại Takhiajan 1987, chi Mahonia thuộc họ Hoàng
liên gai (Hoàng mộc, Mã hồ) – Berberidaceae, bộ Hoàng liên (Ranunculales),
phân lớp Hoàng liên (Ranunculales), ngành Ngọc lan (Hạt kín) –
(Magnoliophyta).
1.4.

1.4.2. Phân bố, một số loài ở Việt Nam
 Phân bố: Trên thế giới có khoảng 19 loài
Cây mọc hoang ở vùng núi cao, lạnh, trên núi đá vôi, ở độ cao 1000m
trở lên [14].
M. aquifolium Push; M. repens (Lindl) G. Don có nhiều ở vùng tây bắc
Mỹ, Canada [43].
M. bealei (Fort) Carr; M. nepalensis DC ; M. fortunei (Fort) Carr có
nhiều ở Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Ấn Độ, Việt Nam [3,12,14].
15


 Một số loài ở Việt Nam
Ở nước ta các loài thuộc chi Mahonia như M. Japonica (Thumb) DC;
M. Bealei (Fort) Carr; M. Nepalensis DC. có tên là Hoàng liên ô rô vì lá của
chúng giống lá cây Ô rô và công dụng lại gần giống vị Hoàng liên [12].
Hoàng liên ô rô còn gọi là Hoàng bá gai, Thích hoàng liên, Tồng phềnh
(„Hmông) [11].
1.4.3. Đặc điểm thực vật học của cây Hoàng liên ô rô
Cây Hoàng liên ô rô hay còn gọi là cây Mật gấu (Mahonia nepalensis
DC., còn có tên khoa học khác là Berberis nepalensis Spreng.) được biết đến
như là một loài cây dược liệu quí, có phân bố hẹp và chỉ còn lại rất ít cá thể

mọc rải rác trên các vùng núi có độ cao từ 1.500 – 1.700m như Bắc Kạn,
Lang Biang (Lâm Đồng), Tả Giàng Phình và Bản Khoang (Sa Pa – Lào Cai),
Mùa Súa (Đồng Văn – Hà Giang),… [3,7,12,16,19].
Hoàng liên ô rô là cây bụi thân gỗ sống nhiều năm, thân chính phát
triển, cành nhánh mọc ra ít, cao 3–5m (Hình 1.4 A). Rễ cái hay rễ chính mập
khỏe phát triển từ rễ mầm, mọc sâu vào trong đất từ rễ chính phát triển ra các
rễ bên, rễ con ít phát triển hơn. Thân chính phát triển mạnh ít phân nhánh, cây
cao bị đổ ngã thì phân nhánh nhiều, thân có màu vàng. Cành không có gai. Lá
kép lông chim lẻ, phát triển từ thân hoặc cành, dài 25 – 45cm, mỗi bên có 10–
15 lá chét không cuống, phiến lá chét hình bầu dục biến dạng hơi lệch, dài 3–
9cm, rộng 2,5 – 4,5cm, cứng, dày, hình ốc tròn hoặc hơi hình tim, đỉnh nhọn
hoắt thành gai, khía 3–5 răng cưa mỗi bên, nhọn sắc, ba gân chính và gân phụ
nổi rõ ở mặt trên lá, mặt trên xanh thẫm, mặt dưới xanh bạc [4].
Hoàng liên ô rô thích hợp với vùng khí hậu ôn đới, nhiệt độ trung bình
thấp, khoảng (18– 25oC), mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa
khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Cây tự nhiên có tốc độ phát triển chậm,
sau 5–6 năm mới có thể đạt chiều cao 1 m, đường kính gốc 2–3 cm và bắt đầu
ra hoa. Mùa ra hoa từ cuối tháng 11 đến cuối 2 năm sau và mùa quả chín từ
tháng 2 đến tháng 4, cây tái sinh bằng hạt. Đây là loài cây dạng bụi, thân,
cành và rễ có chứa hàm lượng Berberin cao, thường được sử dụng chữa đau
bụng, rối loạn tiêu hoá, ỉa chảy, kiết lỵ; và theo kinh nghiệm của người dân ở
16


×