Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

tư liệu Tôn Đức Thắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.35 KB, 51 trang )

TÓM TẮT TIỂU SỬ
CHỦ TỊCH TÔN ĐỨC THẮNG
Ngày 20 tháng 8 năm 1888, đồng chí Tôn Đức Thắng ra đời ở : Xã Mỹ Hòa Hưng, Tổng Đònh
Thành, Tỉnh Long Xuyên, nay gọi là xã Mỹ Hòa Hưng, thò xã Long Xuyên, Tỉnh An Giang.
Sinh ra trong hoàn cảnh nước nhà đang bò bọn thực dân Pháp xâm lược, nên ngay từ tuổi niên
thiếu, đồng chí đã tận mắt chứng kiến sự bóc lột thậm tệ, tội ác dã man của giặc đối với đồng bào mình
ngay tại nơi chôn nhau cắt rốn và trên mãnh đất quê hương Nam bộ thân yêu. Xót xa vì nước mất nhà
bò giặc dày xéo, biết bao nhiêu nhà yêu nước như Trương Đònh, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân...
đã lãnh đạo nhân dân Nam bộ vùng lên khởi nghóa, chống thực dân Pháp. Những phong trào yêu nước
đó, đã sớm khơi dậy lòng yêu nước, thương dân trong tâm tư, tình cảm của đồng chí Tôn Đức Thắng.
Vì không có điều kiện tiếp tục học bậc trung học, đồng chí quyết đònh rời quê hương và hành động
theo tiếng gọi của trái tim. Năm 1906, giữa tuổi 18 sung sức, đồng chí Tôn Đức Thắng trong lòng mang
nặng truyền thống yêu nước của quê hương và nỗi đau của người dân nô lệ bò mất nước, đến với thành
phố Sài Gòn – một trong hai trung tâm chính trò, kinh tế của nước ta. Cuộc đời bắt đầu từ tuổi trẻ và
chính từ những năm đầu tiên của cuộc đời, đồng chí đã đến ngay với giai cấp công nhân Việt Nam, lúc
đó đang trong quá trình hình thành. Từ đó, đồng chí hòa nhập trong phong trào đấu tranh chống bọn
thực dân Pháp đang gieo rắc khổ đau cho dân tộc mình. Tuy chỉ là người thợ học việc, đồng chí Tôn
Đức Thắng đã tham gia vận động anh em học sinh lính thủy bỏ học (1909), anh chò em công nhân Sở
Kiến trúc cầu đường và nhà ở Sài Gòn, chống bọn chủ, cai ký cúp phạt, đánh đập vô lý và đòi tăng
lương (1910). Sau đó đồng chí vào học ở Trường của những người thợ máy châu Á ở Sài Gòn
(eỏcole des mescaniciens Asiatiques de SaiGon), là trung tâm duy nhất đào tạo thợ máy tàu thủy chủ
Pháp ở Đông Dương. Sau khi tốt nghiệp, đồng chí Tôn Đức Thắng vào làm việc tại Xưởng Arsenal de
SaiGon (Xưởng Ba Son). Năm 1912, đồng chí tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son
và vận động học sinh Trường Bách Nghệ Sài Gòn bãi khóa. Những cuộc đấu tranh đầu tiên đó của giai
cấp công nhân đã giành được thắng lợi và biểu lộ sức mạnh của lực lượng xã hội mới. Do đó, đã làm
cho bọn thống trò phải lo lắng, hoảng sợ, vì đã đến lúc chúng “... phải vừa cuốn gói ra đi, vừa vái chào
dân tộc Việt Nam đã được hồi sinh bằng những cuộc bãi công”
(1)
.
Bọn thực dân Pháp ra sức tìm mọi biện pháp để dập tắt phong trào và bắt những người lãnh đạo
đấu tranh, trong đó có đồng chí Tôn Đức Thắng. Chính vì vậy, để tránh khỏi sự truy nã của chúng, cuối


năm đó đồng chí phải tìm đường ra nước ngoài. Đồng chí đã kể lại : “Tôi buộc phải cải trang và thay
đổi tên họ, trốn tránh trên một chiếc tàu thủy của Pháp đang đúng vào lúc mà cuộc bãi công của học
sinh Trường Bách Nghệ Sài Gòn và của công nhân Ba Son giành được thắng lợi.
Từ ngày đó, bắt đầu cuộc sống của tôi trên biển cả, với lòng yêu quê hương tha thiết và với
nguyện vọng học tập để sau này trở về đấu tranh mạnh mẽ hơn”
(2)
.
Con tàu La Coóc của công ty tàu biển chạy trên Đại Tây Dương, lúc bấy giờ đã đưa đồng chí, từ
Sài Gòn đến nước Pháp.
Ở Pháp, đồng chí Tôn Đức Thắng vào làm thợ máy tại Xưởng Arsenal de Toulon – quân cảng ở
miền Nam nước Pháp. Là công nhân một nước thuộc đòa, đồng chí được sống, làm việc với những người
lao động Pháp, gần gũi với nhiều tâng lớp, màu da, dân tộc cùng trong cảnh ngộ mất nước phải làm nô
lệ, nên càng nhận rõ bản chất xấu xa của chủ nghóa tư bản và càng nung nấu thêm ý chí, quyết tâm đấu
tranh cách mạng. Đồng chí tham gia vận động thủy thủ Pháp đấu tranh chống tệ phân biệt màu da, phân
biệt giữa só quan binh lính trong quân đội Pháp. Đồng thời, liên lạc với giai cấp công nhân Pháp qua các
tổ chức Công đoàn để hoạt động. Là một trong những công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong
giai cấp công nhân Pháp, đồng chí đã sớm hòa mình và học được nhiều kinh nghiệm của giai cấp công
nhân Pháp.
Khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) bùng nổ, nhiều người Việt Nam phải vào phục
vụ quân đội Pháp. Là người thợ máy giỏi, ngày 9-10-1916 đồng chí Tôn Đức Thắng nhận lệnh xuống
phục vụ tại chiến hạm France và là người Việt Nam duy nhất trên chiến hạm đó. Đến ngày 16-4-1919,
mặc dầu chiến tranh thế giới đã kết thúc, chính phủ Pháp điều động một hạm đội gồm 5 chiến hạm : đô
đốc hạm Jean Bart và các tàu France, Vergniaud, Du Chayla, Waldeck Rousseau, vào Hắc Hải để cùng
với các đế quốc khác chống lại nước Nga Xô Viết trẻ tuổi. Bọn chỉ huy được lệnh vượt qua eo biển
Đác-đa-nen tiến vào Biển đen và bắn phá hải cảng Xêvattôpôn. Anh em binh lính trên hạm đội rất bất
bình vì phải tiếp tục đổ máu, mặc dù chiến tranh đã kết thúc. Biết được âm mưu ấy, thợ máy Tôn Đức
Thắng đã cùng với anh em binh lính Pháp quyết đònh phản chiến. 8 giờ sáng ngày 20-4-1919, cuộc binh
biến nổ ra trên chiến hạm France và Jean Bart. Lá cờ đỏ được kéo lên trên chiến hạm France trước cửa
thành Xêvattôpôn, do đồng chí Tôn Đức Thắng thực hiện, đã được anh em binh lính, công nhân trên tàu
chuẩn bò trước. Bằng hành động đó, đồng chí là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia

đấu tranh bảo vệ cách mạng tháng Mười và xây đắp tình hữu nghò Việt – Xô. Đồng thời, biểu thò tình
cảm lớn của nhân dân Việt Nam lúc đó còn là thuộc đòa của Pháp, chào mừng Nhà nước Công nông
đầu tiên trên thế giới. Với lòng khiêm tốn vốn có của một chiến só công nhân cách mạng, đồng chí Tôn
Đức Thắng đã nói : “... Cũng như tôi, những người lao động các nước khác qua kinh nghiệm bản thân,
đã hiểu rằng : Chống lại Cách mạng tháng Mười có nghóa là chống lại những lợi ích cơ bản của dân tộc
mình, chống lại những lợi ích của giai cấp mình và của những người thân yêu của mình. Tôi tin rằng,
bất kỳ người Việt Nam yêu nước nào, nhất là công nhân, được tham gia vào những giờ phút lòch sử đó
tại Biển Đen, không thể hành động khác tôi, bởi vì yêu Tổ quốc và căm thù đế quốc, cũng có nghóa là
yêu cách mạng tháng Mười và căm thù những kẻ chống lại cách mạng tháng Mười”.
(1)
Sau cuộc binh biến, hạm đội hải quân Pháp được lệnh trở về. Hàng loạt binh só, công nhân bò chính
phủ Pháp bắt và đưa ra tòa án quân sự xét xử. Đồng chí Tôn Đức Thắng buộc phải rời khỏi nước Pháp.
Về Sài Gòn, đồng chí làm công nhân cho hãng KROFF và CIE. Lúc đó, thực dân Pháp ở Đông
Dương đang tiến hành chương trình khai thác thuộc đòa lần thứ hai, nên nhiều nhà máy cũ được mở rộng
về quy mô, nhiều nhà máy mới được xây dựng. Vì vậy, đội ngũ công nhân thành phố cũng đông đảo
thêm nhiều.
Năm 1920, đồng chí Tôn Đức Thắng lại trở về Tổ quốc. Tuy là người Việt Nam đầu tiên đem về
mối cảm tình sâu sắc với cách mạng tháng Mười Nga, với giai cấp công nhân Pháp và trực tiếp chòu ảnh
hưởng của phong trào bãi công của công nhân Pháp sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhưng đồng
chí Tôn Đức Thắng chưa đem về được quan niệm về tổ chức Đảng của giai cấp công nhân. Nhưng thực
dân Pháp vẫn cứ hoảng sợ, đề phòng và toàn quyền Đông Dương đã ra chỉ thò “Cần phải chú ý theo dõi
tư tưởng của những người ONS
“*”
nhất là cái đám đã sống trong các nhà máy, gần gũi với công nhân
Pháp, khác hơn các người khác họ là những người không bò luật lệ kỷ cương nhà bình kiềm chế, có thể
là tư tưởng họ không tốt”.
Đồng chí Tôn Đức Thắng không chòu trở lại làm việc ở Trường Bách Nghệ Sài Gòn, theo yêu cầu
của thực dân Pháp. Đồng chí đã cùng với một số đồng nghiệp lập ra cơ sở sửa chữa xe hơi ở Phú
Nhuận, để làm nơi vừa kiếm sống vừa hoạt động và để liên lạc với các xí nghiệp, nhà máy khác trong
thành phố ! Cũng vào thời điểm đó, tháng 3-1920 có cuộc bãi công, tiếp sau đó là nhiều cuộc mít tinh

biểu tình của anh em thủy thủ trên năm chiếc tàu Manneheim, Ménes, Scranhort, Afénas, Neidenfels
đậu ở cảng Sài Gòn, đòi phụ cấp đắt đỏ. Những cuộc đấu tranh đó đã mang lại thắng lợi, làm cho giai
cấp công nhân Việt Nam thấy rõ vai trò quan trọng và sự cần thiết phải có tổ chức của công nhân mới
đem lại quyền lợi thiết thực của mình. Đồng chí Tôn Đức Thắng đã nắm được yêu cầu đó, vì hồi ấy :
“... anh em công nhân lại muốn có phong trào đấu tranh rộng rãi, công khai lôi kéo đông đảo quần
chúng”
(1)
.
Với lòng nhiệt thành yêu nước, với tính đồng nghiệp cao, đồng chí Tôn Đức Thắng đã dần dần
đoàn kết được anh em công nhân Sài Gòn vào Công Hội bí mật, do mình tổ chức và lãnh đạo. Cơ sở
Công hội đầu tiên được thành lập ở ngay cảng Sài Gòn, sau đó phát triển trong công nhân Ba Son,
2
FACI, nhà đèn Sài Gòn, Nhà đèn Chợ Quán và một số cơ sở khác trong thành phố ! Tổ chức Công hội
do đồng chí Tôn Đức Thắng thành lập ở Sài Gòn là những Công hội đầu tiên của giai cấp công nhân
Việt Nam. Tuy với mục đích thiết tha làm cách mạng, chưa tìm ra được con đường giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc và “Công hội ngày xưa nhỏ bé và hoạt động rất khó khăn”
(1)
, nhưng nó là một bước
tiến rất quan trọng của tư tưởng chính trò Việt Nam, của công cuộc vận động công nhân. Mặt khác, phải
công nhận rằng, suốt từ năm 1921 đến 1925, các cơ sở Công hội do đồng chí Tôn Đức Thắng tổ chức,
đã có vai trò tích cực trong phong trào dân tộc. Công hội đã tham gia vào tất cả các cuộc biểu tình, mít
tinh công khai, nhưng vẫn giữ tổ chức bí mật của mình. Nó là một tổ chức bí mật đông nhất, có hoạt
động nhất ở Việt Nam vào những năm đầu 20 của thế kỷ XX. Tiêu biểu nhất, Công hội của đồng chí
Tôn Đức Thắng đã lãnh đạo giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son vào tháng
8-1925.
Trong cuộc đấu tranh này, hơn một ngàn công nhân Ba Son đòi tăng lương 20% và giữ chế độ nghỉ
trước 30 phút trong ngày lónh lương như thường lệ. Sau 9 ngày kiên quyết tranh đấu, bọn chủ phải chấp
nhận yêu sách của anh em công nhân, chòu tăng 10% lương. Đó mới chỉ là thành công bước đầu, dưới sự
lãnh đạo của Công hội, anh em công nhân lại tiếp tục lãng công dưới mọi hình thức; nhằm kéo dài thời
gian sửa chữa tàu Michelet – tàu của hạm đội Pháp sẽ đưa sang đàn áp phong trào cách mạng của nhân

dân Trung Hoa đang sục sôi ở Quảng Châu. Mãi gần bốn tháng sau – 28-11-1929, con tàu đó mới nhổ
neo rời cảng Sài Gòn được. Cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son do Công hội của đồng chí Tôn Đức
Thắng lãnh đạo thực chất là một cuộc đấu tranh chính trò. Với mục đích chính trò rõ rệt, cuộc đấu tranh
của Ba Son đã nổ ra dưới khẩu hiệu kinh tế. Tiếng vang của nó đã vượt qua biên giới và đến với Đại
hội lần thứ VI của Quốc tế Cộng sản (1928) khi đại biểu của Đông Dương báo cáo trên diễn đàn :
“Công nhân Ba Son không chòu sửa chữa Michelet mà bọn đế quốc Pháp dùng để tàn sát nhân dân
Trung Quốc”
(1)
. Do vậy, cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son không chỉ nói lên trình độ tự giác, trình
độ tổ chức, tinh thần Quốc tế vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam, uy tín của tổ chức Công hội và
vai trò của đồng chí Tôn Đức Thắng, mà còn mở đầu cho một giai đoạn mới đánh dấu giai cấp công
nhân Việt Nam đã bước đầu đi vào đấu tranh tự giác. Đóng góp tích cực vào sự chuyển biến đó,
chúng ta không thể không nhắc đến vai trò người công nhân đầu đàn Tôn Đức Thắng vì : “... trong các
giới hoạt động cách mạng, cũng như trong bà con anh em lao động Sài Gòn, Chợ Lớn, nói đến “GIÀ
THẮNG” thì ít người không biết đến... “GIÀ THẮNG” lúc nào cũng chăm chăm bênh vực quyền lợi
chung, có ý thức giai cấp chắc mạnh, lại giàu lòng hào hiệp, sẵn sàng nhường cơm sẻ áo cho nhau, cưu
mang giúp đỡ bạn nghề và anh em trong khi thiếu thốn hoạn nạn”
(2)
. Vì đồng chí Tôn Đức Thắng là lớp
công nhân công nghiệp đầu tiên ở nước ta tiếp thu và giác ngộ cách mạng, là người công nhân tiêu biểu
nhất của giai cấp công nhân Việt Nam.
Cũng chính ở những thời điểm ấy, công nhân Sài Gòn với tổ chức Công hội của mình, không chỉ
tiếp xúc, đọc những sách báo của Đảng Cộng sản Pháp, Tổng Công đoàn Pháp gửi sang, mà còn được
đọc một số sách, báo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được lưu hành bí mật tại Sài Gòn. Đồng chí Tôn
Đức Thắng kể lại tác dụng, ý nghóa của nó : “Phong trào công nhân Nam bộ đã từ chỗ tự phát, rời rạc,
nhờ ảnh hưởng của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, báo Người cùng khổ và mấy tờ đầu của tờ
Việt Nam hồn, mà bước đầu lan rộng. Bước đầu có tổ chức để đến năm 1927, giai cấp công nhân đi
vào phong trào “Thanh niên cách mạng đồng chí hội” một cách sâu rộng hơn”
(1)
. Chính vì vậy, đến năm

1925, các nhà máy, xí nghiệp và cả các cơ sở sản xuất tư nhân có công nhân làm, đều có tổ chức Công
hội, với số hội viên tới 300 người tham gia.
Nhưng phải đến đầu năm 1927, khi đồng chí Tôn Đức Thắng bắt liên lạc được với những học trò
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, thông qua tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, lúc
đó đang hoạt động và phát triển về tổ chức tại thành phố Sài Gòn, thì Công hội bí mật của đồng chí
Tôn Đức Thắng mới có nội dung, phương hướng cách mạng xã hội chủ nghóa. Vốn đã lâu khâm phục và
đã : “Nhiều lần tôi cố tìm gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc, song tôi đã không gặp được đồng chí”
(2)
, nên
khi biết Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội là tổ chức của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập
từ giữa năm 1925 ở Quảng Châu, thì đồng chí Tôn Đức Thắng và nhiều hội viên Công hội đã tham gia
với tất cả niềm tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc, giai cấp. Từ đấy, tổ chức Công hội của
3
đồng chí Tôn Đức Thắng là cơ sở cho sự phát triển của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội ở
Sài Gòn và Nam bộ và giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu
được chủ nghóa Mác – Lê-nin. Do đó, đồng chí Tôn Đức Thắng là lớp người đầu tiên tuyên truyền
chủ nghóa Mác – Lê-nin trong giai cấp công nhân Việt Nam và tham gia hoạt động tích cực trong
quá trình vận động thành lập chính Đảng của giai cấp vô sản Việt Nam.
Cũng chính vì vậy, số hội viên Công hội bí mật của đồng chí Tôn Đức Thắng tham gia Việt Nam
Thanh niên cách mạng đồng chí hội ngày càng nhiều và có không ít công nhân Công hội được cử đi dự
những lớp chính trò do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đào tạo. Phong trào công nhân ngày một mạnh mẽ và
trưởng thành nhanh chóng, cơ sở công nhân ngày một mạnh mẽ và trưởng thành nhanh chóng, cơ sở
Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội ngày càng phát triển trong giai cấp công nhân. Do đó,
giữa năm 1927, khi kỳ bộ Nam kỳ của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội được thành lập,
do đồng chí Phan Trọng Bình làm Bí thư, thì đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu vào Ban chấp hành kỳ
bộ và được phân công trực tiếp lãnh đạo phong trào công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn.
Nhưng giữa những ngày hoạt động sôi nổi nhất của phong trào công nhân Sài Gòn, trong quá trình
vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thì tháng 12-1928, đồng chí Tôn Đức Thắng bò thực dân
Pháp bắt tại Sài Gòn, sau khi vụ đường Barbier
(*)

bò vở lở.
Thực dân Pháp hí hửng khi bắt được đồng chí Tôn Đức Thắng, người mà chúng đã theo dõi từ sau
cuộc phản chiến trên Biển Đen phải trở về Sài Gòn và những hoạt động không mệt mỏi của đồng chí
trong phong trào công nhân thành phố. Biết được đồng chí là một trong những người lãnh đạo kỳ bộ
Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, thành lập Công hội bí mật và trực tiếp tổ chức nhiều
cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn, bọn chúng ra sức dùng đủ mọi thủ đoạn mua chuộc, tra tấn cực
hình dã man, nhằm khai thác những điều bí mật về tổ chức cách mạng. Vì là “Phần tử nguy hiểm”, nên
chúng giam đồng chí tại khám tù vò thành niên, nhằm không cho liên lạc được với ai, ngoài những
người tù chưa đến tuổi trưởng thành. Là một người tù lớn tuổi nhất, đồng chí Tôn Đức Thắng đã cảm
hóa ngay được những thiếu niên sắp bước vào tuổi trưởng thành, nhưng vì những nguyên nhân khác
nhau, đã bò thực dân Pháp bắt giam trong khám. Đồng chí Nguyễn Duy Trinh đã kể lại : “... giọng nói
cũng như mắt nhìn rất mộc mạc, hiền từ. Chẳng bao lâu, cả bọn tù vò thành niên, cả một đám thiếu niên
đã bò xã hội bất công, tàn nhẫn làm cho hư hỏng, đều đem lòng yêu thương, kính nể người tù đặc biệt.
Vì người tù ấy có lòng yêu thương xót xa tất cả một đám trẻ đáng thương ! Người tù ấy chính là đồng
chí Tôn Đức Thắng !
(1)
. Tình yêu thương con người, đồng bào, đồng chí vốn là bản chất trong người
công nhân cách mạng Tôn Đức Thắng.
Sáng ngày 26-7-1929, Hội đồng đề hình thành phố Sài Gòn đã đưa ra xét xử đồng chí Tôn Đức
Thắng và nhiều người khác sau vụ đường Barbier. Chúng tuyên án đồng chí Tôn Đức Thắng bò tù 20
năm khổ sai
(2)
. Sau đó, chúng lại giam đồng chí ở khám lớn Sài Gòn. Đêm 2-7-1930, con tàu Harmand
Rousseau chở những người tù, trong đó có đồng chí Tôn Đức Thắng từ khám lớn Sài Gòn, rời cảng Nhà
Rồng đày đi Côn Đảo.
Trong hồ sơ của đồng chí khi bò đày đi Côn Đảo, thực dân Pháp có ghi “Phần tử nguy hiểm”.
Đồng chí Tôn Đức Thắng mang số tù 5289.20 T.F
(H)
, bò giam ở khám 9, banh I. Nơi chuyên giam giữ
những tù lưu manh, trộm cắp hung ác đã nhiều lần mang án. Âm mưu thâm độc, nham hiểm của bọn

đao phủ, muốn dùng bàn tay của bọn anh chò sống theo kiểu luật giang hồ “mạnh được yếu thua”, để
giết hại đồng chí. Nhưng với bản chất hiền lành của người con quê hương Nam bộ, chân chất của người
thợ, hiểu biết rộng rãi của người từng trải, biết nói thạo tiếng Pháp... đồng chí đã dần dần cảm hóa
được những con người chúng cho là bất trò ấy ! Họ gọi đồng chí là HAI THẮNG với lòng kính nể, trân
trọng. Vì được coi là “Phần tử nguy hiểm”, đồng chí Tôn Đức Thắng thường chỉ phải làm những công
việc quét dọn trong và chung quanh nhà lao, nên có điều kiện liên lạc được với các banh khác.
Trận bão lớn năm 1930, có ảnh hưởng rất lớn đến Côn Đảo, hơn 100 tù nhân bò chết vì khám bò đổ.
Vì vậy, bọn chúa ngục bắt tù chính trò ở banh II phải đi làm lao dòch nặng nề và chuyển một số tù cộng
4
sản sang banh I như Tống Văn Trân, Nguyễn Hới, Tạ Uyên... và cũng từ đó, Tôn Đức Thắng có thêm
các đồng chí của mình.
Một vấn đề lớn được đặt ra cho những chiến só Cộng sản ở Côn Đảo lúc đó là phải đấu tranh để
thành lập chi bộ Đảng Cộng sản; nhằm mục đích lãnh đạo quần chúng đấu tranh để tự bảo vệ mình,
chống đánh đập dã man, đòi cải thiện chế độ lao tù và cải thiện đời sống. Do đó, chi bộ Đảng ở nhà tù
Côn Đảo đã ra đời vào cuối năm 1932, sau cuộc đấu tranh nội bộ khắc phục những quan điểm thủ tiêu
đấu tranh giai cấp giữa chốn ngục tù khủng khiếp này. Đồng chí Tôn Đức Thắng đã góp phần rất quan
trọng, vì có điều kiện liên lạc được với các đảng viên Cộng sản ở các khám và banh khác, để thống
nhất ý chí, hành động. Chi ủy đầu tiên ở banh I do đồng chí Nguyễn Hới làm Bí thư, các Ủy viên gồm
có các đồng chí Tôn Đức Thắng, Tống Văn Trân, Tạ Uyên... Sau đó, đến năm 1933, Chi bộ Côn Đảo
có thêm một số đảng viên mới bò chúng đưa ra như : Nguyễn Văn Cừ, Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn
Nguyễn, Phạm Hùng, Phạm Văn Khương (Lê Văn Khương)... sức mạnh của Chi bộ ngày một tăng
cường.
Chi bộ Côn Đảo quyết đònh cho ra đời tờ báo Ý KIẾN CHUNG, để tuyên truyền, giác ngộ, tổ chức
quần chúng, đoàn kết xung quanh Chi bộ – hạt nhân lãnh đạo đấu tranh ở nhà tù Côn Đảo. Ban biên
tập của tờ báo được đặt tại khám 9, banh I – nơi đồng chí Tôn Đức Thắng bò giam giữ. Đồng chí Hai
Thắng không chỉ đóng vai trò trong sự ra đời của tờ báo, viết bài cho báo, mà quan trọng hơn là đồng
chí có điều kiện tiếp xúc, quan hệ với các banh khác, nên việc bí mật phát hành tờ báo đó đến tận các
cơ sở được an toàn và lắng nghe ý kiên, thu thập bài vở về cho Ban biên tập. Do đó, tờ báo Ý KIẾN
CHUNG đã phản ảnh được nguyện vọng của tù nhân ở Côn Đảo và trở thành tiếng nói chung của họ.
Những hoạt động tích cực đó của đồng chí Tôn Đức Thắng khó có thể vượt qua những con mắt cú

vọ của kẻ thù giữa chốn ngục tù khủng khiếp ấy. Đồng chí đã bò chúng bắt khi liên lạc với tù chính trò ở
banh II và bò nhốt ở xà lim số 15, ăn nhạt hai tuần. Sau đó bò tống giam vào hầm xay lúa.
Hầm xay lúa là đòa ngục của đòa ngục, nằm trong banh I, giam giữ những người chúng cho là cực
kỳ nguy hiểm và bò lao dòch nặng nề nhất, dưới sự cai quản của một tên cai (“Cặp rằn” – Caporal) vô
cùng tàn ác là tù hình sự. Ở đó, cứ ba cặp tù mới quay nổi một cối xay. Vì cối làm bằng thùng rượu
bằng gỗ cưa đôi, trong đắp đất sét, có găm răng cối; còn nỏ và giằng cối làm bằng gỗ lim dài 2 mét,
đường kính 20 cm, nên rất nặng nề. Không những thế, mỗi cặp tù chân phải mang chung một cùm sắt
nặng 10 kg. Cứ thế, họ phải sống trong lao động cực khổ, bụi bặm và roi vọt của cặp rằn hung hản. Do
đó, giữa người tù ở hầm xay lúa và tên cặp rằn tạo thành một mối thù phải trả, vì bọn đao phủ đã dùng
những tên anh chò hung bạo đó nhằm thủ tiêu, giết chết họ một cách hợp pháp nhất.
Lúc đó đồng chí Tôn Đức Thắng bò tống giam vào đây, thì đúng vào khi tên cặp rằn Bảy Tốt bò tay
chân của Tám Thiệu, Tám Liểu giết chết. Tên xếp Phê Răng đi ni đã chỉ đònh Tô Chấn – tù Quốc dân
Đảng thay, nhưng anh chòu ngồi xà lim, còn hơn nhận làm công việc khủng khiếp ấy. Bởi vậy, hắn chỉ
đònh Tôn Đức Thắng “Phần tử nguy hiểm”, mà lúc nào chúng cũng theo dõi, làm cặp rằn, nhằm thực
hiện mưu mô xảo quyệt : chia rẽ giữa tù chính trò và tù thường phạm, mượn tay chân của bọn anh chò
giết hại đồng chí Tôn Đức Thắng. Thực hiện chủ trương của Chi bộ Đảng, đồng chí nhận làm cặp rằn,
nhằm cải tạo hoàn cảnh theo khả năng của mình, và dần dần giảm bớt được chế độ khổ sai hà khắc ở
hầm xay lúa.
Biết đồng chí Tôn Đức Thắng là tù cộng sản, nói thạo tiếng Pháp nhưng không bao giờ tỏ thái độ
nònh hót bọn đao phủ người Pháp, hơn nữa lại có mối quan hệ đúng đắn với mọi người, nên anh em tù
nhân ở đây có cảm tình với người cặp rằn mới của mình. Trong họ, cả những tay anh chò ngổ ngược,
ngang tàng nhất, dần dần từ nể nang đến kính phục đồng chí, khi đưa lại những thay đổi mới trong chốn
đòa ngục này : bỏ lối cai quản người tù bằng roi vọt, sắp xếp phân công các công việc hằng ngày theo
điều kiện sức khỏe từng người, tổ chức Hội tù nhằm giúp đỡ những người bò đau yếu, tai nạn, liên lực
với bên ngoài để giảm bớt được khối lượng công việc phải làm... Anh em ở đây, không những có thì giờ
nghỉ trưa, thổi cơm ăn thêm, mà còn được những đảng viên Cộng sản tổ chức nghe nói chuyện, học văn
5
hóa... nhằm đoàn kết, giáo dục lòng yêu thương con người, lòng yêu nước và khơi dậy trong họ tinh
thần đấu tranh. Chính vì vậy, ảnh hưởng của đồng chí Tôn Đức Thắng đối với tù thường phạm rất lớn.
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh kể lại : “Tôi mến phục tinh thần bình đẳng dân chủ thực sự, tính thật thà

cầu chân lý của đồng chí lớn tuổi. Được gần gũi anh Thắng ở khám lớn Sài Gòn cũng như sau này ở
hầm xay lúa Côn Đảo, tôi cũng như tất cả mọi anh em bao giờ cũng quý yêu ở đồng chí đức khiêm tốn
rất cao, tấm lòng ngay thẳng độ lượng, ý thức tập thể vững chắc”
(1)
. Điều đó, một lần nữa khẳng đònh
bản chất công nhân vốn có trong người công nhân đầu đàn Tôn Đức Thắng. Vì ở đồng chí, không có
hoàn cảnh nào là không cải tạo được và không có con người nào không thể trở thành người tốt được.
Ở nhà tù Côn Đảo, đồng chí Tôn Đức Thắng đã tham gia lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh chống lại
bọn đao phủ, đòi cải thiện đời sống và chế độ lao tù. Đặc biệt, trong cuộc tổng bãi thực ngày 18-6-
1936, ở banh I, sau đó diễn ra ở banh khác, đồng chí Tôn Đức Thắng đã tỏ rõ phẩm chất cách mạng cao
quý, ý chí kiên cường của người đảng viên Cộng sản trước quân thù. Trong cuộc đấu tranh ấy, đồng chí
không chỉ là người đi vận động, tuyên truyền để thống nhất ý chí, hành động; mà còn là người trực tiếp
tham gia vào Đội tự vệ bảo vệ cuộc đấu tranh. Lực lượng tham gia đấu tranh được sắp xếp một cách
khoa học, tù chính trò đi trước, tù thường phạm xếp theo sau, người chòu đựng được đòn thì đi trước,
người yếu đi sau. Đồng chí Tôn Đức Thắng thuộc lớp người đi đầu cuộc đấu tranh và chòu những đòn dã
man của kẻ thù. Sau 10 ngày đấu tranh liên tục, bất chấp sự khủng bố đàn áp của bọn đao phủ, tên
chúa đảo Bouvier phải nhượng bộ và chấp nhận những yêu sách của cuộc đấu tranh, góp phần buộc
chúng phải ân xá chính trò phạm trên toàn cỏi Đông Dương vào tháng 7-1936. Khi cuộc đấu tranh kết
thúc, mặc dầu trên thân thể còn đầy thương tích, đồng chí Tôn Đức Thắng ra sức động viên và chăm
sóc những đồng chí của mình bò đau yếu ở trong khám.
Cùng với những cuộc đấu tranh ấy, chi ủy banh I còn đề ra chủ trương “biến nhà tù thành trường
học cách mạng”, nhằm bồi dưỡng thêm kiến thức văn hóa, chính trò Mác – Lê-nin, ngoại ngữ – cho anh
em ở trong tù. Đồng chí Tôn Đức Thắng không những tham gia học rất tích cực, mà còn góp phần rất
quan trọng trong việc cung cấp tài liệu giảng dạy bằng tiếng Việt, tiếng Pháp cho những đảng viên
được phân công giảng dạy trong các lớp học. Vì, sau thời kỳ bò giam ở hầm xay lúa, bọn chúa ngục biết
đồng chí giỏi về sửa chữa máy móc, nên đã cho ra Sở Lưới để chữa và lái ca nô cho chúng. Từ đó, đồng
chí có nhiều điều kiện và đã bắt được liên lạc với tổ chức Đảng ở đất liền; trước hết là với Xứ ủy Nam
kỳ, một số Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và cả những công nhân thủy thủ trên các tàu biển đến Côn
Đảo nhận hàng về đất liền. Do đó, Chi bộ Côn Đảo thường xuyên nắm được đường lối chủ trương của
Đảng ta, Đảng Cộng sản Pháp và nhận được những tài liệu, sách báo gửi từ đất liền ra. Đồng chí hăng

say nghiên cứu những sách kinh điển của chủ nghóa Mác – Lê-nin và quan tâm đặc biệt đến các tác
phẩm của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc như cuốn Đường cách mệnh hoặc Luận cương chánh trò của Đảng do
Tổng bí thư Trần Phú khởi thảo... nhằm rút ra những bài học, kinh nghiệm quý cho công tác cách mạng.
Trong các lớp học ấy, đồng chí Tôn Đức Thắng thường kể lại cuộc binh biến Hắc Hải năm 1919, mà
mình được tham gia, góp phần củng cố tình cảm với nước Nga Xô Viết của các chiến só Cộng sản Việt
Nam ngay trong lúc bò bọn đế quốc giam cầm.
Để thực hiện thắng lợi chủ trương “biến nhà tù thành trường học cách mạng”, đồng chí Tôn Đức
Thắng đã cùng với Chi ủy và nhiều Đảng viên khác, không chỉ đấu tranh với bọn cai ngục, mà còn phải
đấu tranh bền bỉ chống lại những quan điểm lạc hậu của anh em tù Quốc dân Đảng. Vì họ thường vu
khống, xuyên tạc chủ nghóa cộng sản, gieo rắc tư tưởng phản động của thuyết “đấu tranh sinh tồn” của
các học giả tư sản, lúc đó đang thònh hành trên thế giới. Mặt khác, họ thường xuyên rêu rao, đã kích
một cách bỉ ổi các chiến só cộng sản, say sưa học tập để “khỏi lạc đường ra nghóa đòa Hàng Dương”.
Thậm chí, đôi khi họ cố tình phá hoại bằng cách báo cho bọn cai ngục đến tòch thu các tài liệu, bắt bớ
đánh đập các chiến só cộng sản. Trong các cuộc đấu tranh ấy, đồng chí Tôn Đức Thắng đã vận dụng
thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghóa Mác – Lê-nin, để đánh bại không nhân nhượng thuyết vò chủng,
thuyết sinh tồn sặc mùi phản động. Với thái độ đúng mực và lòng chân thành, đồng chí Tôn Đức Thắng
cùng với các đồng chí đảng viên khác đã giúp họ nhận rõ những sai lầm trong tư tưởng và hành động,
nên đã có thái độ bảo vệ đồng chí trước âm mưu sát hại của tù Quốc dân Đảng.
6
Năm 1934, trong thời kỳ đồng chí Tôn Đức Thắng làm việc tại Sở Lưới, biết được chủ trương của
Chi bộ Đảng bố trí cho các đồng chí Ngô Gia Tự, Lê Quang Sung, Tô Chấn... vượt Côn Đảo về đất liền.
Đồng chí đã dở máy ca nô để sửa chữa đúng vào dòp đó. Theo đồng chí Hoàng Quốc Việt thì lúc đó :
“... qua những lời hé lộ của đám gác đêm và bàn tán của tù thường mà biết rằng chiếc ca nô duy nhất
của đảo đã được dở ra sửa chữa đúng lúc cuộc vượt đảo diễn ra. Không ai bảo ai, mấy anh em tù cộng
sản chúng tôi cười thầm. Biết chắc rằng đồng chí nào đó của mình đã cho ca nô hỏng đúng lúc để
chúng không có cái rượt đuổi. (Về sau chúng tôi mới biết là một người tù chính trò đồng chí Tôn Đức
Thắng)”
(1)
. Tiếp đó, mấy tháng sau Chi bộ lại tổ chức chuyến vượt đảo lần thứ hai gồm các đồng chí Tạ
Uyên, Nguyễn Hữu Tiến, Trần Quang Tặng, Tống Văn Trân, Vũ Công Phu... và đồng chí Tôn Đức

Thắng. Nhưng : “Riêng đồng chí Tôn Đức Thắng không biết vì sao bò bắt trở lại. Anh em mừng cho các
đồng chí đi thoát, lại xót cho đồng chí Tôn, người thủy thủ đã tham gia binh biến Hắc Hải năm 1919,
phải tù đày từ năm 1929 tôi chưa gặp mặt, nhưng đã biết tiếng là một đồng chí trung kiên”
(2)
.
Người chiến só Cộng sản trung kiên Tôn Đức Thắng, một lần nữa lại khẳng đònh bản chất kiên
đònh của mình, sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II nổ ra (1939 – 1945) và thực dân Pháp ở Đông
Dương ra sức phát xít hóa bộ máy thống trò, tăng cường khủng bố, đàn áp khốc liệt những người chiến só
Cộng sản còn đang bò giam giữ trong các nhà tù của chúng. Lúc dó, Chi bộ Đảng ở Côn Đảo hoạt động
vô cùng khó khăn vì một mặt do đế quốc gây ra, mặt khác vì không nắm được rõ tình hình phát triển
của cách mạng trong nước, trên thế giới, nên không tránh khỏi hoang mang, dao động. Đặc biệt, khi
được biết tin phát xít Đức điên cuồng tấn công Liên Xô, trong nội bộ Chi bộ đã phải tiến hành một cuộc
đấu tranh tư tưởng không kém phần gay gắt về vai trò của Liên Xô trong thế chiến lần thứ II. Là người
đã biết ít nhiều về nước Nga Xô Viết và đã thực sự biểu lộ bằng hành động thực tế góp phần bảo vệ
Nhà nước Công nông đầu tiên trên thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng đã ra sức kiên trì giải thích, chứng
minh cho mọi người thấy được sức mạnh vô đòch của chính quyền Xô Viết, quân đội Xô Viết và niềm
tin vào thắng lợi cuối cùng của nhân dân Liên Xô. Tổ quốc chung của những người lao động trên thế
giới. Đồng chí Tôn Đức Thắng đã kể lại về cuộc đấu tranh đó : “Trong khi bò cầm tù ở Côn Đảo, khi bò
phát xít Hitle tiến công Mat xcơ va, tôi và nhiều đồng chí khác lo lắng theo dõi tình hình. Song bao giờ
chúng tôi cũng giữ vững niềm tin thắng lợi cuối cùng của Liên Xô. Chúng tôi đã lập luận một cách đơn
giản và rõ ràng : nhân dân Liên Xô bằng sức mạnh của bản thân mình và dựa vào sự ủng hộ của vô sản
thế giới, đã đập tan cuộc can thiệp vũ trang của bọn đế quốc. Hơn 20 năm sau Liên Xô đã trở nên hùng
mạnh hơn. Liên Xô lại được sự ủng hộ rộng rãi của mặt trận Quốc tế chống phát xít và vì thế Liên Xô
nhất đònh thắng lợi”
(1)
. Niềm tin đó của đồng chí Tôn Đức Thắng đã truyền đến mọi người và góp phần
ổn đònh tình hình tư tưởng của Đảng viên trong chi bộ và quần chúng, tránh được những bi quan, dao
động lúc bấy giờ.
Tình hình cách mạng ở trong nước và thế giới ngày càng phát triển mạnh, diễn biến phức tạp, đòi
hỏi nhiều lượng tin tức để chi bộ Đảng nắm chắc được chủ trương, đường lối của Đảng ngày một nhiều,

chính xác, từ đó đònh ra được những kế hoạch, biện pháp đối phó, đấu tranh có hiệu quả hơn đối với kẻ
thù ở Côn Đảo. Do đó, cũng đòi hỏi ở sự cố gắng, nỗ lực ngày càng lớn của đồng chí Tôn Đức Thắng,
trong việc thu lượm tin tức, quan hệ với đất liền, với các thủy thủ Pháp, Việt, để nắm chắc xu thế phát
triển của cách mạng trong nước và thế giới. Đồng chí Tôn Đức Thắng đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ
đó.
Đặc biệt, sau ngày 9-3-1945, khi phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp, tình hình ở Côn Đảo lại
càng phức tạp hơn. Khi bọn phát xít Nhật đến thay thế Pháp tại Côn Đảo, trong nội bộ tù nhân ở đây
cũng có sự phân hóa rõ rệt. Một số hoang mang, một số xu thời ra mặt chửi Pháp nònh Nhật và tố cáo
những người Cộng sản để lập công. Đứng trước tình hình phức tạp đó, đồng chí Tôn Đức Thắng đã cùng
với các đồng chí trong chi ủy và đảng viên trong chi bộ, vạch rõ phát xít Nhật cùng bè lũ phát xít thế
giới, nhất đònh sẽ thất bại, cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới sẽ thắng lợi hoàn
toàn. Đồng thời, Chi bộ bàn bạc chủ trương chuẩn bò khởi nghóa giành chính quyền, khi có điều kiện
thuận lợi.
7
Không nắm được tình hình chung của phong trào cách mạng cả nước, chắc chắn sẽ gặp nhiều khó
khăn trong việc Chi bộ quyết đònh hành động. Đồng chí Tôn Đức Thắng được Chi bộ giao cho nhiệm vụ
phải chữa bằng được chiếc máy thu thanh đã hỏng nát, mà bọn chúa ngục đã vứt bỏ từ lâu. Với ý thức
trách nhiệm rất cao trước Chi bộ, với nhiệt tình cách mạng nóng bỏng và với tất cả vốn liếng tay nghề
của người thợ máy lâu năm, đồng chí Tôn Đức Thắng đã hoàn thành nhiệm vụ đó một cách xuất sắc và
kòp thời. Vừa chữa xong máy thu thanh đã bắt ngay được làn sóng của Đài Phát thanh tiếng nói Việt
Nam, phát đi từ Thủ đô Hà Nội, nghe được lời của Chủ tòch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,
tại quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng anh em trên toàn Đảo mừng
vui trong ngày hội lớn của dân tộc hồi sinh sau gần 80 năm phải làm nô lệ. Trong niềm vui lớn đó, biết
bọn chúa đảo đang hoang mang dao động đến cực điểm, bất chấp sự kềm kẹp của giám ngục, Chi bộ
Đảng đã quyết đònh tổ chức ngay một cuộc mít tinh trọng thể mừng Độc lập Tự do, ủng hộ Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nổi dậy giành chính quyền làm chủ trên toàn đảo.
Ngày 23-9-1945, đồng chí Tôn Đức Thắng cùng các đồng chí khác bò giam giữ ở nhà tù Côn Đảo,
được Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời Nam bộ cử một phái đoàn đưa tàu ra đón về đất liền.
Đồng chí Tôn Đức Thắng về đất liền vào ngày 23 tháng 9 năm 1945. Sau 17 năm xa cách đồng chí
chỉ kòp gặp gia đình ít giờ rồi lại đi ngay gặp Xứ ủy nhận công tác mới của Đảng. Khi đồng về thì cuộc

kháng chiến anh dũng vô cùng gian khổ ở Nam bộ và miền Nam Trung bộ, chống thực dân Pháp xâm
lược đã nổ ra, cùng một lúc với cuộc đấu tranh của nhân dân miền Bắc chống quân Tưởng Giới Thạch.
Trong tình hình khẩn trương đó, lực lượng cán bộ mới ở Côn Đảo về, được Xứ ủy Nam Bộ phân công
ngay công tác. Đồng chí Tôn Đức Thắng được bổ sung vào Xứ ủy. Ngày 25-10-1945, đồng chí tham dự
Hội nghò Xứ ủy Nam Bộ mở rộng, do đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Ban Thường vụ Trung ương
Đảng chủ trì, tại Thiên Hộ (huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho). Đồng chí Tôn Đức Thắng đã góp phần cùng
với tập thể Xứ ủy Nam Bộ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đã nêu ra
được phương hướng chỉ đạo, nhiệm vụ cấp bách cho cuộc chiến đấu ở Nam bộ. Trước hết, phải chấn
chỉnh tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ về mọi mặt, nhất là lực lượng vũ trang, kiên trì giữ
vững và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, làm thất bại âm mưu đánh nhanh, giải quyết nhanh của thực dân
Pháp. Đồng chí được phân công phụ trách Ủy ban kháng chiến Nam bộ, kiêm chỉ huy các lực lượng vũ
trang Nam bộ. Sau hội nghò, đồng chí Tôn Đức Thắng cùng với những cán bộ trung kiên của Đảng vượt
qua mọi khó khăn, gian khổ, kiên trì đi sâu, bám sát cơ sở để củng cố, xây dựng phong trào, phát triển
cơ sở chính quyền, cơ sở vũ trang và đặc biệt quan tâm đến việc thành lập những khu du kích và đơn vò
vũ trang cách mạng... nhằm đáp ứng những nhiệm vụ cấp bách đang diễn ra gay go, quyết liệt.
Với công lao đó trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến ở Nam bộ, nên trong cuộc tổng tuyển
cử đầu tiên vào 6-1-1946, đồng chí Tôn Đức Thắng được nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn bầu làm đại
biểu của mình trong Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cũng trong năm 1946,
đồng chí được Chủ tòch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng quyết đònh điều ra công tác Hà Nội. Từ đấy,
đồng chí luôn luôn ở bên cạnh Chủ tòch Hồ Chí Minh và Ban chấp hành Trung ương Đảng. Sau đó, được
Chủ tòch Hồ Chí Minh và Quốc hội nước ta cử đồng chí tham gia vào Đoàn Quốc hội nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu, sang thăm nước Pháp vào tháng 4-1946, theo
lời mời của Quốc hội nước Cộng hòa Pháp. Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng với những thành viên trong
đoàn, đã tiếp xúc với nhiều nghò só Quốc hội Pháp, các đoàn thể quần chúng, các tầng lớp nhân dân
Pháp, góp phần thực hiện lời căn dặn của Chủ tòch Hồ Chí Minh trước khi đoàn lên đường là : “Đoàn
kết, cẩn thận, làm cho người Pháp hiểu ta để gây tình hữu nghò giữa hai dân tộc”. Chính vì vậy, mà
nhân dân Pháp, cũng như nhân dân thế giới hiểu được và đồng tình với cuộc đấu tranh chính nghóa của
nhân dân ta.
Sau khi đi thăm nước Pháp về, thực hiện chủ trương của Đảng về việc mở rộng Mặt trận Dân tộc
thống nhất, đồng chí Tôn Đức Thắng ra sức chuẩn bò khẩn trương về mọi mặt, cho sự thành lập Hội

Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắc là Liên Việt), vào cuối tháng 5-1946 tại Hà Nội. Toàn thể đại
biểu Hội nghò đã nhất trí bầu Chủ tòch Hồ Chí Minh là Chủ tòch danh dự của Mặt trận, bầu cụ Huỳnh
8
Thúc Kháng, Phó chủ tòch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm Chủ tòch Mặt trận Liên Việt và đồng
chí Tôn Đức Thắng làm Phó Chủ tòch Mặt trận Liên Việt, để lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi mục
đích của Mặt trận là : “Đoàn kết tất cả các Đảng phái yêu nước và các đồng bào vô Đảng phái, không
phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trò, chủng tộc để làm cho Nước Việt Nam độc lập, thống
nhất, dân chủ, phú cường”.
Từ đó, với cương vò người lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng chí đã hoạt động hết sức
mình vì sự nghiệp đoàn kết toàn dân, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đến tháng 10-1946, đồng chí trong đoàn đại biểu Nam bộ đi dự kỳ họp thứ
II của Quốc hội khóa I, họp tại Nhà hát Thành phố Hà Nội. Tại kỳ họp, đồng chí được các đại biểu
Quốc hội bầu làm Trưởng đoàn Chủ tòch của kỳ họp. Theo sáng kiến của đoàn đại biểu Nam bộ, toàn
thể Quốc hội nhất trí bày tỏ sự tín nhiệm và tin tưởng tuyệt đối của nhân dân cả nước đối với Chủ tòch
Hồ Chí Minh và suy tôn Người là Người công dân thứ nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vì đã
sáng suốt lãnh đạo nước nhà thoát khỏi xiềng xích của đế quốc phong kiến. Tại kỳ họp này, đồng chí
Tôn Đức Thắng cùng với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và gần 300 đại biểu Quốc hội, đã nhất
trí thông qua : báo cáo của Chính phủ về những công tác đã làm trong 8 tháng qua và Hiến pháp đầu
tiên của nước ta.
Khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, đồng chí Tôn Đức Thắng cùng với Trung ương Đảng, Chính
phủ dời lên chiến khu Việt Bắc, để bảo toàn lực lượng, lãnh đạo toàn dân ta tiến hành cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Ngoài cương vò lãnh đạo Mặt trận Liên Việt, đồng chí Tôn Đức Thắng được Trung ương Đảng,
Chính phủ phân giữ nhiều trọng trách : Tổng thanh tra Chính phủ, quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng
Ban thi đua ái quốc Trung ương, quyền Trưởng Ban thường trực Quốc hội, Chủ tòch danh dự Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, Hội trưởng Hội Hữu nghò Việt – Xô. Ở tất cả các cương vò ấy, đồng chí luôn
luôn khắc phục mọi khó khăn gian khổ, xuống tận cơ sở, đòa phương, động viên các gia đình thương
binh, liệt sỹ, các ngành, các cấp trong và ngoài quân đội... nhằm động viên toàn dân góp sức người, sức
của và tài trí cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Đồng thời, kiểm tra, đôn đốc hoạt động của các tổ chức
Nhà nước, đoàn thể, thúc đẩy bộ máy kháng chiến hoạt động mạnh mẽ, có hiệu quả, góp phần trực tiếp

củng cố xây dựng chính quyền cách mạng ngày một vững vàng, mạnh mẽ, để thực hiện tốt nhất hai
nhiệm vụ của cuộc kháng chiến : Vừa đánh giặc, vừa kiến thiết đất nước.
Để đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc, tại Hội nghò toàn quốc lần thứ ba của Đảng, họp từ 21-1
đến 3-2-1950, do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp chỉ đạo, Trưởng Ban thi đua ái quốc
Trung ương Tôn Đức Thắng đã đọc báo cáo : “Đẩy mạnh thi đua nhằm đúng hướng chính”. Với phương
pháp tư duy nhìn thẳng vào sự thật và nói rõ sự thật, đồng chí đã phê phán nghiêm khắc những khuyết
điểm về lãnh đạo và tổ chức đã làm cho phong trào thi đua ít hiệu quả. Đồng thời, vạch rõ : “Hướng
chính của thi đua ái quốc lúc này là động viên nhân lực, vật lực, tài lực để phục vụ tiền tuyến”. Những
uốn nắn đó, đã góp phần chỉ đạo các đòa phương đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước tiến lên một
bước mới; góp phần vào sự lớn mạnh của cuộc kháng chiến đang bước vào giai đoạn mới. Để vạch rõ
những thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta trong cả nước và sự trưởng thành nhanh chóng của các lực
lượng vũ trang, đồng chí Tôn Đức Thắng thay mặt Ủy ban Thường trực Quốc hội đã ra lời Hiệu triệu
nhân dòp kỷ niệm lần thứ tư ngày toàn quốc kháng chiến. Đồng chí đã khẳng đònh : “Những thắng lợi
trên, đồng bào nên nhớ : chúng ta đã mua bằng sự gian khổ vô cùng, sự hy sinh tuyệt mực. Nhiệm vụ
của mỗi người công dân ta phải giữ vững lấy những chiến thắng ấy và khuếch trương nó ra”.
Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến thắng lợi hoàn toàn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng được triệu tập tại Tuyên Quang từ 11 đến 19-2-1951. Đồng chí Tôn Đức Thắng đọc diễn văn khai
mạc, nêu lên tình hình thế giới, cách mạng Đông Dương và quá trình hoạt động của Đảng ta từ Đại hội
lần thứ nhất của Đảng tại Ma Cao (3-1935) đến năm 1950 và nêu rõ những nhiệm vụ lòch sử của Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Đồng chí nhấn mạnh : “... của q nhất mà chúng ta nắm
vững được là, đã xây dựng được một Đảng tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
9
gần một triệu người đã được rèn luyện trong hơn 20 năm đấu tranh vô cùng gian khổ, người trước ngã
người sau tiến lên, một người hy sinh trăm ngàn người thay thế”. Trong Đại hội, đồng chí Tôn Đức
Thắng được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Đặc biệt, trong bài phát
biểu quan trọng bế mạc Đại hội, đồng chí Tôn Đức Thắng đã tổng kết toàn diện những nội dung lớn
được bàn và nhất trí thông qua trong Đại hội, nhằm đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở
cho công cuộc kiến thiết nước nhà. Đó là, những đường lối sáng suốt, phương hướng đúng đắn của cách
mạng nước ta trong giai đoạn mới và là cơ sở để đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đưa cách
mạng tiến lên giành những thắng lợi mới.

Thực hiện nghò quyết của Đại hội Đảng, để củng cố, tăng cường sự đoàn kết nhất trí của toàn dân,
góp phần đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc, đồng chí Tôn Đức Thắng ra sức
khẩn trương chuẩn bò tiến tới Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh – Liên Việt, được triệu tập từ
ngày 3 đến 7 tháng 3 năm 1951. Đại hội đã suy tôn Chủ tòch Hồ Chí Minh làm Chủ tòch danh dự và bầu
đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tòch Mặt trận. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí, Đại hội đã thông qua
được nhiều nghò quyết quan trọng : thống nhất hai Mặt trận Việt Minh – Liên Việt thành Mặt trận Liên
Việt, Chính cương, Điều lệ, Tuyên ngôn của Mặt trận, và nhất trí tán thành việc xây dựng và bảo vệ
khối đoàn kết giữa nhân dân ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia để chống kẻ thù chung. Đảng coi
thành công của Đại hội Mặt trân lần này là một thắng lợi chính trò lớn của nhân dân ta, như Chủ tòch Hồ
Chí Minh đã phát biểu : “Hôm nay trông thấy rừng cây đoàn kết đã nở hoa kết quả và gốc rễ nó đang
ăn sâu lan rộng khắp toàn dân. Nó có một tương lai “trường xuân bất lão”
(1)
. Đồng chí Tôn Đức Thắng
người trực tiếp góp phần rất quan trọng vào thắng lợi chính trò lớn đó.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp càng gần đến ngày thắng lợi, Đảng và Nhà nước ta lại
càng phải cần huy động tổng lực nhiều mặt, cần sự nhất trí về tinh thần, sự đoàn kết ngày càng chặt chẽ
của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy, trong năm 1953, đồng chí Tôn Đức Thắng liên tiếp
triệu tập và chủ trì : Hội nghò Liên tòch giữa Ủy ban Thường trực Quốc hội và Ủy ban Liên Việt toàn
quốc (2-1953) và Hội nghò Ủy ban Liên Việt toàn quốc mở rộng (11-1953), bao gồm đông đảo đại biểu
các chính đảng, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo trong toàn quốc, để thấm nhuần cương lónh của Đảng Lao
động Việt Nam về vấn đề ruộng đất”. Hội nghò đã đi đến quyết nghò quan trọng:
– Đẩy mạnh công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh đổ ngụy quyền,
giải phóng dân tộc, củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, giải phóng sức sản xuất ở nông
thôn, phát triển sản xuất nông nghiệp, mở đường phát triển công thương nghiệp, cải thiện đời sống nhân
dân.
– Kêu gọi các chính đảng, đoàn thể và toàn thể nhân dân ta ủng hộ cương lónh ruộng đất của
Đảng, ủng hộ cuộc đấu tranh của nông dân, tích cực tham gia cải cách ruộng đất và hoàn thành sự
nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Với cương vò là người trực tiếp lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng chí Tôn Đức Thắng đã
nỗ lực hoạt động với mọi sức lực, tâm huyết của người chiến só cộng sản, vì sự thắng lợi của chính sách

đại đoàn kết của Đảng. Tất cả mọi hoạt động của đồng chí đều vì sự nghiệp đoàn kết toàn dân sao cho
“Rừng cây đoàn kết” ngày một xum xuê, vì củng cố khối liên minh Công nông, củng cố và mở rộng
Mặt trận Dân tộc thống nhất, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến và vì sự nghiẹp đoàn kết chiến
đấu giữa nhân dân ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia, giành toàn thắng cho các dân tộc Đông
Dương.
Chính nhờ khối đoàn kết vó đại của toàn dân, đã hợp thành sức mạnh tổng hợp của nhân dân ta
trong sự nghiệp chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp, sau chín năm trường kỳ kháng chiến cực kỳ
gian khổ. Trong đó, đồng chí Tôn Đức Thắng Chủ tòch Mặt trận dân tộc thống nhất, là một chiến só tiêu
biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Chủ tòch Hồ Chí Minh.
oOo
10
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta giành được thắng lợi, sự nghiệp cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân mới hoàn thành ở miền Bắc nước ta. Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng
với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước từ chiến khu Việt Bắc trở lại Thủ đô Hà Nội, tiếp tục lãnh
đạo nhân dân cả chủ nghóa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, nhằm hoàn thành cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa I, họp tại Hà Nội tháng 9-1955, đồng chí Tôn Đức Thắng được
bầu làm Trưởng Ban thường trực Quốc hội. Với trọng trách ấy : đồng chí đã góp sức mình vào tăng
cường sức mạnh của nền chuyên chính vô sản trong thời kỳ miền Bắc bước vào quá độ tiến lên chủ
nghóa xã hội. Đứng trước tình hình phát triển mới của cách mạng Việt Nam, để mở rộng hơn nữa khối
đại đoàn kết toàn dân, thực hiện đường lối chính trò của Đảng nhằm động viên cả nước thực hiện thắng
lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, đồng chí Tôn Đức Thắng triệu
tập Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc vào tháng 9-1955 tại Thủ đô Hà Nội. Trong diễn
văn khai mạc, đồng chí kêu gọi toàn dân hãy ra sức thực hiện chính sách đại đoàn kết của Chủ tòch Hồ
Chí Minh và mọi người phải góp phần vào xây dựng Tổ quốc Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh. Vì : “Chúng ta cùng chung một Tổ quốc, cũng có chung hàng ngàn năm lòch sử,
đau khổ có nhau, vinh quang có nhau. Điều đó, đã gắn liền đồng bào toàn quốc, gắn liền đại biểu
chúng ta làm một khối”. Đại hội đã quyết đònh lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và bầu đồng chí
Tôn Đức Thắng làm Chủ tòch Ủy Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ đó, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam góp phần rất quan trọng trong việc đoàn kết toàn dân không những trong sự nghiệp xây

dựng chủ nghóa xã hội, mà cả trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Cùng với nhiệm vụ lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tháng 2-1957 khi Ban Thanh toán nạn
mù chữ Trung ương được thành lập, đồng chí Tôn Đức Thắng được cử làm Trưởng Ban. Với trách
nhiệm đó, đồng chí đã kêu gọi mọi người chưa biết chữ phải đi học để nâng cao hiểu biết, làm tròn
nghóa vụ đối với Tổ quốc. Đồng thời, kêu gọi mọi người biết chữ hãy tự nguyện góp sức mình vào “Đội
tiên phong trong sự nghiệp diệt dốt” và coi họ là những chiến só trên mặt trận chống lại hậu quả của
chính sách ngu dân do thực dân Pháp để lại và là những người mở mang tri thức phổ thông cho đồng
bào. Tuy gần 70 tuổi, đồng chí không quản ngại tuổi già sức yếu, vẫn thường xuyên xuống tận các lớp
bình dân học vụ ở Hà Nội và nhiều đòa phương xa để kiểm tra, đôn đốc và có những biện pháp cụ thể
nhằm đẩy mạnh việc học tập của các học viên và dạy học của các chiến só diệt dốt. Dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của đồng chí và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của người học và người dạy, nên
nạn mù chữ đã được thanh toán ngay vào cuối năm 1958 ở vùng đồng bằng và trung du miền Bắc.
Tháng 8-1958, nhân dòp đồng chí Tôn Đức Thắng 70 tuổi, Ủy Ban Thường vụ Quốc hội và Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã quyết đònh tặng đồng chí Huân chương Sao Vàng – Huân
chương cao q nhất của Nhà nước ta, vì đã có nhiều cống hiến xuất sắc trong chín năm kháng chiến
chống thực dân Pháp và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghóa xã hội. Trong buổi lễ trao tặng huân
chương, Chủ tòch Hồ Chí Minh đã khẳng đònh : “... đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và người
rất xứng đáng được tặng thưởng huân chương ấy”. Trước vinh dự lớn này, đồng chí Tôn Đức Thắng vô
cùng cảm động phát biểu : “... tôi không biết nói gì hơn là hứa lấy cố gắng của tôi để góp công ơn của
Đảng, công ơn của Hồ Chủ tòch. Người sáng lập và xây dựng Đảng, đã đưa tôi vào con đường vẻ vang
và để đền đáp sự tín nhiệm của nhân dân và Chính phủ”.
Đồng chí Tôn Đức Thắng tuy tuổi cao nhưng ý chí càng cao, nên tháng 7 năm 1960, Quốc hội đã
nhất trí bầu đồng chí làm Phó Chủ tòch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chủ tòch Hồ Chí Minh đã
siết chặt tay đồng chí nói : “Toàn thể Quốc hội nhất trí bầu cụ làm Phó Chủ tòch nước, tức là đồng bào
miền Nam đều bầu cụ làm Phó Chủ tòch nước. Điều đó tiêu biểu rằng nước ta nhất đònh thống nhất”.
Tiếp đó khi Chủ tòch Hồ Chí Minh qua đời (9-1969), đồng chí Tôn Đức Thắng được Quốc hội nhất trí
bầu làm Chủ tòch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa II, họp ở Hà Nội
ngày 23-9-1969. Vinh dự được kế tiếp chức vụ của Chủ tòch Hồ Chí Minh, đồng chí Tôn Đức Thắng
khiêm tốn nói : “Về phần tôi được kế tiếp chức vụ của Hồ Chủ tòch là điều rất vinh quang đối với tôi,
nhưng càng là điều mà tôi chưa bao giờ dám nghó đến...” và chân thành hứa: “Mặc dù tài hèn đức kém,

11
chúng tôi xin thề trước anh linh của Hồ Chủ tòch và trước Quốc hội : Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức mình
để làm tròn trách nhiệm mà Quốc hội đã giao phó”.
Mặc dù là người đứng đầu Nhà nước, đồng chí Tôn Đức Thắng lúc nào cũng giữ được phong cách
công nhân trong sáng của mình : khiêm tốn, giản dò, chân thành, hòa mình trong quần chúng. Đồng chí
luôn luôn đi sâu đi sát cơ sở, lắng nghe quần chúng nhân dân phản ánh nguyện vọng chính đáng của
mình, và kiểm tra hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Mặt khác, không những bản thân Chủ tòch
gương mẫu thực hiện, mà còn luôn luôn căn dặn, nhắc nhở, giáo dục cán bộ lãnh đạo các cấp chính
quyền từ Trung ương đến cơ sở phải hết lòng vì dân, vì nước và luôn luôn phải coi dân là gốc vì sự
nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giành Độc lập – Tự do – Thống nhất Tổ quốc, Chủ tòch
Tôn Đức Thắng đã giành sự quan tâm đặc biệt. Là người sinh trưởng từ miền Nam “Thành đồng Tổ
quốc” hơn ai hết đồng chí dành những tình cảm sâu nặng nhất cho cuộc chiến đấu cực kỳ gian khổ của
đồng bào ở miền Nam. Tại Hội nghò chính trò đặc biệt, đồng chí Tôn Đức Thắng đã phát biểu : “Từng
giờ từng phút tôi luôn luôn nghó đến miền Nam, nơi chôn nhau cắt rốn, đang bò bọn đế quốc và tay sai
tàn phá..., tôi muốn được sát cánh với đồng bào trong cuộc đấu tranh, cùng đồng bào chia sẻ những nỗi
gian khổ hy sinh để giải phóng quê hương yêu dấu”
(1)
. Chính vì vậy, Chủ tòch Tôn Đức Thắng càng ra
sức cùng với Đảng, Nhà nước tăng cường lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghóa xã hội ở miền Bắc –
hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để làm tròn nghóa vụ đối với miền Nam –
tiền tuyến lớn anh hùng. Xuất phát từ tình cảm lớn đó, đồng chí Tôn Đức Thắng kêu gọi : “Máu chảy
ruột mềm, là dân một nước là con một nhà, chúng ta chia sẻ nỗi đau thương của đồng bào miền Nam
ruột thòt”
(2)
và hãy “... nguyện son sắt một lòng, không sợ bất cứ một hy sinh gian khổ nào, luôn luôn kề
vai sát cánh cùng đồng bào miền Nam đưa cuộc chiến đấu chung của cả dân tộc ta đến thắng lợi hoàn
toàn”
(3)
.

Không phải bằng lời kêu gọi, mà bằng hành động thực tế hàng ngày, Chủ tòch Tôn Đức Thắng
giành nhiều thời gian, xuống thăm hỏi các đơn vò lực lượng vũ trang động viên tinh thần chiến đấu đánh
giặc của cán bộ, chiến só, nhắc nhở phải đề cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của
kẻ thù. Đặc biệt, ngay sau chiến công đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng máy bảy B.52 của không
quân Mỹ ở Hà Nội, Chủ tòch Tôn Đức Thắng đã kòp thời đến biểu dương thành tích của các đơn vò bộ
đội, tự vệ đã lập nhiều chiến công hạ máy bay B.52, F.111. Đồng thời ân cần thăm hỏi đồng bào đường
phố Khâm Thiên (Hà Nội) đang khắc phục hậu quả và chia buồn tới các gia đình có người thân đã bò
thiệt hại, trong cuộc ném bom có tính chất hủy diệt vô cùng dã man của giặc Mỹ vào tháng 12-1972.
Bò liên tiếp thất bại lớn trên chiến trường miền Nam và trận “Điện Biên Phủ trên không” ở Hà
Nội, ngày 27-1-1973, chính phủ Mỹ buộc phải ký Hiệp đònh về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam. Nhưng chưa ráo mực, đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn đã ra sức phá hoại những điều
khoản vừa ký kết, nhưng không thể tránh khỏi sự thất bại hoàn toàn. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy mùa Xuân năm 1975 ở miền Nam, nhân dân ta đã giành thắng lợi quyết đònh : giải phóng hoàn
toàn miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Trong niềm vui
lớn đó, ngày 15-5-1975, Chủ tòch Tôn Đức Thắng về miền Nam dự lễ mừng chiến thắng vó đại của dân
tộc ta tại thành phố Sài Gòn, Chủ tòch đã phân tích những nguyên nhân dẫn đến những thắng lợi kỳ
diệu ấy và kêu gọi đồng bào miền Nam cùng với đồng bào miền Bắc, chung sức chung lòng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngay sau ngày thống nhất nước nhà, Chủ tòch Tôn Đức Thắng cùng với Ủy Ban Thường vụ Quốc
hội chuẩn bò tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thống nhất. Ngày 3-7-1976, kỳ họp đầu tiên của Quốc
hội khóa VI, nhất trí bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tòch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghóa Việt
Nam. Thay mặt những đồng chí được bầu vào các cơ quan lãnh đạo Nhà nước, Chủ tòch Tôn Đức Thắng
nói : “Chúng tôi xin hứa với Quốc hội, với đồng bào cả nước sẽ tiếp tục mang hết sức mình phục vụ Tổ
quốc phục vụ nhân dân, ra sức đoàn kết, động viên toàn dân phấn đấu thực hiện đầy đủ lời căn dặn của
Hồ Chủ tòch : “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”.
12
Nhưng vừa ra khỏi cuộc chiến tranh, sau 117 năm kiên cường chiến đấu, nhân dân ta chưa kòp hàn
gắn vết thương chiến tranh, thì bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh, được đế quốc Mỹ đồng tình, lại
tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt đối với đất nước ta. Chúng dùng bọn Pôn Pốt – Iêng Xa
ry gây ra chiến tranh ở biên giới Tây Nam (1978) và mang quân xâm lược biên giới phía Bắc (1979).

Do đó, ngày 5-3-1979, Chủ tòch Tôn Đức Thắng đã ký sắc lệnh Tổng động viên, nhằm huy động nhân
dân cả nước trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghóa và đánh thắng hoàn toàn cuộc
chiến tranh xâm lược do chúng gây ra.
Chủ tòch Tôn Đức Thắng quan tâm đặc biệt đến việc chăm sóc, giáo dục và bồi dưỡng thế hệ
măng non đất nước. Ngày 1-4-1961 đồng chí Tôn Đức Thắng là Chủ tòch danh dự Ủy Ban Thiếu niên
Nhi đồng Việt Nam. Dù ở cường vò, hoàn cảnh nào, Chủ tòch Tôn Đắc Thắng cũng coi trọng công tác
đó, vì các cháu sẽ là chủ nhân thực sự của xã hội tương lai. Đồng thời, vạch rõ công tác thiếu niên nhi
đồng có ý nghóa cách mạng trọng đại, vì nó là công tác của toàn Đảng, toàn dân, biểu hiện quan điểm
quần chúng của người cách mạng, biểu hiện tính ưu việt của chế độ ta, vì quan tâm đến thiếu niên nhi
đồng, chính là quan tâm đến tiền đồ của sự nghiệp cách mạng. Bởi vậy, nó không chỉ là tình cảm, mà
còn là trách nhiệm của những người cộng sản. Chủ tòch Tôn Đức Thắng thường kêu gọi các ngành, các
đoàn thể, các bậc cha mẹ, các cô giáo thầy giáo, các cán bộ phụ trách hãy làm tốt hơn nữa công tác
giáo dục, chăm sóc và bảo vệ thiếu niên nhi đồng, ra sức thực hiện lời di chúc của Chủ tòch Hồ Chí
Minh : “Bồi dưỡng những thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết !”.
Mặt khác, đồng chí còn gửi thư tới các bậc cha mẹ, các gia đình yêu cầu hãy : “... quan tâm đẩy mạnh
cuộc vận động “toàn dân bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng” và phối hợp với nhau chặt
chẽ hơn nữa trong việc vun trồng những mầm non của dân tộc”. Những quan điểm đó của Chủ tòch Tôn
Đức Thắng, Đảng, Nhà nước đã trở thành luật pháp khi pháp lệnh về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em do Chủ tòch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghóa Việt Nam Tôn Đức Thắng ký sắc lệnh công bố vào
ngày 21-11-1979.
Chủ tòch Tôn Đức Thắng không chỉ là người chiến só Cộng sản lão thành đã cống hiến toàn bộ sức
lực, trí tuệ của mình vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng vào
bảo vệ Tổ quốc, mà còn là một tấm gương sáng của nhà yêu nước và của một chiến só Cộng sản quốc
tế, đã hiến dâng cho sự nghiệp vì quyền tự do, công lý, hòa bình và tiến bộ của các dân tộc. Do đó,
đồng chí Tôn Đức Thắng đã được nhân nhiều huân chương cao q của các nước anh em và các tổ chức
quốc tế.
Tháng 12-1955, Ủy Ban Giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lênin của Liên Xô, quyết đònh tặng đồng
chí Tôn Đức Thắng giải thưởng Lênin vì hòa bình và hữu nghò giữa các dân tộc. Là người Việt Nam đầu
tiên được nhận vinh dự lớn ấy, đồng chí khiêm tốn nói: “Tôi nhận rõ rằng việc tặng giải thưởng Lênin
cho tôi là một sự công nhận phần cống hiến mà nhân dân Việt Nam đã và đang góp vào cuộc đấu tranh

để tăng cường nền hòa bình ở châu Á và trên thế giới”. Cũng nhân dòp này, Ban chấp hành Trung ương
Đảng khẳng đònh công lao to lớn và chúc mừng đồng chí Tôn Đức Thắng : “Việc trao tặng giải hòa bình
quốc tế mang tên Lênin vó đại cho đồng chí, người đại biểu xứng đáng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Việt Nam, người bạn chiến đấu trung thành của Hồ Chủ tòch, còn là một sự cỗ vũ vô cùng
mạnh mẽ đối với nhân dân ta trong cuộc đấu tranh gay go nhằm củng cố, thực hiện thống nhất, hòa
bình, độc lập và dân chủ trong cả nước”.
Đến tháng 11 năm 1967, do những cống hiến lớn lao với sự nghiệp hòa bình thế giới. Đoàn Chủ
tòch Xô Viết tối cao Liên Xô quyết đònh tặng đồng chí Tôn Đức Thắng huân chương Lênin. Huân
chương cao q nhất của Liên Xô, nhân dòp kỷ niệm lần thứ 50 cách mạng xã hội chủ nghóa tháng Mười
Nga. Vinh dự đặc biệt đó không chỉ dành cho đồng chí Tôn Đức Thắng, mà còn là vinh dự chung của
nhân dân Việt Nam ta.
Dù ở cương vò nào, đồng chí Tôn Đức Thắng cũng hết lòng tận tụy vì dân vì nước, ngay cả khi tuổi
già sức yếu. Ngày 30-3-1980, sau gần hai năm yếu mệt, được Trung ương Đảng, Nhà nước tập trung
13
những khả năng, phương tiện tốt nhất để tận tình cứu chữa, chăm sóc, nhưng Chủ tòch Tôn Đức Thắng
không qua được những cơn bệnh hiểm nghèo và đã từ trần.
Ban chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Mặt trận đã quyết đònh tổ chức lễ quốc
tang với nghi thức trọng thể và toàn thể nhân dân Việt Nam để tang đồng chí Tôn Đức Thắng trong 5
ngày từ 1 – 5-4-1980.
Sáng ngày 1-4-1980, tại Hội trường Ba Đình lòch sử, lễ viếng đồng chí Tôn Đức Thắng được cử
hành rất trọng thể. Các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Mặt trận luôn luôn
túc trực bên linh cửu đồng chí Tôn Đức Thắng. Đã có gần 150 đoàn đại biểu với hơn 10 ngàn người
thay mặt đồng bào cả nước đến viếng. Ở tất cả các đòa phương trong nước đều tổ chức lễ tưởng niệm
người cộng sản kiên cường, mẫu mực Tôn Đức Thắng. Ngoài ra còn nhiều đoàn đại biểu cấp cao của
Đảng, Nhà nước ở nhiều quốc gia sang nước ta dự lễ tang; các đoàn ngoại giao, các tổ chức quốc tế tại
nước ta cũng đã đến đặt vòng hoa kính viếng anh linh của Chủ tòch Tôn Đức Thắng. Với tấm lòng
ngưỡng mộ người chiến só cộng sản quốc tế đã về nơi vónh cửu, ở nhiều nước trên thế giới đã tổ chức lễ
tang hoặc quốc tang. Ở tất cả các cơ quan ngoại giao của nước ta tại các nước, đã đón rất nhiều nhà
lãnh đạo, và quần chúng nhân dân đến chia buồn và ký vào sổ tang. Cũng thời gian đó, Đảng, Nhà
nước ta cũng đã nhận được rất nhiều điện chia buồn từ các nước gửi tới nhân dân ta.

Chiều ngày 3-4-1980, lễ truy điệu Chủ tòch Tôn Đức Thắng được tổ chức trọng đại theo nghi thức
quốc gia tại Hội trường Ba Đình. Đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trò Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tòch Ủy Ban Thường vụ Quốc hội, đọc điếu văn khẳng đònh những
cống hiến lớn lao của Chủ tòch Tôn Đức Thắng : “Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là một
tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy, về tinh thần anh dũng, bất khuất, về đức tính khiêm tốn,
giản dò. Toàn thể đồng chí và đồng bào chúng ta rất tự hào về sự nghiệp và đạo đức cách mạng của
đồng chí. Chúng ta quyết mãi mãi noi gương cao cả của đồng chí để khắc phục mọi khó khăn, hoàn
thành mọi nhiệm vụ cách mạng”.
Ngày 4-4-1980, lễ an táng Chủ tòch Tôn Đức Thắng được cử hành rất trọng thể. Với lòng tiếc
thương vô hạn, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã đưa Chủ tòch Tôn Đức Thắng về nơi an nghó cuối
cùng.
Cuộc đời 92 mùa Xuân của đồng chí Tôn Đức Thắng đã giành gần 70 năm hoạt động cho sự
nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng và dân tộc.
Hơn 30 năm đầu, từ khi rời quê hương bắt đầu cuộc đời người thợ đến khi cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công, đồng chí Tôn Đức Thắng phải trải qua những thử thách vô cùng gian khổ. Sớm
đến với giai cấp công nhân và lăn lộn trong phong trào công nhân công nghiệp đầu tiên ở Việt Nam
giác ngộ cách mạng, là lớp chiến só đầu tiên đứng vào hàng ngũ tiên phong của phong trào yêu nước
của giai cấp công nhân Việt Nam.
Là lớp người đầu tiên tiếp thu và tuyên truyền chủ nghóa Mác-Lênin và phong trào công nhân Việt
Nam bằng hoạt động thực tiễn của mình, đồng chí Tôn Đức Thắng là người tổ chức ra Công hội đầu
tiên ở nước ta và tham gia tích cực vào quá trình vận động và thành lập chính đảng của giai cấp công
nhân Việt Nam : Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thử thách lớn nhất của cuộc đời đồng chí trong thời kỳ này là 17 năm bò thực dân Pháp cầm tù ở
khám lớn Sài Gòn và đòa ngục trần gian Côn Đảo. Lòng trung thành vô hạn đối với Tổ quốc, với lý
tưởng cộng sản của Đảng, lòng dũng cảm vô biên, ý chí kiên cường bất khuất và niềm tin vào thắng lợi
cuối cùng của nhân dân ta, đã tạo thành sức mạnh phi thường trong bản chất người công nhân – cộng
sản Tôn Đức Thắng, đã giúp đồng chí chiến thắng được những tháng, năm đầy hy sinh gian khổ ấy.
Hơn 30 năm sau, từ khi thoát khỏi nhà tù Côn Đảo về đất liền, sống những ngày đầu tiên khi đất
nước, dân tộc hồi sinh sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến cuối đời, đồng chí Tôn Đức Thắng đã nhận
nhiều trọng trách lớn của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Mặt trận trong hai cuộc kháng chiến chống thực

14
dân Pháp, đế quốc Mỹ và xây dựng chủ nghóa xã hội. Bất cứ ở cương vò nào, dù là Chủ tòch nước, đồng
chí Tôn Đức Thắng cũng hết lòng, hết sức, tận tụy vì Đảng, vì nước, vì dân. Đồng chí là một tấm gương
sáng mẫu mực về đạo đức cách mạng, suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Tính tổ chức và
tính nguyên tắc cao, khiêm tốn và giản dò, yêu thương đồng chí và quý trọng đồng bào vốn là bản chất
cuộc đời của đồng chí Tôn Đức Thắng.
Gần 70 năm hoạt động cách mạng, đồng chí không chỉ là nhà yêu nước vó đại, người cộng sản tiêu
biểu của dân tộc, mà còn là một chiến só Lê-nin-nít trong phong trào cộng sản quốc tế, suốt đời phấn
đấu cho sự củng cố, phát triển tình đoàn kết, hữu nghò, chiến đấu theo tinh thần quốc tế xã hội chủ
nghóa giữa các nước. Đồng chí là một trong những người Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào
công nhân Pháp và đem lại mối tình hữu nghò giữa hai dân tộc Việt – Pháp. Đồng thời, đồng chí cũng là
một trong những người Việt Nam đầu tiên biểu thò bằng hành động bảo vệ thành quả của cách mạng
tháng Mười Nga vó đại, vun đắp cho sự nghiệp đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Liên Xô
anh em. Những hoạt động thực tiễn của đồng chí Tôn Đức Thắng, nhằm đoàn kết với các Đảng, Quốc
hội, Nhà nước, cộng đồng các nước xã hội chủ nghóa và các nước có chế độ chính trò xã hội khác nhau,
đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần vào sự hiểu biết lẫn nhau, bảo vệ hòa bình, hạnh phúc của
nhân loại.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng là một kiểu mẫu phong phú hoàn
chỉnh về nhân sinh quan cộng sản và là tượng trưng những tinh hoa của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
phẩm chất cách mạng và phong cách của giai cấp công nhân Việt Nam, dân tộc Việt Nam và của
những người cộng sản Việt Nam. Trong Thông báo Đặc biệt ngày 30-3-1980 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy Ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ và Đoàn Chủ tòch
Ủy Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đã khẳng đònh : “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một nhà
yêu nước vó đại, người cộng sản kiên cường mẫu mực, người lãnh đạo kính mến của giai cấp công nhân
và nhân dân các dân tộc nước ta, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tòch Hồ Chí Minh, người chiến
só hết sức trung thành của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế. Đồng chí đã cống hiến cả đời
mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chủ nghóa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đồng thời đồng chí đã suốt đời phấn đấu cho sự phát triển tình đoàn kết chiến đấu và tình hữu
nghò anh em giữa nhân dân ta với nhân dân Liên Xô, nhân dân các nước xã hội chủ nghóa anh em khác
và phát triển tình hữu nghò với các dân tộc trên thế giới, vì lợi ích của sự nghiệp hòa bình, độc lập dân

tộc, dân chủ và chủ nghóa xã hội.
ĐÀO HIẾU
LỜI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
NHÂN DỊP ĐỒNG CHÍ TÔN ĐỨC THẮNG
ĐƯC TRAO TẶNG HUÂN CHƯƠNG SAO VÀNG
(20-8-1958)
Thưa lão đồng chí.
Hôm nay chúng tôi rất sung sướng chúc mừng đồng chí 70 tuổi.
Thưa các đồng chí ;
Đồng chí Tôn Đức Thắng là một người con rất ưu tú của Tổ quốc, suốt 50 năm đã không ngừng
hoạt động cách mạng. 17 năm bò thực dân Pháp cầm tù, chín năm tham gia lãnh đạo kháng chiến. Bốn
năm phấn đấu để giữ hòa bình thế giới và đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đồng chí Tôn
15
Đức Thắng, 70 tuổi nhưng rất trẻ, đối với Đảng, đồng chí là 29 tuổi; đối với nước Việt Nam độc lập,
đồng chí là 13 tuổi.
Là một chiến só cách mạng dân tộc và chiến só cách mạng thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng là
một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ cách mạng tháng Mười vó đại.
Đồng chí Tôn Đức Thắng tuy tuổi tác đã cao, nhưng vẫn cố gắng để phụ trách nhiều nhiệm vụ
quan trọng :
Trưởng Ban Thường trực Quốc hội.
Chủ tòch Ủy Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.
Chủ tòch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Chủ tòch Hội Việt – Xô hữu nghò.
Chủ tòch danh dự Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam.
Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới.
Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng : Suốt đời cần, kiệm, liêm, chính;
Suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Vì vậy, hôm nay chẳng những chúng ta ở đây, mà toàn thể đồng bào ta từ Bắc đến Nam và toàn
thể nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình đều vui mừng chúc người lão chiến só cách mạng Tôn Đức

Thắng sống lâu, mạnh khỏe.
Thay mặt nhân dân và Chính phủ, tôi trân trọng trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương
Sao Vàng là Huân chương cao q nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà đồng chí Tôn Đức
Thắng là người đầu tiên và người rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy.
LỜI CHÚC CỦA ĐỒNG CHÍ TRƯỜNG CHINH
(1)
Thưa Chủ tòch Tôn Đức Thắng.
Thưa Phó Chủ tòch Nguyễn Lương Bằng.
Thưa các đồng chí Đại biểu Quốc hội.
Sau khi Hồ Chủ tòch kính mến qua đời, trong phiên họp trọng thể này, Quốc hội ta đã nhất trí bầu
cụ Tôn Đức Thắng giữ chức Chủ tòch và đồng chí Nguyễn Lương Bằng giữ chức Phó Chủ tòch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cụ Tôn Đức Thắng và đồng chí Nguyễn Lương Bằng là hai chiến só lão thành của cách mạng Việt
Nam, những người bạn chiến đấu gần gũi với Hồ Chủ tòch, những người con ưu tú của dân tộc Việt Nam
ta. Hai đồng chí được Quốc hội nhất trí tín nhiệm giao cho trọng trách lãnh đạo Nhà nước ta là rất xứng
đáng. Sự tín nhiệm của Quốc hội tức là sự tín nhiệm của toàn dân ta. Điều đó làm cho nhân dân ta ở cả
hai miền, các chiến só ngoài mặt trận cũng như đồng bào ở hậu phương và bè bạn ta trên thế giới vui
mừng, phấn khởi.
Quốc hội xin nhiệt liệt hoan nghênh đồng chí Chủ tòch và đồng chí Phó Chủ tòch mới của nước ta,
và xin kính chúc các đồng chí luôn luôn mạnh khỏe, thu được nhiều thắng lợi lớn trong công tác lãnh
đạo Nhà nước, lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghóa xã hội và đánh thắng hoàn toàn
giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.
HỌC TẬP GƯƠNG SÁNG
CỦA ĐỒNG CHÍ TÔN ĐỨC THẮNG
(1)
16
Chúng ta rất vui sướng chúc mừng đồng chí Tôn Đức Thắng nhân dòp sinh nhật lần thứ 70 của
đồng chí.
Đồng chí Tôn là một người con yêu q của dân tộc, một đảng viên gương mẫu của Đảng Lao
động Việt Nam.

Cuộc đời của đồng chí là một tấm gương phấn đấu không biết mệt mỏi cho sự nghiệp độc lập dân
tộc, cho sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Xuất phát từ hàng ngũ giai cấp
công nhân, từ lúc còn trẻ, đồng chí đã giác ngộ cách mạng và tham gia lãnh đạo phong trào yêu nước
của nhân dân Việt Nam chống đế quốc, phong kiến. Đồng chí đã tham gia cuộc khởi nghóa Hắc Hải,
chống sự can thiệp vũ trang của đế quốc để bảo vệ nước Cộng hòa Xô Viết trẻ tuổi, nêu cao tinh thần
quốc tế cao cả của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đế quốc Pháp đã bắt giam, đày đọa đồng chí 17 năm trời ở nhà ngục Côn Lôn với chế độ khổ sai,
khi thì nhốt vào hầm xay lúa, khi thì nhốt vào hầm tối, tay chân bò xiềng xích, cùm kẹp, khi thì cho ăn
lúa sống hoặc bỏ đói bỏ khát, nhưng tinh thần cách mạng kiên cường của đồng chí trước sau vẫn không
chút lay chuyển. Trong nhà tù, đồng chí luôn luôn nêu cao tấm lòng yêu nước và chí khí quật cường của
người công nhân, luôn luôn tin tưởng ở tương lai tươi sáng của dân tộc và của giai cấp, luôn luôn vui vẻ
và không bao giờ xao lãng công tác cách mạng.
Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí ra khỏi nhà tù. Vừa bước chân lên đất liền thì cuộc
kháng chiến bùng nổ, đồng chí lại tham gia ngay vào cuộc kháng chiến vó đại của dân tộc. Mười ba
năm nay ở những vò trí quan trọng trong Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận, mặc dù tuổi cao, đồng
chí đã nỗ lực làm đầy đủ nhiệm vụ của mình, cùng Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội và Mặt trận
lãnh đạo nhân dân góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Sự cống hiến lớn lao của đồng chí cho nền độc lập dân tộc và hòa bình thế giới đã được nhân dân
thế giới kính mến. Đồng chí là người Việt Nam đầu tiên được giải thưởng hòa bình quốc tế Lênin, xứng
đáng là một chiến só xuất sắc của phong trào hòa bình thế giới.
Cùng với tinh thần phấn đấu không mệt mỏi, ở đồng chí Tôn còn nổi bật lên lập trường vững vàng,
chí khí cao cả, đức tính khiêm tốn, giản dò, đó là những gương sáng để chúng ta học tập.
Chúng ta nhiệt liệt hoan hô lòng trung thành sắt đá của đồng chí Tôn Đức Thắng đối với giai cấp,
với Đảng, hoan hô chí khí kiên cường, tấm lòng khẳng khái, vô tư và đức tính khiêm tốn, giản dò của
đồng chí.
Chúc đồng chí luôn luôn mạnh khỏe, sống lâu để cùng Trung ương, Quốc hội, Chính phủ và Mặt
trận lãnh đạo toàn dân ta kiến thiết chủ nghóa xã hội ở miền Bắc thắng lợi và đấu tranh thực hiện thống
nhất nước nhà thành công.
ĐIẾU VĂN ĐỌC TRONG LỄ TRUY ĐIỆU
CHỦ TỊCH TÔN ĐỨC THẮNG

(1)
Thưa các đồng chí và đồng bào,
Đồng chí Tôn Đức Thắng, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tòch
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghóa Việt Nam, Chủ tòch nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghóa Việt Nam, đã qua đời ngày 30 tháng 3 năm 1980, hưởng thọ 92 tuổi.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng đau đớn vónh biệt đồng chí.
Đồng chí Tôn Đức Thắng từ trần, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghóa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân Việt Nam mất một chiến só cách mạng kiên
cường, mẫu mực, một người lãnh đạo kính mến và thân thiết.
17
Đồng chí là một trong các chiến só lớp đầu của phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân
tộc ở nước ta, là một trong những người bạn chiến đấu thân thiết lâu năm của Chủ tòch Hồ Chí Minh vó
đại.
Từ những năm đầu thế kỷ này, đồng chí Chủ tòch Tôn Đức Thắng đã tham gia lãnh đạo phong trào
yêu nước của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, và đứng vào hàng ngũ những chiến só tiên
phong.
Đồng chí là một trong những người công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào công
nhân Pháp. Đồng chí đã tham gia cuộc nổi dậy của hải quân Pháp ở Hắc Hải, kéo lá cờ đỏ trên một
chiến hạm Pháp, ủng hộ Liên Bang Xô Viết, nước xã hội chủ nghóa đầu tiên trên thế giới, chống sự can
thiệp vũ trang của bọn đế quốc đối với Nhà nước Xô Viết còn non trẻ.
Cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài của đồng chí đầy gian lao, thử thách. Đồng chí bò bọn đế
quốc bắt giam giữa lúc đang hoạt động sôi nổi trong hàng ngũ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí Hội ở Nam bộ. Gần 17 năm bò tù đày ở Côn Đảo, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần cách mạng
kiên cường, tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và chủ nghóa xã hội.
Sau cách mạng tháng Tám (1945) thành công, từ Côn Đảo trở về, đồng chí liền hoạt động tích cực,
góp phần cùng với Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân, kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chống bọn bành
trướng Trung Quốc và bè lũ tay sai, vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì chủ nghóa xã hội.
Đồng chí là người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và của Hồ Chủ tòch.
Bất kỳ ở cương vò công tác nào, mặc dù tuổi cao đồng chí luôn luôn phấn đấu quên mình để hoàn

thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho.
Cuộc đời hoạt động của đồng chí là một tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy, về tinh thần
anh dũng, bất khuất, về đức tính khiêm tốn, giản dò.
Toàn thể đồng chí và đồng bào chúng ta rất tự hào về sự nghiệp và đạo đức cách mạng của đồng
chí. Chúng ta quyết mãi mãi noi gương cao cả của đồng chí để khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành
mọi nhiệm vụ cách mạng.
Thưa các đồng chí và đồng bào.
Vónh biệt Bác Tôn kính mến, chúng ta nguyện quyết tâm phấn đấu tiếp tục thực hiện Di chúc
thiêng liêng của Hồ Chủ tòch, thực hiện những điều mà Bác Tôn thiết tha mong muốn : tăng cường đoàn
kết, ra sức xây dựng thành công chủ nghóa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghóa chống mọi âm mưu và hành động xâm lược của bọn đế quốc và bọn phản động quốc tế; tăng
cường tình hữu nghò anh em, tình đoàn kết chiến đấu và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghóa khác; góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghóa xã hội.
CỤ TÔN ĐỨC THẮNG ĐƯC TẶNG
HUÂN CHƯƠNG LÊ-NIN
Nhân dòp kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng xã hội chủ nghóa Tháng Mười vó đại, Đoàn Chủ tòch Xô
Viết tối cao Liên Xô đã tặng Cụ Tôn Đức Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Phó
Chủ tòch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tòch đoàn Chủ tòch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Hội trưởng Hội Hữu nghò Việt – Xô, Huân chương Lê-nin, Huân chương cao nhất của
Liên Xô, về những hành động cách mạng của Cụ đã góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền
Xô Viết trong thời kỳ nội chiến.
18
Ngày 6-11-1967, tại Hà Nội, trong một buổi lễ trọng thể, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Liên
Xô tại nước ta, đã được ủy nhiệm thay mặt Đoàn Chủ tòch Xô Viết tối cao Liên Xô trao tặng Huân
chương cao quý này cho Cụ Tôn Đức Thắng.
Tiếp nhận Huân chương Lê-nin, Cụ Tôn Đức Thắng phát biểu ý kiến, nêu rõ : “Đây không những
là vinh dự riêng đối với tôi mà còn là vinh dự chung đối với giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam
vãn có tình cảm nồng nàn đối với cách mạng Tháng Mười vó đại và Nhà nước Xô Viết. Việc trao tặng
Huân chương cao quý này là một sự cổ vũ đối với nhân dân Việt Nam quyết tâm đánh thắng hoàn toàn

giặc Mỹ xâm lược. Nhân dân Việt Nam càng ra sức tăng cường tình hữu nghò anh em giữa nhân dân
Việt Nam và nhân dân Liên Xô”.
x
x x
Bác Tôn là một người con ưu tú của dân tộc ta, là một người con yêu quý của miền Nam anh hùng.
Đồng bào miền Nam ta hết sức quý mến Bác Tôn. Cùng với hình ảnh Bác Hồ, hình ảnh Bác Tôn luôn
luôn cổ vũ đồng bào và chiến só miền Nam ta.
Việc Bác Tôn được tặng Huân chương Lê-nin sẽ làm cho quân và dân miền Nam ta càng thêm
phấn khởi, xông lên giành những thắng lợi mới.
Báo Thống Nhất,
số 660 ra ngày 10-11-1967.
ĐOÀN CHỦ TỊCH QUỐC HỘI MÔNG CỔ
TẶNG CHỦ TỊCH TÔN ĐỨC THẮNG
HUÂN CHƯƠNG XU-KHÊ BA-TO
Theo tin từ U-lan Ba-to, nhân dòp kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của Chủ tòch Tôn Đức Thắng,
Đoàn Chủ tòch Quốc hội nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ đã quyết đònh tặng Chủ tòch Tôn Đức
Thắng Huân chương Xu-khê Ba-to, Huân chương cao quý nhất của Mông Cổ, để ghi nhận công lao to
lớn của Chủ tòch đã cống hiến cho sự nghiệp hòa bình, hữu nghò và chủ nghóa xã hội của các dân tộc và
trong việc củng cố tình hữu nghò anh em giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Mông Cổ.
Báo Nhân Dân
số ra ngày 26-8-1978.
MỘT CHIẾN SĨ CÁCH MẠNG CAO QUÝ
Với lòng thành kính và yêu mến nồng nàn, chúng ta chúc mừng đồng chí Chủ tòch Tôn Đức Thắng
hôm nay tròn 90 tuổi.
Một tuổi thọ cao quý của một người chiến só cách mạng, một đồng chí cộng sản cao quý.
Những người cách mạng Việt Nam chúng ta chưa ai có cuộc sống chiến đấu lâu dài như đồng chí
Tôn kính mến. Đồng chí đã hoạt động cách mạng hơn bảy mươi năm ở trong nước và ở nước ngoài, vì
độc lập, tự do và vì chủ nghóa xã hội ở nước ta và trên thế giới. Kể từ khi đồng chí tham gia phong trào
yêu nước và phong trào công nhân đến nay, biết bao thay đổi đã diễn ra trên quả đất này.
Hai cuộc chiến tranh thế giới do bọn đế quốc phát động đã làm suy yếu chúng. Và các lực lượng

mới của lòch sử đã thúc đẩy sự tan rã của chúng. Khi là một thủy thủ trên một hạm đội Pháp, đồng chí
đã chứng kiến thắng lợi vó đại của Cách mạng Tháng Mười Nga và thay mặt nhân dân ta, cũng như Bác
Hồ kính mến lúc ấy đang hoạt động ở nước Pháp, đã kính chào sự ra đời của Nhà nước đầu tiên của giai
cấp công nhân thế giới và góp phần bảo vệ thành trì đầu tiên của cách mạng thế giới.
19
Cùng với Hồ Chủ tòch và một số đồng chí khác, đồng chí đã chọn con đường của Cách mạng
Tháng Mười, giải phóng dân tộc và giai cấp công nhân Việt Nam.
Trở về nước, đồng chí truyền bà chủ nghóa Mác – Lê-nin, hoạt động cách mạng trong công nhân,
thanh niên và là một trong những người sáng lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Nam
bộ.
Những hoạt động sôi nổi và phong phú của đồng chí không tránh khỏi con mắt của bọn mật thám.
Đồng chí đã bò bắt, kết án tù chung thân và bò giam giữ ở Côn Đảo từ năm 1929 đến sau thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám. Từ ngày trở lại hoạt động cách mạng, hơn ba mươi năm nay, đồng chí đã tham
gia Ban chấp hành Trung ương, là người công tác gần gũi của Hồ Chủ tòch, lãnh đạo công việc của
Quốc hội, Mặt trân và Nhà nước, kế tục Bác Hồ làm Chủ tòch nước ta.
Qua cuộc đời hoạt động lâu dài hiếm có, từng trải thử thách, đồng chí Tôn Đức Thắng luôn luôn
nêu cao tấm gương cách mạng kiên cường. Sở mật thám, nhà tù, cuộc sống gian khổ không lay chuyển
được ý chí kiên cường bất khuất. Trên con đường đi tới những thắng lợi vẻ vang ngày nay của cách
mạng nước ta và cách mạng thế giới, nhiều người giữa đường bỏ cuộc, hoặc bò những khuynh hướng cơ
hội chủ nghóa đủ mọi màu sắc, cuốn đi, Bác Tôn của chúng ta đã lần lượt chứng kiến sự ra đi và sụp đổ
của những kẻ giữa đường bỏ cuộc, riêng mình suốt đời chỉ có một ý chí không hề lay chuyển là đi theo
ý chí của Đảng và của Tổ quốc.
Đồng chí là một chiến só yêu nước, chiến só cộng sản kiên cường, trong sáng, một người cách mạng
tiêu biểu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, tiêu biểu ý chí độc lập, thống nhất của nhân dân
cả nước ta.
Những người yêu nước và những người cộng sản chúng ta hãy cố gắng noi theo tấm gương trong
sáng của đồng chí Tôn Đức Thắng. Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đã giành được những thắng
lợi cực kỳ vó đại. Nhưng, mục đích cuối cùng của cách mạng là xây dựng thành công chủ nghóa xã hội
và chủ nghóa cộng sản ở nước ta, góp phần vào thắng lợi chung, sự nghiệp chung, sự nghiệp giải phóng
của các dân tộc và loài người tiến bộ còn lâu dài, đầy gian khổ, thử thách. Đảng ta và dân tộc ta còn

phải tiếp tục làm cách mạng. Bọn đế quốc và các thế lực phản cách mạng không để cho chúng ta yên
ổn, tập trung lực lượng xây dựng sự giàu mạnh và cuộc sống tốt đẹp. Chúng đang cấu kết với nhau ngăn
cản bước tiến của ta, đe dọa sự an toàn của đất nước ta.
Đoàn kết chung quanh Đảng lãnh đạo thân yêu của mình, đoàn kết nhất trí trên cơ sở đường lối
của Đảng, hệ tư tưởng mác-xít – Lê-nin-nít, chúng ta nhất đònh sẵn sàng đối phó với mọi tình thế phức
tạp, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghóa xã hội. Những người cộng sản chúng ta cần luôn luôn
cảnh giác trước những khuynh hướng cơ hội chủ nghóa, khắc phục sự trỗi dậy của chủ nghóa cá nhân
làm cho mình yếu đuối và hoen ố thanh danh của người cộng sản. Chủ nghóa cá nhân là nguồn gốc của
nhiều sai lầm và tội lỗi. Tham lam tiền tài và đòa vò là chủ nghóa cá nhân. Coi ý chí của mình hơn ý chí
của tổ chức là biểu hiện cá nhân chủ nghóa tệ hại hơn nhiều.
Chúng ta luôn luôn có những gương sáng chói lọi để noi theo. Vinh dự lớn nhất của người cộng sản
là suốt đời phấn đấu cho thắng lợi của cách mạng, làm tròn nhiệm vụ của mình, giữ vững lòng thành và
sự trong sáng.
Xã luận Báo Nhân Dân
Ngày 20-8-1978.
KÍNH CHÚC CỤ TÔN ĐỨC THẮNG
MẠNH KHỎE SỐNG LÂU
Lòch sử có những sự trùng hợp thật là kỳ lạ. Giữa lúc, từ miền Nam, tin chiến thắng của cuộc tổng
tiến công long trời lở đất tới tấp bay về thì chúng ta lại có thêm cái vui mừng được chúc thọ tám mươi
20
của Cụ Tôn Đức Thắng, người con ưu tú của Thành đồng Tổ quốc, từ bao nhiêu năm nay đã đóng góp
công sức vào việc xây dựng khối đại đoàn kết vô đòch của toàn dân, vào sự nghiệp cách mạng chung
của cả dân tộc.
Người chiến só cách mạng dân tộc và chiến só cách mạng thế giới lão thành đó là người đầu tiên đã
tham gia đấu tranh cách mạng tháng Mười và, suốt sáu mươi năm nay, đã không ngừng tranh đấu cho
giai cấp, cho dân tộc, cho nhân loại.
Mừng thọ tám mươi tuổi của Cụ, anh chò em trí thức Việt Nam nguyện học tập gương sáng của Cụ
suốt đời hy sinh vì cách mạng, luôn luôn giữ vững khí tiết của một người cộng sản đấu tranh quyết liệt
với quân thù, không một chút khoan nhượng ngay giữa cảnh ngục tù, một lòng vì dân, vì nước.
Mừng thọ tám mươi của Cụ, anh chò em nguyện học tập gương đạo đức cách mạng của Cụ, suốt

đời cần, kiệm, liêm, chính, lúc nào cũng hòa nhã, khiêm tốn, giản dò, đoàn kết các tầng lớp nhân dân,
giúp đỡ cho mọi người đều tiến bộ.
Mừng thọ tám mươi của Cụ, anh chò em trí thức nguyện sát cánh cùng với anh chỉ em công nhân,
nông dân góp sức xây dựng cho Mặt trận dân tộc thống nhất thêm vững vàng, ngày càng phát huy sức
mạnh vô đòch của khối đại đoàn kết toàn dân.
Mừng thọ tám mươi của Cụ, chúng tôi xin chúc Cụ mạnh khỏe, sống lâu để cùng Trung ương
Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tòch lãnh đạo toàn dân hoàn thành sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước thiêng
liêng của dân tộc, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.
Báo Tổ Quốc,
số 8-1968.
PHỤ NỮ VIỆT NAM KÍNH CHÚC BÁC TÔN
MẠNH KHỎE SỐNG LÂU !
Giữa những ngày nhân dân ta tưng bừng kỷ niệm lần thứ 33 Cách mạng Tháng Tám vó đại và hăng
say đẩy mạnh phong trào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghóa, phụ nữ chúng ta cùng với nhân
dân cả nước rất sung sướng chúc mừng Bác Tôn Đức Thắng thọ 90 tuổi.
Bác Tôn sinh ngày 20-8-1888 tại làng Mỹ Hòa Hưng, tỉnh Long Xuyên (nay là tỉnh An Giang).
Lúc Bác ra đời thì thực dân Pháp đã chiếm toàn cõi Việt Nam và nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân ta
chống Pháp nổ ra nhiều nơi trong nước.
Tuổi nhỏ, nhà nghèo, Bác đã phải sớm rời gia đình ra tỉnh ở nhà ngoại đi học. Sau khi tốt nghiệp
trường tiểu học, Bác lên Sài Gòn vào học nghề ở trường Bách Nghệ. Năm 1910, Bác vào làm công
nhân trong một xưởng máy của thực dân Pháp ở Sài Gòn. Bác đã tham gia các phong trào đấu tranh
chống áp bức, đòi tăng lương và tổ chức các hội Ái hữu, Cứu tế để tập họp giai cấp công nhân.
Năm 1912, Bác tổ chức và lãnh đạo cuộc bãi công của học sinh trường Bách Nghệ và của công
nhân xưởng sửa chữa tàu thủy Ba Son. Hai cuộc bãi công đều thắng lợi. Bọn thực dân ra sức khủng bố,
lùng bắt. Bác phải đổi tên, xuống làm thợ máy cho một công ty hàng hải Pháp. Từ đó Bác Tôn bắt đầu
cuộc sống trên mặt biển, xa quê hương, xa Tổ quốc nhưng lòng yêu nước, chí căm thù đế quốc thực dân
của Bác càng thêm nung nấu. Năm 1914, Bác vào hải quân Pháp, làm thợ máy và tham gia các cuộc
vận động chính trò trong hàng ngũ lính thủy Pháp.
Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, bọn đế quốc cấu kết với nhau can thiệp vũ trang
vào nước Nga hòng bóp chết nước Cộng hòa Xô Viết mới thành lập. Đầu năm 1919, Bác Tôn bò điều

động tới một đơn vò hải quân được lệnh tấn công Xê-vát-xtô-pôn, trên bờ Hắc Hải. Binh só và công
nhân trên chiến hạm đã phản chiến. Và chính Bác đã được vinh dự kéo lá cờ đỏ trên một trong những
chiến hạm đó để chào mừng Nhà nước vô sản đầu tiên thế giới. Cuộc binh biến Hắc Hải đã làm thất
21
bại sự can thiệp của đế quốc Pháp vào nước Nga và cổ vũ nhân dân lao động toàn thế giới đứng lên
bảo vệ Cách mạng Tháng Mười, bảo vệ nước Nga Xô Viết.
Sau cuộc binh biến, Bác Tôn phải ra khỏi hải quân. Bác vào làm thợ máy cho hãng xe hơi Rơ-nôn,
gia nhập Tổng Công hội Pháp và tiếp tục đấu tranh trong hàng ngũ công nhân.
Năm 1920, Bác trở về Sài Gòn và cùng vài bạn công nhân mở xưởng sửa chữa xe hơi để giúp công
ăn việc làm cho những công nhân thất nghiệp. Bác tập hợp nhiều công nhân và tổ chức được nhiều cơ
sở công hội bí mật tại Sài Gòn – Chợ Lớn nhằm mục đích đấu tranh chống sự áp bức, bóc lột của bọn tư
bản, bênh vực quyền lợi công nhân và giúp đỡ lẫn nhau. Các cơ sở công hội ấy tiếp thu chủ nghóa Mác
– Lê-nin qua các sách báo của Hồ Chủ tòch và các tài liệu do Đảng Cộng sản Pháp và Tổng Công hội
Pháp gửi về, đã lãnh đạo phong trào bãi công của thủy thủ và công nhân Nam bộ. Tiêu biểu nhất là
cuộc bãi công của công nhân xưởng Ba Son, tháng 8-1925, nhằm làm chậm trễ việc sửa chữa chiến
hạm Giuyn Mi-sơ-lê đế quốc Pháp đònh đưa sang đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Trung
Quốc.
Năm 1926, Bác Tôn là một trong những người đầu tiên tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí
Hội – tổ chức tiền thân của Đảng ta. Năm sau, Bác được cử vào Kỳ bộ Nam kỳ. Nhờ sự hoạt động tích
cực của Bác, phong trào công nhân và Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội phát triển mạnh mẽ.
Cuối năm 1929, giữa lúc phong trào công nhân đang lên cao thì Bác Tôn bò đế quốc Pháp bắt giam
và kết án 20 năm khổ sai, đày ra Côn Đảo. 17 năm sống trong nhà tù đế quốc, khi thì Bác bò nhốt vào
hầm xay lúa, khi thì bò nhốt vào trong hầm tối, tay chân bò xiềng xích, cùm kẹp, khi thì bọn đế quốc cho
Bác ăn lúa sống hoặc bò đói khát... Bác Tôn vẫn luôn luôn nêu cao khí tiết cách mạng, bất khuất, kiên
cường. Bác cùng một số đồng chí khác bền bỉ đấu tranh chống đàn áp, khủng bố, đòi cải thiện chế độ
nhà tù, đồng thời xây dựng cơ sở Đảng, bắt liên lạc với đất liền, tổ chức học tập, giáo dục quần chúng,
lãnh đạo mọi hoạt động trong nhà tù.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác được chính quyền cách mạng đón về. Bác vừa đặt chân
lên đất liền thì thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Bác về đầu đã bạc, sức đã yếu, trên
người còn mang bao nhiêu gian khổ của 17 năm tù đày hà khắc, nay lại lập tức lao vào cuộc kháng

chiến thần thánh của dân tộc, không phút nghỉ ngơi, không kòp hàn huyên cùng gia đình mà Bác rất yêu
mến và mong gặp lại.
Từ giữa năm 1946, Bác luôn luôn ở cạnh Hồ Chủ tòch, Trung ương Đảng và đã nhận nhiều nhiệm
vụ quan trọng. Mặc dù tuổi cao, Bác đã làm trọn tất cả nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho một
cách xuất sắc. Năm 1958, nhân dòp Bác Tôn 70 tuổi, thay mặt nhân dân và Chính phủ, Hồ Chủ tòch đã
trao tặng Bác Tôn Huân chương Sao Vàng là Huân chương cao nhất của nước ta. Hồ Chủ tòch đã nêu
rõ : “Đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và người rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy”.
Bác Tôn còn là một chiến só xuất sắc của phong trào hòa bình thế giới. Bác là Chủ tòch danh dự
Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam. Năm 1955, Bác Tôn được Đại hội hòa bình thế giới
Hen-xanh-ki cử làm Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới. Năm 1958, Bác lại được Đại hội hòa bình
Xtốc-khôm cử giữ chức ấy. Tháng 12-1955, Bác được tặng giải thưởng Lê-nin “Vì hòa bình và hữu nghò
giữa các dân tộc”. Năm 1967, nhân dòp kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng Tháng Mười, Đoàn Chủ tòch Xô
Viết tối cao Liên Xô tặng Bác Tôn Huân chương Lê-nin, Huân chương cao nhất của Liên Xô về những
hoạt động cách mạng của Bác đã góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền Xô Viết trong thời
kỳ nội chiến.
Cuộc đời hoạt động của Bác Tôn là một tấm gương sáng về tinh thần chiến đấu cách mạng không
ngừng, về chí khí đấu tranh luôn kiên đònh, vững vàng và đạo đức cách mạng cao cả, trong ánh sáng
của người chiến só cộng sản. Bác đã đấu tranh không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì chủ
nghóa xã hội và chủ nghóa cộng sản ở nước ta và trên thế giới. Bác Tôn là người giàu sang không thể
quyến rũ, nghèo nàn không thể lay chuyển, uy vũ không thể khuất phục. Hồ Chủ tòch đã nói : “Đồng
chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng : suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, suốt đời
22
hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Trong bài nói của đồng chí Lê Duẩn với cán
bộ, bộ đội và đại biểu nhân dân Côn Đảo có đoạn “... Bác Tôn bò tù ở Côn Đảo 17 năm, nhưng lúc nào
cũng lạc quan, yêu đời. Đó là một chiến só cách mạng không bao giờ và không gì lay chuyển được, một
con người hết sức nhiệt thành, trung thực, quên mình, nay đã 88 tuổi rồi mà luôn luôn nhẹ nhàng, thanh
thản” (27-8-1976). Bác Tôn sống rất giản dò, khiêm tốn, không bao giờ nói với ai về công lao, thành
tích của mình. Việc Bác tham gia cuộc binh biến Hắc Hải, chống sự can thiệp vũ trang của bọn đế quốc
bảo vệ nước Cộng hòa Xã hội Xô Viết trẻ tuổi, là một hành động cách mạng làm nổi bật chủ nghóa
quốc tế vô sản cao cả của giai cấp công nhân Việt Nam. Vậy mà kể lại sự việc này, Bác viết : “Tôi tin

rằng bất cứ người Việt Nam yêu nước nào, nhất là công nhân, có mặt trong những giờ phút lòch sử ở
Hắc Hải cũng không thể có hành động nào khác tôi, bởi vì yêu Tổ quốc và căm thù đế quốc, cũng có
nghóa là yêu Cách mạng Tháng Mười và căm thù những kẻ chống Cách mạng Tháng Mười”.
Bác yêu Tổ quốc, Bác thương yêu đồng bào. Suốt đời Bác phấn đấu cho lý tưởng của giai cấp
công nhân, suốt đời tận tụy vì dân, quên mình vì nước. Phụ nữ cả nước ta vô cùng cảm động và biết ơn
Bác Tôn đã suốt đời chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng phụ nữ, Bác luôn luôn
quan tâm chăm sóc đến sự tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc của phụ nữ, đến tương lai của các cháu thiếu
niên, nhi đồng. Những lời chúc tết của Bác mỗi độ Xuân sang, những lời thăm hỏi, cổ vũ, động viên
của Bác tới từng gia đình thương binh, liệt só nhân ngày 27/7, những lẳng hoa Bác tặng cho những đơn
vò hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và những cờ luân lưu của Bác, những bức thư gửi các cháu thiếu niên,
nhi đồng nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6, nhân dòp tết Trung thu hàng năm... đã in sâu trong tâm trí
mỗi người phụ nữ Việt Nam, mỗi cháu thiếu niên, nhi đồng Việt Nam. Trong những năm kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, Bác Tôn luôn dành tình cảm đặc biệt cho đồng bào
miền Nam ruột thòt : “Nhớ miền Nam ruột thòt, tôi muốn nêu cao thành tích vẻ vang của đồng bào,
những người đang ghi thêm những trang sử anh hùng của dân tộc ta. Tôi muốn ôm hôn các chiến só và
đồng bào. Tôi muốn gửi gắm nhiều nhiều nữa, hiến dâng cả trái tim cho miền Nam gian khổ và anh
dũng”.
Hình ảnh Bác Tôn luôn bên cạnh Hồ Chủ tòch kính mến ngày đêm chăm lo việc nước, việc dân là
nguồn động viên mạnh mẽ đồng bào và phụ nữ cả nước trước đây. Hôm nay và sau này, hình ảnh
thiêng liêng, cao quý ấy mãi khắc sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam, mỗi phụ nữ Việt Nam,
mỗi cháu thiếu niên, nhi đồng Việt Nam.
Nhân dòp Bác Tôn Đức Thắng 90 tuổi, phụ nữ cả nước xin kính chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu và
xin nguyện học tập tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời của Bác, quyết tâm hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
P.N.V.N.
Báo Phụ Nữ Việt Nam
Số 592.
TRONG ĐẸP VÔ CÙNG
Trong đẹp vô cùng !
Đó là lời của đồng chí Lê Duẩn nói về Bác Tôn, về đạo đức, cốt cách của vò Chủ tòch nước kính

yêu ? người công dân tiêu biểu, người cộng sản bất khuất xiết bao thân thiết đối với chúng ta.
Hôm ấy, một buổi sáng giữa tháng 8-1976, anh Ba rất hứng khởi trong chuyến đi thăm lại Côn
Đảo. Đồng chí Chủ tòch, Bí thư Đảng ủy của đảo đón tiếp anh Ba và các đồng chí cùng đi. Anh Ba yêu
cầu đi thăm ngay các trại giam, nơi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng giam cầm, đày
ải hàng vạn chiến só cách mạng. Đến trại giam, anh Ba trở nên người hướng dẫn, người thuyết minh,
người giới thiệu. Mỗi lời nói của anh Ba ở đây, khi đi dọc dãy nhà giam, khi đi thăm nghóa đòa Hàng
Dương, khi đến cầu tàu Côn Đảo cũng như trong buổi ra thăm đảo Hòn Tre...
23
súc tích, phong phú, sống động, đầy những kỷ niệm cụ thể gắn liền với một phần lòch sử của Đảng ta.
Đó là những bài học về nhân sinh quan Cộng sản chủ nghóa có sức lôi cuốn và thấm sâu đặc biệt.
Anh Ba dừng khá lâu ở trước cây bàng cổ thụ phía trước nhà tên chúa đảo nay là nhà tiếp khách,
anh kể : Đây là nơi Bác Tôn thường đứng để xay lúa khổ sai. Cực nhọc lắm, phải xay lúa mỗi ngày
hàng chục giờ đồng hồ, mà lúc ấy Bác Tôn đã hơn năm mươi tuổi, về sau thì gần 60 tuổi rồi. Bác chỉ
mặc chiếc quần đùi xà lỏn, làm cực lắm. Nơi kia là chỗ Bác Tôn và tôi thường đập dừa rồi bện thừng.
Hàng đống dừa cao phải đập mỗi ngày, cực nhọc vô cùng. Ăn chỉ có bát cớm nấu bằng gạo mủn, rất hôi
với ít cá khô đã thối! Vậy mà Bác Tôn luôn lạc quan, giữ lòng tin tưởng, sống với anh em luôn chân
tình, rất ấm áp.
Đến lúc nói chuyện với cán bộ, đảng viên đại diện các đơn vò bộ đội, công an vũ trang và nhân
dân trên đảo, Anh Ba lại nhắc đến Bác Tôn. Giọng anh rất xúc động. Anh Ba nói : Bác Tôn là người
chiến só cộng sản cao tuổi. Tuổi già vậy mà Bác Tôn luôn luôn trẻ. Đối với quân thù thì bất khuất, đối
với anh em mình thì thương yêu vô cùng, có cọng rau, có cái kẹo cũng chia sẻ cho nhau. Nay Bác làm
Chủ tòch nước, vậy mà tình nghóa Bác với anh em cùng ở tù hồi trước vẫn như xưa.
Anh Ba nhấn mạnh : “Không khác trước chút nào hết ! Đến nay khi gặp nhau nói chuyện, Bác vẫn
yêu cầu chúng tôi phải xưng hô với Bác như khi ở trong tù vậy. Xưng hô khác đi là Bác không chòu
đâu ! Đó, Bác Tôn như vậy đó. Trong đẹp vô cùng ! Ấm áp lắm kia !”.
Chúng tôi hiểu, anh Ba muốn nhân dòp này, nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn giữ tấm lòng trong
sáng đối với đồng chí, giữ trọn vẹn lòng yêu nhau còn hơn cả ruột thòt.
Anh Ba chỉ nền xi măng gồ ghề trong buồng giam số 21 và nói: “Đây là chỗ anh Tô (đồng chí
Phạm Văn Đồng) và tôi thường nằm. Người gầy chỉ có xương với da, nằm trên nền xi măng này đau
lắm ! Gần trăm con người ở trong buồng này. Chỉ có cửa nhỏ ở phía kia. Ngạt thở vô cùng. Anh em

thường nhường nhau ra đứng đây để thở cho đỡ ngạt”. Đó, trong gian khổ, tình thương yêu cộng sản chủ
nghóa là như thế.
Anh Ba kể rằng mỗi lần ra sân nhận phần cơm hẩm là bọn cai tù đứng hai bên cửa lại giáng roi,
gậy xuống lưng người tù. Anh em ta tổ chức ào ra cùng một lúc và để những đồng chí ốm yếu đi giữa
để các anh em khỏe đứng phía ngoài chòu đòn. Anh Ba và anh Tô thường được anh em bảo vệ như vậy.
Anh Ba rất hứng thú kể đến cọng rau cải. Có một lần anh Trần Quỳnh lẻn ra hái được một đọt rau,
đưa vào cho anh Ba. Nhường nhau mãi anh Ba nhấp một tý cái đọt rau. “Ngon ngọt vô cùng ! Con người
mình lâu không có chất tươi, chỉ nhấm một tý mà thấy khoan khoái kỳ lạ ! Thế là chia nhau”.
Đó, tình yêu thương đồng chí như vậy đó. Anh Ba kết luận hôm ấy : “Ở trong tù thương yêu nhau,
ngọt bùi chia sẻ nhau, gian khổ càng gắn bó trong tình thương. Sau này cũng thế. Mãi mãi như thế.
Không bao giờ có thể khác được ! Vậy mà ở nơi khác, không phải như thế đâu !”.
Nghe anh Ba nói đến đây chúng ta càng hiểu. Trong Đảng ta không thể có chuyện đồng chí với
nhau, vốn gắn bó là thế lại có thể đối xử xấu, tàn tệ với nhau, không thể có chuyện sớm nắng, chiều
mưa.
Trong đẹp vô cùng ! Đó là bản chất của giai cấp công nhân. Bác Tôn kính yêu là một tấm gương
đẹp. Cả Đảng ta là một tấm gương trong sáng.
Đó cũng là một nguồn sức mạnh vô đòch của chúng ta, với sức mạnh tinh thần cao đẹp ấy không
một kẻ thù nào dù độc ác đến đâu có thể chiến thắng nổi.
8-1978
THÀNH TÍN
Báo Quân Đội Nhân Dân
Số ra ngày 19-8-1978.
HỌC TẬP TẤM GƯƠNG SÁNG NGỜI
24
CỦA BÁC TÔN ĐỨC THẮNG
Tháng Tám năm nay, tuổi trẻ Việt Nam ta cùng với đồng bào cả nước sung sướng chúc mừng Chủ
tòch Tôn Đức Thắng kính yêu thọ 90 tuổi. Cuộc đời hơn 60 năm hoạt động đầy gian khổ và vinh quang
của Bác Tôn đã nêu cho thế hệ trẻ chúng ta một tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước thiết tha, tinh
thần đấu tranh không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì lý tưởng của chủ nghóa xã hội, chủ
nghóa cộng sản trên toàn thế giới. Là người đồng chí, bạn chiến đấu gần gũi của Bác Hồ, Bác Tôn là

người có đạo đức cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, hết lòng hết sức phục vụ
cách mạng, phục vụ nhân dân.
Quê Bác Tôn ở xã Mỹ Hòa Hưng, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc tỉnh An Giang). Lúc Bác ra đời,
thực dân Pháp đã đặt ách thống trò lên toàn cõi Việt Nam, và những cuộc nổi dậy của nhân dân ta
chống thực dân Pháp nổ ra ở nhiều nơi trong nước. Tỉnh Long Xuyên là một trong số những vùng ở
Nam bộ có ngọn lửa căm thù mãnh liệt chống lại bọn cướp nước và lũ bán nước.
Vì nhà nghèo, anh thanh niên Tôn Đức Thắng phải sớm rời gia đình đi tìm kế sinh sống ở thành
phố, vừa làm thuê vừa đi học. Sau khi tốt nghiệp trường tiểu học, anh lên Sài Gòn học nghề ở trường
Bách Nghệ. Năm 22 tuổi, anh vào làm công nhân trong một xưởng máy của thực dân Pháp ở Sài Gòn.
Tại đây, anh tích cực tham gia các cuộc đấu tranh của công nhân chống áp bức, bóc lột, đòi tăng lương
và tổ chức các hội Ái hữu, Cứu tế để tập hợp lực lượng của giai cấp công nhân. Năm 1912, anh đứng ra
tổ chức và lãnh đạo những cuộc bãi công đầu tiên của học sinh trường Bách Nghệ và công nhân xưởng
sửa chữa tàu thủy Ba Son. Bò bọn thực dân lùng bắt, anh phải trốn sang Pháp làm cho một công ty hàng
hải. Năm 26 tuổi (1914) anh vào hải quân Pháp, tham gia các cuộc vận động chính trò trong hàng ngũ
lính thủy Pháp. Đầu năm 1919, anh tham gia binh biến chống cuộc can thiệp của đế quốc Pháp vào
nước Nga Xô Viết trẻ tuổi. Chính người thủy thủ Tôn Đức Thắng đã hồ hởi kéo cờ đỏ cách mạng trên
chiến hạm Pháp để chào mừng Nhà nước vô sản đầu tiên.
Ở Bác Tôn, lòng yêu nước thiết tha gắn liền với tinh thần quốc tế vô sản. Hành động cao đẹp của
Bác Tôn tham gia cuộc binh biến Hắc Hải càng làm nổi bật chủ nghóa quốc tế vô sản trong sáng của
giai cấp công nhân Việt Nam ngay từ những năm đầu của thế kỷ này.
Sau sự kiện 1919, Bác Tôn làm thợ máy cho hãng xe hơi Rơ-nôn, gia nhập Tổng Công hội Pháp và
tiếp tục đứng trong hàng ngũ công nhân, tích cực tham gia xây dựng phong trào yêu nước của Việt kiều
tại Pháp. Phong trào này do Hồ Chủ tòch lãnh đạo.
Năm 1920, Bác Tôn về Sài Gòn, và cùng một vài người bạn công nhân mở xưởng sửa chữa ô tô để
giúp công việc làm ăn cho những người thợ chưa có việc làm, tạo cơ hội gây dựng nhiều cơ sở Công hội
bí mật tại Sài Gòn – Chợ Lớn. Thông qua các sách báo của Bác Hồ và các tài liệu cách mạng khác từ
bên Pháp bằng nhiều con đường gửi sang, các cơ sở Công hội này bước đầu tiếp thu được ánh sáng của
chủ nghóa Mác – Lê-nin, tổ chức nhiều cuộc đấu tranh của công nhân. Đáng chú ý là cuộc bãi công của
công nhân Ba Son tháng 8-1925, nhằm làm chậm trễ việc sửa chữa chiến hạm Giuyn Mi-sơ-lê mà đế
quốc Pháp đònh đưa sang đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân Trung Quốc.

Năm 1926, Bác Tôn là một trong những người đầu tiên ở Nam bộ gia nhập “Việt Nam Thanh niên
Cách mạng đồng chí Hội” do lãnh tu Nguyễn Ái Quốc tổ chức, và tích cực gây cơ sở cho tổ chức này ở
vùng Sài Gòn – Chợ Lớn. Do những hoạt động cách mạng sôi nổi, cuối năm 1929, Bác Tôn bò đế quốc
bắt giam và tra tấn dã man tại Khám Lớn Sài Gòn. Chúng kết án 20 năm tù khổ sai và đày Bác Tôn ra
Côn Đảo. Cái số tù 5289 đeo đẳng theo Bác suốt gần 17 năm sống ở đòa ngục trần gian này. Bác Tôn
đã phải chòu đủ mọi cực hình, đối xử vô cùng hà khắc của lũ chúa ngục; đốn củi trên rừng rậm, lấy san
hô ngoài biển khơi, hì hục xay lúa trong hầm đá tối tăm... Tại đây, Bác Tôn đã cùng với nhiều đồng chí
khác kiên trì đấu tranh, giữ vững khí tiết của người cộng sản trước kẻ thù, “biến nhà tù thành trường
học cách mạng”.
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×