Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá độ tin cậy cho lưới điện phân phối áp dụng phân tích và nâng cao độ tin cậy cho lưới điện phân phối thực tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
--------------------------------------

Lê Việt Anh

NGHIÊN CỨU CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ ĐỘ TIN CẬY CHO
LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI. ÁP DỤNG PHÂN TÍCH VÀ NÂNG
CAO ĐỘ TIN CẬY CHO LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI
THỰC TẾ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ HỆ THỐNG ĐIỆN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÃ MINH KHÁNH

Hà Nội – 2014


1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Bản luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu thực
sự của cá nhân, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, kiến thức kinh điển,
áp dụng vào thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lã Minh Khánh.
Những số liệu được sử dụng được chỉ rõ nguồn trích dẫn trong danh mục tài
liệu tham khảo. Kết quả nghiên cứu này chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào từ trước đến nay.
Hà Nội, ngày

tháng



Tác giả luận văn

Lê Việt Anh.

năm 2014


2

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan

1

Mục lục

2

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt

4

Danh mục các bảng

5

Danh mục các hình vẽ, đồ thị


6

MỞ ĐẦU

7

CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ĐỘ TIN CẬY VÀ YÊU
CẦU BẢO ĐẢM CHỈ TIÊU ĐỘ TIN CẬY CHO LƯỚI ĐIỆN PHÂN
PHỐI.

10

1.1 Khái niệm về độ tin cậy.
10
1.2 Các nguyên nhân gây mất điện.

11

1.3 Sự tác động của độ tin cậy đến việc xây dựng cấu trúc lưới.
12

1.4 Đảm bảo độ tin cậy trong bài toán kinh tế.
1.5 Những biện pháp nâng cao độ tin cậy cung cấp điện.
1.6. Kết luận chương 1

14
15
19

CHƯƠNG 2. CÁC CHỈ TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ ĐỘ

TIN CẬY CHO LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI.

20

2.1 Giới thiệu chung về chỉ tiêu độ tin cậy.

20

2.2 Các chỉ tiêu đánh giá độ tin cậy của hệ thống điện và lưới phân phối
điện.

22


3

2.3 Phương pháp đánh giá độ tin cậy cho lưới điện phân phối.
32
2.4 Các phương pháp đánh giá độ tin cậy cho lưới phân phối.
36
2.5 Kết luận chương 2.
39
CHƯƠNG 3. TÍNH TOÁN PHÂN TÍCH CÁC CHỈ TIÊU ĐỘ TIN
CẬY CHO XUẤT TUYẾN LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI 22KV CỦA
THÀNH PHỐ THANH HÓA
3.1 Mô tả lưới điện.

41
41


3.2 Các phương án nâng cao độ tin cậy.
42
3.3 Xây dựng chương trình đánh giá độ tin cậy trên máy tính.

54

3.4 Kết luận chương 3.

69

KẾT LUẬN CHUNG

70

TÀI LIỆU THAM KHẢO

72


4

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Viết tắt

Giải thích
Hệ thống điều khiển giám sát và thu thập dữ liệu từ xa

1


SCADA

2

IEEE

Viện kỹ nghệ Điện và Điện tử

3

SAIDI

Thời gian mất điện trung bình của lưới phân phối

4

SAIFI

Tần suất hay số lần mất điện trung bình của hệ thống

5

CAIDI

Thời gian mất điện trung bình của khách hàng

6

CAIFI


Tần suất (số lần) mất điện trung bình của khách hàng

7

MAIFI

Chỉ tiêu tần suất mất điện thoáng qua trung bình

8

ASAI

Chỉ tiêu khả năng sẵn sàng phục vụ trung bình

9

LOLP

Xác suất thiếu điện cho phụ tải

10

LOLE

Kỳ vọng mất điện trung bình năm trong hệ thống điện


5


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1

Số liệu các nút và nhánh của sơ đồ cấu trúc ngược

Bảng 3.2

Các số liệu sơ đồ đẳng trị phương án 1

Bảng 3.3

Các số liệu sơ đồ đẳng trị phương án 2

Bảng 3.4

Các số liệu sơ đồ đẳng trị phương án 3


6

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ
Hình 2.1

Lưới phân phối hình tia

Hình 3.1

Sơ đồ một sợi phương án 1

Hình 3.2


Sơ đồ cấu trúc ngược đẳng trị phương án 1

Hình 3.3

Sơ đồ một sợi phương án 2

Hình 3.4

Sơ đồ đánh số thứ tự ngược phương án 2

Hình 3.5

Sơ đồ một sợi phương án 3

Hình 3.6

Sơ đồ thứ tự ngược đẳng trị phương án 3

Hình 3.7

Ví dụ về lưới phân phối cấu trúc ngược

Hình 3.8

Ví dụ về đẳng trị lưới phân phối

Hình 3.9

Thuật toán tìm ma trận đường nối


Hình 3.10

Kết quả tính toán độ tin cậy phương án 1

Hình 3.11

Kết quả tính toán độ tin cậy phương án 2

Hình 3.12

Kết quả tính toán độ tin cậy phương án 3


7

MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Sự phát triển nhanh chóng của mạng lưới điện Việt Nam hiện nay cả về quy mô
công suất cũng như phạm vi cung cấp điện nên đòi hỏi phải nâng cao chất lượng điện
năng cũng như đảm bảo độ tin cậy trong việc vận hành. Tuy nhiên việc tính toán và
đánh giá độ tin cậy chưa được quan tâm đúng mức đặc biệt là trong bài toán quy hoạch
và phát triển lưới điện. Các bài toán quy hoạch và phát triển lưới điện hiện nay mới chỉ
đề cập đến đánh giá tổn thất điện áp, đánh giá tổn thất công suất mà chưa đánh giá tới
mức độ mất điện trong lưới phân phối. Hiện nay bộ công thương đã đưa ra thông tư 32
nhưng thông tư này chỉ có ý nghĩa trong vận hành còn không có ý nghĩa lắm trong việc
quy hoạch phát triển lưới điện.
Các nghiên cứu hiện nay chưa xét tới bài toán quy hoạch phát triển lưới điện
tương lai để đánh giá nó và xem xét việc xây dựng bài toán quy hoạch phát triển lưới
điện tương lai như thế nào. Đó là lý do chọn đề tài cho nên luận văn dự kiến sẽ nghiên

cứu về các chỉ tiêu, các yêu cầu và phương pháp đánh giá độ tin cậy cho lưới điện phân
phối, và dùng để ứng dụng cho bài toán quy hoạch phát triển lưới điện.
Mục đích nghiên cứu của luận văn.
Luận văn dự kiến áp dụng mô phỏng tính toán cho một xuất tuyến lưới phân phối
thực tế ở Việt Nam để phân tích và nâng cao độ tin cậy cho lưới điện, cụ thể các mục
đích của luận văn bao gồm:
- Tìm hiểu yêu cầu nâng cao độ tin cậy cho lưới điện phân phối và mối quan hệ
giữa độ tin cậy với tổn thất kinh tế, từ đó đánh giá chi phí cho độ tin cậy cho một
phương án lưới điện phân phối.
- Nghiên cứu các phương pháp và chỉ tiêu đánh giá độ tin cậy cho lưới điện phân
phối, lựa chọn chỉ tiêu thích hợp cho bài toán quy hoạch phát triển lưới điện.


8

- Thu thập số liệu và tính toán mô phỏng cho lưới điện thực tế (cụ thể là xuất
tuyến 22kV 471E9.9 Điện lực thành phố Thanh Hóa).
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu trong luận văn là các chỉ chỉ tiêu áp dụng cho nghiên cứu độ
tin cậy của lưới điện phân phối tại Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu là lưới phân phối cụ thể đã được lựa chọn từ bài toán quy
hoạch phát triển lưới điện phân phối và áp dụng các phương án nâng cao chỉ tiêu độ tin
cậy phù hợp.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
Xác định được độ tin cậy cho lưới phân phối sẽ đánh giá được chất lượng lưới
phân phối về mặt liên tục cung cấp điện cho các phụ tải. Tuy nhiên việc thống kê dữ
liệu về lưới phân phối phục vụ cho tính toán độ tin cậy gặp không ít khó khăn, do đó
trong các bài toán quy hoạch thiết kế hay vận hành thường không xét đến chỉ tiêu độ
tin cậy, phương án được lựa chọn có thể không đảm bảo tối ưu về mặt độ tin cậy cũng
như tổn thất kinh tế gây ra do mất điện.

Luận văn dự kiến tìm hiểu các chỉ tiêu đánh giá độ tin cậy cung cấp điện cho lưới
điện phân phối thực tế tại Việt Nam. Trên cơ sở chỉ tiêu phù hợp, luận văn dự kiến áp
dụng đánh giá độ tin cậy cho lưới điện phân phối thực tế. Từ đó tính toán hiệu quả áp
dụng các biện pháp nâng cao độ tin cậy cho lưới điện,
Nội dung nghiên cứu
Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu trên, các nội dung sau đã được thực hiện
trong luận văn:
- Tìm hiểu các khái niệm về độ tin cậy nói chung và độ tin cậy của lưới phân phối
nói riêng, các yêu cầu về đánh giá độ tin cậy lưới phân phối.


9

- Nghiên cứu phương pháp và các chỉ tiêu đánh giá độ tin cậy cho lưới điện phân
phối.
- Áp dụng và phân tích độ tin cậy cho 1 lưới điện phân phối thực tế, quy trình tính
toán, kết quả.
- Các biện pháp nâng cao độ tin cậy cho lưới điện phân phối Việt Nam, tính toán
chi phí và so sánh.
Trên cơ sở trên nội dung nghiên cứu tính toán trong bản thuyết minh được chia
thành các phần như sau:
- Phần Mở đầu
- Chương 1. Khái niệm chung về độ tin cậy và yêu cầu bảo đảm chỉ tiêu độ tin cậy
cho lưới điện phân phối.
- Chương 2. Các chỉ tiêu và phương pháp đánh giá độ tin cậy cho lưới điện phân
phối.
- Chương 3. Tính toán phân tích các chỉ tiêu độ tin cậy cho xuất tuyến lưới

điện phân phối 22kV 471E9.9 của thành phố Thanh Hóa,
- Kết luận chung.



10

CHƯƠNG I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ĐỘ TIN CẬY VÀ
YÊU CẦU BẢO ĐẢM CHỈ TIÊU ĐỘ TIN CẬY CHO LƯỚI
ĐIỆN PHÂN PHỐI.
1.1 Khái niệm về độ tin cậy.
Để hiểu về độ tin cậy trong hệ thống điện trước tiên ta tìm hiểu về định nghĩa
về độ tin cậy. Về cơ bản độ tin cậy chính là xác suất để hệ thống hoàn thành triệt để
nhiệm vụ yêu cầu trong khoảng thời gian nhất định và trong điều kiện vận hành nhất
định (theo [1]).
Có nghĩa là độ tin cậy luôn gắn với việc hoàn thành một nhiệm vụ cụ thể,
trong khoảng thời gian nhất định và trong hoàn cảnh nhất định. Như vậy mức độ độ
tin cậy là xác suất hoàn thành nhiệm vụ trong khoảng thời gian xác định. Xác suất
này được gọi là độ tin cậy của hệ thống.
Xác suất là đại lượng thống kê, không có giá trị chính xác vì vậy đặc điểm của
độ tin cậy cũng có tính thống kê từ kinh nghiệm làm việc trong quá khứ của hệ
thống. Đấy là ta nói riêng với hệ thống không phục hồi.
Còn đối với độ tin cậy trong hệ thống điện thì hơi khác biệt hơn chút ít bởi vì
hệ thống điện là hệ thống có tính chất phục hồi cho nên khái niệm khoảng thời gian
xác định không có ý nghĩa bắt buộc, bởi do tính chất của hệ thống điện làm việc liên
tục.
Do đó độ tin cậy trong hệ thống điện sẽ dùng một đại lượng khác để đo thích
hợp hơn ta gọi đó là độ sẵn sàng. Độ sẵn sàng trong hệ thống điện (hay độ tin cậy
trong hệ thống điện) là xác suất để hệ thống hoàn thành hoặc sẵn sàng hoàn thành
nhiệm vụ không phải trong thời gian nhất định nữa mà là trong thời điểm bất
kỳ(theo[1]).
Như vậy đặc điểm của độ sẵn sàng cũng là xác suất để hệ thống ở trạng thái tốt
trong thời điểm bất kỳ và được tính bằng tỷ số giữa thời gian hệ thống ở trạng thái



11

tốt với tổng thời gian hoạt động. (Ngược lại với độ sẵn sàng là độ không sẵn sàng,
đó là xác suất để hệ thống ở trạng thái hỏng).
Đối với hệ thống điện, độ sẵn sàng (cũng được gọi chung là độ tin cậy) hoặc
độ không sẵn sàng chưa đủ để đánh giá độ tin cậy trong các bài toán cụ thể, do đó
phải sử dụng thêm nhiều chỉ tiêu khác cũng có tính xác suất.
1.2 Các nguyên nhân gây mất điện.
Ở đây, khái niệm mất điện được hiểu là việc mất cung cấp điện ngắn hạn hoặc
dài hạn trong một khu vực.
Có nhiều nguyên nhân gây ra sự cố mất điện trong mạng lưới điện như hỏng
tại các trạm biến điện, hỏng các đường truyền tải hoặc hỏng các bộ phận khác nhau
của mạng lưới phân phối điện, đoản mạch, hoặc đường điện chính bị quá tải.
Mất điện đặc biệt nghiêm trọng ở những nơi cần độ an toàn công cộng và môi
trường cao như bệnh viện, nhà máy xử lý nước thải, hầm mỏ, và những nơi này
thướng có các nguồn điện dự trữ như máy phát điện tự động tức là khi nguồn điện
chính bị mất máy sẽ tự động chạy. Các hệ thống nguy hiểm khác như viễn thông,
cũng cần nguồn điện dự phòng.
Hệ thống điện là một hệ thống phức tạp, gồm nhiều phần tử, các phần tử liên
kết với nhau theo những sơ đồ phức tạp thường nằm trên địa bàn rộng của một quốc
gia hay vùng lãnh thổ. Khi các phần tử của hệ thống hư hỏng có thể dẫn đến ngừng
cung cấp điện cho khách hàng cho từng vùng hoặc toàn hệ thống. Có 1 số nguyên
nhân gấy mất điện như các nguyên nhân do thời tiết: lũ lụt, mưa bão, lốc xoáy,
giông sét, sóng thần…Các nguyên nhân từ hoạt động của hệ thống như: do trạng
thái của hệ thống; khả năng làm việc ổn định của hệ thống; điện áp cao/thấp; tần số
cao/thấp; quá tải đường dây, máy biến áp;tải không cân bằng. Do nhân viên vận
hành, do nhân viên điều độ hệ thống điện;lỗi do bảo trì. Do hư hỏng các thành phần
của hệ thống điện như phần điện và phần máy:hỏng hệ thống cung cấp nhiên liệu,

hỏng phần động lực (phát động), hỏng máy biến áp; hỏng thiết bị đóng cắt; hỏng
phần dẫn điện; hỏng chất cách điện của đường dây tải điện, trạm biến áp, chống sét


12

van, hỏng cáp điện lực; hỏng thiết bị điều khiển điện áp: thiết bị điều chỉnh điện áp
của các máy phát điện, thiết bị điều khiển tụ bù…; hỏng bảo vệ và điều khiển như:
hỏng rơle, hỏng đường truyền tín hiệu, hỏng mạch điều khiển.
Theo thống kê khoảng 50% sự cố được khôi phục trong khoảng thời gian 60
phút. Khoảng 90% sự cố lớn được khôi phục trong khoảng 7 giờ.
Kinh nghiệm cho thấy rằng, hầu hết các sự cố của lưới phân phối bắt nguồn từ
yếu tố thiên nhiên như: sét, bão, mưa, lũ lụt, động vật… Những sự mất điện khác có
thể quy cho khiếm khuyết của thiết bị, vật liệu và hành động của con người như: xe
ôtô đâm phải cột, phương tiện chạm vào dây dẫn, cây đổ, phá hoại, máy đào phải
cáp ngầm. Một số sự cố nguy hiểm và lan rộng trong hệ thống phân phối do bão, lũ
lụt. Trong trường hợp đó sự phục hồi cấp điện bị ngăn cản bởi những nguy hiểm, và
hầu hết các đơn vị điện lực không có đủ người, phương tiện, máy móc thiết bị để
phục hồi nhanh lưới điện trên một vùng địa lý rộng lớn và phức tạp.
Nhìn chung, có thể phân chia, sắp xếp lại để giảm thiểu số lượng khách hàng
bị ảnh hưởng của hỏng hóc thiết bị hoặc thời gian mất điện là nhỏ nhất. Sẵn sàng
hoạt động là sự lựa chọn duy nhất của ngành điện để nâng cao độ tin cậy. Giảm
thiểu thời gian mất điện, bằng cách kịp thời sửa chữa thiết bị hư hỏng.
Việc phối hợp giữa lập kế hoạch bảo trì phòng ngừa với phân tích độ tin cậy
có thể rất hiệu quả. Việc phân tích sự cố giúp xác định rõ những điểm yếu nhất của
hệ thống phân phối và giải quyết nhanh và chính xác các điểm đó. Sự phân tích
được thực hiện chỉ ở những khúc quan trọng của hệ thống. Những thông tin kết quả
được sử dụng trong quyết định xây dựng hệ thống tới mức an toàn nào đó hoặc chấp
nhận rủi ro mất điện.
1.3 Sự tác động của độ tin cậy đến việc xây dựng cấu trúc lưới.

Việc mất điện sẽ gây ra những hậu quả xã hội, kinh tế rất lớn. Những hậu quả
này được chia làm 2 loại chính là các hậu quả mang tính chính trị - xã hội, các hậu


13

quả mang tính kinh tế. Ứng với từng loại hậu quả lại có từng loại phụ tải khác nhau
(theo [1]).
Đối với loại mất điện mang lại hậu quả mang tính chất chính trị xã hội, chúng
ta cần tìm những giải pháp để phụ tải được cấp điện với độ tin cậy cao nhất có thể.
Bởi vì khi mất điện ở loại phụ tải này có thể ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, bất ổn
xã hội. Chúng ta có thể tăng độ tin cậy cho loại phụ tải này bằng sử dụng lộ đường
dây kép hoặc nguồn dự phòng.
Còn đối với loại mất điện mang lại các hậu quả kinh tế thì ta cần xem xét đến
bài toán kinh tế - kỹ thuật trên cơ sở cân nhắc giữa vốn đầu tư vào hệ thống điện và
tổn thất kinh tế do mất điện. Trong đó tổn thất kinh tế là tổn thất mà các cơ sở này
phải chịu khi mất điện đột ngột hay theo kế hoạch. Sản phẩm sẽ bị hỏng, sản xuất bị
ngừng trệ gây ra tổn thất kinh tế khi mất điện đột ngột. Đặc điểm của tổn thất này là
phụ thuộc số lần mất điện hoặc điện năng bị mất và có thể là do đồng thời cả hai.
Tổn thất sẽ nhỏ hơn nếu mất điện theo kế hoạch vì lúc này các cơ sở sản xuất đã
được báo trước và đã lên phương án chuẩn bị, khắc phục.
Đối với từng loại xí nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh cụ thể lại có cách tính toán
tổn thất riêng từ đó phục vụ việc thiết kế cung cấp điện thích hợp cho các cơ sở này.
Tổn thất này được tính toán từ các tổn thất thật ở phụ tải và theo các quan điểm của
hệ thống điện. Nó nhằm phục vụ công việc thiết kế, quy hoạch hệ thống điện sao
cho thỏa mãn được nhu cầu về độ tin cậy của phụ tải, đồng thời đảm bảo hiệu quả
kinh tế của hệ thống điện.
Tổn thất này cũng được phân chia riêng biệt khi tính cho lưới phân phối, lưới
truyền tải và nguồn điện. Nó cũng được tính cho từng loại phụ tải cho một lần mất
điện, cho 1kW hoặc 1kWh tổn thất và cũng được tính cho độ dài thời gian mất điện.

Tổn thất kinh tế do mất điện rất lớn, đồng thời về mặt chính trị - xã hội cũng
đòi hỏi độ tin cậy cấp điện ngày càng cao, khiến cho hệ thống điện ngày càng phải
hoàn thiện về cấu trúc, cải tiến về vận hành để không ngừng nâng cao độ tin cậy.


14

Yếu tố độ tin cậy có ảnh hưởng đến quyết định cấu trúc hệ thống điện gồm có:
Với cấu trúc nguồn điện cần quan tâm đến độ dự trữ công suất, các tổ máy dự trữ
lạnh… Với cấu trúc lưới cần có những mạch vòng kín, nhiều lộ song song, trong
trạm cần nhiều máy biến áp, sơ đồ trạm và nhà máy điện phức tạp… Như vậy mới
làm tăng độ tin cậy cho lưới. Với cấu trúc hệ thống điều khiển để tăng cường độ tin
cậy cần có các thiết bị bảo vệ, thiết bị chống sự cố, hệ thống thông tin, hệ thống
điều khiển tự động, phương thức vận hành…Với cấu trúc hệ thống quản lý cần có
hệ thống sẵn sàng can thiệp khi sự cố, dự trữ thiết bị, phương tiện đi lại, tổ chức sửa
chữa sự cố và bảo dưỡng định kỳ…
Tóm lại cần có lượng vốn đầu tư rất lớn để nâng cao độ tin cậy cho hệ thống
điện, do đó độ tin cậy không phải được nâng cao bằng mọi giá. Mà chúng ta cần
nghiên cứu tính toán để tìm ra những giải pháp nâng cao độ tin cậy phù hợp với tình
hình kinh tế xã hội ở nước ta. Ta sẽ chọn lựa phương án với nguyên tắc sao cho đầu
tư vào nâng cao độ tin cậy chỉ có hiệu quả khi mức giảm tổn thất kinh tế do nâng
cao độ tin cậy lớn hơn chi phí để nâng cao độ tin cậy.
Khi xây dựng hàm mục tiêu của các bài toán xác định cấu trúc nguồn điện,
lưới điện và nguồn điện ta cần lưu ý đến thành phần tổn thất do độ tin cậy được tính
theo tổn thất kinh tế đã nói trên.
Tuy nhiên việc tính toán có liên quan đến thành phần đó rất phức tạp và cũng
gặp phải rất nhiều khó khăn. Vì vậy chúng ta còn có thể tính toán với yếu tố độ tin
cậy như là điều kiện biên của bài toán, tức là dùng chỉ tiêu gián tiếp về độ tin cậy
như là độ tin cậy( xác suất không xảy ra mất điện) phải bằng hoặc lớn hơn giá trị
nào đó, độ rủi ro (xác suất xảy ra mất điện) phải nhỏ hơn giá trị nào đó. Các chỉ tiêu

này được xác định trên cơ sở phân tích kinh tế - kỹ thuật hệ thống điện.
1.4 Đảm bảo độ tin cậy trong bài toán kinh tế.
Yêu cầu của ngành điện là cần cung cấp điện liên tục, chất lượng điện năng
được đảm bảo (về cả tần số và điện áp) cho khách hàng với giá cả hợp lý bằng việc
sử dụng hệ thống và trang bị sẵn có một cách kinh tế. Khái niệm cung cấp điện liên


15

tục có nghĩa là cung cấp điện một cách chắc chắn, an toàn cho con người và thiết bị
với chất lượng điện năng là điện áp và tần số danh định trong giới hạn cho phép
(theo [1]).
Một công cụ kế hoạch rất hữu ích trong quyết định chi tiêu tài chính đó là
phân tích kinh tế độ tin cậy của hệ thống cụ thể là cải thiện độ tin cậy bằng cách
cung cấp vốn đầu tư thêm cho hệ thống.
Mức độ của độ tin cậy chỉ được coi là hợp lý và chấp nhận được khi thiệt hại
do mất điện tăng thêm tránh được vượt quá hậu quả của sự mất điện khách hàng. Từ
đó ta thấy mức độ tin cậy hợp lý từ góc độ người tiêu dùng có thể được định nghĩa
là mức độ tin cậy khi tổng chi phí đầu tư và thiệt hại do mất điện là nhỏ nhất. Chúng
ta cũng cần lưu ý rằng sự cải thiện độ tin cậy của hệ thống và vốn đầu tư không phải
là quan hệ tuyến tính và độ tin cậy hợp lý của hệ thống phù hợp với giá tối ưu…
tổng chi phí nhỏ nhất. Do đó vấn đề quan trọng nhất đặt ra là cần vốn đầu tư ban
đầu như thế nào để làm tăng độ tin cậy? Và vốn đầu tư tiếp theo đặt vào đâu để đạt
được độ tin cậy cao nhất. Đây là bài toán kinh tế kỹ thuật đòi hỏi cần sự nghiên cứu,
tìm hiểu thấu đáo từ đó để tìm ra phương án thích hợp.
1.5 Những biện pháp nâng cao độ tin cậy cung cấp điện.
Ta cần phải nâng cao độ tin cậy của các phần tử hợp thành lưới thì mới nâng
cao độ tin cậy của toàn lưới phân phối. Sử dụng các thiết bị điện có độ tin cậy cao
có thể là biện pháp cần được ưu tiên. Như ta đã biết hệ thống điện có các phần tử
cần có độ tin cậy cao trong hệ thống điện như là đường dây, máy biến áp, máy cắt,

dao cách ly, các thiết bị bảo vệ, điều khiển và tự động hóa… Ngày nay cùng với sự
phát triển mạnh của ngành công nghệ vật liệu mới, đã có nhiều vật liệu và thiết bị
điện có độ tin cậy rất cao được ứng dụng. Cụ thể là những vật liệu cách điện có
cường độ cách điện cao như các loại giấy cách điện, sứ cách điện bằng silicon… Về
thiết bị điện có thể kể một số loại như máy cắt điện chân không, máy cắt điện SF6.
Hiện nay, các thiết bị sử dụng rơle điện từ đã, đang được thay thế bằng các thiết bị
bảo vệ và tự động hóa sử dụng công nghệ kỹ thuật số có độ tin cậy cao hơn rất


16

nhiều. Ngoài ra, máy biến áp hiện nay có tổn hao nhỏ và cách điện tốt với việc hiện
nay sử dụng vật liệu dẫn từ nên tăng độ tin cậy.
Tuy nhiên việc sử dụng thiết bị có độ tin cậy cao đồng nghĩa với việc tăng chi
phí đầu tư cho lưới điện và ảnh hưởng đến các chỉ tiêu kinh tế của hệ thống. Nên
việc sử dụng biện pháp này còn tùy vào điều kiện cụ thể, tùy vào loại phụ tải. Đối
với những hộ phụ tải không được phép mất điện như hộ phụ tải loại 1 thì chúng ta
cố gắng đầu tư với khả năng tốt nhất cho phép. Còn đối với các phụ tải khác phải
dựa trên sự so sánh giữa tổn thất do mất điện và chi phí đầu tư để từ đó lựa chọn các
biện pháp thích hợp. Thực tế lưới phân phối hiện nay còn sử dụng nhiều thiết bị cũ,
công nghệ lạc hậu, có độ tin cậy thấp đang dần được thay thế bằng những thiết bị
hiện đại có độ tin cậy cao, do đó độ tin cậy của lưới điện đang ngày được nâng cao
rõ rệt.
Việc sử dụng các thiết bị tự động trên lưới, các thiết bị điều khiển từ xa là biện
pháp thứ hai chúng ta có thể tính đến. Chúng ta có thể dùng các thiết bị tự động
thường dùng như là tự động đóng nguồn dự phòng, hệ thống điều khiển giám sát và
thu thập dữ liệu từ xa (SCADA), thiết bị tự động đóng lại …
Theo thống kê, đối với đường dây tải điện trên không (70-80)% tổng số lần sự
cố đường dây là do sự cố thoáng qua. Nguyên nhân có thể là do sét đánh vào đường
dây, cây đổ vào đường dây, vật lạ rơi vào đường dây… Các sự cố này thường tự

giải trừ sau một hoặc 2 lần phóng điện. Do thời gian thời gian đóng lặp lại rất ngắn
khoảng từ (2-5)s nên phụ tải không bị ảnh hưởng mất điện. Vì vậy, nếu sử dụng
thiết bị tự động đóng lặp lại thì tỷ lệ đóng lại thành công rất cao. Trong khi đó thiết
bị tự động đóng nguồn dự phòng rất hiệu quả với trường hợp khi có 2 nguồn cấp
trong đó có 1 nguồn dự phòng, nếu có một nguồn bị sự cố thì nguồn kia lập tức
được đưa vào làm việc không gây mất điện cho phụ tải. Ngày nay, với sự phát triển
của công nghệ thông tin, hệ thống điều khiển giám sát và thu thập dữ liệu từ xa
(SCADA) ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp. Chúng ta
có thể thu thập dữ liệu, phân tích và điều khiển các đối tượng từ xa thông qua hệ


17

thống này. Hiệu quả cụ thể nhất là trong điều hành lưới phân phối là ta sẽ nhanh
chóng tách đoạn lưới sự cố và khôi phục cấp điện cho các phân đoạn không sự cố
nếu sử dụng hệ thống SCADA. Tuy nhiên việc sử dụng hệ thống SCADA còn căn
cứ vào tình hình cụ thể đối với hệ thống lưới phân phối ở các vùng nông thôn ngoại
thành… thì chi phí cho hệ thống này là khá lớn ảnh hưởng đến chỉ tiêu kinh tế của
công trình. Còn đối với hệ thống lưới phân phối nhiều nguồn và kết dây phức tạp
như lưới điện trong các thành phố thì việc sử dụng hệ thống SCADA là rất hiệu quả
và hợp lý.
Biện pháp thứ ba là tăng cường khả năng dự phòng bằng sơ đồ kết dây lưới
điện hợp lý (sử dụng đường dây mạch kép, lưới kín vận hành hở, lưới phân đoạn).
Như ta đã biết lưới hình tia có phân nhánh, thường có độ tin cậy thấp thường được
dùng cho lưới phân phối hiện nay. Nhưng bởi lý do về kinh tế nó vẫn được dùng
phổ biến ở nước ta. Vì vậy, để khắc phục trường hợp này ta có thể sử dụng những
sơ đồ có khả năng chuyển đổi kết dây linh hoạt nhằm hạn chế thấp nhất khả năng
ngừng cấp điện cho phụ tải, từ đó làm tăng độ tin cậy của lưới phân phối.
Hiện nay ta có thể dùng các sơ đồ kết dây sau sơ đồ sử dụng đường dây mạch
kép, sơ đồ lưới kín vận hành hở, sơ đồ lưới có phân đoạn. Ta sử dụng hai đường dây

cấp điện cho phụ tải cho sơ đồ sử dụng đường dây mạch kép. Bình thường, hai lộ có
thể vận hành song song hoặc vận hành độc lập. Khi sự cố một lộ, lộ còn lại cấp điện
cho toàn bộ phụ tải. Trong đó điều kiện quan trọng khả năng mang tải của mỗi lộ
phải đảm đương được toàn bộ tải. Đặc điểm của sơ đồ này là có độ tin cậy cao
nhưng chi phí đầu tư khá lớn, chỉ thích hợp cho những phụ tải quan trọng không cho
phép mất điện như các hộ phụ tải loại 1.
Đối với sơ đồ lưới kín vận hành hở thì ta sử dụng nhiều nguồn và nhiều phân
đoạn đường dây tạo thành lưới kín nhưng khi vận hành thì các máy cắt phân đoạn
cắt ra tạo thành lưới hở. Khi một đoạn ngừng điện thì chỉ phụ tải phân đoạn đó mất
điện, còn các phân đoạn khác chỉ mất điện tạm thời trong thời gian thao tác, sau đó
lại được cấp điện bình thường. Sơ đồ này có ưu điểm là chi phí đầu tư không cao,


18

có thể áp dụng cho các hệ thống phân phối điện. Tuy nhiên còn tùy thuộc vào tình
hình nguồn điện ở từng khu vực.
Đối với sơ đồ lưới có phân đoạn cụ thể là sơ đồ lưới hình tia có phân đoạn
được sử dụng nhiều nhất hiện nay vì nó có chi chí thấp, sơ đồ lại đơn giản có thể áp
dụng rộng rãi. Nhược điểm của nó là có độ tin cậy chưa cao. Thiết bị phân đoạn có
thể là máy cắt điện, dao cách ly, dao cách ly phụ tải. Trong sơ đồ này khi sự cố một
phân đoạn thì chỉ những phân đoạn phía sau nó bị mất điện, các phân đoạn đứng
trước nó (về phía nguồn) chỉ bị mất điện tạm thời trong thời gian thao tác. Trong
kiểu sơ đồ này, số lượng và vị trí đặt các thiết bị phân đoạn cũng ảnh hưởng đến
thời gian mất điện của phụ tải. Vì vậy cần lựa chọn cụ thể cho từng lưới điện cụ thể.
Kinh nghiệm vận hành cho thấy để giảm thiểu điện năng bị mất do bảo dưỡng định
kỳ và do sự cố cần nhiều thiết bị phân đoạn trên đường dây. Vị trí đặt các thiết bị
phân đoạn chia đều chiều dài đường dây. Tuy nhiên việc lắp đặt quá nhiều thiết bị
phân đoạn sẽ làm tăng vốn đầu tư, tăng phần tử sự cố trên lưới nên đối với lưới
10kV người ta thường chọn chiều dài các phân đoạn đường dây từ 2-3 km. Để sử

dụng sơ đồ này có hiệu quả có thể kết hợp với các thiết bị tự động đóng lại, điều
khiển từ xa… có thể nâng cao đáng kể độ tin cậy của lưới phân phối. Việc sử dụng
các thiết bị này có thể loại trừ ảnh hưởng của sự cố thoáng qua và rút ngắn thời gian
thao tác trên lưới, nhờ thế nâng cao độ tin cậy cung cấp điện. Tuy nhiên, nhược
điểm của nó là vốn đầu tư khá lớn nên việc sử dụng nó cần so sánh tổn thất do mất
điện và chi phí đầu tư.
Tổ chức tìm và sửa chữa sự cố nhanh cũng là một giải pháp quan trọng để
nâng cao độ tin cậy cung cấp điện. Việc tìm và cô lập nhanh sự cố nhằm rút ngắn
thời gian mất điện của phụ tải. Ở đây cần đảm bảo phải có đủ người, đủ dụng cụ,
vật tư, thiết bị dự phòng và phương tiện thường trực sẵn sàng cho mọi tình huống sự
cố. Ngoài ra còn tổ chức thu thập thông tin, phân tích và cô lập sự cố nhanh nhất.
Việc tổ chức sửa chữa nhanh các sự cố trong lưới phân phối sẽ làm giảm thời gian
mất điện của phụ tải, giảm điện năng bị mất do sự cố, góp phần nâng cao chỉ tiêu về
độ tin cậy của lưới phân phối.


19

Tăng cường công tác kiểm tra bảo dưỡng đường dây, thiết bị vận hành trên
lưới để ngăn ngừa sự cố chủ quan cũng là một trong những biện pháp đáng lưu ý.
Trong đó chúng ta cần trang bị đầy đủ các phương tiện phục vụ công tác quản lý
vận hành như xe thang, thiết bị kiểm tra phát nóng… Bên cạnh đó cần đào tạo để
nâng cao kiến thức tay nghề cùng tính kỷ luật cao cho nhân viên vận hành. Từ đó,
từng bước nâng cao tỷ lệ sửa chữa lưới điện bằng hình thức hot-line (sửa chữa khi
lưới đang vận hành). Biện pháp này khá đơn giản không tốn kém và rất hiệu quả để
giảm thời gian sự cố mất điện.
1.6 Kết luận chương 1.
Có thể thấy độ tin cậy cho lưới điện là một trong những chỉ tiêu quan trọng
trong việc vận hành lưới điện. Mất điện sẽ gây ra những tổn thất rất lớn. Hiện nay
yếu tố độ tin cậy trong bài toán quy hoạch phát triển lưới điện chưa được xét tới nên

ở các chương sau của luận văn dự kiến sẽ tìm hiểu các phương pháp đánh giá độ tin
cậy cho lưới điện và ứng dụng cho các bài toán về độ tin cậy. Trên thực tế hiện nay
tại lưới điện phân phối Việt Nam, việc đánh giá và định lượng các chỉ tiêu độ tin
cậy được thực hiên theo thông tư Thông tư 32/2010/TT-BCT quy định hệ thống
điện phân phối. Trong đó độ tin cậy của lưới điện phân phối đang vận hành được
thống kê và so sánh với chỉ tiêu cấp phát hàng năm của tổng công ty điện lực. Luận
văn dự kiến tìm hiểu các chỉ tiêu độ tin cậy của lưới phân phối điện, các biện pháp
nâng cao độ tin cậy của lưới phân phối, và đánh giá chi tiết hiệu quả của các biện
pháp này.


20

CHƯƠNG 2. CÁC CHỈ TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ ĐỘ TIN
CẬY CHO LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI.
2.1 Giới thiệu chung về chỉ tiêu độ tin cậy.
Viện kỹ nghệ Điện và Điện tử (IEEE) đã nêu ra định nghĩa chung nhất các chỉ
tiêu độ tin cậy chấp nhận chung tại tiêu chuẩn số P1366 trong "Hướng dẫn về chỉ
tiêu độ tin cậy cho lưới điện phân phối". Chỉ tiêu về độ tin cậy là thành phần quan
trọng để đánh giá khả năng có ích trong việc xác định hiệu suất sử dụng điện dài
hạn. Hơn nữa, IEEE1366 là chuẩn phổ biến cho việc tính toán chỉ số độ tin cậy.
Điều này không có nghĩa là tiêu chuẩn IEEE1366 là cách duy nhất để tính toán độ
tin cậy cho lưới điện phân phối. Đơn giản là bởi vì mức độ chấp nhận chung của
IEEE1366 trở nên thông dụng như một điểm chuẩn để xác định giá trị trung bình
lâu dài của hệ thống như là Thời gian mất điện trung bình của lưới phân phối
(SAIDI), Thời gian mất điện trung bình của khách hàng (ký hiệu là CAIDI), Tần
suất hay số lần mất điện trung bình của hệ thống (SAIFI), Tần suất (số lần) mất điện
trung bình của khách hàng (CAIFI), Chỉ tiêu tần suất mất điện thoáng qua trung
bình (MAIFI), và Chỉ tiêu khả năng sẵn sàng phục vụ trung bình (ASAI)… Các chỉ
tiêu này đã đánh giá một cách toàn diện về chỉ tiêu độ tin cậy của một lưới điện

phân phối.
Một cách nào đó cũng có thể xem chỉ tiêu về độ tin cậy cũng như là chỉ tiêu về
sức khỏe của một con người. Dựa vào chỉ số về nhịp tim, huyết áp … để biết người
đó có sức khỏe tốt hay xấu. Tương tự như vậy, các chỉ tiêu về độ tin cậy sẽ cho biết
là hệ thống lưới phân phối sẽ trở nên tốt hơn hay kém đi theo thời gian. Tất nhiên vì
tất cả các hệ thống đều có những yếu tố khác nhau nên khó có thể so sánh hợp pháp
giữa hai hệ thống. Nhưng điều này có nghĩa chỉ tiêu độ tin cậy cũng mang tính chất
tự nhiên và sẽ thể hiện dựa trên các cơ sở khác nhau tùy thuộc vào các yếu tố nội tại
bên trong chúng ảnh hưởng đến hệ thống.
Với các số liệu thống kê về độ tin cậy có thể giúp cải thiện các hệ thống lưới
điện. Tuy nhiên, khi chúng ta chỉ theo đuổi cải thiện độ tin cậy mà không quan tâm
đến các yếu tố khác thì sẽ là một cách tiếp cận hạn chế và có thể gây ra ảnh hưởng


21

nguy hại về lâu dài. Chính vì vậy các nhà quản lý nên là tổ hợp bao gồm tất cả các
phòng ban có liên quan trong một kế hoạch tổng thể để hiểu và hành động dựa trên
dữ liệu độ tin cậy.
Có nhiều cách khác nhau để tiếp cận một cách triết học nhằm thu thập dữ liệu
về độ tin cậy. Ví dụ, nhà quản lý có thể chọn hoặc loại bỏ bất kỳ sự kiện mất điện
trong khi máy tính được lập trình xử lý tất cả các hiện tượng mất điện có thể được
giải quyết hoặc giảm thiểu dựa trên quá trình tính toán được lập sẵn. Cách tiếp cận
này có một số ích lợi. Nó cho phép tập trung cao vào phục hồi sau sự cố và đặt trách
nhiệm hơn để phục hồi sau khi các sự kiện lớn về quản lý hệ thống. Cùng với đó,
các tiêu chuẩn IEEE 1366 cho phép các nhà quản lý loại bỏ sự cố lớn trong ngày và
phân tích chúng một cách riêng biệt từ 99% của các dữ liệu thông thường khác. Tuy
nhiên cùng với việc xử lý các sự cố lớn theo quan điểm như trên cũng kéo theo tiềm
tàng các mối nguy hiểm khác. Nó có thể chỉ hữu dụng khi dùng cho hai loại phép đo
lường về độ tin cậy đó là loại trừ các sự cố lớn trong phân tích dài hạn phân tích và

tổng hợp chúng, và có thể dựa vào đấy để cho cái nhìn chi tiết để xử lý các sự cố
lớn đó. Có nhiều phương pháp khác nhau để phân tích và tính toán ngày sự cố lớn,
nó cũng rất quan trọng trong việc xem xét đánh giá độ hữu ích của nó trong việc
điều khiển kết quả chất lượng dịch vụ cung cấp điện.
Việc chia tách các dữ liệu sự kiện cũng cho phép để đánh giá xu hướng dài
hạn cũng như đánh giá các dữ liệu trong hai chế độ sự cố và bình thường. Ngoài các
sự cố lớn, một số sự cố mất điện, chẳng hạn như cắt điện theo kế hoạch sẽ cung cấp
một lượng dữ liệu chính xác với độ tin cậy cao hữu ích. Tại thời điểm mất điện,
máy móc có thể ghi lại số liệu cắt điện theo kế hoạch như một phần của các số liệu
thống kê của việc cắt điện theo kế hoạch và phân nó thành các thể loại riêng để
phân tích.
Chỉ tiêu về độ tin cậy cũng rất có ích cho nhiều quá trình ra quyết định. Chỉ
tiêu về độ tin cậy có thể hình thành dựa trên cơ sở xem xét hiệu quả hoạt động hàng
ngày và ra quyết định. Mức độ quản lý hệ thống và các hoạt động kỹ thuật là dựa
trên các chỉ tiêu về độ tin cậy sẽ bị ảnh hưởng bởi sự chính xác và tính hợp lệ của


22

dữ liệu thu thập được. Việc thu thập các dữ liệu hữu ích có thể liên quan đến việc sử
dụng các số liệu báo cáo được chuẩn hóa. Trong hoạt động, nó cũng tùy thuộc vào
từng tác dụng để quyết định tần số hữu ích của việc đánh giá dữ liệu và thiết lập
mục tiêu có ý nghĩa. Nhiều thông tin có giá trị được đánh giá trên một cơ sở hàng
tháng.
2.2 Các chỉ tiêu đánh giá độ tin cậy của hệ thống điện và lưới phân phối điện.
Để đánh giá hệ thống điện tổng quát bao gồm cả nguồn điện, các chỉ tiêu
chính sau thường được sử dụng (theo [1]):
- Xác suất thiếu điện cho phụ tải (LOLP – Loss Of Load Probability), đó là
xác suất công suất phụ tải lớn hơn công suất nguồn điện. Chỉ tiêu này thể hiện khả
năng mất điện do thiếu công suất trong hệ thống.

- Kỳ vọng mất điện trung bình năm trong hệ thống điện (LOLE - Loss Of
Load Expectation). LOLE thể hiện thời gian (tính bằng ngày hoặc giờ) mà phụ tải
của một hệ thống điện chịu cắt điện do thiếu công suất.
- Xác suất thiếu điện trong thời gian phụ tải cực đại.
- Điện năng thiếu hay điện năng mất cho phụ tải (đó là kỳ vọng điện năng phụ
tải bị cắt do hỏng hóc hệ thống trong một năm).
- Thiệt hại kinh tế tính bằng tiền do mất điện.
Tuy nhiên đối với lưới điện phân phối, khi không xét đến ảnh hưởng của sự cố
tại nguồn điện, và là nơi trực tiếp cung cấp điện cho các hộ tiêu thụ, các chỉ tiêu sau
được sử dụng (theo [5]). Các chỉ số phân phối phổ biến nhất bao gồm thời gian mất
điện trung bình của hệ thống (SAIDI), Thời gian mất điện trung bình của khách
hàng (ký hiệu là CAIDI), Tần suất hay số lần mất điện trung bình của hệ thống
(SAIFI), Tần suất (số lần) mất điện trung bình của khách hàng (CAIFI), Chỉ tiêu tần
suất mất điện thoáng qua trung bình (MAIFI), và Chỉ tiêu khả năng sẵn sàng phục
vụ trung bình (ASAI)…
2.2.1. SAIDI.


23

Chỉ số về thời gian mất điện trung bình của lưới điện phân phối (ký hiệu là
SAIDI - System Average Interuption Duration Index). SAIDI được tính bằng tổng
thời gian mất điện của các khách hàng sử dụng điện, các đơn vị phân phối và bán lẻ
điện, mua điện của các đơn vị phân phối điện chia cho tổng số khách hàng sử dụng
điện, các đơn vị phân phối và bán lẻ điện, mua điện của các đơn vị phân phối điện
(hay tổng thời gian mất điện của phụ tải trên tổng số phụ tải).
Chỉ số thể hiện thời gian mất điện trung bình đối với mỗi khách hàng của đơn
vị phân phối điện.
SAIDI thường được tính theo một trong hai hàng tháng hoặc hàng năm; Tuy
nhiên, nó cũng có thể được tính toán hàng ngày, hoặc cho bất kỳ khoảng thời gian

khác.
SAIDI = ΣriNi/NT (giờ/phụ tải.năm)

(2.1)

Trong đó: ri là thời gian mỗi lần mất điện;
Ni là số lần mất điện;
NT là tổng số khách hàng được phục vụ.
2.2.2. SAIFI.
Chỉ số về số lần mất điện trung bình của lưới điện phân phối (ký hiệu là SAIFI
- System Average Interuption Frequency Index). SAIFI được tính tính bằng tổng số
lần mất điện của các khách hàng sử dụng điện, các đơn vị phân phối và bán lẻ điện,
mua điện của các đơn vị phân phối điện chia cho tổng số khách hàng sử dụng điện,
các đơn vị phân phối và bán lẻ điện, mua điện của các đơn vị phân phối điện (hay
tổng số lần mất điện của tất cả các phụ tải trên tổng số phụ tải NT).
Là chỉ số thể hiện số lần mất điện trung bình đối với mỗi khách hàng của đơn
vị phân phối điện.
NT

SAIFI 

n
i 1

NT

i

(số lần/phụ tải. năm)


(2.2)


24

SAIFI được định nghĩa là tổng số lần mất điện trung bình của khách hàng bị
mất điện trên tổng số khách hàng được phục vụ. Mà trong đó tổng số khách hàng bị
mất điện được định nghĩa là tổng trên hệ thống được coi là giá trị trung bình tỷ lệ
thất bại của từng yếu tố nhân với số lượng khách hàng bị mất điện của yếu tố đó.
Việc tính toán tổng số khách hàng mất điện đầu tiên đòi hỏi tính trung bình tỷ lệ
thất bại của mỗi yếu tố trong đó mô hình mạch. Tỷ lệ thất bại trung bình cho một
phần tử được xác định như số lượng bị mất điện trong một năm mà một khách hàng
trên yếu tố đó sẽ được dự kiến sẽ kinh nghiệm. Tổng hợp số lượng khách hàng bị
gián đoạn cho tất cả các yếu tố trong định hệ thống / mô hình cho tổng số khách
hàng bị gián đoạn.
2.2.3. CAIDI.
Thời gian mất điện trung bình của khách hàng (ký hiệu là CAIDI- Customer
Average Interruption Duration Index).
Chỉ tiêu này cho biết thời gian mất điện trung bình của mỗi lần mất điện cho
trên mỗi khách hàng .
CAIDI 

r N
N
i

i

(giờ/lần mất điện)


(2.3)

i

Trong đó: ri là thời gian của mỗi lần mất điện; Ni là số lượng khách hàng bị
mất điện của mỗi lần mất điện duy trì.
2.2.4. CAIFI.
Tần suất (số lần) mất điện trung bình của khách hàng bằng tổng số lần mất
điện trên tổng số phụ tải (CAIFI- Customer Average Interruption Frequency Index).
Chỉ tiêu này cho biết số lần mất điện trung bình cho trên mỗi khách hàng.
CAIFI = Σni/CN (số lần mất điện/khách hàng.năm)
Với: CN là số khách hàng bị mất điện.

(2.4)


×