Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Đánh giá thực trạng công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở một số dự án trên địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.35 KB, 86 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài, tôi đã nhận được sự quan
tâm giúp đỡ nhiệt tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể, đã
tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành chuyên đề này.
Tôi xin bày tỏ sự cám ơn trân trọng nhất tới giáo viên hướng dẫn Th.s
Vũ Thị Thu Hiền đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ tôi trong suốt qua trình hoàn
thành chuyên đề.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo Khoa Quản
lý đất đai, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã giúp đỡ tôi
thực hiện chuyên đề này.
Tôi xin chân thành cám ơn Chi nhánh Phát triển quỹ đất quận Tây Hồ đã
tạo điều kiện cho tôi về thời gian, tài liệu và những ý kiến quý báu để giúp tôi
hoàn thành tốt bản chuyên đề này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Ngọc Anh

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BĐS
BTHT
CNH
ĐTH
GCN
GCNQSDĐ
GPMB


HĐH
HSĐC
QSDĐ
TĐC
UBND

2

Bất động sản
Bồi thường hỗ trợ
Công nghiệp hóa
Đô thị hóa
Giấy chứng nhận
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Giải phóng mặt bằng
Hiện đại hóa
Hồ sơ địa chính
Quyền sử dụng đất
Tái định cư
Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC

3


DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH – BẢNG

4



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, là
điều kiện tồn tại và phát triển của con người. Đất đai là cơ sở không gian của
mọi quá trình sản xuất, là tư liệu sản xuất đặc biệt của các ngành kinh tế, là tư
liệu sản xuất không thể thay thế của ngành nông nghiệp, là địa bàn phân bố
dân cư, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, cùng với các tài nguyên khác
tạo nên môi trường cảnh quan cho con người vui chơi giải trí. Đất đai có
những tính chất đặc trưng, khiến nó không giống bất kỳ loại tư liệu nào khác.
Đó là có hạn về số lượng, có vị trí cố định trong không gian, không thể di
chuyển từ nơi này đến nơi khác.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đã được thực hiện
hơn hai thập kỷ qua, nó đặc biệt diễn ra mạnh mẽ trong những năm gần đây.
Trong quá trình, chúng ta đã và đang triển khai nhiều dự án với các mục tiêu
phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp, các công trình hạ tầng kinh tế xã hội, hạ tầng cho các khu đô thị... trong đó công tác thu hồi đất, bồi thường
giải phóng mặt bằng để thực hiện các công trình là một khâu quan trọng, then
chốt của quá trình phát triển.
Bồi thường giải phóng mặt bằng là điều kiện ban đầu và tiên quyết để
triển khai thực hiện các dự án. Nhưng trên thực tế việc chuyển từ quỹ đất vào
triển khai các dự án không đơn giản, tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế,
xã hội và cộng đồng dân cư, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước,
của chủ đầu tư, đặc biệt với hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi trên phạm
vi cả nước, đến từng địa phương, cơ sở. Đây là một thách thức rất lớn đối với
việc triển khai các dự án hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải giải quyết hàng loạt
các vấn đề liên quan đến người dân mất đất như: đời sống, việc làm của người
dân bị thu hồi đất và giá trị phần đất đai bị thu hồi của người dân phải xác
5



định như thế nào để thỏa mãn thiệt hại mà họ phải gánh chịu, giải quyết ổn
thỏa tâm trạng của người dân sau khi bị thu hồi đất cũng là những vấn đề vô
cùng quan trọng.
Là một trong những quận nội thành, Tây Hồ là một quận nằm ở phía Bắc
của trung tâm thành phố Hà Nội. Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, đô thị hóa đang diễn ra rất mạnh, rất nhiều dự án đã và đang triển
khai, vấn đề chuyển đổi quỹ đất đang sử dụng hiện nay sang đất triển khai dự
án đang diễn ra nhanh.
Trong những năm qua, công tác giải phóng mặt bằng của quận đã thực
hiện tốt, đúng với chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung và phương
châm chỉ đạo của thành phố nói riêng. Các dự án về cơ bản đã hoàn thành
công tác giải phóng mặt bằng đáp ứng yêu cầu tiến độ thi công theo kế hoạch
đề ra, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội, ổn định chính trị. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn một số
vướng mắc, tồn tại cần giải quyết.
Để góp phần hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
có đất bị thu hồi, góp phần hạn chế tranh chấp, khiếu kiện về đất đai trong
việc bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất, thực tế đang
đặt ra nhiều vấn đề phải nghiên cứu nghiêm túc, từ đó có thể đưa ra các giải
pháp đúng và toàn diện, đáp ứng các yêu cầu đặt ra.
Từ thực tế trên, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá thực trạng
công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở một
số dự án trên địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội”.
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
a. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu và đánh giá kết quả thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
6



khi Nhà nước thu hồi đất tại hai dự án:
+Dự án xây dựng 03 tuyến đường khung và quảng trường trung tâm khu
đô thị Tây Hồ Tây.
+ Dự án xây dựng nhà ở cụm 9, phường Phú Thượng.
- Rút ra những ưu điểm và vấn đề còn tồn tại trong việc thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm khắc phục những bất cập hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện tốt hơn các chính sách về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư tại các dự án trên địa bàn quậnTây Hồ.
b. Yêu cầu nghiên cứu
- Hiểu và nắm vững chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, các văn
bản pháp lí có liên quan đến công tác bồi thường giải phóng mặt bằng.
- Các số liệu điều tra phải phản ánh đúng, khách quan tình hình thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự
án trên địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
- Nguồn số liệu, tài liệu điều tra thu thập được phải tin cậy và chính xác.
- Các đề nghị, kiến nghị phải có tính khả thi.

7


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm
a. Thu hồi đất
Theo khoản 11 Điều 3 Luật đất đai 2013, Nhà nước thu hồi đất được
hiểu như sau:
“Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử

dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất
của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”.
b. Bồi thường
Theo khoản 12 Điều 3 Luật đất đai 2013 có giải thích bồi thường về đất
như sau:
“Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị cho quyền sử dụng
đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất“.
c. Hỗ trợ
Theo khoản 14 Điều 3 Luật đất đai 2013 hỗ trợ được giải thích như sau:
“Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người
có đất bị thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”.
d. Tái định cư
Tái định cư là quá trình từ bồi thường cho các tài sản bị thiệt hại, di dân
đến nơi ở mới cùng các biện pháp hỗ trợ việc tái tạo lại các tài sản bị mất
hoặc hỗ trợ di chuyển trong trường hợp hộ phải di chuyển và cuối cùng là
toàn bộ các chương tình biện pháp nhằm giúp những người bị ảnh hưởng khôi
phục lại cuộc sống và nguồn thu nhập của họ và ổn định đời sống người dân.
8


Tái định cư dùng để chỉ những ảnh hưởng tác động đến đời sống của
người dân do bị mất tài sản và nguồn thu nhập trong quá trình phát triển dự án
gây ra, bất kể có phải di chuyển hay không và các chương trình nhằm khôi
phục cuộc sống của họ. Tái định cư bao hàm cả việc thực hiện chính sách bồi
thường thiệt hại khi thu hồi đất. Tái định cư bao hàm cả việc thực hiện chính
sách bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất. Tái định cư theo nghĩa hẹp là quá
trình di chuyển người dân đến nơi ở mới.
1.1.2. Đặc điểm của bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng các công trình mang
tính đa dạng và phức tạp.

- Tính đa dạng thể hiện: mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất
khác nhau với điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội dân cư khác nhau:
+ Khu vực trung tâm đô thị (mật độ dân cư cao, giá trị đất và tài sản trên
đất lớn, mức sống và trình độ dân cư cao);
+ Khu vực ven đô (mật độ dân cư khá cao, hoạt động sản xuất: công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, buôn bán nhỏ đa dạng, mức sống
và trình độ dân cư trung bình);
+ Khu vực nông thôn (mật độ dân cư thấp hơn, hoạt động sản xuất chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp, đời sống phụ thuộc chính vào nông nghiệp, mức
sống và trình độ dân cư thấp).
- Tính phức tạp: Ở khu vực nông thôn, dân cư chủ yếu sống nhờ vào hoạt
động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu sản xuất quan trọng trong
khi trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp
khó khăn do đó tâm lý dân cư vùng này là giữ được đất để sản xuất, thậm chí
họ cho thuê đất còn được lợi nhuận cao hơn là sản xuất nhưng họ vẫn không
cho thuê; tình hình đó đã dẫn đến công tác tuyên truyền, vận động dân cư

9


tham gia di chuyển là rất khó khăn và việc hỗ trợ chuyển nghề nghiệp là điều
cần thiết để đảm bảo đời sống dân cư sau này.
Ở khu vực đô thị, việc thu hồi đất, bồi thường GPMB liên quan đến đất ở
lại càng phức tạp hơn do đất ở là tài sản có giá trị lớn, gắn bó trực tiếp với đời
sống và sinh hoạt của người dân mà tâm lý, tập quán là ngại di chuyển chỗ ở;
nguồn gốc sử dụng đất phức tạp, tình trạng lấn chiếm, xây dựng nhà trái phép
chưa được xử lý dẫn đến việc phân tích hồ sơ đất đai và áp giá phương án bồi
thường gặp rất nhiều khó khăn. Tình trạng chung thiếu quỹ đất dành cho khu
tái định cư cũng như chất lượng khu tái định cư thấp chưa đảm bảo được yêu
cầu…Sự tồn tại cơ chế 2 giá với sự chênh lệch lớn giữa giá đất Nhà nước và

giá thị trường làm cho việc áp dụng giá đất ở để tính bồi thường không được
sự đồng thuận của những người dân.
1.1.3. Cơ sở pháp lí của công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng
1.1.3.1. Trước khi có Luật Đất đai 1993
Luật đất đai năm 1988 ra đời dựa trên quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước thống nhất quản lý. Tại Khoản 4 Điều 48 quy định: “Đền bù thiệt hại
thực tế cho người đang sử dụng đất bị thu hồi để giao cho mình, bồi hoàn thành
quả lao động và kết quả đầu tư đã làm tăng giá trị của đất đó theo quy định của
pháp luật.”
Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 186-HĐBT ngày 31/5/1990, về
bồi thường thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng vào mục đích khác.
Căn cứ để tính mức bồi thường thiệt hại về đất nông nghiệp và đất có rừng tại
quyết định này là diện tích, chất lượng và vị trí đất. Toàn bộ tiền bồi thường phải
nộp vào ngân sách Nhà nước và được điều tiết theo phân cấp ngân sách Trung
ương 30%, Địa phương 70% để sử dụng vào mục đích khai hoang, phục hóa và
định canh, định cư cho nhân dân vùng bị thu hồi đất.
Hiến pháp năm 1992 ra đời là bước ngoặt quan trọng trong việc xây dựng
10


chính sách pháp luật đất đai nói chung và chính sách bồi thường, GPMB nói
riêng, đó là:
+ Tại Điều 17 quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống
nhất quản lý theo quy hoạch và pháp luật”.
+ Tại Điều 18 quy định “Các tổ chức và cá nhân được Nhà nước giao đất sử
dụng lâu dài và được chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật”.
+ Tại Điều 23 quy định “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị
quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì
lợi ích của quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản

của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng
do luật định”.
1.1.3.2. Thời kỳ 1993 đến 2003
Hiến pháp 1992 đặt nền móng cho việc xây dựng chính sách bồi thường
GPMB qua những điều 17, 18, 23.
Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Luật đất đai 1993 được Quốc hội thông qua và
có hiệu lực từ ngày 15 tháng 10 năm 1993. Với quy định “đất có giá” và người sử
dụng đất có các quyền và nghĩa vụ, đây là sự đổi mới có ý nghĩa rất quan trọng đối
với công tác bồi thường GPMB của Luật đất đai năm 1993.
Những quy định về bồi thường GPMB của Luật đất đai năm 1993 đã thu
được những thành tựu quan trọng trong giai đoạn đầu thực hiện, nhưng càng về
sau, do sự chuyển biến mau lẹ của tình hình kinh tế xã hội, nó đã dần mất đi vai
trò làm động lực thúc đầy phát triển. Để tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ GPMB,
đẩy nhanh tiến độ thi công công trình, đồng thời đảm bảo quyền lợi hợp pháp của
người sử dụng đất, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai đã được
thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2001
Để cụ thể hóa các quy định của Luật đất đai năm 1993 và Luật sửa đổi, bổ
11


sung một số điều của Luật đất đai năm 2001, nhiều văn bản quy định về chính
sách bồi thường GPMB đã được ban hành, bao gồm:
- Nghị định số 90/CP ngày 17/9/1994 của Chính phủ quy định về việc bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh, quốc
phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Xét về tính chất và nội dung, Nghị định
90/CP đã đáp ứng được một số yêu cầu nhất định, so với các văn bản trước, Nghị
định này là văn bản pháp lý mang tính toàn diện cao và cụ thể hóa việc thực hiện
chính sách bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, việc đền bù bằng đất cùng mục
đích sư dụng, cùng hạng đất...vv
- Nghị định 87/CP ngày 17/8/1994 ban hành khung giá các loại đất;

- Thông tư Liên bộ số 94/TTLB ngày 14/11/1994 của Liên bộ Tài chính
-Xây dựng - Tổng cục Địa chính - Ban vật giá Chính phủ hướng dẫn thi hành
Nghị định 87/CP;
- Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về việc bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng,
an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; thay thế Nghị định số 90/CP nói trên;
- Thông tư 145/1998/TT-BTC ngày 04/11/2998 của Bộ Tài chính hướng dẫn
thi hành Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ.
* Chính sách bồi thường GPMB cụ thể theo quy định của Nghị định số
22/1998/NĐ-CP và Thông tư số 145/1998/TT-BTC [4]:
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP và Thông tư số 145/1998/TT-BTC đã quy
định rõ phạm vi áp dụng bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, đối tượng
phải bồi thường thiệt hại, đối tượng được bồi thường thiệt hại, phạm vi bồi thường
thiệt hại và các chính sách cụ thể về bồi thường thiệt hại về đất, tài sản gắn liền
với đất, việc lập khu TĐC cũng như việc tổ chức thực hiện.

12


1.1.3.3. Thời kỳ từ khi có Luật Đất đai năm 2003
Luật đất đai năm 2003 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực ngày 01
tháng 7 năm 2004. Để hướng dẫn việc bồi thường GPMB theo quy định của Luật
đất đai năm 2003, một số văn bản sau đã được ban hành:
- Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định
giá đất và khung giá các loại đất;
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất đai và Nghị
định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ

phần;
- Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03//12/20004 của Chính phủ
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
- Thông tư số 69/2006/TT-BTC ngày 02/8/2006 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ
sung Thông tư 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03//12/20004 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Về cơ bản, chính sách bồi thường GPMB theo Luật đất đai 2003 đã kế thừa
những ưu điểm của chính sách trong thời kỳ trước, đồng thời có những đổi mới
nhằm góp phần tháo gỡ các vướng mắc trong việc bồi thường GPMB hiện nay.
Tuy nhiên để thao gỡ những vướng mắc, khó khăn trong công tác bồi thường
GPMB ngày 25/5/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 84/2007/NĐ-CP quy
định bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất,
trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải
quyết khiếu nại về đất đai; Thông tư 06 Hướng dẫn thực hiện một số điều của
13


Nghị định 84/2007/NĐ-CP, Thông tư 145/2007/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp
xác định giá đất; Thông tư Liên tịch số 14/2008/TTLT/BTC-BTNMT ngày
31/1/2008 Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày
25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất,
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà
nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Nghị định số 69/2009/NĐ-CP
ngày 13/8/2009 của Chính phủ về quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá
đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và TĐC; Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT
ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về bồi
thường, hỗ trợ, TĐC và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất...

Về Nghị định 69/2009/NĐ-CP tập trung vào việc làm rõ, bãi bỏ một số điều
Nghị định 181/2004/NĐ-CP và Nghị định số 84/2007/NĐ-CP...về một số những
vấn đề cơ bản về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
TĐC. Nguyên tắc xuyên suốt của Nghị định 69/2009/NĐ-CP là đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, thực hiện hài hòa 3 lợi ích: Người sử
dụng đất, nhà đầu tư và quyền của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
1.1.3.4. Thời kỳ từ khi có Luật Đất đai năm 2013
Nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị thu hồi đất,
khắc phục bất cập và điều tiết một cách hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử
dụng đất và nhà đầu tư, đồng thời nhằm giảm thiểu khiếu kiện trong bồi thường,
GPMB, Luật đất đai 2013 được Quốc hội thông qua tại kì họp thứ 6 và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2014. Nhiều văn bản dưới Luật như Nghị định, Thông tư cụ
thể hóa các điều luật về giá đất, bồi thường, TĐC.
Luật đất đai 2013 vừa tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy định còn phù hợp
đã và đang đi vào cuộc sống của pháp luật Đất đai 2003, nhưng đồng thời đã sửa
đổi, bổ sung một số quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của pháp
14


luật Đất đai 2003, đưa chính sách về bồi thường, hỗ trợ và TĐC trong Nghị quyết
19/NQ-TW đi vào cuộc sống.
Có thể khái quát một số nội dung chủ yếu mang tính đổi mới về lĩnh vực bồi
thường, GPMB quy định trong Luật Đất đai 2013 so với Luật Đất Đai 2003 cụ thể
như sau:
- Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất: Luật đất đai 2013
đã tách nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản,
ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 02 điều riêng biệt
(Điều 74 và Điều 88, LĐĐ 2013). Trong đó, quy định cụ thể các nguyên tắc bồi
thường về đất và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất khi
Nhà nước thu hồi đất để các bộ, ngành, địa phương và người thu hồi đất căn cứ

vào đó thống nhất thực hiện. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo
đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của
pháp luật.
- Điều kiện để được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích
quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đối
với từng loại đối tượng mà Nhà nước thu hồi đất. Trong đó, Luật bổ sung thêm 02
trường hợp được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 75,
Luật đất đai 2013. Đây là một tiến bộ mới vì trước đây đối với các trường hợp đất
do cơ sở tôn giáo đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, làm cơ sở từ thiện, không phải là đất do Nhà
nước giao mà có nguồn gốc do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho hợp pháp
hoặc khai hoang trước ngày 01/7/2004 thì không được bồi thường, hỗ trợ điều này
gây vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Cơ chế, chính sách: Chi phí đầu tư vào đất còn lại được quy định chi tiết đối
với từng loại đất, gồm đất ở, đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải đất
ở và theo từng loại đối tượng sử dụng đất. Đặc biệt, việc xác định mức bồi thường
15


cho người có đất thu hồi đối với đất sử dụng có thời hạn không chỉ căn cứ vào loại
đất, đối tượng sử dụng mà còn phải căn cứ thời hạn sử dụng đất còn lại của người
sử dụng đất đối với loại đất đó. “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất
ngoài việc được bồi thường theo quy định của Luật này còn được Nhà nước xem
xét hỗ trợ; việc hỗ trợ phải đảm bảo khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và
đúng quy định của pháp luật”. (Khoản 1, Điều 84, LĐĐ 2013).
Ngoài ra, Luật cũng quy định hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc
làm cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ mà nguồn
thu nhập chính là từ hoạt động kinh doanh dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất mà
phải di chuyển chỗ ở. Đồng thời, họ còn được vay vốn tín dụng ưu đãi để phát
triển sản xuất, kinh doanh. (Khoản 2, Điều 84, LĐĐ 2013).

Luật quy định cụ thể hơn về TĐC nhằm khắc phục tình trạng các địa phương
chưa lập khu TĐC đã thực hiện thu hồi đất ở, thậm chí có những dự án người có
đất bị thu hồi phải đi thuê nhà ở nhiều năm mà vẫn chưa bố trí vào khu TĐC. Cụ
thể, UBND cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện dự án
TĐC đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng, phù hợp với điều kiện, phong tục,
tập quán của từng vùng, miền. Việc thu hồi đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn
thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu TĐC (Điều 85, LĐĐ 2013).
Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung quy định về bố trí TĐC cho người bị thu hồi
đất ở mà phải di chuyển chỗ ở, cụ thể người có đất thu hồi được bố trí TĐC tại
chỗ nếu tại khu vực thu hồi đất có dự án TĐC hoặc có điều kiện bố trí TĐC. Ưu
tiên vị trí thuận lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn giao mặt bằng, người có đất
thu hồi là người có công với cách mạng.
Giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất tại nơi TĐC, giá bán nhà ở TĐC do
UBND cấp tỉnh quyết định. Trường hợp người có đất thu hồi được bố trí TĐC mà
tiền bồi thường, hỗ trợ không đủ để mua một suất TĐC tối thiểu thì được Nhà
nước hỗ trợ tiền để mua một suất TĐC tối thiểu (Điều 86, LĐĐ 2013).
16


Giá đất bồi thường: Không áp dụng theo bảng giá đất mà áp dụng giá đất cụ
thể do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất; quy định
cụ thể điều kiện được bồi thường về đất, bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại,
bồi thường tài sản gắn liền với đất; quan tâm hơn đến đảm bảo sinh kế cho người
có đất thu hồi thông qua quy định các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như
hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tạo việc
làm; hỗ trợ TĐC; quy định trách nhiệm trong việc lập các khu TĐC bảo đảm tiêu
chuẩn, quy chuẩn; phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng
miền; quy định quyền tham gia của người dân trong quá trình lập và thực hiện
phương án bồi thường, hỗ trợ TĐC.
Đây là một trong những điểm mới của Luật Đất đai 2013 mà Luật Đất đai

2003 chưa quy định rõ, những quy định này sẽ giải quyết được những vướng mắc
trong việc bồi thường, hỗ trợ đất đối với đất do cơ sở tôn giáo đang sử dụng vào
mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp,
làm cơ sở hoạt động từ thiện, không phải là đất được Nhà nước giao mà có nguồn
gốc do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho hợp pháp hoặc khai hoang trước ngày
01 tháng 7 năm 2004.
1.2. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên thế giới và kinh
nghiệm cho Việt Nam
1.2.1. Tại Trung Quốc
Luật đất đai ra đời năm 1986, đã qa nhiều lần sửa đổi bổ sung các năm 1988,
2004, chia đất thành đất nông dụng, đất dùng vào xây dựng và đất chưa lợi dụng.
Luật quy định mọi đơn vị và cá nhân khi cần đất đai để tiến hành xây dựng thì
phải căn cứ vào pháp luật mà xin sử dụng đất thuộc sở hữu Nhà nước, trừ trường
hợp xây dựng xí nghiệp hương trấn, nhà ở nông thôn, cơ sở hạ tầng và công ích
hương trấn. Nếu Nhà nước chấp nhận đề nghị đó thì trưng dụng đất thuộc sở hữu
Nhà nước để cung ứng (trong một số trường hợp thì gọi là thu hồi quyền sử dụng

17


đất), khi không có hoặc không đủ loại đất này thì trưng thu đất thuộc sở hữu tập
thể để chuyển đổi đất thành đất thuộc sở hữu Nhà nước .
Trung Quốc rất coi trọng việc bảo vệ đất canh tác, đặc biệt là “đất ruộng cơ
bản” đã được chính quyền xác định dùng vào sản xuất lương thực, bông, dầu ăn,
rau, hoặc đã có công trình thủy lợi tốt. Luật còn quy định cụ thể đất ruộng cơ bản
phải chiếm 80% trở lên đất canh tác của mỗi tỉnh. Nguyên tắc bảo vệ đất canh tác
là “chiếm bao nhiêu, khẩn bấy nhiêu”, nếu không có điều kiện thì nộp phí khai
khẩn cho cấp tỉnh dùng để khai hoang. Cấm không được chiếm dụng đất canh tác
để xây lò gạch, mồ mả hoặc tự ý xây nhà, đào lấy cát, khai thác đá, quặng...Việc
trưng thu các đất sau đây phải được Quốc vụ viện (Chính phủ) phê chuẩn: (1) đất

ruộng cơ bản; (2) đất canh tác vượt quá 35 ha; (3) đất khác vượt quá 70 ha. Trưng
thu các đất khác do chính quyền cấp tỉnh phê chuẩn rồi báo cáo Quốc vụ viện.
Khi trưng thu đất đai thì phải bồi thường hiện trạng sử dụng đất lúc đó. Chi
phí bồi thường bao gồm tiền bồi thường đất, tiền trợ giúp an cư tính theo số nhân
khẩu của hộ gia đình và tiền hoa màu. Tiền bồi thường đất bằng 6 - 10 lần, còn
tổng số tiền trợ giúp an cư tối đa không quá 15 lần giá trị trung bình sản lượng
hàng năm của 3 năm trước trưng thu.
Đối với đất thuộc sở hữu Nhà nước, khi nhu cầu đất vì lợi ích công cộng
hoặc để cải tạo các khu đô thị cũ đã được cấp có thẩm quyền phê chuẩn thì được
thu hồi quyền sử dụng đất có bồi thường. Khi đó để thu hồi đất buộc phải di dời
nhà cửa, vì vậy năm 1991 Quốc vụ viện ban hành Điều lệ quản lý di dời nhà cửa
đô thị, đến năm 2001 thì thay bằng Điều lệ mới. Theo điều lệ này thì bên di dời
phải bồi thường về nhà cửa cho bên bị di dời bằng tiền tính theo giá thị trường
hoặc bằng cách chuyển đổi tài sản. Không bồi thường nhà xây trái phép hoặc nhà
tạm đã hết hạn.
Nói chung, chính quyền các thành phố lớn đều dựa trên văn bản pháp quy
của Nhà nước để ban hành các quy định, điều lệ của địa phương về trưng thu đất
và di dời nhà cửa.
18


1.2.2. Tại Thái Lan
Không có chính sách đền bù TĐC quốc gia, vì đa hình thức sở hữu đất đai
nhưng tại Hiến pháp năm 1982 quy định việc trưng dụng đất cho các mục đích
xây dựng cơ sở hạ tầng, quốc phòng, phát triển nguồn tài nguyên cho đất nước,
phát triển đô thị cải tạo đất đai và mục đích công cộng khác phải theo thời giá thị
trường cho những người hợp pháp về tất cả thiệt hại do việc trưng dụng gây ra và
quy định việc bồi thường phải khách quan cho người chủ mảnh đất và người có
quyền thừa kế tài sản đó. Dựa trên những quy định này, các ngành có quy định chi
tiết cho việc thực hiện trưng dụng đất của ngành mình.

Năm 1987, Thái Lan ban hành Luật về trưng dụng BĐS áp dụng cho việc
trưng dụng đất sử dụng vào mục đích xây dựng tiện ích công cộng, quốc phòng,
phát triển nguồn tài nguyên hoặc có lợi ích khác cho đất nước phát triển đô thị,
nông nghiệp, công nghiệp, cải tạo đất đai vào các mục đích công cộng. Luật quy
định những nguyên tắc trưng dụng đất, nguyên tắc tính giá trị bồi thường các loại
tài sản bị thiệt hại. Căn cứ vào đó, từng ngành đưa ra các quy định cụ thể về trình
tự tiến hành bồi thường TĐC, nguyên tắc cụ thể xác định giá bồi thường, các bước
lập và phê duyệt dự án bồi thường thủ tục thành lập các cơ quan, ủy ban tính toán
bồi thường TĐC, trình tự đàm phán, nhận tiền bồi thường quyền khiếu nại, quyền
khởi kiện đưa tòa án. Ví dụ:
Trong ngành điện năng thì cơ quan điện lực Thái Lan là nơi có nhiều dự án
bồi thường TĐC lớn nhất nước, họ đã xây dựng chính sách riêng với mục tiêu:
“Đảm bảo cho những người bị ảnh hưởng và đạt một mức sống tốt hơn” thông
qua việc cung cấp cơ sở hạ tầng có chất lượng và đạt mức tối đa nhu cầu, đảm bảo
cho những người bị ảnh hưởng có thu nhập cao hơn và được tham gia nhiều hơn
vào quá trình phát triển xã hội, vì vậy thực tế đã tỏ ra hiệu quả khi cần thu hồi đất
trong nhiều dự án.

19


1.2.3 Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
Theo ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) thì việc bồi thường, hỗ trợ và
TĐC cũng phải hoàn thành xong trước khi tiến hành thực hiện dự án, trơng khi ở
Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về thời hạn này (rất nhiều dự án vừa giải tỏa
mặt bằng vừa triển khai thi công, chỗ nào GPMB xong thì thi công trước khi tránh
lấn chiếm đất đai), do vậy nhiều gia đình còn chưa kịp thời sửa chữa, xây dựng lại
hoặc xây dựng nhà ở mới ổn định trước khi giải tỏa.
- Quy định của ngân hàng ADB là không những phải thông báo đầy đủ các
thông tin về các dự án cũng như chính sách bồi thường, TĐC của dự án cho các

hộ mà còn phải tham khảo ý kiến và tìm cách thỏa mãn các yêu cầu chính đáng
của họ trong suốt quá trình kế hoạch cũng như thực hiện công tác TĐC. Ở Việt
Nam, việc thực hiện đầy đủ nội dung này là rất khó khăn, vì việc thu hồi đất là
quyền của Nhà nước nhưng việc di chuyển theo kế hoạch như thế nào, TĐC ra sao
hầu như không trả lời ngay được.
- Theo quy định của ngân hàng ADB, ngoài giám sat nội bộ, cơ quan thực
hiện dự án phải thuê một tổ chức bên ngoài giám sát độc lập để đảm bảo những
thông tin khách quan. Nhiệm vụ của cơ quan giám sát độc lập phải kiểm tra quá
trình triển khai của TĐC. Từ đó, có những kiến nghị biện pháp giải quyết sao cho
công tác TĐC đạt mục tiêu cuối cùng là giải quyết những vướng mắc nảy sinh.
Các chính sách hiện hành tại Việt Nam chưa có quy định về giám sát độc lập
về TĐC. Cho nên việc giám sát độc lập công tác TĐC là công tác khá mới mẻ và
ít cá nhân quen với công việc này.
- Phạm vi ảnh hưởng của dự án phải quan tâm theo ADB là rất rộng còn theo
chính sách hiện hành của Việt Nam thì còn hạn chế.
1.2.4. Kinh nghiệm cho Việt Nam
Mặc dù mỗi nước có chế độ sở hữu đất đai khác nhau nhưng chính sách thu
hồi đất, pháp lý về thu hồi đất là yếu tố không thể thiếu trong quá trình phát triển
20


kinh tế đất nước, có thể chính sách pháp luật của các nước không quy định chi tiết
đến từng đối tượng nhưng bao quát đầy đủ (kể cả chính sách lẫn sự chuẩn bị về
vốn và quỹ đất, quỹ nhà) cùng với các cơ chế phù hợp được người dân ủng hộ,
chấp thuận. Đặc biệt là ý thức tự giác và sự tuân thủ luật pháp của người có đất bị
thu hồi.
Đối với các nước nêu trên, để thực hiện có hiệu quả chính sách thu hồi đất
trước hết phải hoạch định chiến lược các chính sách; xây dựng, bổ sung, điều
chỉnh kịp thời chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất; phổ biến
chính sách pháp luật về thu hồi đất, đưa pháp luật đất đai đi vào đời sống xã hội;

kiên quyết xử lý thu hồi đất đối với tất cả các trường hợp không đủ điều kiện cấp
GCNQSDĐ, đảm bảo kỷ cương trong công tác quản lý, sử dụng đất và đặc biệt
cần quan tâm đến giá đền bù thiệt hại về đất đai, tài sản cho người bị thu hồi đất
với mục tiêu đảm bảo cuộc sống cho người có đất bị thu hồi ngang bằng hoặc tốt
đẹp hơn.
Những kinh nghiệm này tác dụng trực tiếp và ảnh hưởng sâu sắc đối với điều
kiện và hoàn cảnh thực tiễn ở Việt Nam. Mặc dù mỗi nước đều có chế độ sở hữu
đất đai riêng nhưng chính sách thu hồi đất đai là hiện tượng không tránh khỏi
trong quá trình phát triển. Qua nghiên cứu, chính sách quản lý, sử dụng đất của
các nước và tổ chức không có gì mới mà là do việc tuân thủ pháp luật đất đai rất
nghiêm minh, sự chấp hành vô điều kiện pháp luật trong quá trình thực hiện chính
sách thu hồi đất từ cơ quan có thẩm quyền đến người sử dụng đất. Cuối cùng là
tính pháp chế cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền là nguyên nhân thành công
của mọi thành công ở các Nhà nước này.
Ở nước ta, quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra hàng loạt vấn đề bức xúc liên
quan đến việc làm và chính sách giải quyết việc làm sau khi thu hồi đất. Đây là
tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động, góp phần tích cực
21


vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ chính sách giải quyết
việc làm sau khi thu hồi đất của Trung Quốc ta có thể rút ra một số bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam:
Thứ nhất, không ngừng phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trên cơ sở nhu cầu lao động của xã hội.
Thứ hai, phát triển mạnh mẽ những ngành nghề ứng dụng nhiều tiến bộ khoa
học - công nghệ và những ngành nghề sử dụng lao động.
Thứ ba, phát triển hệ thống dịch vụ việc làm và thông tin thị trường lao động.
Thứ tư, thực hiện cải cách chế độ tiền lương, thu nhập của người lao động.

1.3. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất tại Việt Nam
1.3.1. Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất ở Việt Nam
1.3.1.1. Thành tựu
Ở nước ta, các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và TĐC
ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu của thực tế cũng như yêu cầu của các quy
luật kinh tế. Nghị định 197/2004/NĐ-CP, Nghị định 84/2007/NĐ-CP và đặc
biệt là Luật đất đai 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014 và sự ra đời
của Nghị định 47/2014/NĐ-CP đã thể hiện được tính khả thi và vai trò tích
cực của các văn bản pháp luật. Vì thế, công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC trong
thời gian qua đã đạt được các kết quả khả quan, thể hiện trên một số khía cạnh
chủ yếu sau:
Thứ nhất, đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, TĐC ngày càng được xác
định đầy đủ chính xác (Khoản 1, Điều 14, Nghị định 69/2009/NĐ-CP), phù
hợp với tình hình thực tế của đất nước, giúp cho công tác quản lí đất đai của
Nhà nước được nâng cao, người nhận đền bù cũng thấy thảo đáng (Khoản 2,
3, 4 Điều 14 Nghị định 69/2009/NĐ-CP);
22


Thứ hai, mức bồi thường hỗ trợ ngày càng cao, tạo điều kiện cho người
dân bị thu hồi đất có thể khôi phục lại tài sản bị mất. Một số biện pháp hỗ trợ
đã được bổ sung và quy định rất rõ ràng, thể hiện được tinh thần đổi mới của
Đảng và Nhà nước nhằm giúp cho người dân ổn định về đời sống và sản xuất;
Thứ ba, việc bổ sung nghị định 197/2004/NĐ-CP về việc tự thỏa thuận
của các nhà đầu tư cần đất với người sử dụng đất đã góp phần giảm sức ép
cho các cơ quan hành chính trong việc thu hồi đất;
Thứ tư, trình tự thủ tục tiến hành bồi thường, hỗ trợ và TĐC (Điều 28, 29
Nghị định 69/2009/NĐ-CP) đã giải quyết được nhiều khúc mắc trong thời

gian qua, giúp cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện công tác
bồi thường, TĐC có hiệu quả;
Thứ năm, các địa phương bên cạnh việc thực hiện các quy định của Luật
Đất đai năm 2003, các nghị định hướng dẫn thi hành, đã dựa trên sự định
hướng chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình thực tế tại địa phương để
ban hành các văn bản pháp luật áp dụng cho địa phương mình, làm cho công
tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC được thực hiện hợp lí và đạt hiệu quả cao hơn.
Do đã vận dụng các chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC thỏa đáng nên việc
thu hồi đất đã tiến hành bình thường, mặc dù vẫn còn những khiếu nại nhưng
con số này ít và không gây trở ngại đáng kể trong quá trình thực hiện;
Thứ sáu, nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa nhân văn cũng như tính
chất phức tạp của vấn đề thu hồi đất, TĐC của các nhà quản lí, hoạch định
chính sách của chính quyền địa phương được nâng lên. Chính phủ đã có nhiều
nỗ lực để tạo điều kiện vật chất và kĩ thuật trong việc bồi thường, hỗ trợ,
TĐC. Đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC có năng lực và
có nhiều kinh nghiệm ngày càng đông đảo; chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn của
công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC giữa các bộ, ban, ngành có các dự án đầu tư
ngày càng được mở rộng và có hiệu quả. Nhờ những cải thiện về quy phạm
23


pháp luật về phương pháp tổ chức, về năng lực thực thi GPMB, tiến độ
GPMB trong các dự án đầu tư gần đây đã được rút ngắn hơn so với các dự án
cũ, góp phần giảm bớt tác động tiêu cực đối với người dân cũng như đối với
dự án. Việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC đã giúp cho đất
nước ta xây dựng cơ sở vật chất, phát triển cơ cấu hạ tầng, xây dựng khu chế
xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, các dự án trọng điểm của Nhà
nước, cũng như góp phần chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định đời sống sản
xuất cho người có đất bị thu hồi (GVC. TS Phạm Phương Nam, 2011).
Thứ bảy, Luật đất đai 2013 và Nghị định 47/2014/NĐ-CP có hiệu lực thi

hành từ 01/7/2014 đã đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước trong
chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất
trong đó có thu hồi đất ở. Điều này sẽ góp phần làm cho cuộc sống người dân
thuộc đối tượng bị thu hồi đất có thể tiếp tục ổn định cuộc sống, đảm bảo sự
ổn định chung của xã hội. Cụ thể:
- Luật Đất đai 2013 đã “luật hóa” các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư theo nghị định 197/2004/NĐ-CP và Nghị định 69.
Có thể nhận thấy các chế định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ở trong Luật đất đai năm 2003 được quy định trong một số ít
điều luật mà quy định chủ yếu là ở Nghị định 197/2004/NĐ-CP và Nghị định
69/2009/NĐ-CP mà trên thực tế là đã không thể thể chế, truyền tải một cách
thống nhất các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Khắc phục hạn chế
này, Luật đất đai 2013 đã luật hóa các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư tại các Nghị định 197/2004/NĐ-CP và Nghị định 69/2009/NĐ-CP nhằm
đảm bảo sự áp dụng một cách thống nhất các quy định của pháp luật trong bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở nói riêng và các loại đất
khác nói chung.

24


Hơn nữa Luật đất đai 2013 trong quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư cũng sửa đổi, bổ sung đối tượng được bồi thường là người Việt Nam định
cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt
Nam mà đủ điều kiện được bồi thường; Tổ chức kinh tế, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức kinh tế liên doanh đang
sử dụng đất để thực hiện dự án xây dựng nhà ở cho phù hợp với thực tiễn và
quy định của luật. Với quy định mới này sẽ khắc phục bất cập trong thực tiễn
thực hiện bồi thường đất ở, đảm bảo sự bình đẳng giữa hộ gia đình, cá nhân
trong nước với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, đảm bảo tốt hơn quyền

và lợi ích cho người bị thu hồi đất, giảm thiểu khiếu nại về đất đai.
- Quy định rõ các hình thức bồi thường. Trước đây Luật Đất đai 2003
mới chỉ quy định về các loại bồi thường: giao đất ở mới, nhà tái định cư mới
hoặc bồi thường bằng tiền mà không quy định rõ trường hợp nào giao đất
mới, trường hợp nào giao nhà tái định cư mới hoặc trả bằng tiền.
Còn theo Luật đất đai 2013 thì đã quy định cụ thể:
“Trường hợp không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường,
thị trấn nơi có đất thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở; trường
hợp không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở thì Nhà nước bồi
thường bằng tiền;
Trường hợp còn đất ở, nhà ở trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất
thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Đối với địa phương có điều kiện về quỹ
đất ở thì được xem xét để bồi thường bằng đất ở.”
Như vậy, quy định mới này đã tạo điều kiện cho công tác lập và thực
hiện bồi thường khi thu hồi đất ở nói riêng triển khai có hiệu quả đồng thời
cũng tạo cho những đối tượng thực sự có nhu cầu về nhà ở thực sự nhận được
nhà ở, đối tượng đã có nhà mà muốn được bồi thường bằng tiền sẽ được bồi
thường bằng tiền.
25


×