Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân tỉnh hải dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (933.28 KB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH
CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

PHẠM THỊ THẮM

THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NÔNG DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG HIỆN NAY

Ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60. 22. 03. 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. Đỗ Thị Thạch

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình trên là do chính tôi thực hiện
với sự hướng dẫn của PGS, TS. Đỗ Thị Thạch. Các số liệu, tài liệu
trong khóa luận là hoàn toàn trung thực.
Tác giả

Phạm Thị Thắm



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NÔNG DÂN Ở
TỈNH HẢI DƯƠNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ......................... 9
1.1. Quan niệm về bình đẳng giới và tầm quan trọng của bình đẳng
giới trong gia đình nông dân hiện nay ................................................. 9
1.2. Những yếu tố tác động đến việc thực hiện bình đẳng giới trong
gia đình nông dân Hải Dương hiện nay ............................................. 25
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG GIA ĐÌNH NÔNG DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA ......................................................................................... 44
2.1. Thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân Hải
Dương hiện nay.................................................................................. 44
2.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong
gia đình nông dân tỉnh Hải Dương hiện nay...................................... 73
Chương 3: NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NÔNG DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
HIỆN NAY ..................................................................................................... 82
3.1. Phương hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện
bình đẳng giới trong gia nông dân ở tỉnh Hải Dương hiện nay ......... 82
3.2. Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng
giới trong gia đình nông dân ở tỉnh Hải Dương hiện nay.................. 90
KẾT LUẬN .................................................................................................. 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 107
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 111


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người phát triển toàn diện là mục tiêu, xu hướng phát triển tất yếu
của lịch sử xã hội loài người. Sự tiến bộ của con người được xem là tiêu
chuẩn cao nhất cho sự đánh giá sự phát triển của một xã hội nói chung. Đây
cũng là xu hướng tất yếu của cách mạng XHCN.
Bình đẳng giới là khái niệm biểu đạt sự đối xử như nhau của xã hội đối
với nam và nữ; là trạng thái (hay tình hình) xã hội trong đó phụ nữ và nam
giới có vị trí như nhau, có các cơ hội như nhau để phát hiện đầy đủ tiềm năng
của mình, sử dụng nó cho sự phát triển của xã hội và được hưởng lợi từ kết
quả của sự phát triển đó. Luật Bình đẳng giới (2006), điều 5 ghi rõ “Bình
đẳng giới là việc nam nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và
cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia
đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Mục tiêu của bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ
hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển
nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ và thiết lập,
củng cố mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và gia đình.
Ở Việt Nam, tư tưởng bình đẳng giới được thể hiện trong nhiều tác
phẩm của Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng, Nhà nước. Trong Chánh cương
Vắn tắt của Đảng đã khẳng định thực hiện nguyên tắc “nam nữ bình quyền”.
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946) ghi rõ: phụ
nữ và nam giới được bình đẳng với nhau trên mọi phương diện. Từ đó đến
nay tư tưởng bình đẳng giới - bình đẳng nam nữ, tiếp tục được Đảng, Nhà
nước tích cực chỉ đạo, triển khai mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Nhờ đó, vị trí, vai trò của phụ nữ Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản theo


2


hướng ngày càng bình đẳng hơn so với nam giới. Tuy nhiên, trên thực tế, bất
bình đẳng giữa nam và nữ vẫn còn tồn tại khá rõ nét. Thực hiện bình đẳng
giới là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và lâu dài trong nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội hiện nay. Cơ hội để phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực học tập,
lao động, chính trị... đều còn hạn chế, trong đó, sự bất bình đẳng trong gia
đình diễn ra với nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Vai trò vị trí của nam
giới vẫn tiếp tục được khẳng định, đề cao, được coi trọng hơn phụ nữ. Thực tế
này vẫn đang diễn ra ở hầu hết các gia đình thành thị, nông thôn; các giai cấp,
tầng lớp công nhân, trí thức... nông dân Việt Nam.
Bình đẳng giới trong gia đình là một trong những lĩnh vực quan trọng
góp phần thúc đẩy bình đẳng giới trong xã hội trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, tư tưởng; thực hiện công bằng, bình đẳng, văn minh của đất nước.
Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ Đại hội XI của Đảng đề ra: “xây dựng gia
đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện tốt bình đẳng giới, sự tiến
bộ của phụ nữ”, tỉnh Hải Dương đã từng bước thực hiện được nhiều thành tựu
quan trọng về bình đẳng giới, bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết trong thời gian tới.
Hải Dương là tỉnh nằm trong khu vực Đồng bằng sông Hồng, giữ vị trí
trung chuyển quan trọng trong vùng tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc: Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Với điều kiện địa lý, tự nhiên thuận lợi, nhiều
tiềm năng về tài nguyên, lợi thế về địa kinh tế khu vực, phù hợp với sản xuất
hàng hóa, có giá trị kinh tế cao, trong những năm qua Đảng bộ và chính
quyền tỉnh Hải Dương đã quán triệt các quan điểm, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước về lĩnh vực bình đẳng giới và triển khai vào đời sống xã hội
của địa phương nên bình đẳng giới trong gia đình nông dân đã có bước tiến
bộ lớn.


3


Nông dân ở tỉnh Hải Dương là bộ phận quan trọng chiếm trên 70% dân
số, có đóng góp tích cực trong việc xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Những gương mặt
và hộ gia đình nông dân tiến bộ gương mẫu trong xây dựng đời sống văn hóa,
xây dựng gia đình văn hóa trên địa bàn tỉnh ngày càng nhiều, tạo đòn bẩy để
xây dựng đời sống văn hóa gia đình trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên cơ cấu kinh
tế của tỉnh sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm đa số. Các gia đình nông dân sống
chủ yếu bằng nghề trồng lúa và hoa màu. Với đặc điểm kinh tế nông nghiệp,
trình độ dân trí chưa cao, cơ hội tiếp cận những nguồn thông tin mới của
người nông dân còn hạn chế, tư tưởng còn lạc hậu. Tư tưởng gia trưởng cùng
những sự biến đổi chậm chạp của ý thức xã hội, các thiên kiến về giới vẫn
bám rễ lâu đời của các tầng lớp dân cư nên tình trạng bất bình đẳng giới ở nơi
đây vẫn diễn ra phổ biến, nhất là trong gia đình. Tình trạng bạo lực, bạo hành
trong gia đình nông dân còn diễn ra thường xuyên. Vì vậy, bình đẳng giới
trong gia đình nông dân tỉnh Hải Dương rất cần được quan tâm nghiên cứu.
Nhằm góp phần đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những giải pháp thích
hợp hạn chế bất bình đẳng trong gia đình nông dân vì sự tiến bộ của nông dân
trong tỉnh, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Thực hiện bình đẳng giới trong gia
đình nông dân tỉnh Hải Dương hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp, mong
muốn góp phần nhỏ bé vào nhiệm vụ xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng
nông thôn tiến bộ về kinh tế, xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Về bình đẳng giới
Thực hiện bình đẳng giới hiện nay là một trong những vấn đề quan
trọng trong góp phần phát triển bền vững đất nước. Thực tiễn cho thấy vấn đề
gia đình và thực hiện bình đẳng giới luôn thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của


4


nhiều nhà khoa học xã hội và các nhà quản lý ở Việt Nam. Đến nay có rất
nhiều công trình của tập thể tác giả cũng như cá nhân được công bố như:
Trung tâm Nghiên cứu gia đình và phụ nữ (1998 - 2000) “Điều tra cơ
bản về gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia đình thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Đề tài chỉ sự biến đổi các mối quan hệ cha
mẹ, vợ chồng, con cái. Qua đó phân tích, làm rõ quan hệ bình đẳng giới trong
gia đình có sự chuyển biến tích cực. Người phụ nữ trong gia đình được nâng
cao địa vị, có tiếng nói tham gia quyết định công việc lớn trong gia đình, có
sự độc lập và vai trò lớn trong việc nâng cao thu nhập trong gia đình do thành
tựu mà công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại.
Nguyễn Linh Khiếu (2003), “ Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình”,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tác giả đã phân tích, chỉ rõ vai trò của phụ nữ
cũng như quan hệ giới trong gia đình đặc biệt là phụ nữ nông thôn miền núi.
Công trình đặt ra nhiều vấn đề cho những nhà khoa học, nhà hoạch định chính
sách đối với phụ nữ và gia đình.
Vũ Tuấn Huy (2004) “ Xu hướng gia đình ngày nay” (một vài đặc điểm
từ nghiên cứu thực nghiệm tại tỉnh Hải Dương). Công trình nghiên cứu đã
phân tích về sự biến đổi về gia đình ngày nay. Tác giả nhấn mạnh đến sự biến
đổi cơ cấu kinh tế - xã hội, các ảnh hưởng yếu tố thị trường, công nghệ - khoa
học, sự di cư và biến đổi của định hướng giá trị đã tác động đến sự hình thành
hôn nhân, quan hệ giữa các thế hệ, phân công lao động gia đình, số con và
khoảng cách sinh con...
PGS, TS Phan Thanh Khôi, PGS, TS. Đỗ Thị Thạch (chủ biên) (2007)
“Những vấn đề về giới: từ lịch sử đến hiện đại”, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội. Công trình đi sâu phân tích quan điểm giới, vấn đề giới trong tư tưởng
của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh; địa vị người phụ nữ
trong gia đình, xã hội có đối kháng giai cấp, áp bức bất công. Tác giả cũng đi



5

sâu phân tích quan điểm giới, bình đẳng giới trong đường lối, pháp luật của
Đảng, Nhà nước.
Về bình đẳng giới trong gia đình nông dân
Nội dung bình đẳng giới trong gia đình nông dân đã được tìm hiểu ở
nhiều khía cạnh khác nhau. Có nhiều công trình nghiên cứu liên quan tới bình
đẳng giới trong nông thôn về lao động, việc làm; về phân công lao động trong
gia đình và ngoài xã hội... Đây là những nguồn tài liệu quan trọng cho tác giả
nghiện cứu chủ đề về: Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân Hải
Dương hiện nay. Tiêu biểu phải kể đến:
TS Hoàng Bá Thịnh (2002) “Vai trò của người phụ nữ nông thôn
trong công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn”, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội. Công trình này đã trình bày lý luận về vai trò của phụ nữ trong phát
triển kinh tế- xã hội ở khu vực nông thôn. Đồng thời nêu kiến nghị giải pháp
chủ yếu về phát triển chuyên môn - kỹ thuật, nâng cao sức khỏe cho phụ nữ
nông thôn.
Chu Thị Thoa (2002), “Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn
đồng bằng sông Hồng”, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng, nguyên nhân,
giải pháp thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông thôn vùng đồng bằng
sông Hồng mà trong đó có tỉnh Hải Dương.
TS Chu Thị Thoa (Chủ nhiệm đề tài) (2010), Vai trò Hội Phụ nữ tham
gia giải quyết vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Công trình đã chỉ ra vai trò quan
trọng của Hội Phụ nữ trong việc tìm kiếm, giới thiệu việc làm và đào tạo nghề
cho phụ nữ nông thôn của tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Các nghiên cứu liên quan đến bình đẳng giới, gia đình ở Hải Dương



6

Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh ủy, UBND tỉnh
Hải Dương từ 2005 - 2010 và 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.
Báo cáo tình hình 5 năm thực hiện Luật Bình đẳng giới 2011 - 2015
Báo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về Bình đẳng giới trên địa
bàn tỉnh Hải Dương 2011 - 2013 (Báo cáo phục vụ kế hoạch giám sát của
Ban Văn hoá xã hội - HĐND tỉnh).
Báo cáo tình hình triển khai chương trình bình đẳng giới trên địa bàn
tỉnh Hải Dương giai đoạn 2011 - 2013.
Bên cạnh đó có nhiều bài báo, báo mạng, tạp chí của tỉnh đề cập những
vấn đề nảy sinh trong gia đình liên quan trực tiếp tới vấn đề giới, bình đẳng
giới của tỉnh.
Những công trình, tài liệu nghiên cứu kể trên là những tư liệu tham
khảo có giá trị lớn cho việc nghiên cứu bình đẳng giới trong gia đình nông
dân. Các kết quả nghiên cứu của các nhóm đề tài, công trình khoa học trên đã
đề cập đến vấn đề giới, vai trò của bình đẳng giới đối với sự phát triển xã hội
nói chung, ở các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, gia đình. Nhưng do mục
đích và nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau, vì vậy chưa có một công trình
nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện, hệ thống thực hiện vấn đề bình
đẳng giới hay bất bình đẳng giới đối với phụ nữ trong gia đình nông dân ở
tỉnh Hải Dương. Do vậy, tác giả chọn đề tài: “Thực hiện bình đẳng giới
trong gia đình nông dân tỉnh Hải Dương hiện nay”. Đây là một vấn đề cần
được giải quyết hoàn toàn mới mẻ để góp phần nâng cao sự bình đẳng giới
trong gia đình nông dân của tỉnh, góp phần vì sự tiến bộ phát triển của phụ nữ
tỉnh Hải Dương nói chung và phụ nữ trong gia đình nông dân nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích



7

Trên cơ sở phân tích làm rõ thực trạng việc thực hiện bình đẳng giới ở
gia đình nông dân của tỉnh Hải Dương, luận văn đề xuất các giải pháp chủ yếu
góp phần thúc đẩy việc thực hiện bình đẳng giới nhằm xây dựng gia đình văn
hóa trên địa bản tỉnh Hải Dương hiện nay.
Nhiệm vụ
- Làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện bình đẳng
giới trong gia đình nông dân ở Hải Dương.
- Phân tích thực trạng và chỉ rõ những vấn đề đặt ra trong việc thực
hiện bình đẳng giới ở gia đình nông dân tỉnh Hải Dương hiện nay.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu thúc đẩy bình
đẳng giới ở gia đình nông dân góp phần xây dựng gia đình văn hóa trên địa
bàn tỉnh Hải Dương hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu mối quan hệ giới trong gia đình, gồm: giữa vợ chồng, con trai - con gái. Cụ thể mối quan hệ giới trong: Thực hiện chức năng
gia đình; trong tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực gia đình.
- Luận văn tập trung nghiên cứu mối quan hệ giới trong gia đình nông
dân của Hải Dương trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
nhà nước về bình đẳng giới và gia đình.
Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ
thể: Phân tích - tổng hợp, lịch sử - lôgic, phân tích tài liệu, khảo sát thực tiễn…
6. Đóng góp mới của luận văn


8


Luận văn góp phần làm rõ thực trạng quan hệ giới trong gia đình nông
dân ở Hải Dương hiện nay
Luận văn góp phần đề xuất giải pháp nhằm khắc phục bất bình đẳng
giới trong gia đình nông dân của Hải Dương
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần xây dựng căn cứ thực tiễn cho việc xây dựng
chính sách đối với bình đẳng giới ở gia đình nông dân của Hải Dương
- Luận văn làm tài liệu tham khảo cho công tác xây dựng gia đình văn
hóa ở địa phương
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu
gồm 3 chương 6 tiết.


9

Chương 1
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NÔNG DÂN Ở TỈNH HẢI
DƯƠNG - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Quan niệm về bình đẳng giới và tầm quan trọng của bình đẳng
giới trong gia đình nông dân hiện nay
Xã hội loài người tồn tại thông qua những mối quan hệ rất phong phú,
không chỉ là mối quan hệ tự nhiên mà còn là những quan hệ xã hội. Xã hội
ngày càng phát triển thì mối quan hệ giữa người và người ngày càng trở nên
phức tạp và phong phú hơn. Bên cạnh các quan hệ giữa người và người, cộng
đồng nương tựa vào nhau để tồn tại cũng nảy sinh những mối quan hệ bất
bình đẳng về giai cấp, chủng tộc, tôn giáo..., đặc biệt là bất bình đẳng giữa
giữa nam và nữ, nó bắt đầu từ trong gia đình rồi đến ngoài xã hội.
Để nhìn nhận về mối quan hệ bình đẳng giới trong gia đình nông dân ở
tỉnh Hải Dương cần tiếp cận từ cơ sở lý luận và thực tiễn sau:

1.1.1. Quan niệm về bình đẳng giới và bình đẳng giới trong gia đình
nông dân
1.1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về bình đẳng giới
Thứ nhất, khái niệm về giới
Con người luôn vươn tới khát vọng về một xã hội bình đẳng, trong đó
có bình đẳng giới, nhưng thế nào là bình đẳng giới là một nội dung quan trọng
mà về mặt nhận thức cần được chỉ rõ.
Thuật ngữ giới ra đời và phát triển vào những năm 70 của thế kỷ XX đã
làm rõ sự khác biệt giữa nam và nữ về phương diện xã hội, đóng góp tích cực
và quan trọng trong việc thay đổi địa vị, vai trò của phụ nữ trong mối quan hệ
với nam giới, cũng như trong sự phát triển nói chung.


10

Giới (Gender) là khái niệm khoa học ra đời từ môn nhân chủng học, chỉ
sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách
nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và nữ.
Theo điều 5 của Luật Bình đẳng giới của Việt Nam đã chỉ rõ “Giới chỉ
đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội”.
Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân công
lao động, phân chia các nguồn của cải vật chất tinh thần, tức là cách đáp ứng
nhu cầu của cả nam và nữ trong xã hội. Tuy nhiên, để làm rõ sự khác biệt
giữa nam và nữ về mặt xã hội, phải dựa trên sự khác biệt về giới tính và mối
quan hệ giữa hai giới. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản
xuất ra con người, di truyền nòi giống. Con người khi sinh ra đã có đặc điểm
giới tính.
Giới tính nói lên tính ổn định trong tương quan giữa nam và nữ trong
quá trình sinh sản, chức năng sinh sản của nam và nữ không thể thay đổi,
chuyển dịch cho nhau. Chức năng này hầu như bất biến về thời gian và

không gian. Chẳng hạn phụ nữ mọi thời đại, mọi chế độ chính trị, mọi nền
văn hóa đều giống nhau ở khả năng mang thai và sinh con; nam giới cũng
đều giống nhau ở chức năng sinh sản. Còn Giới thì luôn biến đổi, vị trí xã
hội của phụ nữ so với nam giới luôn phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, chính
trị, phong tục, tập quán, tôn giáo trong từng giai đoạn lịch sử, từng quốc gia,
từng vùng miền… Bất bình đẳng giới thể hiện đa dạng về tính chất, mức độ ở
các cộng đồng xã hội khác nhau.
Giới tính là tiền đề sinh học của sự khác biệt giữa nam và nữ, còn nội
dung của sự khác biệt này lại do xã hội quy định. Chính quy định của xã hội
đã làm cho người ta tin rằng nam giới có ưu thế hơn hẳn phụ nữ. Niềm tin này
thường mạnh hơn các luận chứng khoa học.


11

Từ mối quan hệ giữa giới và giới tính cho thấy giữa nam và nữ có
những đặc trưng hết sức khác nhau cả về mặt tự nhiên và xã hội. Sự khác biệt
tự nhiên giữa nam và nữ mang tính bẩm sinh, không thể thay đổi được và
cũng không cần thay đổi, đó là sự hài hoà mà tạo hoá đã ban cho loài người
để bảo tồn nòi giống. Ngược lại, sự khác biệt xã hội giữa nam và nữ do xã hội
đã tạo ra, sự khác biệt đó đã đưa tới sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Do vậy,
sự bất bình đẳng giới thực chất là sự bất bình đẳng giữa nam và nữ về mặt xã
hội, xoá bỏ bất bình đẳng giới là rất cần thiết nhằm thay đổi tương quan địa vị
xã hội giữa nam và nữ.
Thứ hai, khái niệm về bình đẳng giới
Con người luôn mong muốn được sống trong một xã hội bình đẳng,
trong đó có bình đẳng nam và nữ, nhưng thế nào là bình đẳng và thế nào là
bình đẳng nam nữ (bình đẳng giới) là một nội dung quan trọng về mặt nhận
thức cần phải làm rõ. Hiện nay có hai cách hiểu khác nhau về bình đẳng giới:
Một là, từ quan niệm bình đẳng (chính trị) là sự được đối xử như nhau về

các mặt chính trị, văn hóa, kinh tế… không phân biệt địa vị, thành phần, giai
cấp trong xã hội, trước tiên nó thể hiện trong bình đẳng trước pháp luật.
Từ đó bình đẳng giới được hiểu là việc đối xử như nhau giữa nam và
nữ trên mọi lĩnh vực không tính đến sự khác biệt về sinh học và tự nhiên của
nam giới và nữ giới. Đây là quan điểm không khoa học vì nó không xuất phát
từ những cơ sở dựa trên phân tích khoa học về hai giới.
Tuy nhiên quan điểm này lại ảnh hưởng, tác động to lớn tới nhận thức
hành động của nhiều người dân nói chung trong nhận thức và hành động. Họ
cho rằng bình đẳng như vậy là không thể thực hiện được và vô lý. Khi mới
nghe nói tới “bình đẳng giới” nhiều người nghĩ ngay tới cách hiểu này.
Hai là, theo từ điển Tiếng Việt thì bình đẳng là ngang hàng nhau về địa
vị và quyền lợi.


12

Bình đẳng là khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn, là quyền cơ
bản của con người. Bình đẳng xã hội bao gồm các nội dung: Bình đẳng giữa
các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp dân cư, các nhóm tuổi… các
quốc gia. Cách mạng tư sản Pháp với tư tưởng: tự do, bình đẳng, bác ái. Bản
Hiến pháp đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ với tuyên bố: Mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng.
Tuyên bố chung về nhân quyền của Liên hợp quốc cũng khẳng định:
Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng.
Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyền bình đẳng của dân tộc, nhân dân
Việt Nam với nhân dân và các dân tộc trên thế giới. Và Người còn chỉ rõ: Mục
đích của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Chúng ta làm cách
mạng là để tranh lấy bình quyền, bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau.
Bình đẳng giới là khái niệm biểu đạt sự đối xử như nhau của xã hội đối

với nam và nữ; là trạng thái (hay tình hình) xã hội trong đó phụ nữ và nam
giới có vị trí như nhau, có các cơ hội như nhau để phát hiện đầy đủ tiềm năng
của mình, sử dụng nó cho sự phát triển của xã hội và được hưởng lợi từ kết
quả của sự phát triển đó. Luật Bình đẳng giới (2006), điều 5 ghi rõ “Bình
đẳng giới là việc nam nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và
cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia
đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”. [38, 9]
Mục tiêu của bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ
hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển
nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ và thiết lập,
củng cố mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và gia đình.


13

Để đạt được sự bình đẳng giới, phụ nữ phải được tạo điều kiện và cơ
hội như nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Song có
lẽ như thế vẫn chưa đủ để phụ nữ được bình đẳng thực sự. Ở Việt Nam cũng
như nhiều quốc gia khác trên thế giới, mặc dù Hiến pháp đã ghi nhận quyền
bình đẳng giữa nam và nữ trên mọi phương diện, thế nhưng phụ nữ vẫn chưa
có được bình đẳng thực sự. Cũng là con người như nam giới nhưng phụ nữ lại
có những đặc tính hết sức riêng biệt (do đặc trưng sinh học và đặc trưng xã
hội quy định hay chi phối), cho nên nếu chỉ thực hiện sự đối xử như nhau (căn
cứ vào cái chung) mà không chú ý đến cái riêng để có các đối xử đặc biệt thì
sẽ không có bình đẳng thực sự.
Cho nên, bình đẳng giới không chỉ là việc thực hiện sự đối xử như nhau
giữa nam và nữ trên mọi lĩnh vực xã hội, theo phương châm phụ nữ có thể và có
quyền làm tất cả những gì nam giới có thể và có quyền làm. Bình đẳng giới còn
là quá trình khắc phục tình trạng bất bình đẳng giữa hai giới nhưng không triệt

tiêu những khác biệt tự nhiên giữa họ, thông qua các đối xử đặc biệt với phụ nữ.
Đối xử đặc biệt không chỉ căn cứ vào sự khác biệt giữa nam và nữ, quá
trình bình đẳng giới còn phải chú ý sự khác biệt ngay trong giới nữ, thể hiện
qua các nhóm phụ nữ khác nhau: giữa thành thị và nông thôn, giữa công nhân
và nông dân, trí thức, giữa phụ nữ giàu và phụ nữ nghèo….
Như vậy, đối xử như nhau giữa các bộ phận xã hội không giống nhau
sẽ không thể đạt tới bình đẳng, điều kiện để đạt tới bình đẳng chính là các đối
xử đặc biệt dành cho các nhóm xã hội yếu thế. Đối xử đặc biệt sẽ chấm dứt
ngay sau khi bình đẳng giới được thực hiện. Kéo dài quá mức các biện pháp
đặc biệt khó tránh khỏi hậu quả là làm tái hiện tình trạng bất bình đẳng. Luật
Bình đẳng giới gọi đó là biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó ghi rõ:
Biện pháp nhằm đảm bảo bình đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa


14

nam và nữ về vị thế, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng
thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam
và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng
giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích
bình đẳng giới đã đạt được.
Như vậy, bình đẳng giới là khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn.
Trong khi thực hiện bình đẳng giới chúng ta cần lưu ý một số điểm sau:
Một là, bình đẳng giới không có nghĩa là cần thực hiện một sự ngang
nhau giữa nam và nữ theo phương châm nam giới làm gì thì nữ giới cũng phải
làm và ngược lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã phê phán gay gắt
quan điểm này. Người viết “Nhiều người lầm tưởng đó là một việc dễ chỉ hôm
nay anh nấu cơm rửa bát, quét nhà, hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát
thế là bình đẳng, bình quyền. Lầm to” [15, 31].

Hai là, bình đẳng giới phải là sự khắc phục tình trạng bất bình đẳng
nhưng không dẫn tới sự triệt tiêu những khác biệt tự nhiên giữa hai giới, hơn
nữa còn tôn trọng sự khác biệt đó.
Bất bình đẳng giới là một khái niệm đối lập với bình đẳng giới đó là sự
khác biệt về địa vị xã hội giữa nam và nữ và chủ yếu dựa trên các quan niệm
sai lầm, phiến diện và sự đối xử thiếu công bằng giữa nam và nữ. Hậu quả của
nó làm hạn chế hoặc loại trừ các cơ hội, điều kiện phát triển của phụ nữ hay
nam giới. Bất bình đẳng giới là một rào cản kìm hãm sự phát triển tiến bộ xã
hội loài người nói chung, xã hội Việt Nam nói riêng.
Sự phát triển bền vững lấy con người là mục tiêu và là động lực. Trong
quá trình phát triển sẽ diễn ra chậm chạp nếu như một nửa nhân loại là phụ nữ
bị hạn chế hoặc loại trừ của khỏi quá trình phát triển. Chính vì nhận thức
được điều này mà vấn đề bình đẳng giới đang là vấn đề có tình quốc tế, là mối
quan tâm của toàn nhân loại. Năm 1979, Liên hợp quốc đã thông qua Công


15

ước quốc tế về “Xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ
nữ” còn gọi là công ước CEDAW. Lần đầu tiên các quyền con người của phụ
nữ được đề cập một cách toàn diện nhất trong công pháp quốc tế.
Theo tinh thần của công ước CEDAW, nội dung bình đẳng giới bao
gồm các lĩnh vực:
+ Bình đẳng về chính trị;
Đó là quyền hợp pháp của phụ nữ được Hiến Pháp công nhận với tư
cách là công dân, phụ nữ có những quyền cơ bản sau:
- Quyền bầu cử và ứng cử vào tất cả các cơ quan dân cử; quyền góp ý
kiến xây dựng Hiến pháp, pháp luật, quyền được nêu ý kiến, nguyện vọng
trong hội họp, quyền nêu ý kiến về những vấn đề chính trị, xã hội trên phương
tiện thông tin đại chúng.

- Quyền tham gia xây dựng và thực hiện các chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước, tham gia công tác quản lý các cấp chính quyền.
- Quyền được tham gia các tổ chức chính trị xã hội của quần chúng, các
tổ chức nghề nghiệp nhằm mang lại lợi ích cho bản thân, phù hợp với sự phát
triển đất nước.
- Quyền khiếu nại, tố cáo.
+ Bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế và việc làm được thể hiện trên một
số nội dung sau:
- Quyền được làm việc và được hưởng cơ hội có việc làm như nhau;
- Quyền được tự do lựa chọn nghề nghiệp, việc làm, quyền được đề bạt
làm lãnh đạo, được học tập nâng cao trình độ về mọi mặt để được thăng tiến;
- Quyền được trả lương như nhau, được đối xử đánh giá như nhau khi
làm những việc có giá trị ngang nhau;
- Quyền được bảo vệ sức khoẻ, được đảm bảo an toàn lao động, bảo vệ
chức năng sinh đẻ;


16

- Quyền được vay vốn ngân hàng, tham gia các dịch vụ tín dụng;
- Quyền được ra quyết định trong việc mua bán những tài sản có giá trị
trong gia đình;
- Bình đẳng trong việc hưởng quyền thừa kế tài sản.
+ Bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục:
- Quyền được học tập như nhau ở mọi cấp học từ mẫu giáo đến sau đại
học; được học những ngành nghề phù hợp với khả năng, sở thích;
- Có cơ hội như nhau trong đào tạo được hưởng học bổng, miễn giảm
học phí và các trợ cấp học tập khác. Được tạo cơ hội để nữ sinh không bỏ học,
được theo học ở các lớp dành cho những phụ nữ phải nghỉ học sớm hoặc
không có điều kiện đến lớp.

+ Bình đẳng trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ:
- Phụ nữ được tạo điều kiện để hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ,
kể cả dịch vụ kế hoạch hoá gia đình;
- Bảo đảm cho phụ nữ có những dịch vụ thích hợp liên quan đến thai
nghén, sinh đẻ, chăm sóc sau khi đẻ, chăm sóc con cái khi ốm đau.
+ Bình đẳng trong vấn đề hôn nhân và gia đình:
- Nam nữ được tự do kết hôn, hôn nhân trên tình yêu chân chính, hôn
nhân tự nguyện, được quyền tự do kết hôn và ly hôn;
- Nam nữ có quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ,
trong việc chăm sóc, nuôi dạy con cái;
- Nam nữ có quyền và trách nhiệm như nhau trong việc sở hữu, kiểm
soát, quản lý, sử dụng, hưởng thụ và định đoạt những tài sản của gia đình;
- Nam nữ có quyền và trách nhiệm như nhau trong thời gian hôn nhân
cũng như khi hôn nhân bị thủ tiêu.
Tuỳ theo đặc điểm của mỗi quốc gia mà có các thứ tự ưu tiên khác
nhau. Để đảm bảo thực hiện đầy đủ, đúng đắn nội dung bình đẳng giữa hai


17

giới nam và nữ vốn chưa bình đẳng, cần thực hiện các yêu cầu và nguyên tắc cơ
bản sau:
1- Bình đẳng về cơ hội và điều kiện;
2- Bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ;
3- Bình đẳng về kiểm soát và ra quyết định.
Việt Nam là quốc gia thứ 6 ký công ước CEDAW (1979), cho đến nay
Việt Nam là một trong các quốc gia tích cực thực hiện các cam kết của mình
nhằm thúc đẩy sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ. Với
quan điểm thừa nhận sự khác biệt giới và giới tính giữa nam và nữ, Nhà nước
Việt Nam đã thực hiện tốt công ước CEDAW, đặc biệt là điều 4 của Công ước,

thực hiện đối xử đặc biệt dành cho phụ nữ. Quan điểm thực hiện đối xử đặc
biệt với phụ nữ trên mỗi lĩnh vực đã được cụ thể hoá trong các chính sách, các
chương trình, dự án phát triển ở Việt Nam, đặc biệt trong kế hoạch hành động
quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Nhà nước cũng cho rằng, những
đối xử đặc biệt với phụ nữ sẽ chấm dứt khi đạt tới bình đẳng giới thực sự.
Trên cơ sở cam kết thực hiện công ước CEDAW nội dung bình đẳng
giới được cụ thể hoá trong Luật Bình đẳng giới của Việt Nam gồm các điểm
sau:
- Bình đẳng về chính trị;
- Bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế;
- Bình đẳng trong lĩnh vực lao động;
- Bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo;
- Bình đẳng trong lĩnh vực khoa học và công nghệ;
- Bình đẳng trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao;
- Bình đẳng trong lĩnh vực y tế;
- Bình đẳng trong vấn đề hôn nhân và gia đình.


18

Bình đẳng giới không chỉ có ý nghĩa đối với phụ nữ mà còn đem lại ý
nghĩa lớn lao đối với sự phát triển của xã hội:
- Đối với phụ nữ, bình đẳng giới làm thay đổi vị thế của họ, tạo ra cơ
hội để họ thoát khỏi những cản trở, đem hết khả năng của mình cống hiến cho
sự phát triển của gia đình và xã hội.
- Đối với xã hội, bình đẳng giới góp phần tạo điều kiện cho sự phát
triển hài hoà của gia đình vì lợi ích, tiến bộ của xã hội trong đó có cả nam
giới, bởi con người (gồm cả nam và nữ) thực sự được xem là mục tiêu và
động lực của sự phát triển.
1.1.1.2. Nội dung thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân

Thứ nhất, quan niệm về gia đình
Vấn đề gia đình được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Chủ
nghĩa xã hội khoa học đề cập đến vấn đề này như một vấn đề lý luận không
thể thiếu được trong toàn bộ học thuyết về sự phát sinh và phát triển của xã
hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Khi nói về gia đình, C.Mác và Ph.Ăng ghen cho rằng: “hàng ngày tái
tạo ra đời sống của bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác,
sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha, mẹ và con cái, đó là
gia đình” [23, 288]. Như vậy ta có thể hiểu:
Gia đình là nhóm xã hội đặc biệt, được hình thành trên cơ sở quan hệ
hôn nhân (giữa vợ và chồng) và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn
nhân đó (giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà và các cháu, giữa anh chị em
với nhau). Pháp luật của nhà nước Việt Nam cũng thừa nhận trong gia đình
còn có các thành viên do quan hệ nuôi dưỡng mà phát sinh các nghĩa vụ và
quyền lợi giữa họ với nhau (con nuôi).
Gia đình - nhóm xã hội đặc biệt, vốn có vị trí cực kỳ quan trọng đối với sự
phát triển của xã hội, nhưng trên thực tế sự bất bình đẳng về giới vẫn đang tồn tại


19

khá phổ biến trong gia đình, đây thực sự là thiệt thòi cho xã hội, cho cá nhân và
đặc biệt là đối với phụ nữ. Trong mối quan hệ với xã hội, gia đình là yếu tố hạt
nhân, vì vậy xã hội muốn đạt tới bình đẳng về giới phải chú ý giải quyết tốt mối
quan hệ về giới ngay từ trong gia đình. Tình hình thực tế hiện nay càng đặc biệt
chú ý đến giải quyết tốt mối quan hệ về giới trong gia đình nông dân.
Thứ hai, quan niệm về nông dân
Hiện nay nông dân Việt Nam chiếm gần 70% dân số và hơn 50 % lực
lượng lao động xã hội.
Nông dân là một thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến trong cuộc sống.

Tùy theo từng trường hợp, có lúc nông dân dùng để chỉ một con người cụ thể; có
lúc lại được dùng để chỉ hình thức, phong cách của người nào đó; có lúc lại được
dùng để chỉ cả một giai cấp trong xã hội. Do đó, thuật ngữ nông dân được hiểu
và định nghĩa theo nhiều cách tùy thuộc vào nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận
hoặc cấp độ đánh giá mà có những quan điểm khác nhau về nông dân.
Tác giả luận văn quan niệm: nông dân là những người lao động cư trú
chủ yếu ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu
bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất
đai. Tùy từng giai đoạn lịch sử nông dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng
đất. Họ hình thành nên giai cấp nông dân có vị trí, vai trò nhất định trong xã
hội.


20

Từ những cơ sở lý luận ở trên luận văn sẽ tiếp cận nội dung bình đẳng
giới trong gia đình nông dân gồm nội dung sau:
Dù chỉ là một cấp độ của bình đẳng giới (trong phạm vi gia đình)
nhưng bình đẳng giới trong gia đình lại thể hiện các khía cạnh rất phong phú
thông qua quan hệ giữa nam và nữ trong:
- Thực hiện các chức năng trong gia đình.
- Việc tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực gia đình.
- Việc tham gia giải quyết các công việc gia đình...
Các khía cạnh trên được giải quyết trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng nhau
giữa các thành viên trong gia đình. Luật Bình đẳng giới nêu rõ nội dung bình
đẳng giới trong gia đình như sau:
- Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ
khác liên quan đến hôn nhân và gia đình.
- Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung,
bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập của vợ chồng và quyết định các

nguồn lực trong gia đình.
- Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc quyết định lựa chọn
và sử dụng biện pháp kế hoạch hóa gia đình phù hợp, sử dụng thời gian nghỉ
chăm sóc con cái ốm theo quy định của pháp luật.
- Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện
như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
- Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công
việc gia đình [38,17-18].
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu, luận văn sẽ tiếp cận nội dung
bình đẳng giới trong gia đình nông dân gồm những nội dung sau:


21

- Phân công lao động theo giới trong sản xuất và trong các công việc
của gia đình. Phân công lao động giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ trong gia
đình cũng như ngoài xã hội.
Sự tham gia của phụ nữ vào công việc ra quyết định, tiếp cận và kiểm
soát các nguồn lực. Các quyết định trong gia đình được phân chia thành hai
loại: quyết định trong công việc sản xuất và quyết định sinh sản và trong sinh
hoạt hàng ngày. Việc tham gia vào các quyết định trong gia đình phản ánh
mối tương quan quyền lực giữa nam và nữ.
Các nội dung trên sẽ làm nhận diện sự bình đẳng giới trong gia đình nói
chung và gia đình nông dân nói riêng, đồng thời tìm ra các nguyên nhân căn
bản của tình trạng đó, từ đó đưa ra các giải pháp tác động làm giảm dần, tiến
tới xóa bỏ sự bất bình đẳng giới trong gia đình.
1.1.2. Vai trò của bình đẳng giới trong gia đình nông dân
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình đóng vai trò rất quan trọng trong
mỗi đời sống của con người. Là cái nôi nuôi dưỡng con người. Gia đình là
một hình ảnh vô cùng thân thương, gắn bó và ấm áp nghĩa tình, là nơi trú ngụ

bình yên nhất, vững chắc nhất của mỗi người.
Gia đình và xã hội luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong mối
quan hệ với xã hội, gia đình là nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển xã hội
thông qua việc thực hiện các chức năng của mình. Mặt khác sự phát triển của
xã hội cũng trực tiếp tác động đến phát triển của gia đình cả về kết cấu, chức
năng, đời sống vật chất và đời sống tinh thần..., đặc biệt quan hệ giới.
Nông dân là bộ phận đông đảo - lực lượng quan trọng góp phần xây
dựng và làm chủ xã hội hiện nay, việc xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng về giới
trong gia đình nông dân sẽ góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển phồn vinh
của đất nước. Do vậy, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân rất
cần thiết, nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là cơ sở


22

động lực để xây dựng gia đình văn hóa góp phần thực hiện tốt chiến lược bình
đẳng giới góp phần giải phóng phụ nữ. Điều này xuất phát từ những lý do sau:
1.1.2.1. Xuất phát từ vị trí quan trọng của gia đình đối với phát triển cá
nhân và xã hội
Gia đình là một phạm trù xuất hiện sớm trong lịch sử xã hội loài người
và đã không ngừng biến đổi cùng với bước tiến của nền văn minh nhân loại.
Gia đình không tồn tại một cách cô lập mà luôn có mối quan hệ với xã
hội, gia đình tốt thì xã hội tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn. Trong mối
quan hệ với xã hội, gia đình là nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển xã hội
thông qua việc thực hiện các chức năng trọng đại: tái sản xuất ra con người, là
đơn vị sản xuất và tiêu dùng của xã hội, nơi trực tiếp thực hiện mọi đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; gia đình còn là nơi bảo lưu
truyền thụ nền văn hóa dân tộc. Mặt khác sự phát triển của xã hội cũng tác
động trực tiếp đến phát triển của gia đình cả về kết cấu, chức năng, đời sống
vật chất và tinh thần..., đặc biệt quan hệ giới.

Quan hệ giữa gia đình với xã hội là quan hệ giữa cái bộ phận và cái
toàn thể. Dù ở bất kỳ ở giai đoạn lịch sử nào thì gia đình vẫn giữ một vị trí
quan trọng đối với cá nhân và xã hội.
Đối với cá nhân, gia đình là cái nôi nuôi dưỡng con người từ thủa lọt
lòng cho tới lúc về già. Gia đình là tổ ấm mang lại hạnh phúc cho con người.
Trong gia đình, con người được đảm bảo về vật chất, giáo dục, tình cảm... trẻ
em có điều kiện an toàn để khôn lớn, người già có nơi nương tựa, an ủi, người
lao động được quan tâm chăm sóc sức khỏe và thoải mái về tinh thần. Có rất
nhiều vấn đề ngoài môi trường gia đình không tổ chức nào có thể đáp ứng và
giải quyết có hiệu quả, do đó khó sống trong một gia đình đầm ấm, bình đẳng,
hạnh phúc cá nhân mới có điều kiện để phát huy hết những khả năng của mình


×