Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH tế và KHẢ NĂNG TÍCH lũy CACBON của SEN sơn TRA với các LOẠI cây TRỒNG KHÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.65 KB, 128 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Những năm gần đây việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng nông
thôn, vùng sâu đặc biệt là vùng nông thôn miền núi được Đảng và nhà nước ta
rất quan tâm. Các chính sách đưa ra đều hướng tới việc nâng cao hiệu quả kinh
tế, chất lượng cuộc sống của người dân, bảo vệ môi trường sinh thái. Do điều
kiện tự nhiên của khu vực miền núi phía Bắc trong đó có tỉnh Yên Bái hết sức
khó khăn, địa hình cao, dốc, phức tạp, chia cắt mạnh, đất sử dụng cho sản xuất
cây lương thực, cây mầu ít, người dân phần lớn là các dân tộc ít người có trình
độ khoa học kỹ thuật thấp. Sự bất lợi của điều kiện tự nhiên đòi hỏi phải có
một phương pháp khai thác lợi dụng tài nguyên đất có hoặc không có kế hoạch,
xây dựng lên các mô hình canh tác trên đất dốc với phương thức và kĩ thuật
gây trồng khác nhau tùy vào điều kiện của từng vùng. Nếu việc lựa chọn các
mô hình canh tác chỉ tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội mà không tính đến hiệu
quả môi trường thì sẽ dẫn đến cạn kiệt tài nguyên ở khu vực đó. Ngược lại nếu
chỉ xét đến hiệu quả môi trường mà không chú ý đến hiệu quả kinh tế - xã hội
thì việc nâng cao mức sống của người dân, phát triển kinh tế vùng là điều khó
thực hiện được. Thực tế hiện tượng xói mòn, rửa trôi ở khu vực canh tác diễn
ra mạnh làm suy kiệt đất ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và kinh tế của người
dân.
Vấn đề đặt ra làm thế nào để kinh doanh lợi dụng trên đất dốc vừa đem lại
hiệu quả kinh tế lại không ảnh hưởng đến môi trường và chú ý đến tiềm năng
giảm phát thải của mô hình để kinh doanh bền vững? Một trong các nội dung
cần đi sâu nghiên cứu là điều tra đánh giá cụ thể, khách quan các mô hình nông
lâm kết hợp (canh tác đất dốc).
Cây Sơn tra hay cây táo mèo (Docynia indica) thuộc họ hoa hồng


2
(Rosaceae) phân bố chủ yếu ở miền nam Trung Quốc và một số tỉnh phía Tây


Bắc Việt Nam như Yên Bái, Lào Cai, Sơn La… Nhưng nổi tiếng và có mùi vị
đặc trưng nhất là sơn tra ở Yên Bái, nơi có khí hậu mát mẻ ở độ cao trên
1.000m. Táo mèo có vị chua chát, ngọt thơm rất đặc trưng được sử dụng rộng
rãi trong chế biến nước quả, rượu và là vị thuốc quý trong đông y. Táo mèo
Yên Bái có vị thơm và lượng đường lớn rất phù hợp cho sản xuất công nghiệp
các sản phẩm Vang, nước ép. Tiềm năng và vai trò của cây táo mèo với sự phát
triển của Yên Bái rất lớn, song việc sản xuất và kinh doanh còn manh mún, nhỏ
lẻ, hiệu quả thấp do những khó khăn về vốn, kĩ thuật và nhân lực. Đây cũng là
khó khăn chung với các ngành khác trong tỉnh và cả khu vực miền núi phía
Bắc. Chính vì vậy tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Đánh giá hiệu quả kinh tế và khả năng tích lũy carbon của mô hình
trồng xen “Sơn tra với các cây trồng khác” tại tỉnh Yên Bái”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, hiệu quả kinh tế, khả năng tích lũy
carbon của các mô hình trồng xen cây Sơn tra với một số cây trồng khác, để đề
xuất, khuyến khích phát triển và nhân rộng các mô hình trồng xen có hiệu quả
trong tương lai.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1 Ý nghĩa khoa học của đề tài
Giúp cung cấp thêm những kết quả nghiên cứu về sinh khối và khả năng
tích lũy carbon và hiệu quả kinh tế của các mô hình trồng cây Sơn tra tại tỉnh
Yên Bái.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
-

Chọn được mô hình kinh doanh Sơn Tra với các cây trồng xen

hiệu quả và có khả năng nhân rộng, được người dân chấp nhận



3
-

Kết quả nghiên cứu là tài liệu quan trọng giúp chính quyền địa

phương tham khảo, để xây dựng kế hoạch phát triển trong tương lai.
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Cơ sở lý luận về hiệu quả kinh tế
1.1.1.1 Khái niệm và quan điểm chung về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả là một phạm trù kinh tế chung nhất liên quan trực tiếp với nền
sản xuất hàng hóa. Hiệu quả được xem xét dưới nhiều góc độ và nhiều quan
điểm khác nhau. Về hiệu quả kinh tế (HQKT), có hai quan điểm: Truyền thống
và hiện đại cùng tồn tại [30].
*

Quan điểm truyền thống về hiệu quả kinh tế
Quan điểm truyền thống cho rằng, nói đến hiệu quả kinh tế tức là nói đến

phần còn lại của sản xuất kinh doanh sau khi đã trừ chi phí. Nó được đo bằng
các chi phí và lời lãi. Những chỉ tiêu hiệu quả này thường là giá thành sản
phẩm hay mức sinh lời của đồng vốn. Nó chỉ được tính toán khi kết thúc
một quá trình sản xuất kinh doanh.
-

HQKT được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và

các chi phí bỏ ra (các nguồn nhân lực, vật lực…) để đạt được kết quả
đó.
HQKT = K/C

Trong đó: K là kết quả sản xuất
C là chi phí sản xuất
Culicop cho rằng: “Hiệu quả sản xuất là kết quả của một nền sản xuất
nhất định, chúng ta sẽ so sánh kết quả với chi phí cần thiết để đạt được kết quả
đó. Khi lấy tổng sản phẩm chia cho vốn sản xuất chúng ta được hiệu suất vốn,


4
tổng sản phẩm chia cho vật tư được hiệu suất vật tư, tổng sản phẩm chia cho số
lao động được hiệu suất lao động” [1].
Với cách tính này chỉ rõ được mức độ hiệu quả của sử dụng các nguồn
lực sản xuất khác nhau, từ đó so sánh được HQKT của các quy mô sản xuất
khác nhau. Nhược điểm của cách đánh giá này là không thể thực hiện được quy
mô của HQKT nói chung. Ở Việt Nam một số tác giả như Trần Văn Đức
(1993) cho rằng: “ HQKT được xem xét trong mối tương quan giữa một bên là
kết quả thu được và một bên là chi phí bỏ ra” [5].
-

HQKT được đo bằng hiệu số giữa giá trị sản xuất đạt được

và lượng chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
HQKT = K – C
Tác giả Đỗ Thịnh (1988) cũng cho rằng: “Thông thường hiệu quả đạt
được biểu hiện như một hiệu số giữa kết quả và chi phí…Tuy nhiên trong thực
tế có nhiều trường hợp không thực hiện được phép trừ, hoặc phép trừ không có
ý nghĩa. Do vậy, nói một cách khác linh hoạt hơn nên hiểu hiệu quả kinh tế là
một kết quả tốt nhất phù hợp mong muốn” [18]
*

Quan điểm mới về HQKT

Nhằm khắc phục những hạn chế của quan điểm truyền thống. Quan điểm

mới ra đời căn cứ vào tổ hợp các yếu tố:
-

Trạng thái động của mối quan hệ giữa đầu vào đầu ra. Mối

quan hệ này cần phân biệt rõ ba phạm trù: hiệu quả kỹ thuật (technical
efficiency), hiệu quả phân bổ các nguồn lực (Allocative efficiency) và
hiệu quả kinh tế
(Economic efficiency).
+ Hiệu quả kĩ thuật: là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên 1 đơn vị
chi phí đầu vào, hiệu quả kĩ thuật được áp dụng phỗ biến trong kinh tế vi mô để
xem xét tình hình sử dụng nguồn lực cụ thể, nó chỉ ra rằng một đơn vị nguồn
lực dùng vào sản xuất đem lại thêm bao nhiêu đơn vị sản phẩm.


5
+ Hiệu quả phân bổ: là chỉ tiêu hiệu quả trong các yếu tố giá sản phẩm
và giá đầu vào được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên 1 đồng chi
phí thêm về đầu vào hay nguồn lực.
+ Hiệu quả kinh tế: là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu
quả kĩ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và
giá trị đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp.
- Yếu tố thời gian:
Các nhà kinh tế hiện nay đã coi thời gian là yếu tố trong tính toán hiệu
quả. Cùng đầu tư một lượng vốn như nhau và cùng có tổng doanh thu bằng
nhau nhưng hai dự án có hiệu quả khác do thời gian thu hồi vốn khác nhau.
- Hiệu quả tài chính xã hội và môi trường:
Theo quan điểm toàn diện HQKT nên được đánh giá trên ba phương

diện: Hiệu quả tài chính, xã hội và hiệu quả môi trường. Hiệu quả tài chính mà
trước đây ta quen gọi là hiệu quả kinh tế thường được thể hiện bằng những chỉ
tiêu như lợi nhuận, giá thành, tỉ lệ nội hoàn vốn, thời gian hoàn vốn…, hiệu
quả xã hội và môi trường thể hiện bằng những chỉ tiêu như việc làm, sự công
bằng xã hội, sự tự lập của cộng đồng và sự được bảo vệ hoặc sự hoàn thiện hơn
của môi
trường sinh thái…
Nhìn chung, các quan điểm trên đều đánh giá hoạt động sản xuất kinh
doanh theo tiêu chí chất lượng nhất định, nhưng hạn chế của những quan điểm
trên đều chưa thể hiện được bản chất của nền kinh tế và bản chất của xã hội,
mà mới chỉ dừng lại xem xét trong phạm vi một doanh nghiệp một đơn vị sản
xuất kinh doanh mang tính chất trực tiếp, chưa gắn bó lợi ích của doanh nghiệp
và lợi ích xã hội, chưa giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và xã
hội.


6
1.1.2. Cơ sở lý luận về biến đổi khí hậu
BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình và ( hoặc) dao
động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ
hoặc dài hơn. Đó là những thay đổi theo thời gian của các hình thái thời tiết
trên toàn thế giới, nhiệt độ trung bình tăng hay còn gọi là sự nóng dần lên của
Trái Đất, tăng nồng độ khí nhà kính hoặc khí Carbon thải ra từ các hoạt động
của con người và đọng lại trong khí quyển.
Biến đổi khí hậu đã và đang nhận được sự quan tâm của toàn cầu mà
nguyên nhân là do sự phát thải CO2 và khí nhà kính từ suy thoái rừng, mất
rừng; Hội nghị thay đổi Khí hậu (Climate Change Conference) đã ký thỏa hiệp
Bali (Indonesia) do Liên Hợp Quốc chủ trì vào ngày 15 tháng 12 năm 2007 với
sự tham gia của 187 Quốc gia thành viên trên thế gới . Hội đồng liên chính phủ
về biến đổi khí hậu (The Intergovernmental Panel on Climate Change - IPCC)

dự báo khoảng 1,5 tỷ tấn carbon sẽ phát thải hàng năm do thay đổi sử dụng đất
rừng nhiệt đới, chiếm 1/5 khí CO 2 phát thải trên toàn thế giới – nhiều hơn cả
phát thải toàn cầu trong ngành giao thông. Lần đầu tiên, hội nghị đã nêu lên
chương trình giúp đỡ việc hạn chế sự phá hủy vùng rừng nhiệt đới trên thế giới
để giảm thiểu phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính "Giảm thiểu khí phát thải từ
suy thoái và mất rừng" (Reducing Emissions from Deforestation and
Degradation - REDD). Hội nghị cũng đã chính thức công bố các dự án thử
nghiệm cho phép các nước đang phát triển có thể tham gia chương trình
REDD. Theo đó các nước phát triển sẽ đáp ứng một số mục tiêu giảm phát thải
của nước họ bằng cách mua các tín dụng carbon của các nước đang phát triển
từ những cánh rừng hấp thụ CO2. Một số dự án REDD đang được thực hiện ở


7
châu Á nhằm mục đích chính thức đưa chương trình này vào nội dung tiếp theo
của Nghị định thư Kyoto bắt đầu từ năm 2013.
1.2. Tổng quan nghiên cứu về NLKH
1.2.1. Tổng quan nghiên cứu về NLKH ngoài nước
Đi sâu vào tìm hiểu cội nguồn lịch sử của NLKH King (1987) [26] khẳng
định rằng ở Châu Âu thời kỳ Trung Cổ người ta đã phát quang rừng, đốt cành
nhánh và canh tác cây lương thực mục đích là để tận dụng dinh dưỡng của đất
rừng.
Du canh được đánh giá là phương thức canh tác cổ xưa nhất lúc này con
người đã tích lũy được ít nhiều những kiến thức sơ đẳng về tự nhiên. Loài
người đã vượt qua được các thời kỳ này bằng các cuộc cách mạng về kỹ thuật
và chăn nuôi, trồng trọt, song không phải tất cả các nước mà có không ít các
nước vận động rất chậm trong cuộc cách mạng này.
Sau du canh sự ra đời của phương thức Taungya ở vùng nhiệt đới được
xem như là một sự báo trước cho phương thức NLKH sau này. Theo Blanford
(1858) (dt Phạm Quang Vinh và cs, 2005) [27] nguồn gốc của phương thức này

là từ ngôn ngữ của địa phương Myanma: Taung nghĩa là canh tác, ya là đồi núi,
như vậy Taungya là phương thức canh tác trên đất đồi núi, điều đó cũng đồng
nghĩa với phương thức canh tác trên đất dốc.
NLKH là một hệ thống sử dụng đất trong đó phối hợp cây lâu năm với
hoa màu và/ hay vật nuôi một cách thích hợp với điều kiện sinh thái và xã hội,
theo hình thức phối hợp không gian và thời gian, để gia tăng sức sản xuất tổng
thể của thực vật trồng và vật nuôi một cách bền vững trên một đơn vị diện tích
đất, đặc biệt trong các tình huống có kỹ thuật thấp và trên các vùng đất khó
khăn [29].


8
NLKH là tên chung của những hệ thống sử dụng đất trong đó các cây lâu
năm (cây gỗ, cọ, tre, hay cây ăn quả, cây công nghiệp...) được trồng có suy tính
trên cùng 1 đơn vị diện tích qui hoạch đất với hoa màu và/hoặc với vật nuôi
dưới hệ thống xen theo không gian hay theo thời gian. Trong các hệ thống
NLKH có mối tác động hỗ tương qua lại về cả mặt sinh thái lẫn kinh tế
giữa các thành phần của chúng [27].
Các khái niệm trên đơn giản mô tả NLKH như là một loạt các hướng dẫn
cho một hệ thống sử dụng đất liên tục. Tuy nhiên, NLKH như là một kỹ thuật
và khoa học đã được phát triển thành một điều gì khác hơn là các hướng dẫn.
Ngày nay nó được xem như là một ngành nghề và một cách tiếp cận về sử
dụng đất trong đó đã phối hợp sự đa dạng của quản lý tài nguyên tự nhiên một
cách bền vững [26].
Như vậy bản chất của hệ thống NLKH là hệ thống sử dụng đất để canh tác
nông nghiệp nhưng có sự kết hợp giữa cây (hoặc/và) con nông nghiệp với cây
lâm nghiệp trên cùng một đơn vị diện tích, đơn vị kinh doanh. Tuy nhiên sự kết
hợp này có thể diễn ra đồng thời hoặc cũng có thể kế tiếp nhau về mặt
không gian hay thời gian. Xét về thành phần một hệ thống NLKH gồm có:
- Các cây thân gỗ sống lâu năm.

- Các cây thân thảo (Cây nông nghiệp hoặc cỏ...)
- Vật nuôi (gia súc, gia cầm, thủy sản...) [20], [22].
Tóm lại: Mục đích cuối cùng của các hệ thống NLKH là tận dụng triệt
để đất đai về mặt không gian và thời gian cũng như là một biện pháp canh tác
bảo vệ đất, vấn đề đặt ra là con người chúng ta sử dụng các hệ thống này như
thế nào cho hợp lý để canh tác lâu bền trên đất dốc, đó là nhiệm vụ mà các nhà
khoa học cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu...


9
NLKH ở Ấn Độ:
Ấn Độ nổi tiếng thế giới với cuộc ‘‘cách mạng xanh” về canh tác NLKH
trong đó canh tác trong các vườn gia đình, vườn rừng được áp dụng phổ biến.
Nhờ cuộc cách mạng này mà Ấn Độ từ một nước đông dân chẳng
những không bị thiếu mà còn xuất khẩu lương thực.
NLKH ở Indonesia
Từ 1972 hoạt động NLKH ở nước này do các công ty lâm nghiệp, nông
nghiệp tổ chức và quản lý. Việc chọn đất khai hoang để trồng cây lâm nghiệp,
nông dân được các cán bộ kỹ thuật công ty hướng dẫn trồng cây lâm nghiệp kết
hợp với cây nông nghiệp. Sau khi trồng cây nông nghiệp hai năm nông dân bàn
giao lại rừng cho công ty, sản phẩm nông nghiệp do họ toàn quyền sử dụng.
Với phương thức này tại khu rừng trồng ở Savadan trên diện tích 300 ha người
ta đã thu được 1426 tấn Lúa, 126 tấn Sắn, 73 tấn Ngô và 19,5 tấn Đậu đỗ. Tổng
giá trị thành tiền 155.000 USD, thực lãi 116.000 USD (bình
quân 385 USD/ha/ vụ) (dt Phạm Quang Vinh và Cs, 2005) [19].
NLKH ở Philippin
Philippin được nhiều người biết đến với các mô hình canh tác trên đất
dốc (SALT). SALT là phương thức canh tác đồng thời các cây ngắn ngày với
các cây lâu năm giữa các hàng Keo dậu, các hàng này được trồng rất dày tạo ra
các băng xanh có tác dụng ngăn chặn dòng chảy, hạn chế xói mòn và cải tạo

đất. Hiện nay SALT đã được phát triển theo nhiều mức độ và loại hình
khác nhau như: SALT 1, SALT 2, SALT 3, SALT 4 [3], [19], [21].
Ngày nay NLKH đang ngày một phát triển mạnh ở nhiều nước trên thế
giới đặc biệt là các nước nhiệt đới và các nước á nhiệt đới [20].
1.2.2. Kết quả nghiên cứu NLKH trong nước và nghiên cứu về cây Sơn tra


10
1.2.2.1. Kết quả nghiên cứu NLKH trong nước
Người dân miền núi trước đây chủ yếu canh tác theo hình thức du canh,
thông thường có hai hình thức du canh:
- Du canh không quay vòng.
- Du canh quay vòng [20].
Nghiên cứu về NLKH ở nước ta mới phát triển từ những năm 1960 trở
lại đây. Theo Nguyễn Trọng Hà, 1996 các công trình nghiên cứu của Nguyễn
Ngọc Bình, Nguyễn Quí Khải, Cao Văn Minh, Nguyễn Xuân Quát, Bùi
Ngạnh 1964 đã xây dựng các thí nghiệm chống xói mòn ở Cầu Hai – Phú Thọ.
Tôn Gia Huyên và Cs (1965) (dt Nguyễn Văn Tiễn, 1975) [16] đặt thí nghiệm
và xây mô hình chống xói mòn tại đồi ấp Bắc nông trường Quốc doanh Sông
Cầu – Bắc Thái đã cho những kết quả khả quan.
Năm 1983 – 1985, Nguyễn Văn Tiễn (1988) [16] thí nghiệm trồng xen
Sắn với Lạc cùng với các băng Cốt khí và hàng rào xanh kết hợp bón phân
khoáng hợp lý trên đất dốc nghèo dinh dưỡng. Kết quả cho thấy ngoài việc thu
thêm sản phẩm Lạc từ 5,3 – 6,4 tạ/ha và đã làm năng suất Sắn đạt 12,1 – 16,6
tấn/ha, thì lượng đất xói mòn đã giảm từ 2,8-4,5 lần so với trồng sắn thuần.
Thái Phiên vs Cs (1986) [11] tổng kết kết quả nghiên cứu ‘‘Trong 5 năm
của chương trình nhà nước giai đoạn 1980-1985” về ‘‘Áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật trong công tác khai hoang và chống xói mòn đất mới khai
hoang” đã tập hợp các biện pháp sử dụng, bảo vệ, cải tạo đất đỏ vàng, khai
hoang, phục hóa trên địa bàn đất dốc toàn quốc. Nhiều mô hình bảo vệ đất

chống xói mòn trên các loại đất với cơ cấu cây trồng chính được thực hiện
và áp dụng trong sản xuất.


11
Hiện trạng môi trường và quản lý tài nguyên rừng Việt Nam đang nằm
dưới những áp lực nặng nề. Các hệ sinh thái Việt Nam đang bị phá vỡ, tài
nguyên đất rừng, đất và nước đang bị suy thoái trầm trọng, nguồn sống của
đồng bào vùng cao chủ yếu vẫn là dựa vào rừng, đốt nương làm rẫy. Trong 9
triệu người dân tộc ít người thì vẫn có tới 2.879.685 người thuộc 482.612 hộ
sống bằng phương thức canh tác nương rẫy. Trong đó người Tày có 7%, người
Nùng 16%, người Thái 45%, trừ người Kinh ra còn lại tất cả các dân tộc ít
người khác sống bằng canh tác nương rẫy (dt Lê Trọng Cúc và Cs,
2001) [3].
Ở nước ta đất dốc chiếm tỷ lệ lớn (72% diện tích đất canh tác là đất có
độ dốc), nên cần có phương thức sử dụng và bảo vệ đất dốc trên quan điểm bền
vững. Nhiều tác giả đã nghiên cứu về vấn đề này và đưa ra một số biện pháp kỹ
thuật như sau:
-

Ở độ dốc dưới 120 dùng các biện pháp nông nghiệp: trồng xen,

trồng gối...
-

Ở độ dốc từ 12 – 250 có thể dùng các biện pháp: Che phủ bằng

thảm thực vật theo phương thức NLKH; Che phủ bằng vật không sống như
rơm rạ, các tấm nhựa, ni lon; Các biện pháp công trình làm thềm bậc thang,
rãnh sườn dốc...

-

Ở độ dốc trên 250 dùng các biện pháp lâm nghiệp [8], [9].

Tuy nhiên trong thực tế do sức ép về dân số của nước ta, tỷ lệ diện tích
đất canh tác/đầu người thấp nên nhiều nơi nông dân đã trồng độc canh cây
nông nghiệp ngay trên cả đất có độ dốc trên 25 0. Vì vậy, việc canh tác NLKH
là giải pháp tốt nhất để canh tác đất dốc lâu bền trong giai đoạn hiện nay ở
nước ta [27].


12
Từ năm 1990 chương trình chuyển giao kỹ thuật canh tác nông nghiệp
trên đất dốc SALT đã được triển khai tại Việt Nam, chương trình đã xây dựng
được rất nhiều mô hình, được nông dân chấp nhận, thu nhập từ canh tác SALT
cũng được nâng cao. Kết quả các thí nghiệm đã khẳng định, canh tác theo mô
hình SALT giảm đáng kể lượng đất mặt bị xói mòn, ngay trong năm đầu đã hạn
chế được từ 50-57% lượng đất bị xói mòn [6].
Trong phong trào phát triển kinh tế đồi rừng hiện nay, các địa phương đã
có nhiều nỗ lực tìm ra các biện pháp canh tác thích hợp vừa tiến hành sản xuất
vừa bảo vệ môi trường đất đai và môi trường sinh thái, nhiều mô hình canh tác
tiến bộ đã được giới thiệu và áp dụng có kết quả tốt. Việc sử dụng hợp lý tài
nguyên đất dốc giữa kiến thức lâu đời của người dân địa phương với những kỹ
thuật tiên tiến theo phương thức NLKH là một phương thức canh tác chiến
lược cần được phổ cập rộng rãi đối với vùng đồi núi [16], [15].
Đặng Văn Minh, (2005) [10] khi nghiên cứu về sự ảnh hưởng tới chất
lượng đất của mô hình sản xuất trang trại NLKH tại trung tâm thực hành, thực
nghiệm, Trường Đại học Nông – Lâm Thái Nguyên đã đưa ra kết luận: Canh
tác trên đất dốc theo mô hình trang trại NLKH đã có ảnh hưởng tích cực tới
việc duy trì chất lượng đất.

Đặng Kim Vui và Cs, 2005 [20] khi nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật
cải tiến một số mô hình NLKH trên địa bàn huyện Võ Nhai – Thái Nguyên đã
chỉ ra: để làm tăng năng suất cây trồng và đảm bảo canh tác lâu bền trên đất
dốc ngoài việc lựa chọn hệ thống cây trồng phù hợp thì cần phải trồng xen các
loài cây cải tạo đất như Cốt khí, Muồng đen, Keo dậu.


13
Như vậy NLKH được tiến hành không chỉ nhằm nâng cao năng suất cho
sản xuất nông – lâm nghiệp mà còn tạo ra môi trường ổn định sinh thái cho mỗi
vùng.
1.2.2.2. Cây Sơn Tra Yên Bái
Đặc điểm tự nhiên
Tên Việt Nam là Sơn Tra (Táo mèo)
Tên Latin là Docynia indica
Họ Hoa hồng Rosaceae
Bộ Hoa hồng Rosales
Thuộc nhóm cây gỗ nhỏ, cây cao 4-5 m, cành non có gai và lông nhung màu
trắng, khi già nhẵn. Lá hình mũi mác dài 7-10cm, rộng 1,5- 2cm, khi non có 3 5 thùy, tròn ở gốc, thuôn nhọn ở đỉnh, mép lá nguyên hoặc có răng cưa, lông
nhung màu trắng ở mặt dưới, gân bên 6 – 10 đôi, phân chia tới tận mép lá;
cuống lá dài 15 – 20mm. Lá kèm hình mũi dùi, sớm rụng. Cụm hoa chùm 1 – 3
hoa hoặc đơn, có lông, cuống hoa rất ngắn hoặc không có.
Đài có lông màu trắng với 5 thùy hình mũi mác nhọn đầu, mặt ngoài có
lông, mặt trong nhẵn. Cánh hoa 5, màu trắng mép có mũi nhọn, nhỏ. Nhị 30 –
50. Bầu 5 ô, mỗi ô có 3 – 10 noãn, xếp theo chiều dọc của bầu; vòi nhụy 5, hàn
liền với nhau ở gốc, có lông. Quả dạng quả táo, hạt màu đen.
-

Sinh học: Mùa hoa tháng 3 – 4, mùa quả chin tháng 9 – 10. Tái


sinh bằng hạt, chồi hoặc chiết cành.
-

Nơi sống và sinh thái: Cây ưa sáng, mọc rải rác trong rừng hoặc

thành quần thể thuần loại trong tràng cây bụi, ven đồi, ở độ cao 1000 – 1500
m.
-

Phân bố


14
Việt Nam: Lai Châu (Phong Thổ), Lào Cai (Sapa), Cao Bằng, Sơn La
(Bắc Yên: Tạ Xùa), Yên Bái.
Thế giới: Trung Quốc, Ấn Độ, Mianma, Thái Lan.
-

Giá trị: Quả chín ăn được. Quả tươi dùng chế rượu vang. Quả

phới khô dung làm nguồn duợc liệu để chế rượu thuốc, nấu cao, có tác dụng
bồi bổ sức khỏe, chữa bệnh tim mạnh, huyết áp cao và kính thích tiêu hóa. Cây
non còn dùng làm gốc ghép cho các, loài táo và lê để tạo giống cây ăn quả. Gỗ
có thể đóng đồ dùng gia đình và nông cụ sản xuất.
-

Tình trạng: Loài hiếm. Quả được sử dụng rộng rãi như là nguồn

dược liệu nên được nhân dân địa phương khai thác hàng năm (đôi khi chặt cả
cây) để dùng và bán. Chính đó là nguyên nhân dẫn tới việc giảm số lượng cá

thể và thu hẹp khu phân bố. Mức độ đe dọa: Bậc R [32]
1.2.3. Các kết quả nghiên cứu về tích lũy carbon có liên quan đến đề tài
nghiên cứu
1.2.3.1. Trên thế giới
a. Nghiên cứu về chu trình carbon toàn cầu
Theo UNEP trong chu trình carbon toàn cầu, lượng carbon lưu trữ trong
thực vật thân gỗ và trong lòng đất khoảng 2,5 Tt (bao gồm trong đất, sinh khối
tươi và vật rơi rụng), trong khi đó khí quyển chỉ chứa 0,8 Tt. Dòng carbon trao
đổi do sự hô hấp và quang hợp của thực vật là 0,61 Tt và dòng trao đổi giữa
không khí và đại dương là 0,92 Tt.


15

Hình 1.1: Chu trình carbon toàn cầu (Theo UNEP, 2005)
Theo chu trình trên, trong tổng số 5,5 Gt - 6,6 Gt lượng carbon thải ra từ
các hoạt động của con người, có khoảng 0,7 Gt được hấp thụ bởi các hệ sinh
thái bên trên bề mặt trái đất. Hầu hết lượng carbon trên trái đất được tích lũy
trong đại dương và các hệ sinh thái rừng, đặc biệt là rừng mưa nhiệt đới.
Từ những nghiên cứu trong lĩnh vực này, Woodwell và Pecan (1973)
[31] đã đưa ra lượng carbon trong các kiểu rừng trên lục địa, trong đó rừng
mưa nhiệt đới có lượng carbon tích trữ lớn nhất khoảng 340 tỷ tấn, đất trồng
trọt thấp nhất 7 tỷ tấn. Điều đó chứng tỏ rằng, việc chuyển đổi đất rừng sang
đất nông nghiệp sẽ làm mất cân bằng sinh thái, gia tăng lượng khí phát thải gây
hiệu ứng nhà kính.
Rừng trao đổi carbon với môi trường không khí thông qua quá trình
quang hợp và hô hấp. Rừng ảnh hưởng đến lượng khí nhà kính theo 4 con
đường: carbon dự trữ trong sinh khối và đất, carbon trong các sản phẩm gỗ,
chất đốt sử dụng thay thế nguyên liệu hóa thạch. [25] Theo ước tính, hoạt động
trồng rừng và tái trồng rừng trên thế giới có tỷ lệ hấp thu CO2 ở sinh khối trên

mặt đất và dưới mặt đất là 0,4 - 1,2 tấn/ha/năm ở vùng cực bắc, 1,5 - 4,5


16
tấn/ha/năm ở vùng ôn đới, và 4-8 tấn/ha/năm ở các vùng nhiệt đới [24, 25].
Brown et al. (1996) đã ước lượng, tổng lượng cácbon mà hoạt động trồng rừng
trên thế giới có thể hấp thu tối đa trong vòng 55 năm (1995 - 2050) là vào
khoảng 60 - 87 Gt C, với 70% ở rừng nhiệt đới, 25% ở rừng ôn đới và 5% ở
rừng cực bắc (Cairns et al., 1997). Tính tổng lại, rừng, trồng rừng có thể hấp
thu được 11 - 15% tổng lượng CO2 phát thải từ nguyên liệu hóa thạch trong
thời gian tương đương [23].
b.

Các phương pháp nghiên cứu lượng carbon tích lũy của rừng
Quá trình biến đổi carbon trong hệ sinh thái được xác định từ cân bằng

carbon, gồm carbon đi vào hệ thống thông qua quang hợp và tiếp thu các chất
hữu cơ khác. Carbon mất đi từ quá trình hô hấp của thực vật, động vật, lửa,
khai thác, sinh vật chết cũng như những quá trình khác. Phương pháp điều tra
carbon và động thái biến đổi carbon trong rừng nói chung và rừng trồng nói
riêng có thể được tóm tắt thành 4 nhóm lớn dưới đây (IPCC, 2000; Smith,
2004):
[25]
-

Phương pháp dựa trên đo đếm các bể carbon - Menthods based

on
stock change measurements.
-


Phương pháp dựa trên đo đếm các dòng carbon - Menthods based

on
flux measurements.
-

Phương pháp dựa trên công nghệ viễn thám - Menthods based on

remote sensing to determine geographical extent and change.
-

Phương pháp mô hình hoá - Modelling.

* Xác định lượng carbon tích luỹ thông qua sinh khối rừng


17
-

Phương pháp 1: Phương pháp tính theo hệ số quy đổi từ sinh

khối khô: Phương pháp này tiến hành khi đã xác định được sinh khối của lâm
phần. Sau khi xác định sinh khối tươi bằng cách cân ngay tại rừng, tiến hành
lấy mẫu từng bộ phận và đem về phân tích. Sau khi đã lấy mẫu, đem về phòng
thí nghiệm và sấy khô ở các nhiệt độ 1050 C cho tới khối lượng không đổi thu
được sinh khối khô của các bộ phận. Từ tỷ lệ lấy mẫu tính ra được sinh khối
khô/ha.
Nissho


Phương pháp 2: Phương pháp của NIRI - Viện nghiên cứu

Iwai- Nhật Bản
Gọi tổng trữ lượng lâm phần là A (m3/ha), sinh khối gỗ khô B (tấn/ha)
B=0,5*A, tổng sinh khối trên mặt đất C (tấn/ha) thì C=1,33*B, tổng sinh khối
D (tấn/ha) D= 1,2*C. Tổng lượng cacbon hấp thụ E (tấn/ha) E= 0,5*D, tổng
lượng CO2 hấp thụ G (tấn/ha) là: G= E*44/12.
* Xác định lượng carbon trực tiếp
-

Phương pháp 1: Phương pháp này sử dụng công nghệ viễn thám

GIS với các công cụ như ảnh hàng không, rada, ảnh viễn thám, laze, hệ thống
định vị GPS,… để đo đếm lượng carbon và sự biến đổi của chúng. Nó thường
được áp dụng cho phạm vi quốc gia, vùng và cũng rất phù hợp cho việc kiểm
tra, giám sát cá dự án sử dụng đất, chuyển đổi sử dụng đất và lâm nghiệp
(LULUCF).
-

Phương pháp 2: Đo trực tiếp quá trình sinh lý điều khiển cân

bằng carbon trong hệ sinh thái. Cách này bao gồm việc đo cường độ quang hợp
và hô hấp cho từng thành phần trong hệ sinh thái rừng (lá, cành, thân, rễ), sau
đó ngoại suy ra lượng CO2 tích luỹ trong toàn bộ hệ sinh thái


18
-

Phương pháp 3: Phương pháp này được phát triển trong những


năm gần đây với sự hỗ trợ của kỹ thuật vi khí tượng học (micrometeological
techniques).
* Phương pháp xác định lượng carbon trong đất rừng
Mặc dù hầu hết carbon được hấp thụ bởi các hệ sinh thái trên mặt đất
nhưng hơn một nửa số này sẽ được chuyển xuống đất thông qua quá trình phân
huỷ xác hữu cơ, tiết dịch của rễ cây,... vì vậy, nghiên cứu về lượng carbon tích
luỹ trong đất là rất quan trọng trong việc xác định lượng carbon hấp thụ bởi
rừng. Carbon trong đất tồn tại ở hai dạng là carbon vô cơ (có nguồn gốc từ
phong hoá) và carbon hữu cơ có nguồn gốc từ thực vật. Lượng carbon vô cơ
khoảng 1.700 Pg nhưng ít biến đổi, carbon hữu cơ khoảng 1.400 Pg trong khi
thảm thực vật chỉ chiếm 650 Pg (Dalas and Carter 2000, Robert 2001).Để phân
tích carbon trong phòng thí nghiệm hiện nay có hai cách phổ biến nhất là oxi
hoá hỗn hợp ướt và đốt cháy mẫu khô (Schroth 2003).
c.

Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO2 của rừng
Năm 1980, Brown và cộng sự đã sử dụng công nghệ GIS dự tính lượng

carbon trung bình trong rừng nhiệt đới châu Á là 144 tấn/ha trong phần sinh
khối và 148 tấn/ha trong lớp đất mặt với độ sâu 1 m, tương đương 42 - 43 tỷ
tấn carbon trong toàn châu lục. Năm 1991, Houghton R.A đã chứng minh
lượng carbon trong rừng nhiệt đới châu Á là 40 - 250 tấn/ha, trong đó 50 - 120
tấn/ha ở phần thực vật và đất.
Kết quả nghiên cứu của Paml C.A và cộng sự năm 1986 đã cho rằng
lượng carbon trung bình trong sinh khối phần trên mặt đất của rừng nhiệt đới
châu Á là 185 tấn/ha và biến động từ 25 - 300 tấn/ha. Kết quả nghiên cứu của
Brown (1991) cho thấy rừng nhiệt đới Đông Nam Á có lượng sinh khối trên



19
mặt đất từ 50 - 430 tấn/ha (tương đương 25 - 215 tấn C/ha) và trước khi có tác
động của con người thì các trị số tương ứng là 350 - 400 tấn/ha (tương đương
175 - 200 tấn C/ha).
Nghiên cứu sự biến động carbon sau khai thác rừng một số nhà khoa học
đã cho thấy rằng:
- Lượng sinh khối và carbon của rừng nhiệt đới châu Á bị giảm khoảng
22 - 67% sau khai thác (Lasco, 2003).
- Tại Philippines, ngay sau khi khai thác lượng carbon bị mất là 50%, so
với rừng thành thục trước khai thác ở Indonesia là 38 - 75% (Lasco, 2003). Phương thức khai thác cũng có ảnh hưởng rõ rệt tới mức thiệt hại do khai thác
hay lượng carbon bị giảm. Bằng việc áp dụng phương thức khai thác giảm
thiểu (RIL) tác động ở Sabah (Malaysia) sau khai thác một năm, lượng sinh
khối đã đạt 44 - 67% so với trước khai thác. Lượng carbon trong lâm phần sau
khai thác theo RIL cao hơn lâm phần khai thác theo phương thức thông thường
đến 88 tấn/ha (Putz F.E. & Pinard M.A, 1993).
Subarudi và các cộng sự (2003), nghiên cứu về khả năng hấp thu carbon
của một số loài cây trồng chính ở Indonexia, trên cơ sở đó họ đã xây dựng mô
hình kinh tế cho các loài cây này, trong đó có loài Keo tai tượng đã đưa ra được
phương trình tính lượng carbon có trong sinh khối cây với loài Keo tai tượng:
0.5*0.53*Vt
Bt =


0.75



 *1.15

(1.1)

Vt: là thể tích cây tính theo tuổi:

Vt = 194 ,2[1 − Exp (−1,926 (1 − 0.806 )t]1/1− 0.806 (với

α=5,356)


20
(1.2)
Quá trình sinh trưởng của cây trồng cũng đồng thời là quá trình tích lũy
carbon. Theo Noordwijk (2000), ở Indonesia khả năng tích lũy carbon ở rừng
thứ sinh, các hệ thống nông lâm kết hợp và thâm canh cây lâu năm trung bình là
2,5 tấn/ha/năm và có sự biến động rất lớn trong các điều kiện khác nhau từ 0,5 12,5 tấn/ha/năm, rừng Quế 7 tuổi tích luỹ từ 4,49 - 7,19 kg C/ha.
Tại Philippines, (1999) Lasco R. cho thấy ở rừng tự nhiên thứ sinh có
86 - 201 tấn C/ha trong phần sinh khối trên mặt đất; ở rừng già con số đó là
370 - 520 tấn sinh khối/ha (tương đương 185 - 260 tấn C/ha, lượng carbon ước
chiếm 50% sinh khối). Nghiên cứu của Lasco năm 2003 cũng cho thấy rừng
trồng thương mại cây mọc nhanh tích luỹ được 0,5 - 7,82 tấn C/ha/năm
tuỳ theo loài cây và tuổi.
1.2.3.2. Ở Việt Nam
Tác giả Vũ Tấn Phương, 2009 trong báo cáo chuyên đề sinh khối và trữ
lượng carbon rừng trồng đã đưa ra một số phương pháp xác định trữ lượng
carbon như sau:
-

Phương pháp dựa trên sinh khối của rừng.

-

Phương pháp dựa trên điều tra rừng thông thường.


-

Phương pháp dựa trên điều tra thể tích.

-

Phương pháp dựa trên các nhân tố điều tra lâm phần.

-

Phương pháp dựa trên số liệu cây cá lẻ.

-

Phương pháp dựa trên vật liệu khai thác.

-

Phương pháp dựa trên mô hình sinh trưởng.

-

Phương pháp dựa trên công nghệ viễn thám và Hệ thống

thông tin địa lý (GIS)


21
Ngô Đình Quế và cộng sự (2005) khi Nghiên cứu, xây dựng các tiêu chí,

chỉ tiêu trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch ở Việt Nam đã tiến hành đánh
giá khả năng hấp thụ CO2 thực tế của một số loại rừng trồng ở Việt Nam gồm:
Thông nhựa, Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm và Bạch đàn Uro ở các tuổi
khác nhau. Kết quả tính toán cho thấy khả năng hấp thụ CO2 của các lâm phần
khác nhau tuỳ thuộc vào năng suất lâm phần đó ở các tuổi nhất định. Để tích
luỹ khoảng 100 tấn CO2/ha Thông nhựa phải đến tuổi 16 - 17, Thông mã vĩ và
Thông 3 lá ở tuổi 10, Keo lai 4 - 5 tuổi, Keo tai tượng 5 - 6 tuổi, Bạch đàn uro
ở tuổi 4-5. Kết quả này là rất quan trọng nhằm làm cơ sở cho việc quy hoạch
vùng trồng, xây dựng các dự án trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch CDM.
Tác giả đã lập phương trình tương quan hồi quy - tuyến tính giữa yếu tố lượng
CO2 hấp thụ hàng năm với năng suất gỗ và năng suất sinh học. Từ đó tính ra
được khả năg hấp thụ CO2 thực tế ở nước ta đối với 5 loài cây trên.[13]
Nghiên cứu lượng carbon tích luỹ của một số trạng thái rừng trồng tại
Núi Luốt trường Đại học Lâm nghiệp. Nghiên cứu này do Nguyễn Văn Dũng
thực hiện năm 2005 tại Núi Luốt- Trường Đại học Lâm nghiệp cho hai đối
tượng là rừng trồng thuần loài Thông mã vĩ 20 tuổi và rừng trồng Keo lá tràm
15 tuổi năm 2005. Sau khi nghiên cứu sinh khối tiến hành tính toán lượng
cacbon tích luỹ ở hai trạng thái rừng trồng như sau:
Coi toàn bộ khối lượng gỗ khô kiệt là xenlulô có công thức (C6H10
O5)n. Từ đó tỷ lệ carbon/gỗ khô được tính là:
Ta có H = (12x6)/(12x6 + 1x10 + 16x5)
Lượng carbon tích luỹ trong cây = sinh khối khô của cây x H
Lượng carbon trong vật rơi rụng = sinh khối khô của vật rơi rụng x H


22
Lượng carbon tích luỹ trong đất được xác định bằng cách: Đối với mỗi
trạng thái rừng trồng, ta chọn một vị trí đại diện, đào phẫu diện lấy 4 mẫu đất
theo độ sâu: 0-10cm, 10-30cm, 30- 50cm, 50-70cm. Sau đó phân tích hàm
lượng cacbon trong từng mẫu đất và tính toán trung bình lượng cacbon của mỗi

loại rừng [4].
Võ Đại Hải (2007) Nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon của rừng Mỡ
trồng thuần loài tại vùng Trung tâm Bắc bộ theo phương pháp thu thập mẫu cây
cá thể Mỡ: Trên mỗi OTC, tiến hành đo đếm toàn diện các chỉ tiêu sinh trưởng
D1.3 , Hvn , Dtán từ đó chọn ra cây tiêu chuẩn. Tiến hành chặt hạ cây tiêu
chuẩn và phân thành các bộ phận: Lá, cành, thân, đào lấy toàn bộ rễ có đường
kính lớn hơn 2 mm. Mỗi bộ phận được cân tươi ngay tại rừng rồi lấy mẫu đem
về phân tích trong phòng thí nghiệm.
Thu thập mẫu cây bụi thảm tươi: tại mỗi ô thứ cấp, tiến hành chặt và đào
lấy rễ của toàn bộ cây bụi thảm tươi rồi phân chia thành các bộ phận thân,
cành, lá, rễ. Cân tươi các bộ phận ngay tại hiện trường, lấy mẫu đem về phân
tích trong phòng thí nghiệm.
Thu thập mẫu vật rơi rụng: Tại mỗi ô dạng bản, thu gom toàn bộ vật rơi
rụng, cân tại chỗ khối lượng tươi sau đó tính trung bình cho 1 m2. Trộn đều vật
rơi rụng, lấy mỗi ÔTC 1 mẫu đem về phân tích trong phòng thí nghiệm. Kết
quả nghiên cứu cho thấy lượng cacbon tích lũy trong tầng cây gỗ lâm phần
rừng trồng Mỡ thay đổi rõ rệt theo cấp đất và cấp tuổi. Cấu trúc carbon cây cá
thể Mỡ là thân (54-80%), rễ (14-30%), cành (3-11%), lá (1-6%). Tổng lượng
cacbon tích lũy trong lâm phần rừng trồng Mỡ dao động khá lớn từ 40.933145.041 kg, bao gồm 4 thành phần chính là carbon trong đất (3875%), trong


23
tầng cây gỗ (19-60%), trong vật rơi rụng 1,56-7,91% và carbon trong cây bụi
thảm tươi 0,21-3,25%.
Ngô Đình Quế (2005) cho biết, với tổng diện tích là 123,95 ha sau khi
trồng Keo lai 3 tuổi, Quế 17 tuổi, Thông 3 lá 15 tuổi, Keo lá tràm 12 tuổi thì
sau khi trừ đi tổng lượng C của đường cơ sở, lượng C thực tế thu được qua việc
trồng rừng theo dự án CDM là 7.553,6 tấn C hoặc 27.721,9 tấn CO2. [13]
Nguyễn Ngọc Lung và Nguyễn Tường Vân (2004) đã thử nghiệm tính
toán giá trị giá trị bằng tiền của rừng trồng trong cơ chế phát triển sạch. Dựa

vào công thức tổng quát của quá trình quang hợp cho rừng cây là:
6CO2 5H2O C6H10O5 6O
+
=
264
90
162

+2
192

(1.3)

Theo phương trình trên tính ra được tỷ lệ sinh khối của rừng so với
lượng CO2 đã hấp thụ là: 264/162=1,630. Nghiên cứu đã dẫn đến kết luận giá
trị gỗ của rừng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng giá trị của rừng.
Vũ Tấn Phương (2006) tính toán trữ lượng carbon trong sinh khối thảm
tươi cây bụi tại Hòa Bình và Thanh Hóa là 20 tấn/ha với lau lách, 14 tấn/ha với
cây bụi cao 2-3 m, khoảng 10 tấn/ha với cây bụi dưới 2m và tế guột, 6,6 tấn/ha
với cỏ lá tre, 4,9 tấn/ha với cỏ tranh, cỏ chỉ/cỏ lông lợn là 3,9 tấn/ha. Đây là
một kết quả nghiên cứu rất quan trọng không những chỉ đóng góp cho phương
pháp luận nghiên cứu sinh khối cây bụi thảm tươi mà còn là căn cứ khoa học
để xây dựng kịch bản đường cơ sở cho các dự án trồng rừng CDM sau này.
[12]
Các tác giả thường thiết lập mối quan hệ giữa lượng carbon tích lũy của
rừng với các nhân tố điều tra cơ bản như đường kính, chiều cao vút ngọn, mật
độ,... cụ thể như Nguyễn Văn Dũng (2005) đã lập phương trình cho 2 loài


24

Thông mã vĩ và Keo lá tràm; Ngô Đình Quế (2005) đã xây dựng mối quan hệ
cho các loài Thông nhựa, Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm, Bạch đàn Uro;
Vũ Tấn Phương (2006) xây dựng các phương trình quan hệ cho Keo lai, Keo
tai tượng, Keo lá tràm, Bạch đàn Urophylla, Quế. Đây là những cơ sở quan
trọng cho việc xác định nhanh lượng carbon tích lũy của rừng trồng nước ta
thông qua điều tra một số chỉ tiêu đơn giản.
Những nghiên cứu về khả năng hấp thụ CO2 của rừng ở nước ta mới chỉ
được tiến hành trong một vài năm trở lại đây. Song những kết quả thu được
bước đầu là rất lớn, có giá trị và phần nào đã phản ánh được khả năng hấp thụ
carbon của rừng nước ta. Có thể tổng kết những kết quả nghiên cứu đó như
sau:
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Dũng (2005) tại Núi Luốt Đại học Lâm nghiệp cho thấy rừng thông mã vĩ thuần loài 20 tuổi lượng có
carbon tích luỹ là 80,7 - 122 tấn/ha; giá trị tích luỹ carbon ước tính đạt 25,8 39,0 triệu đồng/ha. Rừng Keo lá tràm trồng thuần loài 15 tuổi có tổng lượng
carbon tích luỹ là 62,5 - 103,1 tấn/ha; giá trị tích luỹ carbon ước tính đạt 20 33 triệu đồng/ha. Tác giả cũng đã xây dựng bảng tra lượng carbon tích luỹ của
hai trạng thái rừng trồng keo lá tràm và thông mã vĩ theo mật độ, Dg và HL.
Nguyễn Duy Kiên (2007) trong đề tài “Nghiên cứu khả năng hấp thụ
carbon rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) thuần loài tại Tuyên
Quang”, kết quả nghiên cứu cho thấy, lượng carbon hấp thụ có trong cây cá thể
tăng dần theo tuổi và giảm dần từ cấp đất tốt tới cấp đất xấu. Năng lực hấp thụ
carbon ở các bộ phận thân cây là khác nhau. Tổng lượng carbon hấp thụ
có trong lâm phần trung bình đạt 130,38 tấn/ha.[7]


25
Cho tới nay một số loài cây trồng rừng chủ yếu ở nước ta như Keo tai
tượng, Mỡ, Thông đuôi ngựa, Thông nhựa, Keo lai,… đã được nghiên cứu lập
biểu cấp đất, thể tích, quá trình sinh trưởng và sản lượng rừng,… như Vũ Tiến
Hinh (1999-2000), Đào Công Khanh (1999-2001), Lê Huy Cường (1999), Vũ
Nhâm (1995),… Đây là những cơ sở quan trọng cho việc triển khai nghiên cứu
sinh khối và tính toán lượng carbon hấp thụ cho các loại rừng trồng ở nước ta.

Một số kết quả nghiên cứu của các loài trên như sau:
+ Trong cây cá thể Thông mã vĩ, lượng carbon chủ yếu tập trung ở phần
thân cây và dao động trong khoảng từ 29,3-73,2% (trung bình 57,0%); tiếp đến
là cành cây chiếm từ 7,7 - 30,1% (trung bình 18,2%); rễ cây chiếm từ 5,8 15,5% (trung bình 9,9%); lượng carbon trong lá dao động từ 1,9 - 26,7%
(trung bình 9,0%) và thấp nhất là lượng carbon trong vỏ cây, dao động từ 2,6 13,5% (trung bình là 5,9%). Quá trình hấp thụ carbon trong cây cá thể tăng dần
theo thời gian. Tính trung bình cho cả 3 cấp đất, ở tuổi 10, lượng carbon trong
cây cá thể tăng gấp 4,4 lần so với tuổi 5 và ở tuổi 30 lượng carbon hấp thụ đã
tăng gấp 45 lần so với tuổi 5. Tại tuổi 30, tổng lượng carbon trong cây cá thể
Thông mã vĩ đạt 226,5 kg/cây ở cấp đất I, 220,8 kg/cây ở cấp đất II và 186,8
kg/cây ở cấp đất III (Đặng Thịnh Triều, 2010).
+ Trong cây cá thể Keo lai lượng carbon tập trung vào phần lớn ở thân
cây và dao động trong khoảng từ 20,10 - 70,59 % (trung bình 47,28%); tiếp
đến là rễ cây chiếm từ 9,74 - 30,54 % (trung bình 17,87%); cành cây chiếm từ
8,08 - 25,25% (trung bình 16,46%); lượng carbon trong lá dao động từ 2,95 31,12% (trung bình 13,03%) và thấp nhất là lượng carbon trong vỏ cây, dao
động từ 3,80 - 8,33% (trung bình là 5,37%). Tổng lượng carbon hấp thụ trong
cây bụi thảm tươi trên 1 ha rừng trồng Keo lai dao động khá lớn từ 0,21 - 2,31


×