Tải bản đầy đủ (.doc) (240 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO GIỚI THIỆU một số tác PHẨM KINH điển của c mác, PH ĂNG GHEN v i lê NIN và hồ CHÍ MINH về KINH tế học, KINH tế CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.63 KB, 240 trang )

1
2
3
4
5
6
7

Lời giới thiệu
Phần 1: Các Mác và PH.Ăngghen
Tác phẩm: Những nguyên lý của chủ nghĩa
Cộng sản của Ph.ăngghen
Tác phẩm: T bản của C.Mác
Tác phẩm: Phê phán Cơng lĩnh Gô ta của
C.Mác
Tác phẩm: Chống Đuyrinh của Ph.Ăngghen
Phần II: V.I.Lê nin
Tác phẩm: Bàn về cái gọi là vấn đề thị trờng
của V.I.Lênin
Tác phẩm: Sự phát triển của chủ nghĩa t bản ở
Nga
của V.I.Lênin
Tác phẩm: Hải cảng Lữ Thuận thất thủ của

V.I.Lênin
8 Tác phẩm: Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột
cùng của chủ nghĩa t bản của V.I.Lênin
9 Tác phẩm: Những nhiệm vụ trớc mắt của
chính quyền Xô Viết của V.I.Lênin
10 Tác phẩm: Sáng kiến vĩ đại của V.I.Lênin
11 Tác phẩm: Kinh tế v chính trị trong thời đại


chuyên chính vô sản của V.I.Lênin
12 Tác phẩm: Bàn về thuế lơng thực của

4
5
26
55
70
94
102
124
136
147
164
173
187

V.I.Lênin
13 Tác phẩm: Bàn về chế độ hợp tác xà của

205

V.I.Lênin
Phần III: Hồ chí minh
14 Tác phẩm: Bản án chế độ thực dân pháp của

226

Hồ Chí Minh
15 Tác phẩm: Đờng cách mệnh cđa Hå ChÝ Minh

16 T¸c phÈm: “Di chóc” cđa chđ tÞch Hå ChÝ Minh

234
245


2

PHẦN I
CÁC MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN
TÁC PHẨM
“NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN”
CỦA PH. ĂNGGHEN
1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM
1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Tác phẩm ra đời trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh đã phát triển tới đỉnh cao của nó. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần
thứ nhất với nội dung chủ yếu là chuyển từ lao động thủ cơng sang
lao động bằng máy móc đã diễn ra rộng khắp ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
Quá trình này đã đẩy tới hình thành nền cơng nghiệp tư bản chủ
nghĩa, năng suất lao động tăng cao, thúc đẩy kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa phát triển.
Trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện và giữ được địa vị thống
trị trong kinh tế. Tuy nhiên, do dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nên đã sớm bộc lộ mâu thuẫn kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội
hố cao. Đó chính là ngun nhân dẫn đến những mâu thuẫn về chính
trị - xã hội trong xã hội tư bản mà biểu hiện tập trung của nó là mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.

Giai cấp tư sản đã giữ được vai trò thống trị trong xã hội tư
bản. Sự tồn tại hay phát triển của giai cấp vô sản phụ thuộc vào
tương quan lực lượng về kinh tế, chính trị giữa hai giai cấp đó và sự
phát triển của nền đại cơng nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đại công


3

nghiệp đã sản sinh ra và tập trung giai cấp vô sản vào trong các nhà
máy lớn, các khu đô thị tập trung. Vì vậy, giai cấp vơ sản đã phát
triển cả về số lượng và chất lượng. Giai cấp vơ sản từ thân phận làm
th, bị áp bức bóc lột đã ý thức được sức mạnh của mình và thực
sự trở thành lực lượng chính trị - xã hội rộng lớn khẳng định vai trị
chính trị của mình với sự phát triển của nhân loại. Vai trị đó của
giai cấp vơ sản lại phụ thuộc vào sự đồn kết đấu tranh của nó nhằm
chống lại giai cấp tư sản để xố bỏ sự áp bức bóc lột giai cấp. Vì
vậy, phong trào cộng sản thế giới trong thời gian này phát triển
mạnh mẽ, trước hết là ở các nước tư bản phát triển như Anh, Pháp,
Đức.
Đứng trước sự phát triển của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, bằng thiên tài của mình, nắm chắc thời cơ,
Ph.Ăngghen cho rằng để phong trào công nhân phát triển đúng
hướng cấp thiết phải có lý luận soi đường và Người đã viết tác
phẩm để truyền bá tư tưởng của mình.
Cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 1847 theo sự uỷ nhiệm của
Ban chấp hành khu bộ Pari của Liên đoàn những người Cộng sản,
Ph.Ăngghen biên soạn dự thảo Cương lĩnh của Liên đoàn dưới nhan
đề: “Những nguyên lý của chủ nghĩa Cộng sản”. Vấn đề soạn thảo
Cương lĩnh dưới dạng cẩm nang (dưới hình thức câu hỏi và câu trả
lời) đã được thảo luận ngay từ trước Đại hội lần thứ nhất. Tháng 9

năm 1847, Ban chấp hành Trung ương Liên đồn những người Cộng
sản ở Ln Đơn đã phân phát bản dự thảo “Cẩm nang về chủ nghĩa
Cộng sản” cho các khu bộ và chi bộ thuộc Liên đoàn. Văn kiện này
và cả bản dự thảo đã được chỉnh lý do M.Hétxơ, một người của phái
“Chủ nghĩa xã hội chân chính” soạn thảo tại Pari cịn mang ảnh
hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng nên không làm cho C.Mác
và Ph.Ăngghen hài lòng. Ngày 22 tháng 10, tại phiên họp của Ban
chấp hành khu bộ Liên đoàn những người Cộng sản tại Pari,
Ph.Ăngghen đã phê phán kịch liệt bản dự thảo của M.Hétxơ và đã


4

bác bỏ bản dự thảo này. Ph.Ăngghen được giao soạn một dự thảo
mới. Bản dự thảo ấy chính là “Những nguyên lý của chủ nghĩa
Cộng sản” được viết sau đó không lâu.
Như vậy, tác phẩm ra đời từ tháng 5 năm 1846 đến tháng 3
năm 1848, đây là thời kỳ hình thành chủ nghĩa Mác. Tác phẩm là cơ
sở tiền đề cho bản tuyên ngôn của phong trào cộng sản - “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản”.
1.2. Kết cấu và nội dung tư tưởng của tác phẩm
Tác phẩm được in trong C.Mác và Ph.Ăngghen Tồn tập, Tập
4, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, năm 1995, từ
trang 456 đến trang 480. Tác phẩm được soạn thảo dưới hình thức
cẩm nang, gồm 25 câu hỏi và câu trả lời.
Sở dĩ tác phẩm được Ph.Ăngghen trình bày dưới dạng câu hỏi
và câu trả lời theo từng vấn đề là để hướng dẫn giai cấp vô sản nhận
thức đúng những quan điểm tư tưởng về con đường giải phóng giai
cấp, xây dựng xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, nội
dung tác phẩm được trình bày một cách tồn diện trên tất cả các mặt

kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, nhà nước pháp quyền, giai cấp …
nhưng tập trung vào hai nội dung cơ bản là: Trình bày những vấn đề
kinh tế của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và những
vấn đề chính trị - xã hội như vấn đề nhà nước, giai cấp, đấu tranh
giai cấp…Sau đây là những nội dung chính về kinh tế chính trị học
được trình bày trong tác phẩm.
2. NỘI DUNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ TRONG TÁC PHẨM
2.1. Quan điểm của Ph.Ăngghen về chủ nghĩa cộng sản
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chủ nghĩa cộng sản như
chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một phong trào, chủ nghĩa cộng
sản với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa cộng sản
với tư cách là một học thuyết. Trong tác phẩm này, riêng câu hỏi thứ
1, Ph.Ăngghen đã đặt vấn đề: Chủ nghĩa cộng sản là gì? và Ơng trả
lời ngay rằng: “Chủ nghĩa cộng sản là học thuyết về những điều


5

kiện giải phóng giai cấp vơ sản”. Thực chất là giải phóng con người
khỏi áp bức bóc lột, bất cơng, xây dựng một xã hội cơng bằng, bình
đẳng, ở đó mọi người được phát triển tự do và toàn diện.
2.2. Quan niệm về giai cấp vô sản và điều kiện ra đời, tồn
tại của giai cấp vô sản
Quan niệm về giai cấp vô sản được Ph.Ăngghen đặt ra và trả
lời trong câu hỏi thứ 2. Ông cho rằng giai cấp vô sản là giai cấp chỉ
kiếm sống bằng bán sức lao động mà không phải sống bằng lợi
nhuận của bất cứ số tư bản nào, số phận của họ phụ thuộc vào việc
có bán được hay khơng bán được sức lao động. Đó là giai cấp mà
hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, tồn bộ sự sống cịn của họ phụ
thuộc vào sự chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn và bản

thân công việc làm ăn đó lại phụ thuộc vào cuộc cạnh tranh khơng
gì ngăn cản nổi giữa những nhà tư bản. Đây là giai cấp lao động
trong thế kỷ XIX, họ là những người mất hết tư liệu sản xuất, cái sở
hữu duy nhất là sức lao động. Tuy nhiên, Ăngghen cũng cho rằng
giai cấp vô sản không đồng nhất với giai cấp nghèo đói, vì những
người này có thể cịn có chút tư liệu sản xuất, cịn cơng nhân sống
trong điều kiện như trên, tức là những người vơ sản thì khơng phải
lúc nào cũng có. Sự phân biệt này được Ăngghen trình bày ở câu
hỏi và câu trả lời thứ 3.
Về sự ra đời của giai cấp vô sản, sự xác lập địa vị thống trị của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa Ph.Ăngghen cho rằng giai cấp vô
sản là sản phẩm của cuộc cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng
này xảy ra đầu tiên ở nước Anh vào nửa sau của thế kỷ XVIII, sau
đó thì diễn ra ở tất cả các nước văn minh trên thế giới. Sở dĩ có cuộc
cách mạng đó là vì có sự phát minh ra máy móc mà trước hết là máy
hơi nước, máy kéo sợi…Chính sự ra đời của máy móc đã làm thay
đổi toàn bộ phương thức sản xuất tồn tại từ trước tới nay và loại
những người công nhân cũ. Máy móc thì rất đắt nên chỉ có những
nhà tư bản lớn mới dùng được. Hàng hố do máy móc sản xuất ra


6

thì rẻ và tốt hơn so với hàng hố do cơng nhân sản xuất ra bằng
phương pháp thủ cơng. Chính bằng cách đó máy móc đã trao tồn
bộ cơng nghiệp vào tay các nhà tư bản lớn và hoàn toàn làm giảm
giá trị số tài sản nhỏ bé không đáng kể thuộc về cơng nhân. Vì vậy
chỉ trong một thời gian ngắn nhà tư bản đã nắm hết thảy mọi cái vào
tay mình, cịn cơng nhân thì khơng cịn gì nữa. Máy móc và chế độ
cơng xưởng ra đời làm cho phân công lao động xã hội và sự chuyên

môn hoá trong sản xuất ngày càng sâu sắc, năng suất, chất lượng
hàng hoá tăng cao, giá lại rẻ, bằng cách ấy cuối cùng tất cả các
ngành công nghiệp lần lượt chịu sự khống chế của máy móc như đã
từng xảy ra với ngành kéo sợi, dệt vải. Tất cả các ngành cơng
nghiệp ấy đã hồn tồn chuyển vào tay các nhà tư bản lớn, cịn cơng
nhân thì mất hết mọi tàn dư cuối cùng bảo đảm sự độc lập của họ.
Chế độ công xưởng ngày càng mở rộng sự thống trị của nó thay thế
cho cơng trường thủ cơng, tầng lớp trung gian trước đây nhất là
những người thợ cả thủ công hạng nhỏ ngày càng phá sản; địa vị
trước đây của người sản xuất hoàn toàn thay đổi và giai cấp tư sản,
giai cấp vô sản mới được tạo ra dần dần cuốn hút tất cả các giai cấp
khác vào hàng ngũ của mình. Như vậy, chính nhờ sự ra đời của máy
móc đã làm thay đổi địa vị trước đây của người sản xuất dẫn đến sự
hình thành 2 giai cấp: tư sản và vô sản. Giai cấp những nhà tư sản
lớn độc chiếm mọi tư liệu sản xuất và cả tư liệu sinh hoạt. Giai cấp
vô sản, những người hồn tồn khơng có của phải bán lao động của
mình cho nhà tư bản để đổi lấy những tư liệu sinh hoạt cần thiết.
Quan hệ giữa hai giai cấp là quan hệ chủ thợ, quan hệ bóc lột và bị
bóc lột, qua đó quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và xác lập
được địa vị thống trị của mình. Sự ra đời của giai cấp vơ sản được
Ph.Ăngghen trình bày ở câu hỏi và câu trả lời thứ 4 trong tác phẩm.
Ở câu hỏi và câu trả lời thứ 5, Ph.Ăngghen phân tích về hàng
hố sức lao động thông qua việc làm rõ sự bán sức lao động của
người vô sản cho nhà tư bản. Theo Ăngghen, sức lao động cũng là


7

một thứ hàng hoá giống như mọi thứ hàng hoá khác, giá cả của nó
cũng tuân theo quy luật giá trị. Chi phí sản xuất ra sức lao động gồm

có giá trị số lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết để người cơng nhân có
thể duy trì năng lực lao động của mình và để cho giai cấp cơng nhân
khỏi bị diệt vong. Vì là những người khơng có của nên người công
nhân phải trao đổi sức lao động của mình nhưng cũng khơng thể
nhận nhiều hơn số cần thiết cho mục đích trên. Ph.Ăngghen cho
rằng tiền lương chính là giá cả của sức lao động trong nền đại công
nghiệp và cạnh tranh tự do sẽ hết sức thấp, nó là mức tối thiểu để
duy trì đời sống của người cơng nhân. Tuy nhiên tình hình có lúc
tốt, có lúc xấu nên người cơng nhân cũng có lúc lĩnh được nhiều
hoặc ít tiền lương nhưng tính trung bình thì số tiền lương mà họ
nhận được cũng không nhiều hơn và khơng ít hơn mức tối thiểu nói
trên. Quy luật kinh tế đó của tiền lương ngày càng được thực hiện
một cách chặt chẽ khi đại công nghiệp càng chiếm địa vị thống trị
trong tất cả các ngành lao động.
Từ câu hỏi và câu trả lời thứ 6 đến câu hỏi và câu trả lời thứ
10, Ăngghen phân biệt giai cấp vô sản với các giai cấp khác trong
các xã hội trước chủ nghĩa tư bản và với người công nhân cơng
trường thủ cơng. Ơng phân tích rằng trước khi có cách mạng cơng
nghiệp, trong thời cổ đại có những người lao động là nô lệ của
người chủ; thời trung cổ có người lao động là nơng nơ của chúa đất
q tộc; từ thời trung cổ đến cách mạng công nghiệp trong các
thành thị cịn có những người thợ thủ cơng làm việc cho người thợ
cả tiểu thị dân và cùng với sự phát triển của công trường thủ công
xuất hiện những công nhân công trường thủ công do các nhà tư bản
lớn hơn thuê mướn. Sự ra đời của các giai cấp lao động và địa vị
của họ gắn liền với điều kiện kinh tế - xã hội trong các giai đoạn
lịch sử khác nhau so với các giai cấp có của chiếm địa vị thống trị.
Người vơ sản khác người nô lệ ở chỗ: Người nô lệ bị bán đi chỉ một
lần thôi, là tài sản của người chủ nhất định, dù cùng cực thì sinh



8

hoạt của họ vẫn được bảo đảm, nô lệ đứng ngồi cạnh tranh, họ là
thứ đồ vật chứ khơng phải là một thành viên của xã hội công dân;
người nô lệ muốn tự giải phóng mình chỉ cần tiêu diệt một quan hệ
nô lệ thôi. Ngược lại, người vô sản tự bán mình từng ngày, từng giờ;
họ là tài sản của toàn bộ giai cấp tư sản, lao động (sức lao động) của
họ chỉ bán được khi có người cần đến nên sinh hoạt không được bảo
đảm; người vô sản sống trong điều kiện của cạnh tranh và chịu ảnh
hưởng bởi tất cả các biến động của nó, họ được thừa nhận là một cá
nhân, một thành viên của xã hội cơng dân, thuộc về một xã hội có
trình độ phát triển cao hơn và do đó có trình độ cao hơn người nơ lệ;
người vơ sản chỉ có thể tự giải phóng được sau khi tiêu diệt được
chế độ tư hữu nói chung. Từ đây có thể suy luận rằng thủ tiêu chế
độ tư hữu tư bản là thủ tiêu chế độ tư hữu cuối cùng đẻ ra chế độ
người bóc lột người. Tiếp đó là sự so sánh của Ph.Ăngghen về sự
khác nhau giữa người vô sản và người nơng nơ. Người nơng nơ có
và được sử dụng công cụ sản xuất, phải nộp một phần thu nhập của
mình hay phải làm một số cơng việc, người nơng nô phải đem nộp,
sinh hoạt của họ được bảo đảm và họ đứng ngồi cạnh tranh. Người
nơng nơ tự giải phóng hoặc bằng cách nào đó gia nhập vào hàng
ngũ những người hữu sản và đi vào cạnh tranh. Người vơ sản thì
làm việc bằng cơng cụ sản xuất của người khác, để làm lợi cho
người đó và nhận một phần thu nhập, họ được lĩnh về nhưng sinh
hoạt của họ không được bảo đảm; họ sống trong điều kiện của cạnh
tranh, họ tự giải phóng mình bằng cách tiêu diệt cạnh tranh, chế độ
tư hữu và mọi sự khác nhau về giai cấp. Người vô sản cũng khác
với người công nhân trong công trường thủ công ở chỗ: Công nhân
trong công trường thủ công họ ở khắp mọi nơi, đều có cơng cụ sản

xuất như khung cửi, xa kéo sợi, mảnh đất nhỏ, hầu như họ luôn sinh
sống ở nơng thơn, ít nhiều quan hệ có tính chất gia trưởng với địa
chủ, người giao việc. Ngược lại với người công nhân trong công
trường thủ công, người vô sản không có gì hết, phần nhiều họ sống


9

ở những đô thị lớn liên hệ với người giao việc bởi những quan hệ
thuần tuý tiền tệ. Đại công nghiệp đã kéo người công nhân công
trường thủ công ra khỏi điều kiện gia trưởng của họ, họ mất hết tài
sản cuối cùng của họ và chỉ khi đó họ mới trở thành người vơ sản.
2.3. Ph.Ăngghen phân tích vai trị của đại cơng nghiệp với
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nói riêng và với sự phát triển
của nhân loại nói chung
Trước hết, Ph.Ăngghen cho rằng đại cơng nghiệp hay lao động
bằng máy móc đã cho phép nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành
sản phẩm. Sự thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc đã
làm cho phân cơng lao động xã hội ngày càng sâu, rộng mang tính xã
hội hố cao, chun mơn hố sâu. Cách mạng cơng nghiệp cho ra đời
những sản phẩm công nghiệp với giá ngày càng hạ nên tác động làm
rung chuyển và phá hoại hoàn toàn hệ thống công trường thủ công hay
hệ thống công nghiệp cũ xây dựng trên cơ sở lao động thủ công ở tất
cả các nước trên thế giới. Cách mạng công nghiệp làm cho những
nước lạc hậu, những nước mà công nghiệp vẫn dựa trên công trường
thủ công, nửa dã man phải từ bỏ tình trạng biệt lập, khép kín của mình
và bắt đầu mua của người Anh những sản phẩm hàng hoá rẻ hơn, làm
cho công trường thủ công bị phá sản. Hơn thế nữa, cuộc cách mạng
công nghiệp đã làm cho những nước mà hàng chục thế kỷ như Ấn Độ
và ngay cả Trung Quốc cũng đang đi đến cách mạng. Như vậy, đại

cơng nghiệp phát triển đã xố bỏ sự biệt lập khép kín của các quốc
gia, ngay cả những quốc gia phong kiến bảo thủ ở Phương Đông cũng
bị lơi cuốn vào vịng xốy của đại cơng nghiệp, nhờ đó gắn kết các
dân tộc lại với nhau, xố bỏ lạc hậu, thúc đẩy tiến bộ.
Đại cơng nghiệp cịn làm cho thị trường dân tộc gắn với thị
trường thế giới, tạo ra thị trường thế giới thống nhất, các quốc gia
đều phụ thuộc và lệ thuộc vào nhau. Ánh sáng của văn minh, tiến bộ
nhờ đó mà lan toả; chỉ cần một sự kiện xảy ra ở các nước văn minh
đều có thể ảnh hưởng tới tất cả các nước khác. Thật vậy, đại công


10

nghiệp đã làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển, các nước
không chỉ lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau về kinh tế – kỹ thuật của sản
xuất, cả đầu vào và đầu ra của nó mà cịn lệ thuộc, phụ thuộc vào
nhau cả về mặt kinh tế -xã hội của sản xuất, tức quan hệ sản xuất.
Do đó, Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tư bản mang tính xã hội
hố cao với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tỏ ra lạc hậu có xu
hướng kìm hãm sự phát triển đó khơng cịn là mâu thuẫn trong nòng
từng nước mà đã trở thành mâu thuẫn trong tồn bộ hệ thống các
nước tư bản. Chính sự giải quyết mâu thuẫn này làm cho sự nghiệp
giải phóng giai cấp công nhân ở một nước trở thành sự nghiệp giải
phóng cơng nhân ở các nước; làm cho sứ mệnh của giai cấp vơ sản
trở thành sứ mệnh tồn thế giới. Về vấn đề này được Ăngghen trả
lời ở ý thứ nhất của câu hỏi thứ 11, Ông viết: “Như vậy là nền đại
công nghiệp đã gắn liền tất cả các dân tộc trên trái đất lại với nhau,
đã thống nhất tất cả các thị trường địa phương nhỏ bé thành một thị
trường toàn thế giới, đã chuẩn bị cơ sở, ở khắp nơi, cho văn minh và
tiến bộ, đã làm cho tất cả những cái gì xảy ra trong các nước văn

minh đều có ảnh hưởng đến tất cả các nước khác”1.
Tiếp đó, vấn đề thứ hai trong phần trả lời câu hỏi thứ 11,
Ph.Ăngghen chứng minh đại công nghiệp phát triển không chỉ củng
cố địa vị kinh tế của giai cấp tư sản mà còn củng cố địa vị chính trị
của nó làm cho nó trở thành giai cấp thống trị trong xã hội tư bản.
Bởi đại công nghiệp thay thế công trường thủ công đã làm tăng
thêm rất nhiều của cải và thế lực của giai cấp tư sản, làm cho nó trở
thành giai cấp thứ nhất trong nước. Nhờ sản xuất bằng máy, năng
suất lao động tăng, giá trị của hàng hoá giảm trong khi đó sản xuất
trong các cơng trường thủ cơng bằng các công cụ thủ công, năng
suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao không cạnh tranh nổi,
tầng lớp trung lưu phải phá sản. Cuối cùng ở tất cả các nơi xảy ra
q trình đó, giai cấp tư sản đều nắm được chính quyền trong tay,
1

. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1995, 462,463.


11

gạt bỏ những tầng lớp trước đó vẫn giữ quyền thống trị, thủ tiêu mọi
quyền lực của tầng lớp quý tộc, phá tan mọi thế lực của thị dân
phường hội, mọi đặc quyền của thợ thủ công. Để thay thế tất cả
những cái đó, giai cấp tư sản đề ra tự do cạnh tranh, cái bảo đảm
cho quyền kinh doanh của giai cấp tư bản vào bất cứ ngành công
nghiệp nào khi họ muốn và sự bình đẳng trong xã hội chỉ cịn là sự
bình đẳng của số tư bản ngang nhau. Vì vậy có thể khẳng định đại
cơng nghiệp phát triển thúc đẩy tự do cạnh tranh. Đại công nghiệp
và tự do cạnh tranh là nguyên nhân và kết quả của nhau, là điều kiện
tiền đề cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, Ph. Ăngghen đã

khẳng định: “Nhưng cạnh tranh tự do là tất yếu đối với thời kỳ phát
triển ban đầu của đại cơng nghiệp, vì cạnh tranh tự do là một trạng
thái xã hội duy nhất trong đó đại cơng nghiệp có thể phát triển - tiêu
diệt thế lực xã hội của tầng lớp quý tộc và tầng lớp thị dân phường
hội bằng cách đó, giai cấp tư sản cũng đã tiêu diệt cả chính quyền
của hai giai cấp đó. Sau khi trở thành giai cấp thứ nhất trong xã hội,
giai cấp tư sản tuyên bố mình là giai cấp thứ nhất cả trong lĩnh vực
chính trị”1.
Kết thúc phần trả lời câu hỏi thứ 11, vấn đề thứ ba, Ph.Ăngghen
khẳng định đại công nghiệp không chỉ làm cho giai cấp tư sản phát
triển mà đồng thời với nó là sự phát triển tương ứng của giai cấp vô
sản và họ ý thức được sứ mệnh của mình. Do đó, cách mạng cơng
nghiệp đã chuẩn bị điều kiện cho cách mạng xã hội mà giai cấp vô sản
tiến hành. Sự phát triển của giai cấp vô sản không phải chỉ dừng lại ở
một địa phương, một quốc gia mà ở khắp mọi nơi có cách mạng công
nghiệp phát triển đều thúc đẩy giai cấp vô sản phát triển cùng với một
tốc độ phát triển của giai cấp tư sản. Sự đông đúc của giai cấp vô sản
tỷ lệ thuận với sự giàu có của giai cấp tư sản. Lý giải ngun nhân
này, Ph.Ăngghen phân tích: “Vì chỉ tư bản mới có thể đem lại việc
làm cho những người vơ sản, và vì tư bản chỉ có thể tăng thêm khi sử
1

1,2, Sđ d, tr 463, 464.


12

dụng lao động, cho nên tư bản lớn lên bao nhiêu thì giai cấp vơ sản
cũng lớn lên bấy nhiều”1. Đồng thời, cách mạng công nghiệp tập trung
cả hai giai cấp tư sản và vô sản vào các thành thị lớn, vì ở đó cơng

nghiệp phát triển có lợi hơn. Nhờ tập trung đông đảo quần chúng vào
một chỗ như vậy đã làm cho vô sản nhận thức được sức mạnh của
mình. Những máy móc mới thay thế lao động thủ cơng tiếp tục được
phát minh, nó càng gây áp lực với tiền lương. Tiền lương càng giảm
xuống đến mức tối thiểu, khiến cho tình cảnh của giai cấp vơ sản ngày
càng trở lên không sao chịu đựng nổi. Phân tích lơ gíc đó của sự phát
triển đại cơng nghiệp, Ph.Ăngghen đi đến kết luận như một tất yếu và
niềm tin tưởng sâu sắc rằng: “Tóm lại, một mặt do sự bất mãn của giai
cấp vô sản ngày càng tăng, mặt khác do sức mạnh của giai cấp vô sản
ngày càng lớn cho nên cách mạng công nghiệp chuẩn bị điều kiện cho
cuộc cách mạng xã hội mà giai cấp vô sản sẽ tiến hành”2.
Trong câu hỏi thứ 12, Ph.Ăngghen đặt vấn đề: cách mạng
cơng nghiệp cịn mang lại những hậu quả gì thêm nữa. Trả lời vấn
đề này, Ph.Ăngghen cho rằng: Đại công nghiệp phát triển mở rộng
sản xuất với chi phí khơng nhiều, trong mơi trường tự do cạnh tranh
dẫn đến sản xuất vượt quá nhu cầu tiêu dùng gây ra khủng hoảng
thương nghiệp dẫn đến hậu quả kinh tế, xã hội xấu. Cuộc khủng
hoảng này mang tính chu kỳ, nó trở thành căn bệnh kinh niên của
chủ nghĩa tư bản, nó thức tỉnh tinh thần cách mạng của giai cấp
công nhân, đe doạ sự đổ vỡ của xã hội tư bản.
Trong câu hỏi thứ 13, Ăngghen rút ra kết luận từ những cuộc
khủng hoảng thương nghiệp tái diễn đều đặn ở trên, đó là tính chất
ngày càng trầm trọng của khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư
bản do sự phát triển của đại công nghiệp gây ra. Để khắc phục tình
trạng đó, địi hỏi phải xây dựng một chế độ xã hội mới trong đó việc
sản xuất khơng phải tiến hành riêng lẻ mà do tồn thể xã hội thực
1
2

. Sdd, tr 465.



13

hiện theo một kế hoạch vững chắc phù hợp với nhu cầu của mọi
thành viên trong xã hội. Ph.Ăngghen trình bày kết luận của mình
trên hai ý: Thứ nhất, đại cơng nghiệp đã tự mình tạo ra cạnh tranh tự
do ở giai đoạn phát triển ban đầu của nó, nhưng nay đã vượt quá
cạnh tranh tự do; cạnh tranh trong điều kiện những cá nhân riêng lẻ
tiến hành sản xuất cơng nghiệp vơ hình lại trở thành xiềng xích trói
buộc đại cơng nghiệp, sẽ gây ra tình trạng rối loạn, cứ bảy năm một
lần như thế sẽ đe dọa toàn bộ nền văn minh, ném những người vô
sản vào cảnh nghèo xác sơ và làm cho nhiều nhà tư sản phải phá
sản, từ đó đặt ra: “Do đó, hoặc phải từ bỏ đại cơng nghiệp - đó là
điều tuyệt đối không thể được, hoặc phải thừa nhận rằng đại công
nghiệp làm cho việc xây dựng một tổ chức xã hội mới trở thành một
việc tuyệt đối cần thiết, một tổ chức xã hội mới trong đó việc lãnh
đạo sản xuất công nghiệp không phải do từng chủ xưởng riêng lẻ
cạnh tranh với nhau thực hiện nữa, mà do toàn thể xã hội thực hiện
theo một kế hoạch vững chắc và phù hợp với nhu cầu của mọi thành
viên trong xã hội”. Thứ hai, với khả năng mở rộng sản xuất vô hạn,
đại công nghiệp tạo ra điều kiện tất yếu cho phép xây dựng một chế
độ xã hội, ở đó mọi vật phẩm cần cho đời sống sẽ được sản xuất đến
nỗi mỗi thành viên xã hội đều hoàn toàn tự do phát triển và sử dụng
mọi lực lượng, mọi năng lực của mình. Ơng rút ra nhận định rằng:
“Cho nên, cái tính chất của đại cơng nghiệp trong xã hội hiện thời là
đẻ ra mọi sự nghèo đói và mọi cuộc khủng hoảng thương nghiệp, thì
đến một chế độ xã hội khác, chính tính chất ấy lại trở thành tính
chất thủ tiêu sự nghèo khổ đó và những sự biến động đem lại tai hoạ
đó” và có thể chứng minh rõ hai điều: “1, hiện nay tất cả mọi tai hoạ

đó đều chỉ do cái chế độ xã hội khơng cịn phù hợp với điều kiện
thời đại nữa gây ra; 2, người ta đã có phương tiện để thủ tiêu triệt để
những tai hoạ đó bằng cách xây dựng nên một chế độ xã hội mới”1.
2.4. Ph.Ăngghen dự báo về sự ra đời và đặc trưng của xã
1

. Sdd, tr 466.


14

hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong câu hỏi thứ 14, Ăngghen hỏi: Chế độ xã hội mới đó
phải như thế nào? Đọc phần trả lời của ông, thấy xã hội mới tốt
nên các đặc trưng: Việc sản xuất do tồn thể xã hội quản lý, tiến
hành vì lợi ích chung, theo một kế hoạch chung, với sự tham gia của
mọi thành viên trong xã hội; triệt tiêu cạnh tranh, thay cạnh tranh
bằng hợp tác. Lý giải vấn đề này Ông cho rằng việc quản lý công
nghiệp và các ngành sản xuất nói chung khơng thể nằm trong tay
từng cá nhân riêng lẻ cạnh tranh với nhau. Vì từng cá nhân riêng lẻ
kinh doanh công nghiệp sẽ đem lại hậu quả tất yếu của chế độ tư
hữu và vì cạnh tranh khơng phải là cái gì khác mà là một phương
thức kinh doanh công nghiệp khi công nghiệp do những người tư
hữu riêng lẻ quản lý, cho nên chế độ tư hữu không thể tách rời cá
nhân kinh doanh công nghiệp và tách rời cạnh tranh được. Do đó,
trong xã hội mới: “Chế độ tư hữu cũng phải được thủ tiêu và phải
được thay thế bằng việc sử dụng chung tất cả mọi công cụ sản xuất
và việc phân phối sản phẩm theo sự thoả thuận chung, tức là bằng
cáí mà mọi người gọi là sự cộng đồng về tài sản” 1. Thủ tiêu chế độ
tư hữu là cách nói vắn tắt và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ

chế độ xã hội và việc cải tạo này cũng là kết quả tất yếu của sự phát
triển công nghiệp.
Ở câu hỏi và trả lời thứ 20 và thứ 21, Ph.Ăngghen bước đầu
khái quát cho chúng ta một bức tranh tổng thể về xã hội cộng sản
tương lai. Đó là những dự báo được phân tích có cơ sở khoa học
dựa vào sự phát triển của đại công nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản
làm cho lực lượng sản xuất tư bản khơng tương thích với quan hệ
sản xuất đã trở thành xiềng xích trói buộc sự phát triển của nó và
cách mạng vơ sản sẽ nổ ra để xố bỏ chế độ tư hữu, xác lập xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Ph.Ăngghen dự báo: Xã hội mới ra đời được kế
thừa một nền sản xuất ở vào trình độ tiên tiến, hiện đại và có những
1

. Sdd, tr 467.


15

đặc trưng sau:
- Việc sản xuất, phân phối, trao đổi được tiến hành theo kế
hoạch trên quy mơ tồn xã hội, mọi hậu quả tai hại gắn với chế độ
quản lý đại công nghiệp hiện thời sẽ bị thủ tiêu trước hết.
- Xố bỏ khủng hoảng kinh tế, nghèo đói, bất công; đảm bảo
thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, sẽ làm nảy sinh
những nhu cầu mới và tạo ra những phương tiện cho phép thoả mãn
những nhu cầu đó.
- Đại cơng nghiệp thốt khỏi xiềng xích của chế độ tư hữu sẽ
phát triển với quy mơ chưa từng có. Do đó, có điều kiện để thoả
mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. Trong nơng nghiệp
cũng xảy ra tình trạng tương tự như trong cơng nghiệp.

- Xố bỏ giai cấp và mọi sự đối lập về giai cấp.
- Phát triển một cách tương xứng năng lực của con người với
phương tiện hiện đại. Việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng
của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất sẽ cần đến
những con người hoàn toàn mới và xã hội sẽ tạo nên những con người
đó. Vì vậy nền cơng nghiệp do tồn xã hội thực hiện một cách tập thể
và có kế hoạch càng cần có những con người có năng lực phát triển
tồn diện, đủ sức tinh thơng tồn bộ hệ thống sản xuất.
- Con người, mọi thành viên trong xã hội được phát triển tồn
diện năng lực, mọi người bình đẳng hưởng thụ của cải do xã hội làm
ra. Sự liên hợp tất cả mọi thành viên trong xã hội nhằm mục đích
cùng nhau khai thác lực lượng sản xuất một cách có kế hoạch. Công
tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững
nhanh chóng tồn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn; làm cho họ
có thể lần lượt chuyển từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất
khác tuỳ theo nhu cầu của xã hội và tuỳ theo sở thích của bản thân.
- Xố bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn; cuối cùng là
sự hồ hợp giữa thành thị và nơng thơn. “Cũng những con người ấy
sẽ làm cả lao động nông nghiệp lẫn lao động công nghiệp chứ


16

không phải giao hai công việc cho hai giai cấp khác nhau”.
Về vấn đề chế độ cộng sản sẽ ảnh hưởng như thế nào đến gia
đình. Trả lời câu hỏi thứ 21, Ph.Ăngghen nói rất rõ: “Quan hệ nam
nữ sẽ trở thành một cơng việc hồn tồn tư nhân, chỉ thuộc về
những người hữu quan và xã hội không cần phải can thiệp vào…Tổ
chức cộng sản chủ nghĩa không những khơng đưa lại sự cộng thê
mà trái lại cịn tiêu diệt sự cộng thê”1.

2.5. Tính tất yếu khách quan phải thủ tiêu chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất, biện pháp và bước đi thủ tiêu chế độ tư hữu
Những vấn đề trên được Ph.Ăngghen phân tích ở một loạt các
câu hỏi và câu trả lời, từ câu hỏi thứ 15 đến câu hỏi thứ 18. Ở câu
hỏi và trả lời thứ 15, Ph.Ăngghen phân tích về sự cần thiết phải thủ
tiêu chế độ tư hữu thông qua việc đặt vấn đề: Phải chăng như vậy có
nghĩa là trước đây, không thể thủ tiêu được chế độ tư hữu? Ông
khẳng định ngay: Đúng. Sự thủ tiêu chế độ tư hữu cũng như sự ra
đời của nó và xây dựng chế độ công hữu phải tuân thủ yêu cầu của
quy luật kinh tế khách quan, quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trước
đây không thể thủ tiêu được chế độ tư hữu, vì: “Bất cứ một sự thay
đổi nào của chế độ xã hội, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan
hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực
lượng sản xuất mới, khơng cịn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ
nữa. Bản thân chế độ tư hữu cũng ra đời như vậy”. Ph.Ăngghen cho
rằng vấn đề là ở chỗ không phải khi nào cũng có chế độ tư hữu và
chứng minh qua các thời kỳ lịch sử. Vào cuối thời trung cổ, khi
phương thức sản xuất mới – không chứa nổi trong khuôn khổ của
chế độ sở hữu phong kiến và phường hội lúc bấy giờ, xuất hiện dưới
hình thức cơng trường thủ cơng thì cơng trường thủ cơng đã vượt
q quan hệ sở hữu cũ, tạo cho nó một hình thức sở hữu mới, chế độ
tư hữu. Chứng minh theo lơ gíc này, Ông kết luận: “Đối với công
1

. Sdd, tr 475, 476.


17


trường thủ công và đối với giai đoạn phát triển ban đầu của đại cơng
nghiệp, khơng thể có hình thức sở hữu nào khác ngồi quyền tư
hữu, khơng thể có chế độ xã hội nào khác ngoài chế độ xã hội xây
dựng trên cơ sở tư hữu. Chừng nào chưa thể sản xuất với quy mơ có
thể khơng những đủ cung cấp cho mọi người mà cịn có thừa sản
phẩm để tăng thêm tư bản xã hội và phát triển lực lượng sản xuất
hơn nữa, thì chừng đó, ln ln cịn phải có một giai cấp thống trị
chi phối lực lượng sản xuất xã hội, và một giai cấp nghèo đói bị áp
bức. Đó là những giai cấp nào, điều này tuỳ ở trình độ phát triển của
sản xuất”1. Để làm rõ hơn kết luận của mình, Ph.Ăngghen chứng
minh từ thời kỳ trung cổ cho đến thời kỳ công trường thủ công trong
thế kỷ XIX, lực lượng sản xuất vẫn chưa phát triển đến mức khiến
cho có thể sản xuất đủ sản phẩm cho mọi người, và khiến cho chế
độ tư hữu trở thành xiềng xích ngăn cản sự phát triển của lực lượng
sản xuất đó. Tuy nhiên cho đến nay, sự phát triển của lực lượng sản
xuất do đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa tạo ra đã vượt quá chế độ
tư hữu, do đó mà việc thủ tiêu chế độ tư hữu là có thể thực hiện
được và hồn tồn cần thiết. Về vấn đề này Ơng nói: “Nhưng hiện
nay, nhờ sự phát triển của đại công nghiệp nên thứ nhất, tư bản và
lực lượng sản xuất đã được tạo ra với quy mơ chưa từng có, và
người ta đã có phương tiện để, trong một thời gian ngắn phát triển
lực lượng sản xuất đó một cách vơ hạn. Thứ hai, các lực lượng sản
xuất đó tập trung trong tay một số ít nhà tư sản, cịn đơng đảo quần
chúng nhân dân thì ngày càng trở thành vơ sản; hơn nữa của cải của
tư sản ngày càng tăng thì tình cảnh của quần chúng nhân dân càng
trở nên nghèo đói và khơng sao chịu nổi. Thứ ba, những lực lượng
sản xuất mạnh mẽ dễ tăng thêm đó đã vượt quá chế độ tư hữu và
nhà tư sản đến mức là nó ln ln gây ra những sự chấn động hết
sức mạnh mẽ trong chế độ xã hội. Cho nên, chỉ có ngày nay, việc
thủ tiêu chế độ tư hữu mới trở thành khơng những là điều có thể

1

. Sdd, tr 467-468.


18

thực hiện được, mà thậm chí cịn là điều hồn toàn cần thiết”.
Về bước đi của thủ tiêu chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công
hữu, trong câu hỏi thứ 17, Ơng đặt vấn đề: Liệu có thể thủ tiêu chế
độ tư hữu ngay lập tức được không? Câu trả lời của Ph.Ăngghen là:
Không, không thể được. Như vậy, việc thủ tiêu chế độ tư hữu, xây
dựng chế độ công hữu phải tiến hành dần dần, từng bước, lâu dài
trên cơ sở tôn trọng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; không thể dùng
biện pháp hành chính, nơn nóng, chủ quan, duy ý chí. Điều này đã
được Ph.Ăngghen giải thích rất rõ rằng: “cũng y như khơng thể làm
cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần
thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên cuộc cách
mạng của giai cấp vơ sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ
ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi
nào tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc
cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”1.
Về biện pháp để thủ tiêu chế độ tư hữu: Ở câu hỏi thứ 16,
Ph.Ăngghen nêu vấn đề có thể thủ tiêu chế độ tư hữu bằng biện
pháp hồ bình được khơng? ở phần trả lời, Ơng cho rằng có thể thủ
tiêu chế độ tư hữu bằng biện pháp hồ bình và những người cộng
sản chính là những người sau cùng phản đối việc đó. Như vậy, thủ
tiêu chế độ tư hữu bằng biện pháp hồ bình là biện pháp có thể thực
hiện được và là điều mong muốn. Nhưng Ông cũng nhấn mạnh rằng

không thể làm cách mạng theo ý muốn chủ quan, tuỳ tiện mà phải
xuất phát từ yêu cầu, hồn cảnh cụ thể của cách mạng. Bởi vì, trên
thực tế sự phát triển của giai cấp vô sản ở hầu khắp tất cả các nước
văn minh đều bị đàn áp bằng bạo lực, như vậy tức là kẻ thù của
những người cộng sản, giai cấp tư sản đã gắng hết sức làm việc cho
cách mạng. Cuối cùng tất cả những điều đó thúc đẩy giai cấp vơ sản
làm cách mạng thì họ sẽ bảo vệ sự nghiệp của giai cấp bằng hành
động. Hành động của giai cấp vô sản trong cách mạng, chúng ta cần
hiểu đó khơng phải là biện pháp hồ bình nữa mà là biện pháp đối
lập với hồ bình, bạo lực cách mạng.
1

. Sdd, tr 469.


19

Trả lời câu hỏi thứ 18, Ăngghen đã chỉ ra những bước đi và
biện pháp cụ thể. Trước hết, giai cấp vô sản phải xác lập được
quyền thống trị về chính trị của mình và dùng quyền đó để thi hành
những biện pháp rộng rãi, trực tiếp hay gián tiếp đánh vào chế độ tư
hữu. Nhưng những biệp pháp này, Ph.Ăngghen cho đó là những
biện pháp chủ yếu nhất và xuất phát từ những điều kiện cụ thể thời
Ph.Ăngghen. Theo đó, từ đây có thể suy luận là khi những điều kiện
kinh tế, chính trị - xã hội đã có sự thay đổi thì những biện pháp mà
giai cấp vơ sản áp dụng để xoá bỏ chế độ tư hữu có thể phải thay
đổi. Sự thay đổi ấy như thế nào, cụ thể ra sao còn phụ thuộc vào
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia và vấn đề cơ bản là
giai cấp vơ sản ở đó có nhận thức đúng đắn và đầy đủ các quy luật
kinh tế khách quan để vận dụng cụ thể vào một hồn cảnh cụ thể

hay khơng. Lời Ph.Ăngghen khẳng định: “Trước hết, nó tạo ra một
chế độ dân chủ và nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền
thống trị chính trị của giai cấp vơ sản…Đối với giai cấp vơ sản, chế
độ dân chủ sẽ trở nên hồn tồn vơ ích nếu nó khơng được dùng
ngay lập tức làm phương tiện để thi hành những biện pháp rộng rãi
trực tiếp đánh vào chế độ tư hữu và bảo đảm sự tồn tại của giai cấp
vô sản. Những biện pháp chủ yếu nhất, tất yếu xuất phát từ những
điều kiện hiện nay”2.
Ph.Ăngghen đưa ra 12 biện pháp cụ thể để thủ tiêu chế độ tư
hữu, như: 1, Hạn chế quyền tư hữu…; 2, Dần dần tước đoạt bọn
chiếm hữu ruộng đất, bọn chủ xưởng…một phần bằng sự cạnh tranh
của công nghiệp nhà nước, một phần trực tiếp bằng cách chuộc lại
bằng tiền giấy; 3, Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ chạy trốn ra
nước ngoài…; 4. Tổ chức lao động hay giao việc cho những người
vô sản trong nông trường, nhà máy, công xưởng quốc gia…;5, Thực
hiện nghĩa vụ lao động đối với mọi người…; 6, Tập trung hệ thống
tín dụng và việc bn bán bằng tiền vào tay nhà nước…7, Tuỳ theo
việc tăng thêm vốn và số lượng công nhân mà tăng thêm số lượng
2

. Sdd, tr 470.


20

máy móc…; 8, Đưa trẻ em vào giáo dục trong các cơ quan nhà nước
với sự đài thọ của nhà nước, kết hợp giáo dục với lao động trong
công xưởng; 9, Xây dựng những cung lớn làm chỗ ở chung cho các
công xã, kết hợp tốt lối sống thành thị và nông thôn. 10, Phá bỏ tất
cả những ngôi nhà, khu nhà ở không hợp vệ sinh, chất lượng xây

dựng kém…; 11, Con trong và ngồi giá thú có quyền thừa kế tài
sản như nhau; 12, Tập trung toàn bộ cơng việc vận tải vào trong tay
nhà nước. Theo Ơng những biện pháp trên cũng không thể tiến hành
tất cả ngay trong một đợt, dù là trực tiếp nhưng vẫn phải tiến hành
dần dần từng bước, đồng thời đi liền với nó là xây dựng chế độ cơng
hữu và khi nào toàn bộ tư bản, toàn bộ sản xuất, toàn bộ việc trao
đổi đã tập trung vào trong tay nhà nước thì chế độ tư hữu sẽ tự tiêu
vong, tiền tệ sẽ trở thành thừa…và con người sẽ thay đổi đến mức
tất cả những hình thức cuối cùng của quan hệ xã hội cũ có thể biến
mất đi.
2.6. Ph.Ăngghen dự báo về cuộc cách mạng vô sản
Cuộc cách mạng vô sản khơng chỉ có tính chất dân tộc mà cịn có
tính chất quốc tế, trước hết nó sẽ đồng thời nổ ra ở các nước văn minh và
cuộc cách mạng đó phát triển nhanh hay chậm là tuỳ thuộc ở chỗ nước
nào có cơng nghiệp phát triển hơn, tích luỹ được nhiều của cải hơn và có
nhiều lực lượng sản xuất hơn. Ơng lấy hai nước cơng nghiệp là nước
Đức và nước Anh có trình độ phát triển cơng nghiệp khác nhau để so
sánh, nước Đức cách mạng vô sản thực hiện chậm hơn và khó khăn hơn,
cịn nước Anh thì nhanh hơn và dễ dàng hơn. Về tầm ảnh hưởng của
cuộc cách mạng vơ sản, Ơng nói: “Cách mạng vơ sản cũng có ảnh
hưởng rất lớn đến các nước khác trên thế giới, nó sẽ làm thay đổi hồn
tồn và thúc đẩy cực kỳ nhanh chóng tiến trình phát triển trước kia của
các nước đó. Nó là một cuộc cách mạng có tính chất tồn thế giới và vì
vậy nó sẽ có một vũ đài tồn thế giới”1. Sở dĩ có cuộc cách mạng vơ sản
và tính chất quốc tế của nó là do đại cơng nghiệp phát triển tạo ra sự kết
nối và sự phụ thuộc, tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc, san bằng sự
1

. Sdd, tr 472.



21

phát triển giữa các nước; nó có thể đồng thời nổ ra ở các nước văn minh
mà không phải chỉ ở một nước, một dân tộc. Vấn đề trên được
Ph.Ăngghen trình bày ở câu hỏi và trả lời thứ 19.
2.8. Phân biệt người cộng sản khác với người xã hội chủ
nghĩa và thái độ của người cộng sản với các chính đảng khác.
Trước khi đi vào phân biệt người cộng sản với người xã hội
chủ nghĩa và thái độ của họ với các chính đảng khác, Ph.Ăngghen
đã đặt ra hai vấn đề: ở câu hỏi thứ 22 và 23 nói về thái độ của tổ
chức cộng sản đối với các dân tộc và các tôn giáo hiện đương tồn tại
đã được Ơng trả lời nhưng hiện nay bản thảo khơng còn được giữ
lại. Sự phân biệt người cộng sản với người xã hội chủ nghĩa, trong
trả lời câu hỏi thứ 24, Ông chia ra làm ba loại người xã hội chủ
nghĩa. Loại thứ nhất là những người ủng hộ xã hội phong kiến và
gia trưởng càng ngày càng bị tiêu diệt bởi đại công nghiệp và
thương nghiệp thế giới, người cộng sản bao giờ cũng kiên quyết đấu
tranh với loại người xã hội chủ nghĩa phản động này. Loại thứ hai
gồm những người ủng hộ xã hội hiện nay, nhưng lại lo sợ và muốn
xoá bỏ những tai hoạ do xã hội hiện tại, tức xã hội tư bản chủ nghĩa
sản phẩm của đại công nghiệp và cạnh tranh tự do. Với loại người
này, người cộng sản cũng phải đấu tranh không mệt mỏi chống
những người xã hội chủ nghĩa tư sản đó. Cuối cùng loại thứ ba gồm
những người xã hội chủ nghĩa dân chủ, họ đi theo con đường của
những người cộng sản nhưng chỉ muốn thực hiện một phần những
biện pháp nêu ra và khơng coi đó là những biện pháp quá độ dẫn
đến chủ nghĩa cộng sản mà coi đó là những biện pháp đầy đủ để xoá
bỏ cảnh nghèo nàn và những tai hoạ của xã hội đương thời; cho nên
trong quá trình hoạt động, người cộng sản sẽ liên hiệp với những

người xã hội chủ nghĩa dân chủ, phải cố sức duy trì chính sách
chung với họ, chỉ cần họ không phục vụ giai cấp tư sản thống trị và
không tấn công người cộng sản.
Về thái độ của người cộng sản với các chính đảng khác là


22

khác nhau ở trong các nước khác nhau như Anh, pháp, Bỉ, Mỹ, Đức
được Ph.Ăngghen trả lời ở câu hỏi thứ 25.
3. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Ra đời cách đây hơn 160 năm nhưng những tư tưởng, quan
điểm của Ph.Ăngghen về chủ nghĩa cộng sản trong tác phẩm vẫn
giữ nguyên giá trị, là ngọn cờ đưa đường chỉ lối cho phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Đúng như Ph.Ăngghen đã khẳng
định ngay từ đầu khi viết tác phẩm, Chủ nghĩa cộng sản là học
thuyết về những điều kiện giải phóng giai cấp vơ sản. Những điều
kiện ấy khơng phải từ trên trời rơi xuống mà trái lại nó được hình
thành chính ngay trên mảnh đất hiện thực của chủ nghĩa tư bản.
Chính sự phát triển của đại cơng nghiệp và cạnh tranh tự do tư bản
chủ nghĩa đã làm xuất hiện giai cấp tư sản áp bức thống trị trong xã
hội tư bản và giai cấp của những người vô sản bị áp bức thống trị.
Sự phát triển của đại công nghiệp trước hết là ở những nước văn
minh sau đó nan tràn ra tất cả các dân tộc, đã kết nối tất cả các dân
tộc, các thị trường địa phương nhỏ bé thành thị trường toàn thế giới,
khiến cho tất cả những gì xảy ra ở một nước văn minh đều có thể
ảnh hưởng tới các dân tộc khác. Sự phụ thuộc, lệ thuộc vào nhau
của các nước là rất lớn. Nhờ sức mạnh của đại công nghiệp làm cho
lực lượng sản xuất tư bản mang tính xã hội hoá cao mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu

sản xuất đang có xu hướng kìm hãm sự phát triển của nó. Biểu hiện
của mâu thuẫn này về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản. Giải quyết mâu thuẫn đó phải bằng một cuộc
cách mạng vơ sản và cuộc cách mạng này trong thời đại cách mạng
cơng nghiệp nó khơng chỉ có tính chất dân tộc mà cịn có tính chất
quốc tế. Vì vậy, dưới ánh sáng soi đường của học thuyết giải phóng
giai cấp mình, giai cấp vơ sản toàn thế giới phải đoàn kết lại để lật
đổ giai cấp tư sản thống trị thế giới. Trong bối cảnh hiện nay, dưới
sự tác động nhiều chiều của toàn cầu hoá kinh tế và sự phát triển


23

như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học – cơng nghệ hiện đại làm
cho tính chất tồn cầu của những vấn đề kinh tế – xã hội thế giới
ngày càng sâu sắc. Những vấn đề phức tạp về kinh tế - xã hội của
thế giới do chính sự phát triển của đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa
tạo ra và chủ nghĩa tư bản cũng khơng thể một mình giải quyết
được những mâu thuẫn nội tại trong lòng xã hội của nó cũng như
những vấn đề của nhân loại. Sự chung tay của loài người để giải
quyết những vấn đề này chính là điều kiện để tập hợp sức mạnh của
giai cấp vơ sản, lồi người tiến bộ đấu tranh cho một xã hội tiến bộ.
Đối với Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam, lý luận của
Ph.Ăngghen về chủ nghĩa cộng sản là cơ sở khoa học để chúng ta nhận
thức và vận dụng giải quyết những vấn đề thực tiễn công cuộc đổi mới
của Đảng đang đặt ra. Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, do đó những nhiệm
vụ kinh tế cơ bản mà Đảng và nhân dân ta phải thực hiện để đạt tới
mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh” là rất nặng nề. Cơng nghiệp hố, hiện đại hố với nước ta là

nhiệm vụ kinh tế cơ bản xuyên suốt của cả thời kỳ q độ. Bởi vì nếu
khơng tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố thì nước ta khơng thể có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội; khơng có điều
kiện vật chất cần thiết để đáp ứng nhu cầu ngày càng đầy đủ và chính
đáng của nhân dân, ổn định chính trị – xã hội, củng cố quốc phịng, an
ninh. Do đó, những tư tưởng của Ph.Ăngghen về vai trị của đại cơng
nghiệp với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nói riêng và sự phát triển
của nhân loại nói chung là nền tảng lý luận cần thiết, rất bổ ích chỉ đạo
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta. Là nước đi sau nên
để đuổi kịp các nước văn minh, xuất phát từ thực tiễn nước ta và bối
cảnh quốc tế hiện nay mà sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức càng trở thành nhiệm vụ cấp
bách và cũng là mục tiêu cơ bản lâu dài của đất nước. Đồng thời đó
cũng là cơ sở để chúng ta đấu tranh với những quan điển sai trái cho


24

rằng thế giới hiện nay chưa có quốc gia nào đạt tới trình độ kinh tế tri
thức mà Đảng ta đã đặt vấn đề phát triển kinh tế tri thức là nơn nóng,
chủ quan. Khơng phải như vậy, mà chỉ có trên cơ sở lực lượng sản xuất
tiên tiến hiện đại, chúng ta mới xây dựng được quan hệ sản xuất tiến bộ
làm nền tảng cho chế độ xã hội mới, nền kinh tế mới. Từ lý luận của
Ph.Ăngghen về xoá bỏ chế độ tư hữu và xây dựng chế độ sở hữu công
cộng, chúng ta càng nhận thức sâu sắc rằng khơng thể nơn nóng, chủ
quan, duy ý chí thốt ly khỏi mảnh đất hiện thực, tức là trình độ lực
lượng sản xuất của nước ta. Vì vậy, trong tiến trình xây dựng quan hệ
sản xuất mới tiến bộ việc thực hiện đa dạng hoá chế độ sở hữu, hình
thức sở hữu về tư liệu sản xuất và theo đó là nền kinh tế với cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với quy luật kinh tế khách quan

cũng như thực tiễn kinh tế đất nước. Chính sự phát triển lực lượng sản
xuất của nhân loại mà trước hết ở các nước tư bản phát triển nhờ cuộc
cách mạng cơng nghiệp đã phát triển ở trình độ cao dẫn đến q trình
tồn cầu hố kinh tế, vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực
tới mọi quốc gia trên thế giới. Để phát triển đất nước, chúng ta khơng
thể đứng ngồi q trình này. Vì vậy, đường lối mở cửa chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ chính là
để nước ta phát huy lợi thế so sánh, kết hợp nội lực và ngoại lực, biến
thách thức trở thành cơ hội phát triển. Ngay trong tác phẩm,
Ph.Ăngghen đã phân tích tầm tác động sâu rộng, nhiều chiều của đại
cơng nghiệp tư bản chủ nghĩa, nó là cơ sở lý luận cho đường lối mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là thông qua nghiên cứu tác
phẩm này cần nắm chắc những quan điểm tư tưởng của Ph.Ăngghen
không những để phục vụ việc phổ biến truyền bá sâu rộng trong quần
chúng mà còn biết vận dụng để xem xét những vấn đề thực tiễn của
cách mạng, đấu tranh chống lại những quan điển sai trái bảo vệ chủ
nghĩa Mác – Lênin và đường lối quan điểm của Đảng ta.


25

TÁC PHẨM
“PHÊ PHÁN CƯƠNG LĨNH GƠ TA”
CỦA C.MÁC
1. HỒN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI TÁC PHẨM.
Tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” được C.Mác viết vào
năm 1875 và xuất bản lần đầu năm 1890. Nhưng trong thực tế cả
C.Mác và Ph.Ăngghen đều tham gia chuẩn bị nội dung của tác
phẩm quan trọng này. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh:

Một là, ở nước Đức, năm 1863 có một tổ chức công nhân đã
được thành lập gọi là: Tổng hội liên hiệp công nhân Đức do
Ph.Látxan cầm đầu. Látxan không phải là một người xã hội chủ
nghĩa chân chính. Chủ nghĩa Látxan, thực chất là một thứ chủ nghĩa
xã hội dân chủ tiểu tư sản, mang tính chất cải lương và thoả hiệp.
Toàn bộ nội dung lý luận của chủ nghĩa Látxan xoay quanh 4 vấn


×