Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học phật giáo đến đời sống tinh thần người hà nội hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.95 KB, 23 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Triết học Phật giáo ra đời ở Ấn Độ và nó đã có hàng nghìn
năm tồn tại và phát triển. Tư tưởng của triết học Phật giáo có nhiều
đóng góp đối với dòng chảy lịch sử tư tưởng của nhân loại. Trong đó
tư tưởng về nhân quả của triết học Phật giáo có những ảnh hưởng lớn
đến tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam. Tư tưởng đó giữ một vai
trò quan trọng trong cách ứng xử, để mỗi người tự biết điều chỉnh
những hành vi của mình trong cuộc sống. Do đó, đề tài “Ảnh hưởng
của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần
người Hà Nội hiện nay” là một vấn đề rất cấp thiết, có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn sâu sắc. Đây cũng là vấn đề chưa được nghiên cứu một
cách cơ bản, hệ thống dưới góc độ triết học.
Luận án tập trung làm rõ quan niệm luật nhân quả trong triết học
Phật giáo, quan niệm về đời sống tinh thần người Hà Nội, quan niệm về
ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh
thần người Hà Nội. Những vấn đề quy định ảnh hưởng của luật nhân
quả đến đời sống tinh thần người Hà Nội. Trên cơ sở lý luận đã xây
dựng, tác giả đánh giá tình hình ảnh hưởng luật nhân quả đến đời sống
tinh thần người Hà Nội hiện nay và vấn đề đặt ra từ sự ảnh hưởng đó. Từ
cơ sở đó, đề xuất giải pháp cơ bản, đồng bộ, khả thi phát huy ảnh hưởng
tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả đến đời sống
tinh thần người Hà Nội hiện nay, một trong những nhân tố quan trọng
trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần hiện nay.
Công trình được kết cấu gồm: mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết
luận, danh mục các công trình khoa học đã công bố của tác giả, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Phật giáo và những tư tưởng triết học Phật giáo đã xâm nhập
vào Việt Nam từ lâu và ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tinh thần


con người, xã hội nước ta. Nghiên cứu về ảnh hưởng của luật nhân
quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần con người có ý
nghĩa rất lớn trong việc định hướng phát huy ảnh hưởng tích cực và
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nó.
Hà Nội với vị trí là thủ đô, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa
xã hội của cả nước, đồng thời là nơi hội tụ cao nhất cả về nội dung tư
tưởng, cũng như thiết chế xã hội của tổ chức Phật giáo. Có thời kỳ
Phật giáo trở thành quốc giáo, hệ tư tưởng của một số triều đại phong
kiến. Nên Hà Nội là một trong những trung tâm Phật giáo lớn của
Việt Nam.


2
Đời sống tinh thần người Hà Nội là một bộ phận của đời sống
xã hội, nó phản ánh đời sống vật chất của người Hà Nội. Trong quá
khứ cũng như hiện nay, đời sống tinh thần người Hà Nội trong cái
chung của cả nước, đồng thời cũng mang tính độc lập tương đối, có
mối quan hệ qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác và ít nhiều
chịu sự ảnh hưởng của các hình thái ý thức xã hội đó. Sự xâm nhập
của Phật giáo với nội dung luật nhân quả vào đời sống tinh thần
người Hà Nội có tác dụng răn dạy từ bên trong và mang tính tự
nguyện của mỗi người.
Ảnh hưởng của luật nhân quả đến đời sống tinh thần người Hà
Nội thông qua sức mạnh của Phật giáo với tính cách là hệ thống trên
cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực là ở những nội dung,
giá trị hướng thiện con người, để trước những cám dỗ về lợi ích cá
nhân, vụ lợi, con người được chế ngự bởi tâm lý về “quả báo”, “báo
ứng” mà tự kìm chế được. Tuy nhiên, cùng với mặt tích cực, luật
nhân quả còn có mặt tiêu cực là mang tính chất hướng nội, tự tu tâm,
ít đi vào cải tạo xã hội hiện thực. Về bản chất, nó phản ánh sự bế tắc

của con người trước hiện thực bất công và kéo theo là thủ tiêu động
lực hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội. Hướng ảnh hưởng này làm cho
con người tìm đến hạnh phúc ở thế giới hư ảo.
Trước yêu cầu xây dựng và phát triển Hà Nội trở thành một thủ
đô văn minh, hiện đại, vấn đề xây dựng đời sống tinh thần người Hà Nội
là một yêu cầu hệ trọng. Sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, xu
hướng hội nhập quốc tế mạnh mẽ, những ảnh hưởng của luật nhân quả
trong tư tưởng triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội
đang có chiều hướng phức tạp, khó kiểm soát. Sự tiếp nhận cũng như
hành vi ứng xử theo luật nhân quả của một số người Hà Nội đã và đang
có những thái cực khác nhau; cá biệt có âm mưu lợi dụng để mưu lợi ích
cá nhân, lợi ích nhóm, nên đã làm cho đời sống tinh thần người Hà Nội
ngày càng phức tạp, mất định hướng, mờ nhạt những giá trị truyền
thống. Tình hình trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong
đó cơ bản nhất là thiếu nghiên cứu về ảnh hưởng của luật nhân quả;
thiếu cơ sở định hướng khoa học cho phát huy ảnh hưởng tích cực và
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nó. Đặc biệt, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa với yêu cầu rất cao về trách nhiệm xã hội của
công dân trên thực tiễn đối với xã hội nói chung và những mặt, lĩnh vực
xã hội, đời sống tinh thần nói riêng, thì nghiên cứu này càng quan trọng,
cấp bách.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề: “Ảnh hưởng của luật nhân quả
trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện
nay” là một việc làm có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn,
góp phần xây dựng đời sống tinh thần của người Hà Nội hiện nay.


3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích

Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về ảnh hưởng của luật
nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà
Nội, đề xuất giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời
sống tinh thần người Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Luận giải thực chất ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội.
- Đánh giá tình hình ảnh hưởng và những vấn đề đặt ra từ ảnh
hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh
thần người Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất giải pháp cơ bản định hướng phát huy ảnh hưởng tích
cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả trong triết học Phật
giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu bản chất ảnh
hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần
người Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Là ảnh hưởng của luật
nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà
Nội hiện nay (người có hộ khẩu Hà Nội và đang sinh sống ở nội
thành Hà Nội). Các số liệu chủ yếu tập trung từ 2008 - đến nay; phạm
vi khảo sát các quận trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Đề tài dựa vào lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
tôn giáo…; đồng thời, kế thừa những lý luận, lý thuyết khoa học có
liên quan đến đề tài luận án và những công trình khoa học nghiên cứu
về triết học Phật giáo.
* Cơ sở thực tiễn: là tình hình ảnh hưởng của luật nhân quả

trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện
nay, dựa trên các báo cáo của các cơ quan chức năng, đơn vị trên địa
bàn Hà Nội. Kết quả khảo sát của tác giả luận án về vấn đề này.
* Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu như: lôgic và lịch sử; phân tích
và tổng hợp; khái quát hóa, trừu tượng hóa; điều tra xã hội học; tham
khảo ý kiến chuyên gia; phương pháp phỏng vấn trực tiếp…
6. Những đóng góp mới của luận án


4
Góp phần làm rõ thực chất ảnh hưởng của luật nhân quả trong
triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội.
Đánh giá tình hình ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay.
Đề xuất những giải pháp cơ bản định hướng phát huy ảnh hưởng
tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận án
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong việc bổ
sung, xây dựng các chủ trương, biện pháp về xây dựng đời sống tinh
thần người Hà Nội trước ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo.
Luận án có thể làm tài liệu phục vụ cho giáo dục, tuyên truyền
nâng cao nhận thức, củng cố tình cảm, niềm tin vào phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu; tổng quan tình hình nghiên cứu có liên

quan đến đề tài luận án; 3 chương (7 tiết); kết luận; danh mục các công
trình tác giả đã công bố; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến
phạm trù nhân quả trong tư tưởng triết học Phật giáo
* Công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Liên quan đến vấn đề này ở nước ngoài có các công trình
nghiên cứu tiêu biểu như: Junjro Takakusu, “Tinh hoa triết học Phật
giáo” (Người dịch: Tuệ Sỹ) Nxb Phương Đông, 2008; Kassapa
Thera,“Phần giản dị trong Phật giáo” (Người dịch: Phạm Kim
Khánh), Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2011; Tác giả Alexander Berzin với
công trình “Giới thiệu tổng quát về Nghiệp báo” (Người dịch: Tuệ
Uyển), trích tư liệu Tổ đình Kim Liên, 2007; Uthitila với công trình
“Nghiệp báo và những bài học về nghiệp báo”(Tuyển tập Những hạt
ngọc trí tuệ Phật giáo - Chùa Tam Bảo, California, Hoa Kỳ, 2000 do
Thượng tọa Thích Tâm Quang Dịch); Thích Thiền Tâm hướng nội
dung trả lời cho câu hỏi: “Nhân quả có thật không?” Trích Phật
Học Tinh Yếu - Tịnh Liên Đồ Thư Quán, Hoa Kỳ 2002; Tịnh Không,
“Tu có chuyển được nhân quả không”, (Trích Tu Hoa nghiêm Áo chỉ
Vọng tận Hoàng nguyên quán, tập 30; Vọng Tây dịch). Các công trình
đều đã luận chứng về luật nhân quả và khẳng định giá trị cũng như sự
ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội; các công trình đều có quan


5
niệm chung đó là gieo nhân nào gặt quả ấy; gieo nhân thiện gặt quả
thiện; gieo nhân ác gặt quả ác.
* Công trình nghiên cứu ở trong nước
Liên quan đến vấn đề này ở trong nước có các công trình

nghiên cứu tiêu biểu như: Thích Viên Giác, “Con đường Bồ Tát nhập
thế trong Kinh Bát Đại Nhân Giác” Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2006;
Thích Nữ Giới Hương, “Ban mai xứ Ấn”, tuyển tập các tiểu luận Phật
giáo (tập 1, 2, 3), Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2006; Thái Kim Lan “Lý
thuyết nhân quả trong triết học Phật giáo và trong học thuyết siêu
nghiệm của Kant” Tạp chí Tôn giáo, số (4), Hà Nội 2006; Thích Thanh
Tứ, “Tu là chuyển Nghiệp” Nxb Tôn giáo, 2005; Thích Thiện Hoa,
“Luân hồi theo luật nhân quả qua sáu cõi” (Trích tư liệu - Tổ đình
Kim Liên). Các công trình đều luận chứng từ “Nghiệp” và trong đó
biểu hiện mối quan hệ biện chứng với luật “nhân quả”. Theo các tác
giả thì liên quan đến con đường tu tập và giải thoát khỏi Nghiệp dựa
trên quy luật nhân quả; và chỉ ra cách sống của con người như thế nào
trước tự nhiên; việc nhận thức và tuân theo quy luật nhân quả để có
cuộc sống an lành, hạnh phúc.
2. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đời
sống tinh thần
Lê Đại Nghĩa,“Ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn giáo đến đời
sống tình thần quân nhân ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2001; Nguyễn Thị
Thúy Anh, “Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần ở xã
hội Nhật Bản” Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011;Vũ
Khiêu, “Văn hóa Việt Nam, xã hội và con người”, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2000; Huỳnh Khái Vinh, “Một số vấn đề về lối sống,
đạo đức, chuẩn giá trị xã hội”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001; Nguyễn Viết Chức, “Nếp sống Người Hà Nội” Viện Văn hóa và
nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001. Các công trình quan
niệm lối sống chính là phương thức, là dạng hoạt động của con
người, nó chịu sự quyết định của phương thức sản xuất. Tinh thần và
đời sống tinh thần có tính độc lập tương đối, và sự ảnh hưởng của
Phật giáo đến đời sống tinh thần mà cụ thể ở đây là đạo đức và lối

sống của con người trong xã hội đó.
3. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến
ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời
sống tinh thần người Hà Nội


6
Thích Thánh Nghiêm,“Áp dụng triết lý đạo Phật để thành công
trong công việc và luôn an lạc hạnh phúc”, Nxb Phương Đông, 2007;
Các tác giả Thích Huyền Quang và Thích Nhất Hạnh, “Đạo Phật áp
dụng vào đời sống hàng ngày” Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2010; Hồ
Bá Thâm, “Triết lý Phật giáo, khoa học hiện đại và chủ nghĩa Mác,
dưới góc nhìn triết học”, Tạp chí Tôn giáo, số 5 (59), 2008; Hoàng Thị
Thơ, “Tư duy hướng nội của Phật giáo và vai trò của nó trong tư duy
của người Việt” Tạp chí Tôn giáo, số 7, 2006; Thích Nguyên Đăng,
“Nghiên cứu so sánh học thuyết về Nghiệp trong Bà La Môn giáo, Kỳ
Na giáo và Phật giáo”, Nxb Tôn giáo, 2009; Thái Minh Trung,“Luật
nhân quả trong cuộc sống xã hội và khoa học”, Tạp chí Tôn giáo, số 4,
2010; Thích Thuận An, “Ảnh hưởng của giáo lý nhân quả trong đời
sống văn hóa dân tộc”, Tạp chí nghiên cứu Phật học, số (2), 2008; Tạ
Chí Hồng, “Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức
của xã hội Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004; Ngô Thị Lan Anh,
“Ảnh hưởng của “Tâm” trong Phật giáo đến đời sống đạo đức ở nước
ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia, Hà Nội, 2011. Các công trình trên đã luận chứng về luật
nhân quả trong triết học Phật giáo và chỉ ra sự tác động của luật này
đến đời sống tinh thần của con người. Trên cơ sở của luật nhân quả
các tác giả đều cho rằng việc nhận thức đúng luật nhân quả con người
biết sống có lòng từ bi hỷ xả, và biết cách ứng xử phù hợp để mang

đến cho mình sự an lạc, thảnh thơi trong cuộc sống. Vì nếu muốn có
quả lành thì phải tạo nhân tốt. Chỉ cần hiểu được như vậy, con người
sẽ tự biết tu nghiệp, tự phá tan gông cùm của sự mê tín và làm chủ
cuộc sống của mình. Ngược lại khi không hiểu luật nhân quả, con
người sống trong sự sợ hãi, mê tín mù mờ.
4. Khái quát kết quả nghiên cứu chủ yếu của các công trình
khoa học đã công bố có liên quan và những vấn đề đặt ra luận án
tiếp tục giải quyết
4.1. Khái quát kết quả nghiên cứu chủ yếu của các công trình
khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài luận án
Thứ nhất, trong tư tưởng triết học Phật giáo quy luật chung đó
là luật nhân quả. Luật nhân quả không do một đấng sáng tạo nào,
không một xã hội nào đặt ra được nó là quy luật khách quan. Nội
dung cốt lõi của luật nhân quả khẳng định: nhân nào quả ấy; trong
nhân có quả, trong quả có nhân; và sự phát triển từ nhân đến quả
nhanh chậm khác nhau. Nhân quả có trong thực tế, ở mọi sự vật:
nhân quả trong các vật vô tri vô giác; nhân quả trong các loài thực
vật; nhân quả trong các loài động vật; và nhân quả nơi con người.
Trong đó, nhân quả xét về phương diện tinh thần được thể hiện ở tư
tưởng, hành vi, tốt hay xấu đều theo đúng quy luật “gieo nhân nào gặt
quả ấy”. Việc hiểu biết và áp dụng hợp lý luật nhân quả vào thực tiễn
cuộc sống đem lại nhiều lợi ích cho con người.


7
Thứ hai, đời sống tinh thần của xã hội chính là toàn bộ hiện thực
của xã hội, phản ảnh cả mặt hoạt động và kết quả của mặt hoạt động
tinh thần trong xã hội. Đời sống tinh thần là sự phản ánh sinh động đời
sống sản xuất vật chất của xã hội. Khi bàn về đời sống tinh thần các tác
giả đều đi từ việc nghiên cứu ý thức xã hội vì đây là dấu hiệu để nhận

biết quan trọng nhất; ý thức xã hội là cái phản ảnh tồn tại xã hội trong
những giai đoạn xã hội nhất định. Nên nghiên cứu đời sống tinh thần
xã hội không thể tách rời vấn đề này được. Nói đến đời sống tinh thần
chúng ta thấy được nó có cơ chế vận động riêng của nó, không giống
với tinh thần. Nên khi nghiên cứu đời sống tinh thần của xã hội chúng
ta đặc biệt chú ý đến những vấn đề căn bản về cấu trúc và nội dung để
thấy được quy luật vận động riêng của nó.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu có liên quan cơ bản đều cho
rằng: luật nhân quả có một vị trí quan trọng trong giáo lý Phật giáo và nó
có ảnh hưởng nhất định đến đời sống tinh thần con người. Nhiều tác giả
còn cho rằng luật nhân quả là một cuộc cách mạng về tâm linh, coi đó là
nền tảng của thế giới tâm linh và vật chất, là sợi dây vô hình nối liền hai
biến cố xuyên qua thời gian, không gian. Thông qua sự luận giải luật
nhân quả và khái niệm không gian, thời gian; mối quan hệ nhân - duyên
- quả;... Một số tác giả khẳng định khi hiểu luật nhân quả, con người có
thể thay đổi biến cố theo chiều thuận cho ta, thay vì phải lo sợ cầu khẩn
thần linh. Luật nhân quả đơn giản, nếu muốn có quả lành thì phải tạo
nhân tốt.
4.2. Những vấn đề đặt ra để luận án tiếp tục giải quyết
Một là, chưa có công trình nào nghiên cứu, luận giải những
vấn đề bản chất, quy luật ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật Giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay. Do đó, đây
là vấn đề cấp thiết về lý luận để tác giả nghiên cứu làm rõ thực chất
ảnh hưởng của luật nhân quả đến đời sống tinh thần người Hà Nội và
những đặc điểm quy định sự ảnh hưởng đó đến đời sống tinh thần
người Hà Nội.
Hai là, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống
về tình hình ảnh hưởng và những vấn đề đặt ra từ sự ảnh hưởng của
luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người
Hà Nội hiện nay. Đó là vấn đề cấp thiết để tác giả tiếp tục làm sâu sắc

trong luận án.
Ba là, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu toàn diện,
có hệ thống, chuyên sâu các giải pháp cơ bản phát huy ảnh hưởng tích
cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả trong triết học Phật
giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay. Đây là một trong
những nội dung cơ bản, cấp thiết, có giá trị định hướng cho việc phát
huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả
trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội mà tác giả
đề tài luận án tập trung giải quyết.
Chương 1


8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ẢNH HƯỞNG
CỦA LUẬT NHÂN QUẢ TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI HÀ NỘI
1.1. Thực chất ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội
1.1.1. Quan niệm về luật nhân quả trong triết học Phật giáo
Phật giáo được ra đời ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI (Tr.CN),
người sáng lập là Thích Ca Mâu Ni. Phật giáo ra đời, phản ánh hiện
thực xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ, đồng thời đáp ứng nhu cầu tinh thần
con người lúc đó. Luật nhân quả trong Phật giáo là phạm trù phản
ánh mối quan hệ giữa cái phát sinh và hệ quả của chu trình vận động
biến đổi vô cùng tận của mọi sinh vật. “Nhân” là nguyên nhân,
“Quả” là kết quả. Nhân là năng lực phát động, quả là sự hình thành
của năng lực phát động ấy. Đối với con người, luật nhân quả chi phối
ở hai phương diện: thể chất và tinh thần. Trong đó, nhiều nội dung
của giáo lý, phạm trù liên quan đến luật Nhân quả như:
Phạm trù nghiệp - nghiệp báo: nghiệp (Karma) có nghĩa là hành

động và phản ứng, quá trình liên tục của nhân và quả. Phạm trù duyên
- duyên khởi: ngay từ đầu, Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn
đề cơ bản của triết học và thể hiện tư tưởng biện chứng sâu sắc với
phạm trù “duyên”. Phạm trù Luân hồi: theo chữ Phạn là “Samsāra”có
nghĩa là sự chuyển sinh, sự chuyển tiếp, sự diễn biến liên tục của
những kiếp sống. Phạm trù Kiếp (Kalpa): là cách gọi theo đơn vị thời
gian của Ấn Độ cổ đại. Nó dùng đề chỉ một thời gian dài đối lập với
Sátna (Ktana). Sátna (Ktana) chỉ một thời gian ngắn. Kiếp tuân thủ
theo luật: Thành, Trụ, Hoại, Không liên tục, luân hồi như nhân quả.
Phạm trù về Tứ diệu đế (Bốn Chân lý thánh): bao gồm Khổ đế, Tập đế,
Diệt đế và Đạo đế. Đây là sự khái quát về mọi nỗi khổ đau, phiền muộn
trong cuộc đời của con người.
Tiếp cận và luận giải nội dung cơ bản và những vấn đề liên
quan đến luật nhân quả trong triết học Phật giáo có thể khái quát
những nội dung thuộc triết học như sau:
Về thế giới quan, trong luật nhân quả thể hiện sự hỗn hợp giữa
duy vật và duy tâm. Mặc dù luật nhân quả bàn nhiều về con người,
tâm linh, đặc biệt giải thích nỗi khổ; nguyên nhân - kết quả của cái
khổ, nhưng ở đó dấu ấn duy vật nhiều hơn duy tâm. Về phương pháp
luận, luật nhân quả thể hiện một tư duy biện chứng sâu sắc, thậm chí
còn rất “huyền diệu” mà thời cổ đại ít có học thuyết triết học nào
vượt qua. Về nhận thức luận, Phật giáo nói chung và luật nhân quả
nói riêng thể hiện rõ một tư tưởng về bản chất và vai trò của nhận
thức biểu hiện ở trong cái hợp lý ấy, luật nhân quả lại thể hiện hạn
chế là hướng tập trung vào nhận thức cái khổ, nguyên nhân của cái
khổ và con đường thoát khỏi cái khổ. Về nhân sinh quan, luật nhân
quả trong triết học Phật giáo thể hiện một tư tưởng có giá trị về nhân
sinh quan sâu sắc. Về chính trị xã hội, luật nhân quả cũng thể hiện
tính chất hai mặt tích cực và tiêu cực trong lĩnh vực chính trị - xã hội.



9
Mặt tích cực là phản ánh áp bức, bất công. Mặt tiêu cực là định
hướng con người thui chột đấu tranh trong hiện thực, hướng con
người đến giải phóng tâm lý, tư tưởng có tính nội tâm, không cải biến
hiện thực bằng hành động thực tiễn cách mạng.
1.1.2. Quan niệm về đời sống tinh thần của người Hà Nội
Đời sống tinh thần của con người và xã hội luôn tồn tại
trong nối quan hệ với tính liên tục về thời gian và tính rộng lớn về
không gian. Với cách tiếp cận đó, theo tác giả đời sống tinh thần
được hiểu là một hiện tượng xã hội, gồm toàn bộ những quá
trình, các hoạt động của con người và xã hội mang ý nghĩa về
mặt tinh thần; phản ánh đời sống vật chất của xã hội và bị quy
định bởi đời sống vật chất ấy trong từng giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử.
Với cách hiểu đó cấu trúc đời sống tinh thần của xã hội bao
gồm các yếu tố trong mối quan hệ biện chứng với nhau đó là: mặt
tinh thần (ý thức xã hội) nó phản ánh đời sống tinh thần của cả xã
hội đó; mặt hoạt động (hoạt động tinh thần của cá nhân, cộng
đồng) thể hiện các hoạt động tinh thần của các thành viên trong xã
hội đó và của cả cộng đồng của xã hội; mặt điều kiện vật chất đảm
bảo hoạt động tinh thần của con người, có nghĩa là mọi hoạt động
tinh thần của con người đều dựa trên nền tảng kinh tế - xã hội mà
họ đang sống. Thông qua hoạt động và quan hệ tinh thần của xã
hội, nhận thấy rằng đời sống tinh thần là những hoạt động sống
đang diễn ra ở lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội đó, hoàn toàn
không phải là hoạt động tinh thần thuần túy.
Tiếp cận đời sống tinh thần người Hà Nội trong quan hệ với
đời sống tinh thần xã hội nói chung, đồng thời có những sắc thái
riêng. Theo đó, tác giả quan niệm: đời sống tinh thần của người

Hà Nội là tổng thể những mặt, yếu tố thuộc lĩnh vực tinh thần
phản ánh đời sống vật chất của cộng đồng người Hà Nội, được
hình thành, phát triển thống nhất với quá trình lịch sử Thăng
Long - Hà Nội đến nay.
Đời sống tinh thần người Hà Nội là một bộ phận thuộc đời
sống tinh thần xã hội Việt Nam. Nó cũng biểu hiện đầy đủ những nội
dung, giá trị như: yêu nước; đoàn kết toàn dân tộc; nhân đạo, nhân
văn; lối sống hài hòa; trọng nghĩa tình; với các sinh hoạt tinh thần,
hội hè, lễ hội văn hóa - nghệ thuật, tôn giáo… Đời sống tinh thần
người Hà Nội có tính “mở” rõ nét hơn các vùng khác trong cả nước.
Đời sống tinh thần người Hà Nội rất đa dạng, phong phú, giàu chất
liệu biểu hiện ở nhiều thể loại văn hóa mang dấu ấn của nhiều vùng,
miền của đất nước, thậm chí của cả nước ngoài. Xu hướng phát triển
về tính phong phú, đa dạng, giàu chất liệu giá trị ngày càng tăng lên
không chỉ trong thời mở cửa, giao lưu, hội nhập quốc tế, mà cả trong
lịch sử. Tính đa dạng, phong phú của đời sống tinh thần người Hà
Nội càng được tăng lên bởi những con người (nhập cư) từ các địa


10
phương khác vào Hà Nội. Đời sống tinh thần người Hà Nội cũng
phản ánh hiện thực những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc ta rất
sâu sắc. Trong truyền thống cũng như hiện đại, đời sống tinh thần
người Hà Nội ngày càng được tiếp xúc, giao lưu với các tôn giáo, văn
hóa nước ngoài nhiều hơn.
1.1.3. Quan niệm về ảnh hưởng của luật nhân quả trong
triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội
Tác giả quan niệm: ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết
học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội là sự tác động
bởi những nội dung, đặc trưng, giá trị của luật này thông qua sức

mạnh của cả hệ thống Phật giáo xâm nhập, ghi dấu ấn cả mặt tích
cực và tiêu cực vào nhận thức, tình cảm, thái độ, niềm tin và hành vi
các chủ thể trong từng dạng thức hoạt động thuộc đời sống tinh thần
người Hà Nội.
Đối tượng ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật
giáo, đó là giới hành đạo (những người có đạo), phật tử, người tôn
giáo khác (hiện tượng tam giáo đồng nguyên ở nước ta), người dân
(lương). Luật nhân quả ảnh hưởng đến đời sống tinh thần người Hà
Nội qua sự xâm nhập lâu dài của toàn bộ hệ thống Phật giáo qua
nhiều thế hệ của người Hà Nội (còn có cả việc truyền giá trị của thế
hệ trước truyền cho thế hệ sau). Sự xâm nhập của Phật giáo vào đời
sống tinh thần người Hà Nội đến đâu thì ảnh hưởng của luật nhân quả
trong triết học Phật giáo tương ứng đến đó.
Nội dung ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo
đến đời sống tinh thần người Hà Nội, được thể hiện qua sự ảnh hưởng
trước hết ở tư tưởng nhân quả trong giáo lý phật giáo; ảnh hưởng của tư
tưởng nhân quả trong hành đạo; ảnh hưởng của tư tưởng nhân quả trong
thực tiễn đời sống của người dân Hà Nội. Sự xâm nhập, ảnh hưởng này
tạo ra những biến đổi trong nhận thức, tình cảm, thái độ, hành vi ứng xử
của con người Hà Nội mang sắc thái của luật nhân quả. Ảnh hưởng này
biểu hiện từ chỗ trong đời sống tinh thần người Hà Nội không bị chi
phối bởi nội dung, giá trị, chuẩn mực ứng xử văn hóa; sự sáng tạo,
thưởng thức giá trị tinh thần chưa có sắc thái luật nhân quả đến dấu ấn
mang đậm nét sắc thái luật nhân quả sâu sắc.
Phương thức ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo đến đời sống tinh thần ngươi Hà Nội thông qua các cách
thức cơ bản đó là con đường truyền đạo; truyền thụ giá trị văn hóa
Phật giáo vào Việt Nam nói chung và người Hà Nội nói riêng. Hình
thức của nó là thông qua sinh hoạt phật giáo như đi chùa, đi lễ; sinh
hoạt trong gia đình (cách này ảnh hưởng một cách tự nhiên). Thông

qua hoạt động văn hóa tinh thần (như Lễ hội, ẩm thực…). Thông qua


11
hoạt động thực tiễn của người Hà Nội (thông qua các quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội). Thông qua giao tiếp xã hội (các quan hệ xã hội truyền giá trị…). Thông qua giao lưu với các tôn giáo khác (hiện
tượng tam giáo đồng nguyên ở Việt Nam). Ảnh hưởng của luật nhân
quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội
theo cách thức truyền giá trị là cơ bản. Ảnh hưởng của luật nhân quả
trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội từ nhận thức
đến thái độ, niềm tin và hành vi ứng xử trong hoạt động, quan hệ xã hội
thuộc đời sống tinh thần con người.
Kết quả ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo
đến đời sống tinh thần người Hà Nội trong nhận thức và hành động cả
mặt tích cực và mặt tiêu cực. Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết
học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội cả tinh thần biện
chứng và cả tinh thần siêu hình. Về tinh thần biện chứng là ở nội dung
về “luân hồi - quả báo”, về “thập nhị nhân duyên”, về “nghiệp” v.v.. Về
tính chất siêu hình thể hiện ngay trong luật nhân quả cũng như hệ quả
từ luật này đến các quan niệm khác trong triết học Phật giáo là ở “luân
hồi”; “kiếp”; đầu thai” v.v.. Nó ảnh hưởng đến đời sống tinh thần
người Hà Nội khá sâu sắc. Trong quan niệm của người Hà Nội vẫn tồn
tại những dấu ấn của các nội dung trên trong hoạt động, giao tiếp, quan
hệ thuộc đời sống tâm linh khá điển hình.
1.2. Những yếu tố quy định ảnh hưởng của luật nhân quả
trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội
1.2.1. Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật
giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội qua sức mạnh hệ thống
Phật giáo và đặc trưng đời sống tinh thần người Hà Nội
Xét ảnh hưởng luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời

sống tinh thần người Hà Nội cũng trong cái chung của quy luật giao
thoa, giao lưu và tiếp biến văn hóa, tôn giáo. Tương quan giữa sức
mạnh, trình độ phát triển của luật nhân quả trong triết học Phật giáo
với đời sống tinh thần người Việt Nam; con người người Hà Nội về
trình độ nhận thức, đặc điểm tâm lý. Quan hệ giữa luật nhân quả
trong triết học Phật giáo với đời sống tinh thần người Hà Nội có
nhiều điểm tương đồng, ít có dấu hiệu của quan hệ xung đối. Nét
tương đồng này vừa làm cơ sở cho ảnh hưởng của luật nhân quả
trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội một
cách hòa bình. Tính chất truyền giá trị, thẩm thấu qua giao thoa, giao
lưu và tiếp biến văn hóa rất điển hình.
1.2.2. Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật
giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội qua vai trò, tính quy
định của môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở Hà Nội
Ngay từ đầu sự xâm nhập của văn hóa Phật giáo và luật nhân
quả trong triết học Phật giáo vào Việt Nam, vào đời sống tinh thần
người Hà Nội so với các tôn giáo lớn khác, ảnh hưởng của luật nhân


12
quả trong triết học Phật giáo sớm hơn và có thế mạnh hơn. Với môi
trường xã hội có những nét đặc trưng rất sát với xã hội Ấn Độ cho
nên, luật nhân quả trong triết học Phật giáo có sức sống từ mảnh
đất hiện thực của xã hội Việt Nam.
Khi Hà Nội được lựa chọn và xây dựng với tính chất của một
trung tâm chính trị, kinh đô của đất nước thì mảnh đất hiện thực ấy có
khác biệt nhiều hơn so với các địa phương khác. Nền tảng kinh tế ấy
đã làm cho tính quy luật ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo bị “khúc xạ” một phần so với trước. Sự khúc xạ này chuyển
từ ảnh hưởng có tính thuần nhất đến ảnh hưởng đến các giai tầng xã

hội khác nhau.
Khi chủ nghĩa thực dân, đế quốc thống trị, Hà Nội vẫn là trung
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, nhưng tính chất có sự khác biệt
căn bản. Một cuộc bài xích văn hóa, tôn giáo truyền thống được diễn ra
theo chính sách chính trị thực dân, đế quốc rất mạnh mẽ. Điều này làm
cho biến dạng lớn, làm thay đổi sự ảnh hưởng của luật nhân quả trong
triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội. Một là, luật
nhân quả trong triết học Phật giáo tiếp tục hun đúc tinh thần hướng
thiện, yêu nước, đánh giặc đã hình thành trong truyền thống trong chống
thực dân, đế quốc. Hai là, ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo bị mất cơ bản trong tâm thức của một số người, đặc biệt những
người chạy theo ảnh hưởng của Kitô giáo.
1.2.3. Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật
giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội qua sự quy định về tâm
lý, thái độ ứng xử và phương pháp tiếp nhận của người Hà Nội
Người Hà Nội trong cái chung của người Việt Nam có tâm lý,
có thái độ ứng xử trong quan hệ xã hội cũng như giao lưu văn hóa,
tôn giáo rất mền dẻo. Tâm lý “bố thí” làm phúc là hệ quả của luật
nhân quả trong triết học Phật giáo cũng tương đồng với tâm lý
“thương người như thể thương thân” của người Việt, người Hà Nội.
Hơn nữa, khi Hà Nội trở thành kinh đô, trung tâm kinh tế chính trị,
văn hóa và đặc biệt Phật giáo được chọn là quốc giáo, hệ tư
tưởng,v.v., cũng có nghĩa sẽ phát triển nhanh mạnh hơn. Tiền đề về
nhận thức đã làm cho luật nhân quả trong triết học Phật giáo ảnh
hưởng sâu rộng đến đời sống tinh thần người Hà Nội, đồng thời ở
trình độ cao hơn các địa phương, tỉnh khác. Các nội dung, giá trị luật
nhân quả trong triết học Phật giáo được Việt Nam hóa theo định
hướng giá trị yêu nước, đoàn kết toàn dân tộc, nhân đạo nhân văn
có tính hiện thực đã quy định sự giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực và
gia tăng ảnh hưởng tích cực.

Kết luận chương 1
Phật giáo vào Việt Nam rất sớm và có thể qua nhiều con đường
khác nhau, mang theo tinh thần của luật nhân quả với tính cách là nội
dung cơ bản. Ảnh hưởng của luật nhân quả đến đời sống tinh thần
người Hà Nội nằm trong quá trình phát triển, quy luật mở rộng không
gian ảnh hưởng của Phật giáo. Ảnh hưởng của luật nhân quả trong


13
triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội là quá trình
những nội dung, giá trị của luật này thông qua sức mạnh của cả hệ
thống Phật giáo xâm nhập, ghi dấu ấn cả mặt tích cực và tiêu cực
trong nhận thức, tình cảm, thái độ, niềm tin và hành vi ở từng dạng
thức hoạt động thuộc đời sống tinh thần người Hà Nội.
Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời
sống tinh thần người Hà Nội về bản chất là sự ảnh hưởng của một ý
thức tôn giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội. Quá trình ảnh
hưởng đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố và gắn liền với sự du nhập, tiếp
biến văn hóa tôn giáo của người Hà Nội. Nhưng về cơ bản, ảnh
hưởng của luật nhân quả chịu sự phụ thuộc vào điều kiện về kinh tế,
chính trị, xã hội của Hà Nội trong các thời kỳ. Nó đáp ứng được nhu
cầu đời sống tinh thần một bộ phận người Hà Nội bởi những mặt tích
cực của nó và thông qua nhiều phương thức tiếp nhận, dạng thức hoạt
động văn hóa, tôn giáo khác nhau của người Hà Nội.
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ ẢNH HƯỞNG CỦA
LUẬT NHÂN QUẢ TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN
ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1. Thực trạng ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết
học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay

2.1.1. Ảnh hưởng tích cực
* Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến nhận
thức người Hà Nội hiện nay.
Trong nhận thức, lối suy nghĩ của đại bộ phận người Hà Nội
đều cho rằng: từ nhân đến quả phải có đủ duyên thì sự việc mới xảy
ra, tiến trình nhân - quả như một hệ quả tất yếu; tất nhiên sự nhận
thức đó giữa người tu hành và người không tu hành là khác nhau.
Nếu ai đã tin có nhân quả thì không ai không sợ ác báo. Người sợ
đón nhận quả báo đau khổ hoàn toàn không giống người sợ gieo nhân
đau khổ. Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo rất
phù hợp để uốn nắn hành vi của mỗi người. Bởi luật nhân quả cho
rằng làm việc thiện thì sẽ gặp phúc và ngược lại, làm điều ác sẽ bị
quả báo, “gieo nhân nào thì gặp quả ấy”.
Hiện nay, trong một bộ phận giới trẻ người Hà Nội thì một bộ
phận đều biết nhân quả, nhưng bản chất thực sự của nhân và quả thì
không phải ai cũng hiểu sâu sắc. Các học thuyết của Phật giáo đáp
ứng đời sống tinh thần của một bộ phận người Hà Nội. Một số người
dân Hà Nội hoạt động kinh doanh, họ thừa nhận những hoạt động tham
gia vào quá trình sinh hoạt tín ngưỡng mang màu sắc tôn giáo, đồng
thời cũng thừa nhận sự ảnh hưởng của Phật giáo ngày càng sâu sắc.
* Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến
tình cảm, niềm tin người Hà Nội hiện nay.
Người Hà Nội có niềm tin vào những giáo lý nhân quả của
Phật giáo, họ tin rằng sự hợp lý theo trật tự tồn tại và ý nghĩa của một
cuộc đời người là do nhận thức được và sống theo lời Phật dạy, mọi


14
điều đều tuân theo luật nhân quả. Với luật nhân quả, mọi chúng sinh
đều bình đẳng trong sự thăng tiến của chính bản thân mình, trước cơ

hội thăng tiến cả về vật chất lẫn tinh thần, sự bình đẳng này là tuyệt
đối. Luật nhân quả tạo cho con người Hà Nội một niềm tin chắc chắn
vào bản thân mình, vào những điều tốt đẹp, cho họ thấy sự lạc quan,
có niềm vui khi mình hướng thiện và thực hành theo luật nhân quả.
Qua số liệu cho thấy niềm tin vào nghiệp báo luân hồi của đối tượng
đi tu hành là rất cao, họ gần như là tuyệt đối tin tưởng vào giáo lý nhà
Phật. Sự ảnh hưởng của luật nhân quả ở đây còn biểu hiện ở cách ứng
xử với nhau trong cuộc sống của người Hà Nội.
* Ảnh hưởng đến hành vi ứng xử trong các mối quan hệ tinh thần
của người Hà Nội hiện nay
Ảnh hưởng của luật nhân quả đến chiều sâu nội tâm với tư
tưởng từ, bi, bác ái, chủ trương khuyến thiện, trừng ác, hỷ, xả, cứu
khổ, cứu nạn là những tư tưởng lôi cuốn đông đảo người Hà Nội
có hành vi ứng xử xã hội, trong các quan hệ tinh thần mang đậm
lòng thương người, tính nhân đạo. Hình thành sâu sắc hơn ở họ
những cảm xúc, tình cảm đạo đức cao đẹp, sự quan tâm cứu vớt
con người trước bất công, đau khổ nên nhiều người Hà Nội đã tiếp
thu, tự giác chịu ảnh hưởng của triết lý Phật giáo. Ảnh hưởng luật
nhân quả đến hành vi quan hệ ứng xử trong gia đình.
Còn trong quan hệ cộng đồng, hàng xóm, bạn bè phải ân cần
khoản đãi, rộng lượng vui vẻ giúp đỡ lẫn nhau... con người lấy tâm
làm gốc, đây là sự tự tâm, là thứ tình cảm trong sáng. Tình cảm này
được con người Hà Nội coi trọng, là sự thể hiện của tấm lòng và đem
bày tỏ với mọi người, đặt tình cảm lên trên hết, đây vốn là truyền
thống trọng nghĩa của dân tộc ta. Triết lý luật nhân quả trong triết học
Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng đến nếp nghĩ, nếp sống không chỉ
đối với giới tăng ni, phật tử mà còn cả trong đông đảo quần chúng
nhân dân Hà Nội.
2.1.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến

đời sống tinh thần người Hà Nội nó cũng thể hiện đầy đủ trên các mặt đó là:
nhận thức, tình cảm, niềm tin và hành vi ứng xử của người Hà Nội hiện nay.
Quan niệm của Phật giáo cho rằng đời là bể khổ, cuộc sống
ở trần gian là tạm bợ, là sự chuẩn bị bắt đầu cho cuộc sống ở cõi
Niết bàn. Điều này đã làm con người xa lánh cuộc đời, an phận
thủ thường, thu mình trước mọi bất công, nảy sinh tâm trạng bi
quan, yếm thế trước cuộc sống. Quan niệm về tồn tại, về cuộc
sống đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần người Hà
Nội hiện nay.
Ảnh hưởng thế giới quan duy tâm tôn giáo về con người, xã
hội không phù hợp đã cản trở đối với sự tiến bộ của con người, xã hội
trong điều kiện hiện nay. Thực tế, do xuất phạt từ tính chất của Thế
giới quan Phật giáo là tạo cho mọi người tính nhẫn nhục, cam chịu
bằng lòng với số phận của mình ở cuộc sống trần gian. Nên dễ bị giai


15
cấp thống trị lợi dụng để thống trị quần chúng nhân dân; giai cấp
thống trị lợi dụng ru ngủ nhân dân, loại bỏ ý thức vươn lên đấu tranh
của họ, dẫn đến sự cai trị của chúng dễ dàng hơn.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ảnh hưởng luật
nhân quả đến đời sống tinh thần người Hà Nội đã có sự biến đổi.
Trong cơ chế kinh tế mới này, nhu cầu tâm linh của các tín đồ lại
càng phong phú hơn bao giờ hết, nhà chùa cũng đã đáp ứng được nhu
cầu ngày một cao của các tín đồ. Có thể nói, hình thức phục vụ tâm
linh của nhà chùa đã tỏ rõ vai trò đáp ứng nhu cầu ngày càng phong
phú của các tín đồ Phật giáo.
Ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả nói riêng và Phật giáo
nói chung vẫn là duy tâm, đền bù hư ảo cho con người, không tạo
động lực thúc thẩy hành động cải tạo thực tiễn. Thực tế các cơ sở của

Phật giáo trở thành nơi ẩn náu, đi tu của một số người bi quan, chán
nản không tìm thấy ý nghĩa trước cuộc sống; một bộ phận người Hà
Nội đến với Phật để được may hơn, hạn chế gặp điều rủi do, hết khó
khăn hay thất bại trong cuộc sống.
Ảnh hưởng của triết lý nhân quả đến đời sống tinh thần người
Hà Nội dưới tác động của cơ chế thị trường đã làm thay đổi hành vi
trong quan hệ ứng xử với triết lý Phật giáo của tăng ni và tín đồ
người Hà Nội. Trong nhu cầu đời sống tinh thần đến với Phật giáo đã
thay đổi, đan xen tính trần tục, lợi ích vật chất, vụ lợi tham sân si. Do
đó, ảnh hưởng của triết lý nhân quả trong tư tưởng Phật giáo đến đời
sống tinh thần người Hà Nội hiện nay có biểu hiện khác thời kỳ trước
đổi mới.
2.1.3. Nguyên nhân ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết
học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay
* Nguyên nhân ảnh hưởng tích cực
Một là, do chính triết lý nhân quả trong tư tưởng triết học
Phật giáo phù hợp với nhu cầu đời sống tinh thần người Hà Nội.
Muốn tu hành chính quả thì phải hiểu rõ được “Nghiệp”, “Nhân quả”
mà ở đó có “duyên”.
Hai là, theo triết lý luật nhân quả của Phật giáo mỗi khi khởi
tâm động niệm đều là tạo nghiệp, vì vậy, từ vô lượng kiếp đến nay
con người đã tạo ra rất nhiều nghiệp.
Ba là, tư tưởng của luật nhân quả chỉ ra mỗi người trong cuộc
sống phải hướng thiện. Nó dẫn dắt con người biết để trong mọi hoàn
cảnh đoạn trừ việc ác và tu tập các việc thiện.
* Nguyên nhân ảnh hưởng tiêu cực
Một là, triết lý nhân quả trong tư tưởng triết học Phật giáo có
những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần người Hà Nội,
nguyên nhân cơ bản do chính bản chất của Phật giáo vẫn là một tôn
giáo. Thế giới quan của Phật giáo phản ánh hư ảo vào đầu óc con

người, đã thần thánh hóa những lực lượng ở bên ngoài con người,
những lực lượng ở trần thế mang tính chất của những lực lượng siêu
trần thế.


16
Hai là, thực chất ảnh hưởng của luật nhân quả đến đời sống
tinh thần người Hà Nội là sự tác động, ảnh hưởng qua lại giữa các
hình thái ý thức xã hội, biểu hiện ảnh hưởng một hình thái ý thức tôn
giáo đến các hình thái ý thức xã hội trong đời sống tinh thần người
Hà Nội. Do đó, mặc dù ảnh hưởng tiêu cực nhưng triết lý nhân quả
trong tư tưởng Phật giáo vẫn có một vị trí quan trọng trong đời sống
tinh thần người Hà Nội.
Ba là, nhu cầu đời sống tinh thần người Hà Nội rất phong
phú, đa dạng, trong khi các điều kiện bảo đảm một đời sống tinh
thần lành mạnh chưa đủ thì trong nhận thức sự ảnh hưởng tiêu cực
của triết lý nhân quả Phật giáo vẫn tồn tại là tất yếu.
Bốn là, do những hạn chế yếu kém trong công tác vận động,
tuyên truyền chính trị tư tưởng trong quần chúng nhân dân và quản lý
văn hóa, hoạt động lễ hội tôn giáo tín ngưỡng tâm linh hiện nay.
2.2. Một số vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của luật nhân quả
trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội
hiện nay
2.2.1. Vấn đề tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người Hà Nội hiện nay
Đời sống tinh thần người Hà Nội là cái phản ánh đời sống vật
chất của người Hà Nội và do đời sống vật chất quyết định. Do đó,
vấn đề đặt ra để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực luật nhân quả
đến đời sống tinh thần người Hà Nội và phát huy những ảnh hưởng
tích cực, tất yếu phải quan tâm giải quyết vấn đề đẩy mạnh phát

triển kinh tế - xã hội thủ đô Hà Nội, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho người dân Hà Nội.
2.2.2. Vấn đề định hướng phát huy ảnh hưởng tích cực và
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả đến đời sống tinh
thần người Hà Nội hiện nay
Các hoạt động tuyên truyền vận động của chính quyền cần
phối hợp với các chức sắc Phật giáo giảng giải để mọi người hiểu
được rằng, tu theo Phật, làm theo luật nhân quả phải căn bản, phải
như thế nào. Phật ở trong “Tâm” mỗi người, không phải cứ đi lễ
chùa, cởi bỏ “tấm áo bụi trần”, xuống tóc đi tu mới là thành tâm với
Phật, mới theo đúng nhân quả và trở thành đệ tử của Phật. Trong
xây dựng đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay, bằng nhiều con
đường biện pháp giáo dục, vận động phải làm cho hệ tư tưởng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần.
2.2.3. Vấn đề hạn chế việc lợi dụng luật nhân quả trong triết
học Phật giáo để chống phá việc xây dựng đời sống tinh thần tiến
bộ của người Hà Nội hiện nay
Nội dung của luật nhân quả, hệ thống giáo lý của Nhà Phật
luôn thể hiện tinh thần hướng thiện, tư tưởng đạo lý tốt đẹp, nhưng
do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, Nhân dân có thể
hiểu không đúng hoặc hiểu sai lệch nên đã gây ra một số tiêu cực,


17
gây ảnh hưởng không tốt đến đời sống tinh thần người Hà Nội.
Chúng ta cần có thái độ nghiêm túc trong việc đấu tranh chống lại
những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá xây dựng đời
sống tinh thần cho người Hà Nội hiện nay. Cần tuyên truyền vận
động nhân dân tránh nhầm lẫn giữa hoạt động tín ngưỡng với hành vi

mê tín, dị đoan tại các nơi thờ tự Phật giáo.
Kết luận chương 2
Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời
sống tinh thần người Hà Nội là sự tác động vào nhận thức, tình cảm,
thái độ, niềm tin và hành vi ứng xử của người Hà Nội. Do đó, nhận
thức và đánh giá đúng thực trạng về sự tác động tích cức và tiêu cực
của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần
người Hà Nội là vấn đề lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Trên cơ sở
đó chỉ ra nguyên nhân của những tích cực và tiêu cực; có cả nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan; giúp các chủ thể nhận thức
đúng để đề xuất giải pháp phù hợp, khoa học trong xây dựng đời sống
tinh thần cho người Hà Nội hiện nay.
Trên cơ sở nhận thức đúng thực trạng và nguyên nhân, luận án
đã phân tích làm rõ những vấn đề đặt ra hiện nay từ ảnh hưởng của
luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người
Hà Nội; đây là cơ sở quan trọng để xác định các giải pháp cơ bản
phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật
nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà
Nội hiện nay.
Chương 3
GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ
HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA LUẬT NHÂN QUẢ
TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH
THẦN NGƯỜI HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Nâng cao chất lượng các hoạt động sinh hoạt chính trị,
tư tưởng, văn hóa cho người Hà Nội hiện nay
3.1.1. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cho người Hà Nội hiện nay
Một là, nâng cao nhận thức về hạt nhân hợp lý của luật nhân quả
trong tiến hành công tác vận động, tuyên truyền trên địa bàn Thành phố Hà

Nội hiện nay. Đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị trên địa bàn Thành
phố Hà Nội, trong đó vai trò nòng cốt thực hiện là tổ chức đảng, tổ chức chính
quyền, các đoàn thể quần chúng và lực lượng tuyên truyền viên ở cơ sở.
Hai là, phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống
chính trị để tuyên truyền vận động, làm lành mạnh hóa đời sống tinh thần
người Hà Nội hiện nay. Trên cơ sở quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Đảng,
Nhà nước về tôn giáo, các lực lượng thống nhất nhận thức nâng cao chất
lượng công tác tuyên truyền, giáo dục cho người dân Hà Nội; về bản chất phát


18
huy mặt tích cực, bổ sung, làm giàu tri thức, giá trị nhân đạo, nhân văn người
Hà Nội.
3.1.2. Kết hợp giữa nâng cao nhận thức với xây dựng, củng cố thái
độ, niềm tin khoa học, cách mạng trong đời sống tinh thần của người Hà
Nội hiện nay
Một là, tăng cường xây dựng thái độ, niềm tin khoa học, cách mạng
vào sự nghiệp đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay. Quá trình đó gắn liền với việc phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực luật nhân quả đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay
trong tiến trình xây dựng xã hội mới. Quá trình đó phải mang tính đồng bộ,
tích cực, trách nhiệm chung, không phải của riêng một chủ thể nào.
Đối với chủ thể là cấp ủy, chính quyền các cấp phải có trách nhiệm
bám sát những diễn biến ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật
giáo trong đời sống tinh thần quần chúng nhân dân để có những chủ trương
sát hợp với tình hình thực tiễn phát triển. Phát huy trách nhiệm bộ phận
chuyên trách tuyên truyền, giáo dục trong định hướng xây dựng thái độ, động
cơ, ý chí, niềm tin cho quần chúng. Phát huy trách nhiệm của các tổ chức:
đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh, phụ nữ v.v.. cùng hướng đến định hướng
xây dựng, củng cố thái độ, động cơ, ý chí niềm tin phát huy mặt tích cực, hạn

chế mặt tiêu cực từ ảnh hưởng luật nhân quả đến đời sống tinh thần con người
Hà Nội hiện nay.
Hai là, tăng cường định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa trong đời
sống tinh thần người Hà Nội hiện nay. Biện chứng của mối quan hệ nhân quả
cũng chỉ ra mối quan hệ tác động qua lại giữa chính trị và tôn giáo, đó là hai
mặt khác nhau thuộc đời sống tinh thần xã hội, con người. Mặc dù tôn giáo có
tính độc lập tương đối, nhưng trong xã hội có giai cấp, các vấn đề tôn giáo đều
bị chính trị quyết định. Định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa quyết định
phương hướng, nội dung phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần
người Hà Nội theo hướng tiến bộ, tự giác.
3.1.3. Tổ chức và quản lý tốt các hoạt động văn hóa, tôn giáo, tín
ngưỡng trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay
Một là, nâng cao năng lực tổ chức, quản lý các hoạt động văn hóa,
tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của các cơ quan chức năng. Phát huy ảnh
hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực luật nhân quả trong triết học Phật
giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay không dừng lại ở nhận
thức, thái độ, động cơ, ý chí niềm tin mà phải trên thực tiễn, thực tế hoạt động
của mỗi cá nhân, cộng đồng trong đời sống tinh thần xã hội. Một trong những
biện pháp hữu hiệu nhất là thông qua tổ chức các lễ hội văn hóa truyền thống,
văn hóa tôn giáo thật sự trong sáng lành mạnh đúng định hướng của Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc hiện nay.


19
Hai là, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng,
ngăn chặn việc lợi dụng sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng tác động tiêu
cực đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay. Thực hiện biện pháp này,
mỗi cấp lãnh đạo, chính quyền, tổ chức xã hội tự chấn chỉnh, tự đổi mới, xây
dựng tổ chức trong sạch vững mạnh về đạo đức, lối sống và năng lực thực thi

pháp luật. Mỗi cán bộ, đảng viên và các cá nhân có trách nhiệm tổ chức quản
lý cũng phải tự chấn chỉnh một cách tích cực về tuân thủ các quy định về hành
vi lễ hội văn hóa truyền thống, văn hóa tôn giáo Phật giáo. Với các chủ thể
phải thực hiện được gia đình mình đúng là “gia đình văn hóa” để làm gương
cho quần chúng.
Ba là, nâng cao sức mạnh của dư luận xã hội ngăn chặn hoạt động
chống phá và lợi dụng luật nhân quả trong triết học Phật giáo tác động tiêu
cực đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay. Mỗi địa phương mà trực
tiếp nhất là các cấp lãnh đạo, chính quyền, tổ chức xã hội chủ động cụ thể hóa
và hoàn thiện tiêu chí, tôn chỉ hoạt động của các lễ hội văn hóa truyền thống,
văn hóa tôn giáo và môi trường văn hóa địa phương, khu phố của mình mọt
cách cụ thể. Trên cơ sở hoàn thiện này, công tác tuyên truyền, giáo dục để trở
thành hệ chuẩn cho hình thành dư luận tích cực đối với tôn vinh các tấm
gương tiêu biểu và phê phán những biểu hiện lệch chuẩn.
3.2. Đẩy mạnh việc phát triển kinh tế, văn hóa xã hội nhằm tạo ra
môi trường lành mạnh cho đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay
3.2.1. Phát triển kinh tế tạo cơ sở vật chất phát huy ảnh hưởng tích
cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả trong triết học Phật
giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay
Một là, đẩy mạnh thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội nâng cao đời sống vật chất cho người Hà Nội hiện nay. Tiếp tục xây dựng
và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh đổi
mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế tri thức,
nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của kinh tế Thủ đô.
Hai là, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế và khắc phục mặt trái của của kinh tế thị trường ảnh hưởng đến
đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay. Phát triển mạnh các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Trọng tâm là nâng cao vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước, đổi mới, nâng cao hiệu quả và vai trò nòng cốt của doanh
nghiệp nhà nước, nhất là nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các tổng

công ty nhà nước trực thuộc thành phố; phát triển kinh tế tập thể, nòng cốt là
hợp tác xã; khuyến khích, phát triển kinh tế tư nhân, các loại hình doanh
nghiệp sở hữu hỗn hợp theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tập trung
đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng và quản lý quy hoạch bảo
đảm đồng bộ, hiện đại, ổn định và lâu dài.
3.2.2. Xây dựng môi trường văn hóa xã hội tích cực để phát huy


20
ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả
trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay
Một là, thực hiện nếp sống thanh lịch, văn minh trong các cơ quan,
trường học, khu dân cư văn hóa. Trong đời sống tinh thần lấy việc tập trung
giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá tinh thần người Thăng Long - Hà Nội
gắn với tôn trọng kỷ cương, pháp luật làm cốt lõi. Kết hợp chặt chẽ có hiệu
quả nhiệm vụ xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, xây dựng gia
đình văn hóa, dòng họ văn hóa với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”.
Hai là, hoàn thiện các thiết chế văn hoá, bảo tồn và phát huy các giá trị
lịch sử, văn hoá truyền thống Thăng Long - Hà Nội đi đôi với xây dựng mới
các công trình văn hoá tiêu biểu. Nghiên cứu xây dựng quy chế quản lý các di
tích lịch sử văn hóa trên địa bàn gắn với giữ gìn, bảo tồn, phát huy giá trị các
di sản lịch sử, văn hóa.
Ba là, huy động mọi tiềm năng, thế mạnh, nguồn lực và đẩy mạnh xã
hội hoá để phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển của Thủ đô và cho sự phát triển chung
của vùng và cả nước. Tập trung xây dựng, phát triển, nâng cao vị thế hàng đầu
của giáo dục - đào tạo Thủ đô; đi đầu trong phổ cập giáo dục mầm non, phổ
cập giáo dục trung học phổ thông và trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bốn là, phát triển đồng bộ hệ thống y tế đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc

và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Đa dạng hoá hình thức chăm sóc sức khoẻ nhân
dân đi đôi với đầu tư phát triển một số cơ sở y tế chuyên sâu, kỹ thuật cao, đạt
trình độ khu vực và quốc tế. Làm tốt công tác y tế dự phòng, bảo đảm vệ sinh
an toàn thực phẩm. Phát triển mạnh khoa học - công nghệ gắn với phát triển
kinh tế tri thức.
3.3. Phát huy tính tích cực, tự giác của người Hà Nội trong xây
dựng đời sống tinh thần hiện nay
3.3.1. Tích cực hóa nhận thức của người Hà Nội về ảnh hưởng của
luật nhân quả trong triết học Phật giáo
Mỗi con người Hà Nội tự xác định cho mình trách nhiệm xã hội, nghĩa
vụ công dân đối với tiếp nhận những định hướng, nội dung giáo dục, tuyên
truyền hiện nay. Đồng thời, phải luôn tự xác định mình là chủ thể thực hiện
đại đoàn kết toàn dân tộc; là công dân với trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công
dân để không trượt vào, bị lôi cuốn vào những tác động, tuyên truyền trái với
quan điểm của Đảng, Nhà nước. Đối với các tổ chức cần làm tốt công tác


21
tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các hướng dẫn chỉ thị cấp trên… Qua đó tự nâng cao trình độ
nhận thức cho các thành viên của tổ chức mình một cách nghiêm túc. Và phát
huy tốt vai trò của gia đình trong việc nâng cao nhận thức về ảnh hưởng tích
cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả trong triết học Phật giáo.
3.3.2. Tích cực hóa thái độ, niềm tin của mỗi cá nhân trong cộng
đồng nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực từ ảnh hưởng
của luật nhân quả đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay
Với tư cách là một chủ thể, mỗi cá nhân cùng hướng đến thực hiện
những bước chuyển hóa từ nhận thức thành thái độ, động cơ, ý chí của chính
bản thân mình. Mỗi cá nhân trong cộng đồng, môi trường xã hội chủ động
tiếp nhận những định hướng từ các chủ thể lãnh đạo, chỉ huy, bộ phận tuyên

truyền có tính chuyên trách và tự thẩm thấu, chuyển hóa từ cái nội dung, yêu
cầu khách quan của xã hội thành nội dung cái chủ quan bên trong của mình.
Quá trình đó thống nhất với tiến trình chuyển hóa từ những hiểu biết về ảnh
hưởng tích cực, ảnh hưởng tiêu cực đến xây dựng thái độ, động cơ, ý chí của
chính bản thân mình.
3.3.3. Tích cực hóa hành vi ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng
đồng nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực từ ảnh hưởng
của luật nhân quả đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay
Mỗi người Hà Nội phải tự chiến thắng mình, tự vượt qua những rào
cản, lực cản trở thành thói quen, lối sống, lẽ sống thì hành vi mới đích thực
theo đúng nghĩa của nó. Hành vi ấy cũng thường xuyên được chủ thể tự giác
rèn luyện và biểu hiện ra trong việc tích cực đấu tranh với những biểu hiện
lệch chuẩn đạo đức, lối sống theo truyền thống của người Việt Nam. Mỗi
người phải tự giác, tích cực tiếp thu những định hướng của các chủ thể khác
cả ở phương diện hành chính và cả ở phương diện dư luận xã hội, đồng thời
chuyển hóa vào nội dung, yêu cầu có tính chủ quan cá nhân con người. Trên
cơ sở tiếp nhận ấy, cá nhân tự xác định cho mình mục đích, nội dung hành vi
ứng xử trong hoạt động một cách cụ thể.
Kết luận chương 3
Giải pháp cơ bản phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người
Hà Nội hiện nay, được tiếp cận tập trung theo cấu trúc từ nhận thức đến tình
cảm, niềm tin và hoạt động tinh thần của người Hà Nội. Nội dung các biện
pháp trong từng nhóm giải pháp được tiếp cận qua trách nhiệm từng loại chủ


22
thể cụ thể. Mỗi chủ thể có vị trí vai trò khác nhau, nhưng thống nhất trong tính
chỉnh thể, trong đó quan trọng nhất là chủ thể với tính cách là một gia đình.
Xây dựng mỗi gia đình trở thành gia đình văn hóa là một biện pháp tích cực,

hữu hiệu nhất, những tác động từ môi trường xã hội đến đời sống tinh thần
người Hà Nội có vai trò to lớn, nhưng không trực tiếp bằng xây dựng gia đình
văn hóa hiện nay. Tính tích cực trong nâng cao nhận thức đến củng cố thái độ,
niềm tin và đến tự rèn luyện hành vi ứng xử của mình. Đồng thời cần quan
tâm đến biện pháp kết hợp dùng sức mạnh hành chính với sức mạnh giáo dục,
tuyên truyền vận động và dư luận xã hội đối với phát huy ảnh hưởng tích cực,
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời
sống tinh thần người Hà Nội hiện nay.
KẾT LUẬN
1. Nghiên cứu ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay là vấn đề
thực sự cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn nhằm phát huy ảnh hưởng
tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đến xây dựng đời sống tinh
thần lành mạnh cho người Hà Nội. Đời sống tinh thần người Hà Nội
rất phong phú, đa dạng và phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều hình
thái ý thức xã hội khác nhau. Đời sống tinh thần người Hà Nội là
tổng thể những quá trình, hiện tượng sinh hoạt mang ý nghĩa tinh
thần của con người Hà Nội cùng với những thiết chế của nó và phản
ánh lịch sử tồn tại, phát triển của thủ đô Hà Nội với vị trí là một trung
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của đất nước.
Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời
sống tinh thần người Hà Nội là quá trình những nội dung, giá trị của luật
này thông qua sức mạnh của cả hệ thống Phật giáo xâm nhập, ghi dấu ấn
cả mặt tích cực và tiêu cực trong nhận thức, tình cảm, thái độ, niềm tin
và hành vi ở từng dạng thức hoạt động thuộc đời sống tinh thần người
Hà Nội. Quá trình đó, gắn liền với sự du nhập, tiếp biến văn hóa tôn giáo
của người Hà Nội, về cơ bản ảnh hưởng của luật nhân quả chịu sự phụ
thuộc vào điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của Hà Nội.
2. Tình hình ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật
giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội là một thực tế, mang đặc

điểm của sự kế thừa, hội tụ tinh hoa của truyền thống Phật giáo được
hình thành và phát triển từ hàng ngàn năm trước: Phật giáo Thăng


23
Long và truyền thống Phật giáo xứ Đoài. Ảnh hưởng của luật nhân
quả đến đời sống tinh thần người Hà Nội đan xen vừa theo hướng
tích cực vừa tiêu cực. Dấu ấn của luật nhân quả đến đời sống tinh
thần thông qua ảnh hưởng của Phật giáo và được biểu hiện cơ bản ở
nhận thức, tình cảm, niềm tin và hành vi ứng xử trong các sinh hoạt
văn hóa tinh thần của người Hà Nội. Trong điều kiện hiện nay, ảnh
hưởng của tư tưởng Phật giáo nói chung, luật nhân quả nói riêng đến
đời sống tinh thần của người Hà Nội đang đặt ra nhiều vấn đề cần tập
trung giải quyết như: cần đẩy mạnh xây dựng đời sống vật chất, tinh
thần lành mạnh cho người Hà Nội; định hướng chính trị hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của luật nhân quả đến đời sống tinh thần người Hà
Nội; khắc phục được việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá
xây dựng đời sống tinh thần tiến bộ của người Hà Nội.
3. Hệ thống giải pháp cơ bản phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến
đời sống tinh thần người Hà Nội được tiếp cận tập trung theo hướng cấu
trúc từ nhận thức đến tình cảm, niềm tin và hoạt động tinh thần của
người Hà Nội. Nội dung các biện pháp trong từng nhóm giải pháp được
tiếp cận qua trách nhiệm từng loại chủ thể cụ thể. Mỗi chủ thể có vị trí
vai trò khác nhau, nhưng thống nhất trong tính chỉnh thể, trong đó quan
trọng nhất là chủ thể với tính cách là một gia đình. Giải pháp bao hàm
toàn diện từ vấn đề đời sống vật chất với nhiệm vụ phát triển kinh tế đến
xây dựng đời sống tinh thần. Trong đó, nhóm giải pháp kinh tế giữ vai
trò quyết định, còn nhóm giải pháp tích cực hóa nhân tố chủ quan của
người Hà Nội giữ vai trò quan trọng.




×