Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Tài liệu bổ trợ dự án tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ mầm non module 1kiến thức chung về quản lý chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (953.39 KB, 46 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
DỰ ÁN TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG SẴN SÀNG ĐI HỌC
CHO TRẺ MẦM NON

MODULE 1
KIẾN THỨC CHUNG VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG VÀ
KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
(Dành cho cán bộ quản lý và giáo viên mầm non)

TÀI LIỆU BỔ TRỢ


MỤC LỤC
A. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN

3

B. MỤC TIÊU

4

C. TÀI LIỆU THAM KHẢO

4

D. CÁC HOẠT ĐỘNG

6

Hoạt động 1. Chất lượng và chất lượng giáo dục mầm non ................................. 6
Hoạt động 2. Các mô hình quản lý chất lượng và công cụ quản lý chất lượng


giáo dục ............................................................................................................... 20
Hoạt động 3. Định hướng đổi mới quản lý chất lượng giáo dục trường mầm non
............................................................................................................................. 37
Hoạt động 4. Kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non ......................... 39
Hoạt động 5. Các văn bản liên quan đến kiểm định chất lượng giáo dục trường
mầm non .............................................................................................................. 41

2


A. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
Chất lượng giáo dục cho đến nay vẫn luôn mang tính thời sự và có tầm
quốc tế. Mặc dù vậy, từ nhận thức bản chất của khái niệm đến cách tiến hành xem
xét để tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục không phải là điều đơn
giản. Vì vậy, hiểu đầy đủ về chất lượng giáo dục và quy trình, phương pháp, kỹ
thuật đánh giá chất lượng giáo dục một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn phát
triển của xã hội, của giáo dục trong là một yêu cầu cấp bách.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn của Việt Nam và tham khảo các mô hình
bảo đảm chất lượng của các nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới, đến
nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã xây dựng được mô hình bảo đảm chất
lượng giáo dục cho tất cả các cấp học, bậc học. Kiểm định chất lượng giáo dục
(KĐCLGD) là một giải pháp quản lý chất lượng giáo dục, đã được Bộ GDĐT chỉ
đạo thực hiện trong tất cả các cấp học, bậc học, ngành học trong đó có các trường
mầm non. Tài liệu này cung cấp cho cán bộ các Sở GDĐT, các Phòng GDĐT,
cán bộ quản lý, giáo viên trường mầm non những vấn đề cơ bản về quản lý chất
lượng và KĐCLGD để hỗ trợ cho việc triển khai thực hiện hiệu quả công tác
KĐCLGD tại các cơ sở giáo dục.
Nội dung của module:
1. Quan niệm về chất lượng và chất lượng trong giáo dục mầm non.
2. Các mô hình quản lý chất lượng và công cụ quản lý chất lượng giáo dục.

3. Kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non.
4. Định hướng đổi mới quản lý chất lượng giáo dục trường mầm non.
5. Các văn bản KĐCLGD trường mầm non.
Thời gian học tập: 30 tiết (Lý thuyết: 10 tiết; thảo luận, thực hành: 10 tiết;
tự nghiên cứu: 10 tiết).
Hình thức học: Hướng dẫn từ xa qua forum, kết hợp giữa việc đọc, nghiên
cứu tài liệu với trao đổi, thảo luận, thực hành.
Thực hiện chương trình: Tư vấn Dự án Tăng cường khả năng sẵn sàng đi
học cho trẻ mầm non.
Đơn vị tổ chức thực hiện: Dự án Tăng cường khả năng sẵn sàng đi học
3


cho trẻ mầm non.
B. MỤC TIÊU
Người học được trang bị:
1. Về kiến thức
- Quan niệm về chất lượng và chất lượng trong giáo dục mầm non;
- Các mô hình quản lý chất lượng và công cụ quản lý chất lượng giáo dục;
- Kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non;
- Định hướng đổi mới quản lý chất lượng giáo dục trường mầm non;
- Các văn bản KĐCLGD trường mầm non.
2. Về kỹ năng
- Phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát;
- Làm việc độc lập, tư duy phản biện;
- Thảo luận nhóm, lãnh đạo nhóm.
3. Về thái độ
- Nhận thức đúng về công tác KĐCLGD trường mầm non, từ đó triển khai
công tác KĐCLGD trường mầm non có chất lượng;
- Chủ động, tích cực, sáng tạo để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà

trường, đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác quản lý giáo dục.
C. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Astin A.W (2004), Đánh giá chất lượng để đạt được sự hoàn hảo (Triết
lý và thực tiễn trong nhận xét và đánh giá chất lượng giáo dục đại học), Nxb Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2025), “Chuyên đề 3: Một số vấn đề về đào
tạo, bồi dưỡng, quản lý giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông”,
Một số vấn đề về đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông Tài liệu Lưu hành nội bộ, Hà Nội
3. Trần Thanh Bình, Hà Đức Vượng, Đỗ Anh Dũng, Nguyễn Đại Dương
(2010), Kiểm định chất lượng giáo dục phổ thông, Tài liệu bồi dưỡng của Trường
Cán bộ quản lý giáo dục TP. Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Hữu Châu và cộng sự (2008), Chất lượng giáo dục, những vấn
4


đề lý luận và thực tiễn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Nguyễn Đức Chính và cộng sự (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo
dục đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Lê Vinh Danh (2006), “Một số vấn đề lý luận về bảo đảm chất lượng
đào tạo trong giáo dục đại học” - Kỷ yếu Hội thảo bảo đảm chất lượng trong đổi
mới giáo dục đại học, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Kim Dung, Phạm Xuân Thanh (2003), “Về một số khái niệm
thường dùng trong bảo đảm chất lượng giáo dục đại học”, Tạp chí Giáo dục, Số 66,
Hà Nội.
8. Dự án SREM (2009), Giám sát, đánh giá trong trường học, Nxb Hà Nội.
9. Phạm Quang Huân (2010), Về quản lý chất lượng trong giáo dục phổ
thông hiện nay, theo Internet.
10. Lê Đức Ngọc (2009), “Tổng quan về đảm bảo và kiểm định chất lượng
giáo dục”, Tài liệu tập huấn tự đánh giá của cơ sở giáo dục phổ thông, Cục Khảo
thí và Kiểm định chất lượng giáo dục, Hà Nội.

11. Lưu Thanh Tâm (2003), Quản trị chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế,
Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
12. Phạm Xuân Thanh (2005), “Hai cách tiếp cận trong đánh giá chất lượng
giáo dục đại học” - Hội thảo Đánh giá chất lượng trong giáo dục đại học, Hà
Nội.
13. Phạm Xuân Thanh (2005), “Kiểm định chất lượng giáo dục đại học”,
Tạp chí Giáo dục, Số 115, Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Tuấn (2008), Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học,
theo Ykhoanet.

5


D. CÁC HOẠT ĐỘNG
Hoạt động 1. Chất lượng và chất lượng giáo dục mầm non
Thảo luận về những nội dung sau:
1. Các quan niệm về chất lượng và chất lượng giáo dục?
2. Quan niệm “chất lượng là mức độ đáp ứng mục tiêu”được hiểu như
thế nào?
3. Các yếu tố tạo nên chất lượng giáo dục trong một cơ sở giáo dục?
4. Các thành tố cơ bản của chất lượng giáo dục mầm non là gì?
Thông tin phản hồi
1. Chất lượng
Chất lượng luôn là một vấn đề quan trọng trong đời sống xã hội. Việc phấn
đấu không ngừng nâng cao chất lượng trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã
hội,… luôn được xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi tổ chức quản lý.
Tuy nhiên, chất lượng vẫn là một khái niệm khó đánh giá, khó xác định vì nó
luôn được xem xét từ những góc độ, bình diện khác nhau. Có nhiều cách hiểu về
chất lượng, dưới đây là một số cách hiểu tiêu biểu:
Theo khái niệm truyền thống về chất lượng, một sản phẩm có chất lượng

là sản phẩm được làm ra một cách hoàn thiện bằng các vật liệu quý hiếm và đắt
tiền, làm cho người sở hữu sản phẩm đó được tôn vinh và nổi tiếng. Cách hiểu
khá hạn hẹp về chất lượng như vậy đã nhanh chóng nhường chỗ cho những cách
hiểu khác rộng rãi, khái quát hơn về chất lượng.
Từ góc độ khái quát nhất - góc độ triết học, chất là phạm trù dùng để chỉ tính
quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc
tính làm cho sự vật đó là nó chứ không phải là cái khác. Chất của sự vật được biểu
hiện qua những thuộc tính cơ bản của nó và được quy định bởi phương thức liên kết
giữa các yếu tố tạo thành nó. Do vậy, sự thay đổi về chất của sự vật phụ thuộc vào cả
sự thay đổi các yếu tố cấu thành sự vật lẫn sự thay đổi phương thức liên kết giữa các
yếu tố ấy. Chất và lượng là một cặp phạm trù, không tách rời nhau, phụ thuộc vào
nhau theo quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng. Cặp phạm trù này quy định
6


sự khác biệt giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác, phản ánh quy
luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Khi lượng phát triển đến một mức
độ nhất định (điểm nút) sẽ tạo ra bước nhảy về chất; khi chất phát triển đến một mức
độ nào đó sẽ tạo ra sự phát triển về lượng.
Dựa vào quan niệm khái quát nhất này, nhiều định nghĩa về chất lượng sau
đó đã được triển khai theo những góc độ cụ thể hơn. Ví dụ:
- Cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc
(theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên).
- Chất lượng là mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt
đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ kiện, các thông số cơ bản (theo Oxford Poket
Dictionnary).
- Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ
thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên
quan (theo Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO).

- Chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thoả mãn
nhu cầu người sử dụng (theo Tiêu chuẩn Pháp NFX 50-109).
- Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho
thực thể (đối tượng) đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu
cầu tiềm ẩn (theo TCVN ISO 8402),…
Trong nhiều tài liệu, chúng ta có thể bắt gặp những cách hiểu khác hơn,
những cách diễn đạt khác hơn về “chất lượng”, chẳng hạn: “chất lượng là sự xuất
sắc bẩm sinh, tự nó là cái tốt nhất”; “chất lượng là sự phù hợp với các tiêu
chuẩn”; “chất lượng là sự phù hợp với mục đích sử dụng”; “chất lượng là cái tạo
nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, sự việc”,…
Theo phân tích của nhiều nhà nghiên cứu, không thể nói đến chất lượng
một cách chung chung, duy nhất mà trên thực tế, chất lượng là một khái niệm đa
chiều, bao hàm nhiều yếu tố, mang tính tương đối và chỉ có ý nghĩa đối với những
ai đánh giá nó ở thời điểm nào đó theo một chuẩn mực, mục đích nào đó; nghĩa là
chất lượng luôn có tính lịch sử cụ thể.
Dù sao, người ta vẫn thấy các quan niệm phổ biến vừa nhắc tới ở trên về chất
7


lượng tuy có chỗ khác nhau nhưng đều có chung một ý tưởng: nói tới chất lượng là
nói tới sự phù hợp, sự thoả mãn một yêu cầu, nhu cầu nào đó. Từ ý tưởng này, chúng
ta có thể xác định được những đặc điểm cơ bản của chất lượng là:
- Chất lượng được đo bởi sự thoả mãn nhu cầu. Nếu một sản phầm vì lý do
nào đó mà không được nhu cầu chấp nhận thì phải bị coi là không đạt chất lượng,
cho dù trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại. Đây là
một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà chất lượng định ra chính sách, chiến
lược kinh doanh của mình.
- Do chất lượng được đo bởi mức độ thoả mãn nhu cầu, mà nhu cầu luôn
luôn biến động nên chất lượng cũng luôn luôn biến động theo thời gian, không
gian, điều kiện sử dụng,…

- Các nhu cầu liên quan đến đánh giá chất lượng rất đa dạng, không chỉ là
nhu cầu của khách hàng mà còn là các yêu cầu mang tính pháp chế, nhu cầu của
cộng đồng xã hội.
- Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các quy định, tiêu
chuẩn nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử dụng
chỉ có thể cảm nhận chúng, hoặc có khi chỉ phát hiện được chúng trong quá
trình sử dụng.
- Chất lượng không chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hoá hiểu theo
nghĩa hẹp; chất lượng còn là thuộc tính của một hệ thống, một quá trình,…
Theo những đặc điểm trên, quan niệm cho rằng “chất lượng là mức độ đáp
ứng mục tiêu” hiện đang là một trong những quan niệm được phổ biến và sử dụng
rộng rãi nhất. Trong tài liệu Quản lý chất lượng tổng thể, Bộ Thương mại và
Công nghiệp Anh chính thức cho rằng: “Chất lượng đơn giản là đáp ứng được các
yêu cầu của khách hàng”; còn ở Úc, định nghĩa về chất lượng được nhiều người
đồng tình và sử dụng nhất là định nghĩa: “Chất lượng là sự đánh giá về mức độ
đạt được của các đặc điểm mong muốn từ các hoạt động và kết quả có được theo
một số chuẩn mực và đối chiếu với một số tiêu chí hay mục tiêu cụ thể nào
đó”,…
Trong tài liệu này, chúng ta có thể chấp nhận và hiểu một cách khái quát:
8


“Chất lượng là mức độ đáp ứng mục tiêu”. Mục tiêu ở đây được hiểu một cách
rộng rãi, bao gồm các sứ mạng, mục đích,…còn sự phù hợp với mục tiêu được
hiểu là sự đáp ứng mong muốn của những người quan tâm, là đạt/không đạt hay
vượt qua các tiêu chuẩn đặt ra,…
Thời gian gần đây, nhiều người đã cụ thể hoá một bước quan niệm này và
theo đó, chất lượng được hiểu là “một khái niệm có ý nghĩa đối với những người
hưởng lợi tuỳ thuộc vào quan niệm của những người đó tại một thời điểm nhất
định và theo các mục đích, mục tiêu đã được đề ra vào thời điểm đó; là sự đáp

ứng với mục tiêu đã đặt ra và mục tiêu đó phải phù hợp với yêu cầu phát triển của
xã hội”.
2. Chất lượng giáo dục
2.1. Quan niệm về chất lượng giáo dục
Chất lượng giáo dục là một vấn đề luôn được xã hội quan tâm vì tầm quan
trọng của nó đối với sự nghiệp phát triển đất nước nói chung, sự nghiệp phát triển
giáo dục nói riêng. Mọi hoạt động giáo dục được thực hiện đều hướng tới mục
đích góp phần đảm bảo, nâng cao chất lượng giáo dục; một nền giáo dục ở bất kỳ
quốc gia nào bao giờ cũng phải phấn đấu để trở thành một nền giáo dục chất
lượng cao. Những nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học quốc tế dựa trên số
liệu thống kê hàng chục năm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy những bằng
chứng xác thực, thuyết phục về mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng giáo dục
và tăng trưởng kinh tế nói riêng, phát triển xã hội nói chung.
Thật ra, mối quan hệ nhân quả này khá đơn giản: những người có hiểu biết,
có kỹ năng, tay nghề cao là những người làm việc có hiệu quả, vì thế thường có
thu nhập cao. Khi người dân của một nước có hiểu biết, có những kỹ năng được
cập nhật phù hợp, có năng lực sáng tạo, năng nổ, thích ứng nhanh với sự thay
đổi,… thì ở nước đó có sự phát triển bền vững về kinh tế và xã hội. Như vậy, một
hệ thống giáo dục có chất lượng là hệ thống giúp đào tạo ra những con người có
những phẩm chất như trên. Tuy nhiên, cho đến nay, việc nhận thức bản chất của
khái niệm chất lượng giáo dục, cách tiến hành xem xét để tìm ra các giải pháp
nâng cao chất lượng giáo dục với đầy đủ phương pháp, quy trình đánh giá một
9


cách khoa học, phù hợp với thực tiễn phát triển của xã hội, của giáo dục trong
một hoàn cảnh cụ thể, trên thực tế vẫn chưa được mọi thành viên của hệ thống
giáo dục (cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, học sinh,…) thấu hiểu và quán
triệt một cách thống nhất. Khắc phục thiếu sót trên là một yêu cầu cấp bách của
nền giáo dục nước nhà.

Hiện nay, trên thế giới vẫn đang tồn tại khá nhiều quan niệm khác nhau về
chất lượng giáo dục. Từ quan niệm “Chất lượng là mức độ đáp ứng mục tiêu”, có
thể hiểu “Chất lượng giáo dục là mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục”. Ở đây, mục
tiêu giáo dục được hiểu một cách toàn diện, bao gồm cả triết lý giáo dục, định
hướng, mục đích của cả hệ thống giáo dục và sứ mệnh, các nhiệm vụ chiến
lược,… của các cơ sở giáo dục, thể hiện những đòi hỏi của xã hội đối với con
người - nguồn nhân lực - mà giáo dục có nhiệm vụ phải đào tạo.
Khi nói đến chất lượng, người ta thường nói đến sự nỗ lực không ngừng cải
thiện các sản phẩm và dịch vụ dành cho khách hàng cùng với những cải tiến trong
phương pháp hành động nhằm tạo ra những đầu ra mong muốn, thoả mãn các yêu
cầu về giá cả, chức năng, độ bền, sử dụng thuận lợi,... Tuy nhiên, hàng hoá, sản
phẩm trong sản xuất kinh doanh là những vật thể hiện thực được sản xuất theo
cùng một quy trình; quy trình đó sẽ cho ra những sản phẩm hoàn toàn giống nhau,
và người ta có thể đánh giá chất lượng những sản phẩm đó một cách tương đối dễ
dàng bằng cách cân, đong, đo, đếm, nếm, thử,…
Trong lĩnh vực giáo dục, sản phẩm của quá trình giáo dục - đào tạo lại là
con người với tổng hoà những chuẩn mực về nhân cách, trình độ, kỹ năng, đạo
đức,… hết sức đa dạng, phức tạp và luôn biến động, phát triển. Tuy các cá thể
người học có chung một chế độ xã hội, một thể chế chính trị, một môi trường đào
tạo, thậm chí học chung một trường, một lớp,… nhưng sự phát triển nhân cách
của họ hoàn toàn khác nhau vì động cơ, thái độ, năng lực, bản lĩnh, điều kiện,…
của họ khác nhau. Bằng cách nào đi nữa, nhà trường cũng không thể tạo ra những
con người hoàn toàn giống nhau, và dù có tạo ra được thì đó cũng không phải
mục tiêu mà một nền giáo dục tiên tiến hướng đến.
Từ góc độ tâm lý - giáo dục, có thể hiểu chất lượng giáo dục là chất lượng
10


của nhân cách được đào tạo và cũng là chất lượng của quá trình đào tạo nhân
cách. Theo quan niệm này, nói đến chất lượng giáo dục là nói đến sự phát triển

các năng lực phẩm chất của cá nhân và hiệu quả tham gia của họ vào các lĩnh vực
hoạt động học tập, lao động, văn hoá, thể thao, chính trị - xã hội,… nhằm ổn định
và phát triển xã hội. Để có chất lượng giáo dục phải dựa vào cơ sở tri thức mà
loài người đã tích luỹ được trong các quá trình phát triển lịch sử, tổ chức tốt quá
trình sư phạm trong và ngoài nhà trường, đồng thời tích cực phát huy các tiềm
năng của mỗi cá nhân.
Từ góc độ lý luận dạy học, một số tác giả cho rằng chất lượng giáo dục là
mức độ kết quả của một quá trình học tập so với mục đích giáo dục. Mục đích
cuối cùng của giáo dục là phát triển các cá thể - người học trở thành những con
người xã hội, biết thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, biết lao động
tự nuôi sống mình, đem lại các lợi ích, giá trị cho bản thân, gia đình, xã hội. Mặt
khác, giáo dục tạo ra nguồn nhân lực được đào tạo để kế thừa, cải tạo, phát triển
chính xã hội đó. Vì vậy, chất lượng giáo dục được hiểu là mức độ kết quả học tập
đạt được so với mục đích phát triển cá nhân và tạo nguồn nhân lực cho xã hội.
Nói cách khác, chất lượng giáo dục là những lợi ích, giá trị mà kết quả học tập
đem lại cho cá nhân, xã hội trước mắt và lâu dài, theo mục đích cuối cùng của
giáo dục.
Từ góc độ quản lý giáo dục, chất lượng giáo dục thường được hiểu theo
nghĩa rộng và đa dạng hơn, liên quan đến tất cả các yếu tố cơ bản của hệ thống
giáo dục. Theo đó Chất lượng của hệ thống giáo dục là mức độ đáp ứng mục tiêu
của hệ thống giáo dục. Mục tiêu của hệ thống giáo dục là đạt đến một hệ thống
với các thành phần đều vận hành một cách hiệu quả để tạo nên được những sản
phẩm (con người được giáo dục) đáp ứng các chuẩn mực và giá trị.
2.2. Các thành tố cơ bản tạo nên chất lượng giáo dục
Trong nhiều năm qua, UNESCO đã tiến hành phân tích hệ thống giáo dục
của khoảng 200 nước và khu vực. Theo đó, hệ thống giáo dục thường được mô tả
qua các yếu tố cơ bản sau:
- Điều kiện kinh tế - xã hội
11



- Nguyên tắc và mục tiêu giáo dục
- Những ưu tiên và các mối quan tâm
- Luật và các chính sách
- Cấu trúc và tổ chức hệ thống
- Quản lý hệ thống
- Tài chính giáo dục
- Các điều kiện vật chất cho giáo dục
- Người học và người dạy
Có thể xem xét để kết hợp các yếu tố này vào một khung chung gồm bốn
thành phần cơ bản sau đây:
2.2.1. Điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục (đầu vào):
Các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục hay còn gọi là “đầu vào” là
các yếu tố nguồn lực tác động và phục vụ cho hoạt động dạy - học như cơ chế
chính sách; cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, trẻ; chương trình giáo dục;
nguồn tài chính, các nguồn thu; cơ sở vật chất, kỹ thuật, học liệu, trang thiết
bị,... Những yếu tố đó ánh hưởng đến chất lượng giáo dục của nhà trường.
2.2.2. Quá trình giáo dục:
Bao gồm các yếu tố như quản lý các hoạt động giáo dục; hoạt động thực
hiện chương trình giáo dục; hoạt động quản lý hành chính; hoạt động thông tin;
hoạt động dạy học của giáo viên; các hoạt động của trẻ,...
2.2.3. Kết quả giáo dục (đầu ra):
Kết quả giáo dục của nhà trường là kết quả nuôi dưỡng, chăm sóc, năng lực
và phẩm chất của trẻ,... Những kết quả giáo dục phải đáp ứng yêu cầu của xã hội
và mục tiêu giáo dục.
2.2.4. Bối cảnh:
Bối cảnh là môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tôn giáo, khoa
học - công nghệ, văn hóa địa phương; các đặc điểm của nhà trường (môi trường
sư phạm) nơi diễn ra hoạt động giáo dục và các xu thế của thời đại,... Các yếu tố
này có thể tạo thuận lợi, hoặc gây khó khăn cho hoạt động dạy - học và để quản

lý hiệu quả hoạt động dạy học chúng ta cần lưu ý tới các yếu tố này. Cần xem xét
bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tôn giáo, khoa học - công nghệ,... của
12


địa phương; cần có biện pháp nắm bắt khả năng tham gia giáo dục của cha mẹ trẻ,
cộng đồng với thái độ cụ thể như thế nào,...
Mỗi nhà trường có các loại hình khác nhau (công lập, dân lập, tư thục,..)
và các vùng miền (nông thôn, thành thị, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,
vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số,...) có sứ mạng khác nhau, dẫn đến mục
tiêu của các nhà trường cũng khác nhau. Mỗi nhà trường phải xác định được sứ
mạng và mục tiêu cho chính mình; sứ mạng và mục tiêu đó phải phù hợp với
yêu cầu của xã hội và điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
Như vậy, thành phần cơ bản tạo nên chất lượng giáo dục mầm non bao gồm
“Đầu vào”, “Quá trình giáo dục”, “Đầu ra” và “Bối cảnh”. Sản phẩm giáo dục của
một nhà trường được xét trong mối quan hệ tổng hoà giữa các yếu tố đầu vào, quá
trình giáo dục, đầu ra và được đặt trong bối cảnh cụ thể (xem Sơ đồ 1).
Bối cảnh

Đầu vào

Quá trình
giáo dục

Đầu ra

Sơ đồ 1: Các thành phần chất lượng cơ bản của hệ thống giáo dục
Tóm lại, cũng như khái niệm chất lượng, khái niệm chất lượng giáo dục
không nên hiểu một cách đơn giản, phiến diện, bất biến. Cách tiếp cận hợp lý
nhất hiện nay là xem chất lượng giáo dục như một khái niệm mang tính tương

đối, động, đa chiều; với những người ở các cương vị khác nhau có thể có các ưu
tiên khác nhau khi xem xét khái niệm đó. Ví dụ: Đối với người dạy và người học,
ưu tiên của khái niệm chất lượng giáo dục phải là quá trình các hoạt động giáo
dục, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình dạy học.
3. Chất lượng của giáo dục mầm non
Từ quan niệm “Chất lượng giáo dục là mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục”,
có thể hiểu “Chất lượng giáo dục mầm non là mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục
mầm non”; “Chất lượng cơ sở giáo dục mầm non là mức độ đáp ứng của cơ sở
13


giáo dục mầm non đối với các yêu cầu về mục tiêu giáo dục mầm non được quy
định theo Luật Giáo dục”. Hiện nay, ở Việt Nam, quan niệm này đã được đông
đảo các nhà nghiên cứu, quản lý giáo dục chấp nhận.
Điều 22, Luật Giáo dục (2005) quy định: “Mục tiêu của giáo dục mầm non
là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những
yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một”.
Như vậy, xã hội đã đặt ra những yêu cầu về chất lượng chăm sóc, giáo dục
trẻ mầm non và đòi hỏi ngành giáo dục phải đáp ứng được mục tiêu đó. Một
trường chỉ được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng khi mà trường đó đáp ứng
được các yêu cầu của xã hội và các mục tiêu theo quy định.
Để bảo đảm chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ, mỗi nhà
trường cần quản lý tốt chất lượng “Đầu vào”, quản lý tốt quá trình hoạt động giáo
dục, quản lý tốt chất lượng “Đầu ra” và luôn chú ý đến sự tác động của yếu tố bối
cảnh cụ thể. Trong các yếu tố nói trên thì những vấn đề sau đây cần được đặc biệt
quan tâm:
3.1. Nội dung, phương pháp và chương trình giáo dục mầm non
3.1.1. Các yêu cầu của nội dung, phương pháp giáo dục mầm non
Luật Giáo dục cũng xác định những yêu cầu về nội dung, phương pháp
giáo dục mầm non: Nội dung giáo dục mầm non phải bảo đảm phù hợp với sự

phát triển tâm sinh lý của trẻ em, hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo
dục; giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn; biết kính
trọng, yêu mến, lễ phép với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo và người trên;
yêu quý anh, chị, em, bạn bè; thật thà, mạnh dạn, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp;
ham hiểu biết, thích đi học.
Phương pháp giáo dục mầm non chủ yếu là thông qua việc tổ chức các
hoạt động vui chơi để giúp trẻ em phát triển toàn diện; chú trọng việc nêu gương,
động viên, khích lệ.
Như vậy, xã hội đã đặt ra những yêu cầu về chất lượng chăm sóc, giáo dục
trẻ mầm non và đòi hỏi ngành giáo dục phải đáp ứng được mục tiêu đó. Một
trường chỉ được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng khi mà trường đó đáp ứng
được yêu cầu của xã hội.
14


3.1.2. Chương trình giáo dục mầm non
Theo Nguyễn Hữu Chí (2002): “Chương trình giáo dục là sự trình bày có
hệ thống một kế hoạch tổng thể các hoạt động giáo dục trong một thời gian xác
định, trong đó nêu lên các mục tiêu học tập mà người học cần đạt được, đồng thời
xác định rõ phạm vi, mức độ nội dung học tập, các phương tiện, phương pháp,
cách thức tổ chức học tập, các cách đánh giá kết quả học tập,… nhằm đạt được
mục tiêu học tập đã đề ra”.
Điều 6, Luật Giáo dục (2005) đã quy định nội dung cơ bản của chương
trình giáo dục là:
“1. Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu giáo dục; quy định chuẩn kiến
thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức
tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn
học ở mỗi lớp, mỗi cấp học hoặc trình độ đào tạo.
2. Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính
thống nhất; kế thừa giữa các cấp học, các trình độ đào tạo và tạo điều kiện cho

sự phân luồng, liên thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo
và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.
3. Yêu cầu về nội dung kiến thức và kỹ năng quy định trong chương trình
giáo dục phải được cụ thể hoá thành sách giáo khoa ở giáo dục phổ thông, giáo
trình và tài liệu giảng dạy ở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, giáo dục
thường xuyên. Sách giáo khoa, giáo trình và tài liệu giảng dạy phải đáp ứng yêu
cầu về phương pháp giáo dục.
4. Chương trình giáo dục được tổ chức thực hiện theo năm học đối với giáo
dục mầm non và giáo dục phổ thông; theo năm học hoặc theo hình thức tích luỹ
tín chỉ đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học…”
Điều 24, Luật Giáo dục (2005) quy định:
“Chương trình giáo dục mầm non thể hiện mục tiêu giáo dục mầm non; cụ
thể hóa các yêu cầu về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở từng độ tuổi; quy
định việc tổ chức các hoạt động nhằm tạo điều kiện để trẻ em phát triển về thể
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ; hướng dẫn cách thức đánh giá sự phát triển của
trẻ em ở tuổi mầm non.
15


3.2. Giáo viên và cán bộ quản lý
Vai trò và trách nhiệm của giáo viên và cán bộ quản lý đã được quy định
tại Điều 15 và Điều 16, Luật Giáo dục (2005):
“Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục.
Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học. Nhà
nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng, đãi ngộ, bảo
đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện vai trò
và trách nhiệm của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo,
tôn vinh nghề dạy học”.
“Cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, quản lý,
điều hành các hoạt động giáo dục. Cán bộ quản lý giáo dục phải không ngừng học

tập, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và
trách nhiệm cá nhân. Nhà nước có kế hoạch xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản
lý giáo dục, bảo đảm phát triển sự nghiệp giáo dục”.
Làm thế nào để phát huy vai trò, trách nhiệm của giáo viên và cán bộ quản
lý theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành trung ương Đảng
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ?
Trước hết cần xác định được mục tiêu, các giải pháp chính của việc xây
dựng, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý.
Mục tiêu việc xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
trong đổi mới giáo dục là xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản
lý theo hướng chuẩn hóa; bảo đảm chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cáu;
đặc biệt chú trọng tăng cường và phát triển năng lực chuyên môn, nghiệp vụ,
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp; bổ sung kịp thời các
kiến thức, kỹ năng, phương pháp, các kỹ thuật quản lý, giáo dục, dạy học mới,
giúp đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục hoàn thành tốt nhiệm vụ của
nhà trường, đáp ứng triển khai tốt đổi mới giáo dục mầm non.
Giáo viên mầm non là người trực tiếp thực hiện các ý tưởng của chương
trình giáo dục, khích lệ cho trẻ hoạt động nhằm đạt các mục tiêu giáo dục, đóng
16


vai trò quan trọng trong việc thiết kế các giờ học, tạo ra nguồn thông tin phản hồi
cho lãnh đạo cơ sở giáo dục và các cơ quan chỉ đạo cấp trên, là tấm gương đạo
đức, tự học và sáng tạo, giáo viên luôn luôn được đánh giá là thành tố, là động lực
quan trọng hàng đầu của quá trình dạy học. Do vậy chất lượng giáo viên có ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục trong nhà trường.
Theo quan niệm “Chất lượng giáo dục là mức độ đáp ứng mục tiêu giáo
dục”, chất lượng giáo viên phải được thể hiện ở sự đáp ứng được những xu hướng
đổi thay và thách thức mà ngành giáo dục đã đặt ra. Ngày nay, nghề dạy học đã

có những thay đổi rất lớn, thể hiện ở những xu hướng cơ bản sau đây:
(1) Đảm nhiệm nhiều chức năng hơn trong quá trình dạy học, đảm nhiệm
trách nhiệm cao hơn trong việc xác định và lựa chọn, thiết kế nội dung dạy học;
(2) Chuyển từ nhiệm vụ truyền thụ kiến thức sang việc tổ chức các hoạt
động vui chơi để giúp trẻ em phát triển toàn diện; chú trọng việc nêu gương, động
viên, khích lệ;
(3) Cá biệt hoá việc học tập của trẻ;
(4) Sử dụng rộng rãi và phổ biến những phương tiện, kỹ thuật dạy học hiện
đại, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông trong dạy học;
(5) Tăng cường sự hợp tác trên nhiều mặt với các giáo viên khác;
(6) Tăng cường và thay đổi mối quan hệ, cách làm việc với cha mẹ trẻ và
các tổ chức xã hội, tích cực tham gia vào đời sống cộng đồng,...
Các xu hướng trên đã quyết định sự thay đổi chức năng của giáo viên, do
đó dẫn đến những yêu cầu mới đối với người giáo viên. Ngoài các yêu cầu về tư
tưởng, đạo đức, để hoàn thành được sứ mệnh của mình, người giáo viên ngày nay
cần có các năng lực cơ bản sau:
(1) Năng lực chẩn đoán nhằm phát hiện và nhận biết đầy đủ, chính xác, kịp
thời sự phát triển của trẻ, những nhu cầu được giáo dục của từng trẻ;
(2) Năng lực đáp ứng để đưa ra được những nội dung, biện pháp giáo dục
đúng đắn, kịp thời, phù hợp với nhu cầu của người học và yêu cầu của mục tiêu
giáo dục;
(3) Năng lực đánh giá để nhìn nhận kết quả sự thay đổi trong nhận thức, kỹ
17


năng, thái độ và tình cảm của trẻ;
(4) Năng lực triển khai chương trình dạy học: năng lực tiến hành dạy học
và giáo dục căn cứ vào mục tiêu, nội dung giáo dục đã quy đinh nhưng phù hợp
với đặc điểm của đối tượng học;
(5) Năng lực đánh giá nhằm hướng dẫn cách thức đánh giá sự phát triển

của trẻ em ở tuổi mầm non;
(6) Năng lực đáp ứng trách nhiệm xã hội để tạo nên những điều kiện thuận
lợi cho giáo dục trong và ngoài nhà trường,...
Như vậy, chất lượng giáo viên hiện nay không chỉ được giới hạn ở việc dạy
được các môn học trong nhà trường mà còn phải đảm nhiệm được sứ mệnh của
một nhà giáo dục: xây dựng tính cách, thái độ tích cực và tạo dựng các giá trị cho
trẻ và thực hiện được các nhiệm vụ giáo dục khác.
Xuất phát từ mục tiêu và các yêu cầu đối với giáo viên và cán bộ quản lý
như trên, sự cần thiết thực hiện đầy đủ các giải pháp sau:
(1) Xây dựng quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
và cán bộ quản lý gắn với quy hoạch phát triển giáo dục của từng địa phương và
cả nước; đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non và nhu cầu phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Khắc phục tình
trạng phân tán các cơ sở đào tạo nhà giáo; tập trung xây dựng một số trường sư
phạm, trường sư phạm kỹ thuật trọng điểm; điều phối hệ thống trường sư phạm
theo mục tiêu, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý trên phạm
vi cả nước. Có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển riêng để chọn được những người
thực sự có phẩm chất, năng lực phù hợp vào ngành sư phạm;
(2) Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo,
đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo, cán bộ
quản lý theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức nhà giáo, cán bộ
quản lý và năng lực nghề nghiệp gắn với mục tiêu và nhiệm vụ đổi mới giáo dục
mầm non;
(3) Thực hiện chuẩn hóa độ ngũ nhà giáo theo chuẩn nghề nghiệp, tiêu
chuẩn chức danh bậc học mầm non và chuẩn trình độ đào tạo;
18


(4) Tiếp tục hoàn thiện chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý
cho phù hợp với tình hình đổi mới;

(5) Có chính sách hỗ trợ và khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
3.3. Môi trường sư phạm
3.3.1. Khái niệm
3.3.1.1. Khái niệm về môi trường
Có nhiều quan niệm khác nhau về môi trường:
- Xem xét môi trường từ vị trí của một cá nhân; theo đó môi trường được
quan niệm là một hệ thống gồm nhiều cá nhân hoặc nhiều nhóm mà một cá nhân
nhất định có tiếp xúc. “Chúng tôi gọi môi trường xã hội của một người là toàn bộ
các nhóm và các cá nhân mà trong suốt cuộc đời mình, người đó tiếp xúc riêng tư
hay công khai trước công chúng, tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp, thoáng qua hay
lâu dài, giữa cá nhân với cá nhân hay thông qua sự vật” (F. Znaniecki).
- Môi trường như một hệ thống những trạng thái của sự vật, những hiện
tượng, những quan hệ và quá trình tự tại, riêng biệt trong một không gian nhất
định; theo đó chúng ta có những môi trường địa phương (nông thôn, thành thị…),
những môi trường nghề nghiệp (nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp,…),
những môi trường văn hoá (văn học, nghệ thuật, khoa học,…),...
- Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con
người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con
người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế…
3.3.1.2. Khái niệm về môi trường sư phạm
Cũng có nhiều quan niệm khác nhau về môi trường sư phạm:
- Môi trường sư phạm là tập hợp phức tạp các yếu tố khác nhau (vật chất,
gia đình, xã hội, nghề nghiệp,…) và các giá trị khác nhau (trí tuệ, tình cảm, thẩm
mĩ, văn hoá, đạo đức, tôn giáo,…) tác động đến hoạt động dạy - học.
- Môi trường sư phạm là một hoàn cảnh bao gồm các tình huống, cá nhân,
lý tưởng, hệ thống, tập quán, sự kiện,… trong đó hoạt động sư phạm tồn tại và
phát triển.
19



- Môi trường sư phạm là một hệ thống gồm bất kỳ những nhân tố kích thích
hay những ảnh hưởng nào có phương hướng nhằm đạt những mục tiêu giáo dục
nhất định.
3.3.2. Mối quan hệ giữa môi trường và môi trường sư phạm
Rõ ràng là trong những môi trường khác nhau (nông thôn hay thành thị, các
vùng còn thuần nông nghiệp hay đang trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị
hoá,…), môi trường sư phạm của các cơ sở giáo dục cũng không giống nhau.
Tuy cùng một loại hình trường (công lập hay tư thục, …) nhưng trên thực
tế, các trường lại khác nhau về nhiều mặt: chúng là những yếu tố của những cộng
đồng xã hội khác nhau, có những học sinh với những thành phần khác nhau, khác
nhau ở những vấn đề cần phải giải quyết; để giải quyết những vấn đề đó, chúng
có những lực lượng và phương tiện khác nhau,… Ví dụ: tình hình không gian và
tầm cỡ của một xã có ảnh hưởng nhất định đến quy mô của các cơ sở giáo dục,
cũng như sẽ quy định cơ cấu, chất lượng của học sinh theo học tại cơ sở giáo dục
đó.
Môi trường sư phạm là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng giáo
dục, do vậy cần được chú ý đánh giá đúng mức.
Hoạt động 2. Các mô hình quản lý chất lượng và công cụ quản lý chất lượng
giáo dục
Thảo luận những nội dung sau:
1. Các mô hình quản lý chất lượng? Ưu điểm và nhược điểm của mô của
từng mô hình quản lý chất lượng?
2. Các công cụ quản lý chất lượng giáo dục? Để quản lý hiệu quả chất
lượng giáo dục trường mầm non, nên sử dụng công cụ nào?
Thông tin phản hồi
Với sự phát triển của xã hội loài người, công nghiệp và dịch vụ ngày càng
phát triển, hàng hoá được sản xuất ngày càng nhiều, con người ngày càng quan
tâm đến chất lượng và muốn có các mặt hàng tốt hơn, muốn được phục vụ tốt
hơn; chất lượng đã trở thành yếu tố cạnh tranh vô cùng quan trọng và hơn bao giờ

hết, nó khiến các doanh nghiệp ngày càng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của
việc đưa chất lượng vào nội dung quản lý của mình. Chính vì lẽ đó mà khoa học
20


quản lý chất lượng được hình thành, trước hết ở trong công nghiệp, sau đó được
đưa vào áp dụng trong các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ khác.
Quản lý nói chung là những hoạt động liên quan đến tổ chức, kiểm soát và
điều phối các nguồn lực để đạt mục tiêu. Quản lý chất lượng là hoạt động tổ chức,
kiểm soát và phân bổ các nguồn lực để đạt được những mục tiêu chất lượng.
Quản lý chất lượng được hình thành dựa trên nhu cầu ngăn chặn, loại trừ những
lỗi hay thiếu sót trong chế biến, sản xuất sản phẩm.
Trong nhiều tài liệu phổ biến hiện nay, các mô hình quản lý chất lượng
được nhắc đến nhiều nhất là: Kiểm soát chất lượng (Quality Control), Bảo đảm
chất lượng (Quality Assurance) và Quản lý chất lượng tổng thể (Total Quality
Management).
1. Các mô hình quản lý chất lượng
1.1. Kiểm soát chất lượng
Kiểm soát chất lượng là thuật ngữ lâu đời nhất về mặt lịch sử. Theo định
nghĩa, kiểm soát chất lượng là những hoạt động như đo, xem xét, thử nghiệm,
định cỡ một hay nhiều đặc tính của đối tượng và so sánh kết quả với yêu cầu
nhằm xác định sự phù hợp của mỗi đặc tính. Như vậy kiểm soát chỉ là một sự
phân loại sản phẩm đã được chế tạo, một cách xử lý "chuyện đã rồi". Nó là công
đoạn xảy ra sau cùng: khi sản phẩm đã được làm xong mới tính tới việc loại bỏ
hoặc từ chối những hạng mục hay sản phẩm có lỗi. Việc làm này thường kéo theo
lãng phí tương đối lớn vì phải loại bỏ hay làm lại các sản phẩm không đạt yêu
cầu, đặc biệt khi mở rộng quy mô sản xuất và vẫn không tránh được những lỗi,
thiếu sót trong sản xuất.
Nhìn chung, kiểm soát chất lượng là một quá trình, trong đó một sản phẩm
hay một dịch vụ, hoặc bất cứ bộ phận nào trong quá trình có liên quan đến việc

sản xuất hay vận chuyển sản phẩm, được kiểm tra theo một tiêu chuẩn đã được
định trước và sẽ bị loại bỏ hay làm lại nếu như nó dưới chuẩn đó. Nói cách khác,
kiểm soát chất lượng tập trung vào việc theo dõi lại các lỗi trong quá khứ. Kiểm
soát chất lượng trong môi trường sản xuất là “một phương thức cần thiết cho việc
thanh tra và loại bỏ, những sản phẩm có khiếm khuyết (mặc dù có một số phương
pháp thống kê của lý thuyết này có thể được sử dụng nhằm tránh khả năng có các
21


sản phẩm này)” (Freeman, 1994).
Russo (1995) định nghĩa kiểm soát chất lượng như “một quá trình thanh tra
mà ở đó mỗi một sản phẩm, hay một mẫu sản phẩm, được kiểm soát.” Theo
Russo, đặc điểm chủ yếu trong kiểm soát chất lượng là “quá trình này không
nhằm vào gốc rễ của vấn đề. Kiểm soát chất lượng chỉ giải quyết các vấn đề sau
khi chúng bị phát hiện”.
Theo Vroeijenstijn (1992), kiểm soát chất lượng là việc tóm tắt các thông
tin và hàm ý là sẽ có các quyết định trừng phạt hay khen thưởng. Kiểm soát chất
lượng “vốn dĩ là nhằm trừng phạt, áp đặt các hình phạt cho việc làm thiếu hiệu
quả, nhưng đồng thời nó cũng cho thấy rằng một khi sản phẩm đã đạt được mức
độ tối thiểu thì không cần phải nỗ lực để cải tiến” (Vroeijenstijn, 1992). Do đó,
kiểm soát chất lượng là các hoạt động và kỹ thuật mang tính tác nghiệp được sử
dụng để đáp ứng các yêu cầu chất lượng, liên quan đến việc chấp nhận hay từ
chối một sản phẩm.
Để kiểm soát chất lượng, tổ chức/doanh nghiệp phải kiểm soát được mọi
yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tạo ra chất lượng. Việc kiểm soát này
nhằm ngăn ngừa sản xuất ra sản phẩm khuyết tật. Nói chung, kiểm soát chất
lượng là kiểm soát các yếu tố sau đây: con người; phương pháp và quá trình; đầu
vào; thiết bị; môi trường,…
Phù hợp quan niệm đó về kiểm soát chất lượng, chất lượng có thể được
hiểu như sau:

- Đánh giá về mức độ mà các đặc điểm của sản phẩm đáp ứng được các
yêu cầu mà ngay từ đầu một quy trình sản suất đã quy định; hoặc:
- Mức độ mà một sản phẩm đáp ứng được yêu cầu về các đặc điểm mà một
sản phẩm phải có theo các tiêu chí cố định nào đó; hoặc:
- Đánh giá về mức độ mà một sản phẩm phải được các thanh tra viên
chấp nhận.
Kiểm soát chất lượng là hình thức quản lý chất lượng đã được sử dụng lâu
đời nhất, được thực hiện ở khâu cuối cùng trong quá trình sản xuất /đào tạo nhằm
phát hiện và loại bỏ toàn bộ hay từng phần sản phẩm cuối cùng không đạt các
chuẩn mực chất lượng (ví dụ không đạt các thông số kỹ thuật). Đây là quá trình
xảy ra sau khi sản phẩm đã được tạo ra, nên nếu phải loại bỏ sản phẩm sẽ dẫn đến
22


lãng phí nguyên vật liệu, thời gian và công sức.
Chất lượng đề nghị

Cơ chế quản lý

Quá trình

Phương pháp làm việc

Kiểm soát chất lượng

Các nguồn lực

Sản phẩm

Loại bỏ sản phẩm kém


Nhận thức của khách hàng

Sơ đồ 2: Quá trình kiểm soát chất lượng
1.2. Bảo đảm chất lượng
Bảo đảm chất lượng là mô hình quản lý hướng đến việc phòng chống những
sai phạm có thể xảy ra ngay từ bước đầu tiên. Chất lượng của sản phẩm được quản
lý ngay trong quá trình sản xuất ra nó từ khâu đầu đến khâu cuối theo những tiêu
chuẩn nghiêm ngặt, đảm bảo không có sai phạm trong bất kỳ khâu nào.
Theo Russo (1995), bảo đảm chất lượng là sự “xem xét các quá trình được
sử dụng nhằm kiểm soát và sản xuất sản phẩm hay các dịch vụ và nhằm tránh các
phế phẩm. Nếu như chúng ta có hệ thống bảo đảm chất lượng, sẽ tránh đi việc có
thể có các phế phẩm”.
Theo Freeman (1994), bảo đảm chất lượng là “một cách tiếp cập mà công
nghiệp sản xuất sử dụng nhằm đạt được chất lượng tốt nhất… Bảo đảm chất
lượng là một cách tiếp cận có hệ thống nhằm xác định nhu cầu thị trường và điều
chỉnh các phương thức làm việc nhằm đáp ứng được các nhu cầu đó”. Theo cách
hiểu này, bảo đảm chất lượng là một cách tiếp cận việc tổ chức công việc, nhằm
đảm bảo rằng:
- Sứ mạng và mục đích của tổ chức được tất cả mọi người trong tổ chức
23


biết một cách rõ ràng (sự phổ biến, sự minh bạch);
- Hệ thống mà theo đó công việc được thực hiện là được suy tính cẩn thận,
rõ ràng và được truyền đạt đến tất cả mọi người (có kế hoạch);
-Tất cả mọi người đều biết rõ trách nhiệm của mình (tính tự chịu trách nhiệm);
- Cái mà tổ chức cho là chất lượng đều được định nghĩa rõ ràng và có lưu
trữ lại trong tài liệu của tổ chức (sự đồng tâm);
Không giống như kiểm soát chất lượng, bảo đảm chất lượng phải diễn ra

trước và trong quá trình hoạt động nhằm tránh lỗi và dựa rất nhiều vào việc công
khai các hoạt động.
Chất lượng đề nghị

Hệ thống ĐBCL

Cơ chế quản lý

Quá trình

Phương pháp làm việc

Các nguồn lực

Hệ thống sửa lỗi

Sản phẩm

Nhận thức của khách hàng

Sơ đồ 3: Bảo đảm chất lượng như một hệ thống tránh lỗi ngay từ đầu
Một hệ thống bảo đảm chất lượng hiệu quả là một hệ thống có thể cho phép
phòng tránh, tìm ra và sửa các lỗi có thể xảy ra trong cả quá trình. Nó được thiết kế
nhằm hỗ trợ một tổ chức đạt được các mục tiêu đã được đề ra. Freeman (1994) gọi
bảo đảm chất lượng là một hệ thống học tập và tự sửa lỗi: “nó thay đổi để thể hiện các
nhu cầu đang thay đổi”. Bảo đảm chất lượng, do đó, vượt khỏi việc chỉ chấp nhận hay
loại bỏ sản phẩm. Người ta mong muốn rằng hệ thống này được thiết kế một cách
mềm dẻo và dễ thay đổi theo môi trường đang không ngừng thay đổi. Theo Freeman,
để làm cho việc thay đổi được diễn ra thuận lợi hơn, cần thiết phải có việc sửa các lỗi
trong một hệ thống bảo đảm chất lượng. Có hai dạng lỗi: một dạng do con người gây

24


ra, và một dạng là do hệ thống đã lỗi thời. Đối với dạng thứ nhất, hệ thống bảo đảm
chất lượng sửa các lỗi hay các sai sót có thể có. Đối với dạng thứ hai, cần phải thay
đổi phương pháp.
Bảo đảm chất lượng là cấp độ quản lý chất lượng tiến bộ hơn kiểm soát
chất lượng, được thực hiện trước và trong quá trình sản xuất nhằm phòng ngừa sự
xuất hiện những sản phẩm có chất lượng thấp. Sản phẩm được thiết kế theo các
chuẩn mực và mỗi người tham gia vào quá trình sản xuất đều có trách nhiệm bảo
đảm chất lượng sản phẩm. Từ ý tưởng này, người ta quan tâm đến việc tạo nên
một nền văn hoá chất lượng để những người trực tiếp làm ra sản phẩm luôn luôn
tự nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng, biết cách làm thế nào để đạt
được chất lượng cao hơn và tự mình mong muốn làm điều đó, hơn thế nữa còn tác
động để người khác cùng làm tốt như hoặc làm tốt hơn bản thân họ.
1.3. Quản lý chất lượng tổng thể
Như đã biết, chất lượng không tự sinh ra; chất lượng không phải là một kết
quả ngẫu nhiên mà là kết quả của sự tác động của hàng loạt yếu tố, quá trình có
liên quan chặt chẽ với nhau. Muốn đạt được chất lượng mong muốn cần phải
quản lý một cách đúng đắn tổng thể các yếu tố, quá trình này; hoạt động quản lý,
lý tưởng nhất trong lĩnh vực quản lý chất lượng được gọi là quản lý chất lượng
tổng thể (Total Quality Management - TQM).
TQM là cách tiếp cận về quản lý chất lượng ở mọi công đoạn nhằm nâng
cao năng suất và hiệu quả chung của doanh nghiệp hay của tổ chức. Mặc dù có
nhiều quan niệm, triết lý khác nhau của nhiều tác giả, nhưng nhìn chung mọi
người đều cho rằng TQM là phương pháp quản lý của một tổ chức, định hướng
vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi thành viên và nhằm đem lại sự
thành công dài hạn thông qua sự thoả mãn tối đa khách hàng và lợi ích của mọi
thành viên của công ty đó cũng như của xã hội. Cụ thể hơn, TQM là:
- T: Đồng bộ, toàn diện, tổng hợp, nghĩa là bao gồm tất cả các công việc

trong chu trình, quản trị từ việc nhỏ đến việc lớn, mỗi người đều có vai trò nhất
định trong chu trình đó với yêu cầu chất lượng cao. TQM coi trọng sự cam kết và
tham gia của mọi thành viên trong tổ chức trong việc bảo đảm chất lượng công
25


×