Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Lực lượng Tăng thiết giáp trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.06 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC BẢO

LỰC LƯỢNG TĂNG THIẾT GIÁP TRONG
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
MÙA XUÂN NĂM 1975

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62.22.03.13
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trần Ngọc Long
Phản biện 1: PGS.TS. Ngô Đăng Tri
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Văn Sự
Phản biện 3: PGS.TS. Trịnh Vương Hồng

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại : Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn Lâm Khoa học xã
hội Việt Nam, số 477 Đường Nguyễn Trãi, Quận Thanh Xuân,
Thành phố Hà Nội


Vào hồi………..….giờ…………phút,
ngày………tháng……….năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Quốc Bảo (2013), Yếu tố bí mật bất ngờ của bộ đội Tăng thiết
giáp trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tạp chí Thông tin
Tăng thiết giáp, số 79, tr.18 - 20.
2. Nguyễn Quốc Bảo (2014), Bộ đội Tăng thiết giáp trong chiến dịch Trị
Thiên năm 1972, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 266, tr.56 - 60.
3. Nguyễn Quốc Bảo (2015), Lực lượng Tăng thiết giáp trong trận tiến
công thị xã An Lộc năm 1972, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 286, tr.38 - 41.
4. Nguyễn Quốc Bảo (2015), Hoạt động của Lực lượng Tăng thiết giáp
trong chiến dịch Tây Nguyên mùa Xuân năm 1975, Tạp chí Giáo dục Lý
luận - Học viện Chính trị khu vực 1 - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, số 228, tr.18 - 24.
5. Nguyễn Quốc Bảo (2017), Đôi nét về công tác chuẩn bị của Lực
lượng Tăng thiết giáp trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975,
Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 302, tr.60 - 63.


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lực lượng Tăng thiết giáp với sức đột kích mạnh và cơ động cao, đã đảm

nhiệm trọng trách dẫn đầu các hướng, mũi tiến công, đột phá chiến dịch và thọc sâu
táo bạo trong đội hình tác chiến hiệp đồng binh chủng của Quân đội nhân dân Việt
Nam (QĐNDVN), tham gia hầu hết các chiến dịch trong cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy mùa Xuân năm 1975. Việc nghiên cứu một cách toàn diện, có tính hệ thống về
lực lượng Tăng thiết giáp trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải
phóng hoàn toàn miền Nam nhằm góp phần phản ánh một cách toàn diện, sâu sắc và
mang tính hệ thống về hoạt động của lực lượng Tăng thiết giáp, qua đó khẳng định vị
trí, vai trò và những đóng góp quan trọng của lực lượng Tăng thiết giáp trong thắng
lợi vĩ đại của lịch sử dân tộc. Chính vì vậy mà chúng tôi quyết định chọn vấn đề
“Lực lượng Tăng thiết giáp trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975”
làm đề tài luận án Tiến sĩ Lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm phục dựng lại một cách có hệ thống về hoạt động của lực lượng Tăng
thiết giáp trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975; khẳng định vai trò,
vị trí và những đóng góp quan trọng của lực lượng Tăng thiết giáp trong đội hình tác
chiến binh chủng hợp thành của QĐNDVN trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975;
tổng kết, đúc rút một số kinh nghiệm có giá trị thực tiễn vận dụng vào công tác xây
dựng, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của lực lượng Tăng thiết giáp trong giai đoạn
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát bối cảnh lịch sử; sự chuẩn bị, quá trình tham gia chiến đấu của lực
lượng Tăng thiết giáp trong Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975.
- Phân tích về nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng và nghệ thuật tác chiến từ
đó làm rõ vai trò, vị trí của lực lượng Tăng thiết giáp trong đội hình tác chiến binh
chủng hợp thành; nhận xét và đưa ra một số kinh nghiệm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án có đối tượng nghiên cứu là lực lượng Tăng thiết giáp trong cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.



2
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn tập trung chủ yếu trên chiến trường miền Nam Việt Nam (từ
tháng 1/1975 đến 30/4/1975), ngoài ra để nghiên cứu làm rõ lo gich vấn đề, phạm vi
về thời gian sẽ nghiên cứu với độ lùi trước năm 1975; luận án tập trung vào bối cảnh
lịch sử, quá trình chuẩn bị và tham gia chiến đấu, một số nét đặc sắc về nghệ thuật
quân sự; vai trò, vị trí của Tăng thiết giáp…
4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu của luận án

4.1. Phương pháp luận
Luận án nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về chiến
tranh cách mạng và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Bên cạnh
đó, còn sử dụng một số phương pháp khác như thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh.
4.3. Nguồn tài liệu của luận án
Ngoài các tài liệu của Trung ương, luận án chủ yếu sử dụng nguồn tài liệu lưu
trữ tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp; các công trình
tổng kết, sách lịch sử truyền thống của lực lượng Tăng thiết giáp; các công trình
nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (KCCMCN), cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân 1975…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về hoạt động
của Lực lượng Tăng thiết giáp trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
- Làm rõ vai trò, vị trí và những đóng góp quan trọng của lực lượng Tăng thiết
giáp trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
- Nêu lên một số nhận xét, đánh giá về những thành công nổi bật và hạn chế; rút

ra một số kinh nghiệm có giá trị thực tiễn, khoa học đối với lực lượng Tăng thiết giáp
trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án góp phần bổ sung lý luận về nghệ thuật tổ chức và sử dụng lực lượng,
nghệ thuật tác chiến của lực lượng Tăng thiết giáp.


3
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án đóng góp thêm tư liệu cho việc nghiên cứu lịch sử của bộ đội Tăng thiết
giáp; đúc rút một số kinh nghiệm có giá trị thực tiễn phục vụ công tác xây dựng,
phát triển, huấn luyện lực lượng Tăng thiết giáp.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu
làm bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài.
Chương 2: Bối cảnh lịch sử và công tác chuẩn bị của lực lượng Tăng thiết giáp
cho Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Chương 3: Quá trình tham gia chiến đấu của lực lượng Tăng thiết giáp trong
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Chương 4: Nhận xét và một số kinh nghiệm.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (cuộc chiến tranh Việt Nam 1954 - 1975) và cuộc Tổng tiến công nổi dậy
mùa Xuân 1975, trong đó gián tiếp đề cập đến lực lượng Tăng thiết giáp
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Cuộc chiến tranh Việt Nam được coi là sự kiện đã để lại nhiều dấu ấn lịch sử

nhất đối với các học giả nước ngoài và được khai thác nghiên cứu, nhìn nhận dưới
nhiều góc độ khác nhau. Có một số cuốn sách tiêu biểu như: Cuộc tháo chạy tán loạn
của Frank Snepp (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1985); Nước Mỹ và Đông Dương từ
Rudơven đến Níchxơn của Peter A. Poole (Nxb Thông tin lý luận, 1986); Việt Nam
cuộc chiến tranh mười nghìn ngày của Michael Maclear (Nxb Sự Thật,1990); Lời
phán quyết về Việt Nam - tiếng nói của một công dân của Giôdep A. Amtơ (Nxb
Quân đội nhân dân, 1995); Những bí mật của cuộc chiến tranh Việt Nam của Philip
B. Davistsson (Nxb Chính trị Quốc gia, 1995); Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và
những bài học về Việt Nam của cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert S. Mc
Namara (Nxb Chính trị Quốc Gia, 1995); Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của Henry.
Kissinger (Nxb Công an nhân dân, 2001); Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Việt Nam,


4
Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện đại của Giáo Sư Sử học người Mỹ Gabriel Kolko
(Nguyễn Tấn Cưu biên dịch - Nxb Quân đội nhân dân, 2003)
Có thể thấy, tình hình nghiên cứu ngoài nước về cuộc chiến tranh Việt Nam
(1954 - 1975) và cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là rất phong phú,
góp phần làm rõ hơn những thất bại, sai lầm của Mỹ tại miền Nam Việt Nam; phục
dựng tương đối khách quan những diễn biến lịch sử của cuộc chiến tranh Việt Nam;
cung cấp một nguồn tư liệu quý giá, có giá trị cho công tác nghiên cứu, tham khảo.
Trong các công trình này, vấn đề nghiên cứu của luận án không được đề cập đến một
cách riêng rẽ, song cũng được gián tiếp điểm qua với tư cách là một lực lượng đột
kích “đáng gờm” trong đội hình tác chiến hiệp đồng của QĐNDVN, đặc biệt là trong
một số chiến dịch quan trọng.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước
Đây là nhóm công trình đã tổng kết, đánh giá về cuộc KCCMCN và cuộc Tổng
tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975, cung cấp cơ sở lý luận, hướng tiếp cận và
nguồn tư liệu trong đó có một số tư liệu nhất định về lực lượng Tăng thiết giáp. Có
thể kể đến một vài công trình tiêu biểu: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước:thắng lợi và bài học do Ban chỉ đạo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ
nghiên cứu biên soạn; Tổng kết chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và Đế quốc Mỹ ( 1945 - 1975) do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam biên
soạn; Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1965 (tập 12) do PGS.TS. Trần Đức
Cường chủ biên; Lịch sử Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1975 (tập 13) do PGS.TS.
Nguyễn Văn Nhật chủ biên; Bộ sách 9 tập Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954 - 1975) do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam biên soạn; Tổng tiến công và nổi
dậy Xuân 1975 do Viện Lịch sử Đảng thuộc Viện Mác - Lênin nghiên cứu và biên
soạn; Chiến dịch tiến công Tây Nguyên Xuân 1975, Chiến dịch tiến công Huế - Đà
Nẵng (Xuân 1975); Chiến dịch Hồ Chí Minh (Xuân 1975) do Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam biên soạn; Một số văn kiện chỉ đạo Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh do Đảng uỷ Quân sự Trung ương - Bộ Quốc
phòng chỉ đạo biên soạn…
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu trực tiếp về lực lượng Tăng thiết giáp
Các công trình nghiên cứu trực tiếp về lực lượng Tăng thiết giáp đã cung cấp
cho luận án một khối lượng lớn nguồn tư liệu song về cơ bản phần nhiều phân tán
dưới dạng nghiên cứu tổng kết các mặt công tác hay lịch sử truyền thống chứ chưa


5
có sự nghiên cứu hệ thống, chuyên sâu. Có một số công trình tiêu biểu sau: Lịch sử
Binh chủng Thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam (1959 - 1975); Lịch sử Đảng bộ
Binh chủng Tăng thiết giáp (1959 - 2009); Kinh nghiệm chiến đấu của bộ đội Tăng
thiết giáp; Một số trận đánh của bộ đội Tăng thiết giáp Việt Nam trong kháng chiến
chống Mỹ và chiến tranh bảo vệ tổ quốc; Lịch sử nghệ thuật sử dụng Tăng thiết giáp
trong chiến dịch (1959 - 1975); Tổng kết chiến thuật của bộ đội Tăng thiết giáp Việt
Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1959 - 1975); Tổng kết công tác kỹ
thuật Tăng - Thiết giáp giai đoạn chống Mỹ cứu nước (1959 – 1975); Tổng kết công
tác hậu cần Tăng thiết giáp trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước;
1.2. Nhận xét về kết quả nghiên cứu và những vấn đề luận án tập trung

giải quyết
1.2.1. Những nội dung liên quan đến đề tài luận án đã được giải quyết
Tái hiện quá trình hình thành, xây dựng, phát triển và chiến đấu của lực lượng
Tăng thiết giáp trong cuộc KCCMCN; cung cấp một khối lượng tư liệu khá lớn thuộc
về (hoặc liên quan) đến lực lượng Tăng thiết giáp trong KCCMCN.
1.2.2. Những vấn đề Luận án tiếp tục nghiên cứu
- Nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về lực lượng Tăng thiết giáp
trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
- Đánh giá một cách tương đối khách quan vai trò, vị trí; những đóng góp của
lực lượng Tăng thiết giáp trong đội hình tác chiến binh chủng hợp thành. Từ những
luận giải mang tính khách quan, khoa học, đưa ra nhận xét về những thành công và
hạn chế, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm có giá trị lịch sử và thực tiễn.
CHƯƠNG 2
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ CÔNG TÁC CHUẨN BỊ
CỦA LỰC LƯỢNG TĂNG THIẾT GIÁP CHO
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975
2.1. Bối cảnh lịch sử từ sau khi Hiệp định Pari được ký kết cho đến trước
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
2.1.1. Tình hình miền Nam sau Hiệp định Pari
Sau khi Hiệp định Pa-ri (27/1/1973) được ký kết, chính quyền Việt Nam cộng
hòa (VNCH) dưới sự bảo trợ của Mỹ ra sức phá hoại Hiệp định Pa-ri. Trước tình hình


6
đó, Bộ Chính trị (BCT), Ban Chấp hành Trung ương Đảng (BCHTWĐ) đã kịp thời
nắm bắt, nhận định tình hình mới chỉ đạo các chiến trường đẩy mạnh các hoạt động
đấu tranh vũ trang, củng cố, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, bẻ gãy, chặn
đứng âm mưu bình định lấn chiếm của Quân đội VNCH. Bên cạnh đó, tình hình
chính trị - xã hội tại miền Nam cũng rất bất ổn và khủng hoảng. đồng thời, nền kinh
tế VNCH ngày một xuống dốc nghiêm trọng, rơi vào tình trạng mất kiểm soát. Như

vậy, từ sau Hiệp định Pa-ri cho đến cuối năm 1974, tình hình chiến trường miền Nam
có những biến đổi nhanh chóng có lợi cho cách mạng miền Nam.
2.1.2. Miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, củng cố
Quốc phòng, tổng động viên nhân tài vật lực để giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước
Sau hai năm lập lại hòa bình, với sự nỗ lực phi thường, miền Bắc đã thu được
nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế, văn hóa xã hội, tích cực chi viện sức người sức
của cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam. Đối với cách mạng miền Nam, miền
Bắc đã huy động tối đa sức người sức của, kịp thời đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của chiến
trường. Nhằm chuẩn bị đón thời cơ chiến lược mới, Trung ương Đảng, Quân ủy
Trung ương (QUTW) tập trung chỉ đạo công tác chuẩn bị hệ thống đường giao thông,
khẩn trương củng cố, mở rộng và hoàn thiện hệ thống đường ống vận chuyển xăng
dầu, hệ thống thông tin liên lạc, thành lập các Quân đoàn chủ lực (1,2,3,4, Đoàn 232),
củng cố và phát triển các Quân Binh chủng kỹ thuật, tạo ra thế và lực mới để giải
phóng hoàn toàn miền Nam.
2.1.3. Chủ trương của Đảng về mở cuộc Tổng tiến công giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước
Tháng 4/1973, QUTW, Bộ Tổng Tư lệnh đã khởi thảo xây dựng Kế hoạch chiến
lược giải phóng miền Nam và được bổ sung sửa chữa nhiều lần (từ tháng 4/1973 đến
tháng 5/1974). Ngày 6/8/1974, cuộc tiến công Thượng Đức giành thắng lợi, chứng tỏ
thời cơ lớn của cách mạng miền Nam đã xuất hiện. Từ 30/9/1974 - 08/10/1974, BCT
đã họp để bàn về chủ trương giải phóng miền Nam. QUTW và Bộ Tổng tư lệnh chỉ
đạo lực lượng chủ lực cơ động phải chuẩn bị sẵn sàng tác chiến trên cả hai hướng
chiến lược Tây Nguyên, trọng điểm là hướng chiến lược quan trọng Nam Tây
Nguyên; miền Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng. Sau chiến thắng Đường
14 - Phước Long càng cho thấy sự sa sút nghiêm trọng về khả năng chiến đấu của


7
Quân đội VNCH, qua phân tích ý đồ và khả năng can thiệp của Mỹ đối với chiến

trường miền Nam, trong Kết luận đợt 2 (Hội nghị BCT) ngày 7/1/1975, BCT tỏ rõ
quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
2.2. Sự chuẩn bị của lực lượng Tăng thiết giáp cho cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy mùa Xuân năm 1975
2.2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển của lực lượng Tăng thiết
giáp trong Quân đội nhân dân Việt Nam cho đến trước cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy mùa Xuân năm 1975
Lực lượng Tăng thiết giáp ra đời trong cuộc KCCMCN (Trung đoàn 202 - Trung
đoàn Tăng đầu tiên thành lập ngày 5/10/1959) và được coi là lực lượng đột kích quan
trọng của Lục quân Việt Nam. Cho đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975, lực lượng Tăng thiết giáp có 16 năm xây dựng và tham gia chiến đấu, hình thành
nhiều đơn vị với biên chế nhiều chủng loại xe tăng, xe thiết giáp, đã đánh 151 trận lớn nhỏ;
tham gia 10 chiến dịch lớn của bộ đội chủ lực trong đó có 6 chiến dịch phát huy được
tác dụng của xe tăng, giành thắng lợi chung cho chiến dịch.
2.2.2. Chuẩn bị về tổ chức lực lượng và xây dựng phương án tác chiến
Đối với nhiệm vụ xây dựng, củng cố lực lượng, ngay từ đầu năm 1973, một loạt
các đợn vị Tăng thiết giáp được thành lập và kiện toàn, đứng chân trên các địa bàn
quan trọng. Năm 1974, Bộ Tư lệnh Thiết giáp đã cử nhiều đoàn công tác đi nắm tình
hình bộ đội ở các chiến trường; tập huấn về cách đánh hiệp đồng binh chủng có Tăng
thiết giáp tham gia, tổ chức khôi phục sửa chữa Tăng thiết giáp. Điều động một số
cán bộ về Mặt trận Tây Nguyên làm công tác tham mưu về sử dụng Tăng thiết giáp.
Đầu năm 1975, Bộ Tư lệnh Thiết giáp tổ chức nhiều đơn vị chi viện cho chiến trường
Tây Nguyên và Miền Đông Nam Bộ. Lực lượng Tăng thiết giáp chú trọng đến công
tác nghiên cứu chiến dịch, chiến thuật, huấn luyện thực binh, bồi dưỡng nâng cao
trình độ chiến đấu cho các đơn vị, chuẩn bị các phương án tác chiến, tổ chức nhiều
hội nghị tổng kết chiến đấu, huấn luyện, bổ túc cán bộ cho các đơn vị Tăng thiết giáp.
2.2.3. Chuẩn bị về chính trị, tư tưởng
Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị và tổ chức học tập các Nghị quyết 21, 22,
23 của BCHTWĐ, Nghị quyết của QUTW về tình hình nhiệm vụ mới, Đảng ủy Binh
chủng Thiết giáp đã tập trung lãnh đạo nhằm làm cho nhận thức tư tưởng của bộ đội

chuyển biến kịp thời với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, củng cố ý
chí chiến đấu, tạo động lực chính trị giúp cho cán bộ, chiến sĩ nhận rõ được tình thế,


8
thời cơ cách mạng; đồng thời xua tan tư tưởng chủ quan, đề cao tinh thần cảnh giác
cách mạng, nâng cao tinh thần, ý chí quyết tâm sẵn sàng chiến đấu và hy sinh. Trong
quá trình chuẩn bị, các tổ chức Đảng trong các đơn vị Tăng thiết giáp cũng được kiện
toàn, củng cố, phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng.
2.2.4. Chuẩn bị công tác bảo đảm kỹ thuật, hậu cần
Về công tác đảm bảo kỹ thuật, lực lượng Tăng thiết giáp tập trung vào nhiệm
vụ thu hồi xe pháo, trang bị kỹ thuật hư hỏng, cung cấp phụ tùng vật tư, chỉ đạo các
đơn vị sửa chữa, bảo dưỡng, bảo quản xe pháo, củng cố kho tàng, trạm xưởng và
đào tạo lái xe, thợ sửa chữa. Bộ Tư lệnh Thiết giáp đã cử nhiều đoàn công tác vào
chiến trường để nắm tình hình, giúp đỡ các đơn vị Tăng thiết giáp về công tác kỹ
thuật. Trên các chiến trường, công tác khôi phục, sửa chữa Tăng thiết giáp được tiến
hành ngay tại các Trạm sửa chữa, đã chủ động khai thác nguồn phụ tùng tại chỗ.
Công tác đảm bảo hậu cần đã cung cấp đầy đủ mọi nhu cầu vật chất cho huấn
luyện và sẵn sàng chiến đấu; chú trọng công tác vận tải; củng cố, mở rộng các kho
tàng, nâng cao khả năng bảo quản khối lượng vật tư lớn. Công tác hậu cần Tăng thiết
giáp được tổ chức chu đáo ngay từ cấp phân đội trong quá trình hành quân; chuẩn bị
và chăm sóc sức khỏe cho bộ đội, đảm bảo điều kiện tốt nhất cho bộ đội tác chiến.
Tiểu kết chương 2
Lực lượng Tăng thiết giáp đã có một quá trình chuẩn bị khá toàn diện từ chính
trị, tư tưởng; bảo đảm kỹ thuật - hậu cần; chuẩn bị các phương án tác chiến cho đến
chuẩn bị lực lượng, chuẩn bị chiến trường, đã hình thành một thế trận liên hoàn, cơ
động trong thế trận chiến lược của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
CHƯƠNG 3
QUÁ TRÌNH THAM GIA CHIẾN ĐẤU
CỦA LỰC LƯỢNG TĂNG THIẾT GIÁP TRONG

TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975
3.1. Lực lượng Tăng thiết giáp trong chiến dịch Tây Nguyên
3.1.1. Khái quát tình hình Tây Nguyên
3.1.1.1. Đặc điểm chiến trường Tây Nguyên
Chiến trường TâyNguyên (B3), bao gồm các tỉnh: KonTum, PleiKu, Phú Bổn,
Đắk Lắk và một phần tỉnh Quảng Đức, với dân số khoảng 1 triệu người, đồng bào
dân tộc ít người chiếm khoảng 54%. Tây Nguyên có một số trục đường giao thông


9
tương đối thuận lợi (Đường số 7, 14, 19, 21) và một số sân bay khá hiện đại (Kon
Tum, Cù Hanh, Hòa Bình); có hai sông lớn là sông Pô Kô và sông SêrêPôk. Về thời
tiết, Tây Nguyên chia làm 2 mùa là mùa khô và mùa mưa. Địa hình Tây Nguyên
gồm Bắc Tây Nguyên khá hiểm trở với núi cao và rừng rậm còn Nam Tây Nguyên
tương đối bằng phẳng. Trong chiến trường Tây Nguyên, thị xã Buôn Ma Thuột có
vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng.
3.1.1.2. Bố trí binh lực của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa tại Tây Nguyên
Tổ chức bố trí phòng ngự của Quân đội VNCH được phân chia thành hai khu
vực đó là khu vực các tỉnh vùng Duyên hải và khu vực Tây Nguyên với khối chủ lực
tập trung cơ bản ở Tây Nguyên (10 trên 14 trung đoàn), còn lực lượng Bảo an lại tập
trung phần lớn ở đồng bằng. Riêng đối với Tây Nguyên, Quân đội VNCH chủ trương
coi Nam Tây Nguyên (trong đó có thị xã Buôn Ma Thuột) như là tuyến hậu phương
chiến lược nên đã tập trung số đông quân chủ lực bố trí tại Bắc Tây Nguyên (8 trên
tổng số 10 trung đoàn).
3.1.1.3. Chủ trương chiến lược và bố trí lực lượng của Bộ Tư lệnh Mặt trận B3
Bộ Tổng Tham mưu xác định đòn tiến công mở màn trong cuộc Tổng tiến công
sẽ là Tây Nguyên. Ngày 21/1/1975, QUTW và Bộ Tổng tư lệnh đã giao nhiệm vụ
chính thức cho Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, trong đó nhiệm vụ giải phóng thị
xã Buôn Ma Thuột là nhiệm vụ chủ yếu của chiến dịch. Căn cứ vào ý định tác chiến,
QUTW và Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo các chiến trường đẩy mạnh tác chiến, nghi binh;

gấp rút tăng cường lực lượng, cơ sở vật chất cho chiến trường Tây Nguyên.
3.1.2. Lực lượng Tăng thiết giáp tham gia chiến dịch Tây Nguyên
3.1.2.1. Quá trình chuẩn bị
Lực lượng Tăng thiết giáp được giao nhiệm vụ tham gia chiến dịch Tây Nguyên
là Trung đoàn Tăng 273, gồm 3 tiểu đoàn trang bị 47 xe tăng, 16 xe thiết giáp và các
xe phục vụ chiến đấu khác. Để có thể giành thắng lợi ngay từ trận đầu, lực lượng
Tăng thiết giáp đã khẩn trương tổ chức, tiến hành chuẩn bị về mọi mặt một cách tỉ mỉ
từ công tác giáo dục tư tưởng chính trị; công tác đảm bảo kỹ thuật, hậu cần cho đến
công tác chuẩn bị chiến trường.
3.1.2.2. Lực lượng Tăng thiết giáp trong trận mở màn Buôn Ma Thuột
Trong trận tiến công đánh chiếm Buôn Ma Thuột, Trung đoàn Tăng 273 tham gia
chiến đấu ở 4 trên 5 hướng, với ưu tiên nhằm tạo thế áp đảo đối phương ngay từ đầu.


10
2 giờ ngày 10/3/1975, thị xã Buôn Ma Thuột rung chuyển bởi các đòn tiến công
của Quân Giải phóng. Lực lượng Tăng thiết giáp trong đội hình binh chủng hợp thành
từ vị trí tập kết hình thành các mũi tiến công bao vây đánh chiếm Buôn Ma Thuột. 5
giờ 30 phút, theo đường quân sự dã chiến, từ bốn hướng, xe tăng, xe thiết giáp tiến
vào trung tâm thị xã Buôn Ma Thuột trên các hướng Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nam
và hướng Tây và làm chủ phần lớn thị xã này trong ngày 10/3/1975, Ngày 11/3, lực
lượng Tăng thiết giáp chia làm ba hướng hiệp đồng với bộ binh tiến công trên các
hướng Đông Bắc, Tây Bắc và hướng Tây phát huy sức cơ động và mở những mũi đột
kích mạnh, tiêu diệt xe tăng, hỏa điểm của Quân đội VNCH, chi viện và hỗ trợ đắc
lực cho bộ binh chiến đấu, tiến tới làm chủ hoàn toàn Buôn Ma Thuột.
3.1.2.3 Phối hợp đánh địch phản kích tái chiếm Buôn Ma Thuột và tiến công
Bắc Tây Nguyên
Mất Buôn Ma Thuột, Quân lực VNCH phản kích quyết liệt hòng tái chiếm lại
địa bàn chiến lược quan trọng này. Do đã có sự chuẩn bị, mờ sáng ngày 11/3, lực
lượng Tăng thiết giáp điều động Đại đội Tăng 5 xuất kích, hiệp đồng cùng bộ binh

Trung đoàn 24 (Sư đoàn 10) tiến công đánh vào Trung đoàn 45 Quân đội VNCH, tiến
công Điểm cao 581 và Đường 21. Từ ngày 15 đến ngày 17/3, Đại đội Tăng 7 và 8
(Tiểu đoàn Tăng 3) phối thuộc cho Trung đoàn 66 (Sư đoàn 10) và Trung đoàn 149
(Sư đoàn 316) đánh chiếm hậu cứ Trung đoàn 53. Cũng trong ngày 17/3, Đại đội
Tăng 5, Đại đội Thiết giáp 3 cùng bộ binh Đại đội 10, Trung đoàn 66 truy quét binh
lính VNCH tại khu vực Ngã ba ấp Nông Trại và Phước An, buộc binh lính VNCH tại
đây phải bỏ chạy về Chư Cúc, Khánh Dương. Lực lượng Tăng thiết giáp cùng với bộ
binh tiếp tục tổ chức truy kích xuống Chư Cúc, giải phóng một vùng rộng lớn Đông
Bắc Đắk Lắk.
3.1.2.4. Tham gia truy kích Quân đội Việt Nam cộng hòa rút chạy khỏi Tây
Nguyên và tiến công giải phóng các tỉnh Trung Trung Bộ
Sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, lực lượng Tăng thiết giáp trong đội hình tác chiến
binh chủng hợp thành tiếp tục truy kích tàn quân VNCH rút chạy trên Đường số 7.
Ngày 18/3, từ nhiều hướng, lực lượng Tăng thiết giáp chi viện cho bộ binh bất ngờ tiến
công thị xã Phú Bổn. Ngày 19/3, Đại đội Tăng 1 cùng Trung đoàn 64 tiêu diệt tàn quân
tại Phú Bổn và tiếp tục truy kích trên Đường số 7. Ngày 21 và 22/3, tiến công Phú Túc
và Ca Núi; ngày 23/3, áp sát Củng Sơn. 18 giờ ngày 24/3, Củng Sơn được giải phóng,
tiếp đó là KonTum, PleiKu, Thanh Bình, An Khê và Khánh Dương. Sau khi Tây


11
Nguyên hoàn toàn được giải phóng, lực lượng Tăng thiết giáp cùng với các đơn vị bộ
binh tiến xuống đồng bằng Duyên hải Trung Trung Bộ phát triển chiến đấu trên ba trục
đường 7, 19, 21, giải phóng Phú Yên, Khánh Hòa; Bình Định và tiến xuống đánh chiếm
Nha Trang, Cam Ranh. Đến đây chiến dịch Tây Nguyên chính thức kết thúc thắng lợi.
3.2. Lực lượng Tăng thiết giáp trong chiến dịch Trị Thiên - Huế, chiến
dịch Nam - Ngãi, chiến dịch Đà Nẵng và phá vỡ các tuyến phòng thủ, mở đường
áp sát Sài Gòn
3.2.1. Lực lượng Tăng thiết giáp trong chiến dịch Trị Thiên - Huế, chiến
dịch Nam - Ngãi, chiến dịch Đà Nẵng

Nằm trong đội hình tác chiến của Quân đoàn 2, Lữ đoàn Tăng 203 khẩn trương
tổ chức lực lượng, lên phương án tác chiến, sẵn sàng chờ lệnh tiến công trên hướng
Nam Huế.
Ngày 23/3 từ vị trí triển khai ở Hải Quế, lực lượng Tăng thiết giáp cùng với bộ
binh giải phóng Quận lỵ Mai Lĩnh; ngày 24 và 25/3, tiến công Quận lỵ Hướng Điền.
Đẩy mạnh phối hợp, Lữ đoàn Tăng 203 lệnh cho Đại đội Tăng 4 nhanh chóng hành
quân từ A Lưới về phối thuộc cho Sư đoàn 324 tiến công trên hướng Nam Huế.
Chiều ngày 23/3, lực lượng Tăng thiết giáp bất ngờ xuất hiện, trực tiếp chi viện cho
bộ binh Sư đoàn 324 đánh chiếm điểm cao núi Bông, núi Nghệ, cắt đứt Đường 1 phía
Nam Huế. Đêm ngày 23/3, Sư đoàn 1 VNCH tháo chạy khỏi Huế, rút ra cửa Thuận
An. Lực lượng Tăng thiết giáp được Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 giao nhiệm vụ trực tiếp
chi viện cho bộ binh tiến công thành phố Huế. 15 giờ ngày 25/3, Tăng thiết giáp cùng
Trung đoàn bộ binh 3 (Sư đoàn 324) tiến vào trung tâm thành phố Huế, phát triển lên
Tân Mỹ, đuổi đánh binh lính VNCH đang tháo chạy ra cửa Thuận An. Đến đây
Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế hoàn toàn được giải phóng.
Nằm trong kế hoạch tiến công chiến lược của Bộ Tổng Tư lệnh, các lực lượng
vũ trang Quân khu 5 mở chiến dịch Nam - Ngãi. Trước diễn biến thuận lợi, Bộ Tư
lệnh chiến dịch quyết tâm đánh chiếm Tam Kỳ, giải phóng hoàn toàn Quảng Nam,
Quảng Ngãi, tạo thế chia cắt chiến lược. Trung đoàn Tăng 574 được giao nhiệm vụ
tăng cường cho các sư đoàn bộ binh đẩy mạnh tiến công ở Tam Kỳ, Quảng Ngãi, tạo
thế bao vây Đà Nẵng. Ngày 24/3, lực lượng Tăng thiết giáp cùng bộ binh tiến công
Tam Kỳ trên nhiều hướng, tạo thế uy hiếp mạnh khiến lực lượng Quân đội VNCH tại
đây bị bất ngờ, chống cự yếu ớt, tan rã nhanh chóng. Rạng sáng ngày 25/3, Tăng thiết


12
giáp tiếp tục tiến công hành tiến chi viện cho bộ binh tiến đánh Tiểu đoàn Biệt động
quân cùng tàn quân ở Tam Kỳ chạy về Tuần Dưỡng, nhanh chóng cơ động áp sát
Thăng Bình. Lần lượt các khu vực Thăng Bình, Tuần Dưỡng, Tam Kỳ bị mất khiến
lực lượng chốt giữ của Quân đội VNCH tại Quảng Ngãi hết sức lo sợ. Ngày 25/3, lực

lượng Tăng thiết giáp cùng bộ binh tiến vào thị xã Quảng Ngãi. Với việc Quảng Nam
và Quảng Ngãi được giải phóng thì Đà Nẵng đã hoàn toàn bị cô lập.
Lực lượng Tăng thiết giáp tham gia tiến công Đà Nẵng có Lữ đoàn Tăng 203
(Quân đoàn 2) và Trung đoàn Tăng 574 (Quân khu 5). Sáng ngày 29/3, trên hướng
Bắc, lực lượng Tăng thiết giáp chi viện cho bộ binh vượt đèo Hải Vân, nhanh chóng
đánh chiếm kho xăng Liên Chiểu, tiến vào Đà Nẵng, vượt qua cầu Trịnh Minh Thế,
đánh chiếm quân cảng và bán đảo Sơn Trà. Trên hướng Nam, do cầu Bà Rén, Câu
Lâu bị phá sập, nên lực lượng Tăng thiết giáp chỉ đưa được hai xe tăng bơi PT-76
vượt sông chi viện cho bộ binh đánh sân bay Đà Nẵng, chiếm Toà thị chính và Sở chỉ
huy Quân đoàn 1 VNCH. Ngày 29/3, thành phố Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng.
Trong chiến dịch Đà Nẵng, Tăng thiết giáp đã táo bạo, tranh thủ thời cơ chọc thẳng
vào trung tâm thành phố từ hai hướng Bắc, Nam, tận dụng tính năng ưu việt của Tăng
thiết giáp trong cách đánh thần tốc, tạo sức uy hiếp lớn, làm tan vỡ thế trận của đối
phương.
3.2.2. Lực lượng Tăng thiết giáp trong đội hình binh chủng hợp thành phá
vỡ các tuyến phòng thủ ở Nam Trung Bộ, mở đường áp sát Sài Gòn
3.2.2.1. Lực lượng đột kích phá vỡ tuyến phòng thủ Phan Rang
Lực lượng Tăng thiết giáp tham gia tiến công Phan Rang là Lữ đoàn xe Tăng
203 gồm 89 xe chiến đấu. Ngày 13/4, lực lượng Tăng thiết giáp đã đến Ba Ngòi, cách
Phan Rang 45 km. 20 giờ ngày 15/4, Tiểu đoàn Tăng 4 được lệnh xuất kích. Rạng
sáng ngày 16/4, Tăng thiết giáp dẫn đầu đội hình binh chủng hợp thành của cánh
quân Duyên hải tiến công cứ điểm Gò Đền sát thị xã Phan Rang. 7h15 phút, lực
lượng Tăng thiết giáp đi đầu và các đơn vị bộ binh đã đánh thẳng vào thị xã, sau đó
chia làm ba mũi tiến công các mục tiêu tại sân bay Thành Sơn, cảng Ninh Chữ và cầu
phía Nam Phan Rang. 10 giờ ngày 16/4, lực lượng Tăng thiết giáp đưa thêm Tiểu
đoàn Tăng 5 phát triển theo trục đường 1 tiến ra Vịnh Cà Ná chặn đường rút lui của
đối phương. Sau chiến thắng Phan Rang, lực lượng Tăng thiết giáp nhanh chóng cùng
cánh quân Duyên hải áp sát Sài Gòn, tiến công giải phóng một loạt địa bàn quan



13
trọng như Phan Rí, Tuy Phong, Sông Mao, Hòa Đa, áp sát thị xã Phan Thiết. 21 giờ
ngày 18/4, thị xã Phan Thiết được giải phóng hoàn toàn.
3.2.2.2. Tiến công chọc thủng “cánh cửa thép” Xuân Lộc - Long Khánh, tạo
thế áp sát Sài Gòn
Lực lượng Tăng thiết giáp tham gia tiến công Xuân Lộc có Tiểu đoàn Tăng 21
(Đoàn 26 Tăng thiết giáp Miền) phối thuộc cho Sư đoàn bộ binh 7 (Quân đoàn 4). Sáng
ngày 9/4, trên cả hai hướng Bắc - Nam, Tăng thiết giáp cùng bộ binh tác chiến nhưng
gặp nhiều khó khăn do bị đối phương ngăn chặn quyết liệt. Từ 10 - 12/4, Tăng thiết giáp
cùng bộ binh tiến công nhiều lần hậu cứ Chiến đoàn 52 nhưng không thành công. Trước
diễn biến phức tạp, Bộ Chỉ huy Miền thay đổi cách đánh, lệnh cho các mũi chuyển
hướng từ tiến công trực diện sang kìm chân đối phương tại Xuân Lộc, tổ chức bao vây,
thực hiện chia cắt cô lập Xuân Lộc. Đêm ngày 12/4, lực lượng Tăng thiết giáp dùng hỏa
lực chi viện để tìm cách cứu kéo, khắc phục những xe bị bắn cháy, hư hỏng. Ngày 20/4,
sau khi giải phóng xong Phan Thiết, lực lượng đi đầu của Quân đoàn 2 tiến đến Rừng
Lá, tạo sự uy hiếp đối với Xuân Lộc. Ngày 21/4, trước nguy cơ bị tiêu diệt, Quân đội
VNCH tại Xuân Lộc tháo chạy về Biên Hòa, mở toang cánh cửa phía Đông Sài Gòn.
3.3. Lực lượng Tăng thiết giáp trong chiến dịch Hồ Chí Minh
3.3.1. Khát quát tình hình cuối tháng 4 năm 1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh
Sau những thất bại liên tiếp trên chiến trường, tình hình chính trường Sài Gòn
ngày càng trở nên rối ren. Ngày 21/4/1975, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu từ
chức, lần lượt Trần Văn Hương rồi Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống.Về mặt
quân sự, Quân đội VNCH tổ chức điều chỉnh bố trí lại thế trận và binh lực hòng giữ
các vùng đất còn lại; thiết lập 3 tuyến phòng ngự bảo vệ Sài Gòn với xu hướng “
mạnh ngoài, yếu trong”. Trước thời cơ chiến lược, BCT quyết định thành lập Bộ Chỉ
huy và Đảng ủy Mặt trận Sài Gòn và đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là
Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng toàn bộ các quân đoàn chủ
lực cơ động tham gia chiến dịch. Đối với lực lượng Tăng thiết giáp, Bộ Tư lệnh yêu
cầu: chủ yếu tăng cường cho các hướng để cùng bộ binh đánh chiếm các mục tiêu cả
vòng ngoài và trong nội đô.

3.3.2. Quá trình chuẩn bị chiến dịch của lực lượng Tăng thiết giáp
Lực lượng Tăng thiết giáp tham gia chiến dịch gồm 398 xe tăng, xe thiết giáp,
tham gia trên năm hướng chiến dịch với nhiệm vụ thọc sâu, chia cắt, đánh chiếm các
mục tiêu quan trọng chủ yếu. Bước vào chiến dịch, lực lượng Tăng thiết giáp khẩn


14
trương tiến hành chu đáo mọi công tác chuẩn bị về tư tưởng, chính trị; công tác đảm
bảo kỹ thuật; công tác đảm bảo hậu cần.
3.3.3. Lực lượng Tăng thiết giáp trong đội hình binh chủng hợp thành tiến
công giải phóng Sài Gòn
3.3.3.1. Trên hướng Đông Bắc
Lực lượng Tăng thiết giáp trong đội hình tiến công của Quân đoàn 4 gồm có
các Tiểu đoàn tăng 21, 22 (Đoàn 26 Tăng thiết giáp Miền) và Tiểu đoàn tăng 1 (Lữ
đoàn 215) tăng cường, có tổng số 69 xe (gồm 61 xe tăng, 7 xe thiết giáp và 1 xe cứu
kéo). Rạng sáng ngày 27/4/1975, Tăng thiết giáp chi viện cho Sư đoàn bộ binh 341
tiến công Trảng Bom và cùng bộ binh làm chủ hoàn toàn căn cứ Trảng Bom lúc 9 giờ
30. Ngày 28/4, Tăng thiết giáp chi viện cho Trung đoàn 3 (Sư đoàn bộ binh 6) tiến
công ở suối Đỉa - Long Lạc. Sáng 29/4/1975, Đại đội Tăng 2 (Tiểu đoàn Tăng 1) chi
viện cho Trung đoàn 4 (Sư đoàn bộ binh 6) tiến đánh lực lượng phòng thủ ở Hố Nai.
Tiểu đoàn Tăng 22 dẫn đầu đội hình các Trung đoàn bộ binh 12 và 14 (Sư đoàn Bộ
binh 7) trên mũi thọc sâu của Quân đoàn 4 tiến vào Hố Nai, phối hợp tiến công quyết
liệt suốt đêm 29/4 buộc đối phương phải rút qua sông Đồng Nai. Do Cầu Mới bị
đánh sập, nên xe tăng và bộ binh Sư đoàn 7 buộc phải quay lại theo đường xa lộ Biên
Hòa - Sài Gòn, tiến vào sau đội hình của Lữ đoàn Tăng 203, Quân đoàn 2.
3.3.3.2. Trên hướng Bắc
Lực lượng Tăng thiết giáp tham gia tiến công trên hướng Bắc trong đội hình của
Quân đoàn 1 là Lữ đoàn Bộ binh cơ giới 202 với trang bị 67 xe (có 35 tăng, 29 thiết
giáp, 3 xe cao xạ tự hành). Sáng ngày 29/4, lực lượng Tăng thiết giáp chi viện bộ
binh tiến công đánh chiếm Quận lỵ Tân Uyên, sau đó, phối hợp cùng bộ binh tiến

công Lái Thiêu theo Đường số 8, và làm tan rã lực lượng phòng thủ của Quân đội
VNCH, dẫn đầu đội hình của binh đoàn chủ lực tiến nhanh qua cầu Vĩnh Bình, cầu
Bình Phước tiến thẳng vào Sài Gòn đánh chiếm Bộ Chỉ huy Thiết giáp Quân đội
VNCH, khu Lục quân công xưởng, Tiểu khu Gia Định. Trên mũi thọc sâu chủ yếu,
Tiểu đoàn Bộ binh cơ giới 66 cùng Trung đoàn bộ binh 48 tiến công về phía cầu Bình
Triệu. Đến 8 giờ 30, ngày 30/4/1975, Tăng thiết giáp dẫn đầu mũi thọc sâu chở bộ
binh đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu Quân đội VNCH. Trên hướng tiến công Phú
Lợi, Bình Dương, Tăng thiết giáp hiệp đồng chặt chẽ với bộ binh Sư đoàn 312 đánh


15
chiếm căn cứ Phú Lợi, tiến vào Bình Dương, Bến Cát, Lai Khê đánh chiếm Sở chỉ
huy Sư đoàn 5 VNCH, tiêu diệt và bức hàng Sư đoàn 5.
3.3.3.3.Trên hướng Tây Bắc
Lực lượng Tăng thiết giáp tiến công trên hướng Tây Bắc trong đội hình Quân
đoàn 3 là Trung đoàn Tăng 273 với 59 xe tăng và 24 xe thiết giáp.
5 giờ ngày 29/4, lực lượng Tăng thiết giáp cùng bộ binh tiến công vào căn cứ
Đồng Dù và làm chủ căn cứ sau hơn 5 giờ tiến công. Đồng thời, Quân đoàn 3 tổ chức
đội hình thọc sâu với 37 xe tăng, xe thiết giáp nhanh chóng vượt qua Đồng Dù theo
Đường số 1 và 15 đánh chiếm Quận lỵ Củ Chi, Hóc Môn, Trung tâm huấn luyện
Quang Trung, tiến công vào nội đô Sài Gòn. Rạng sáng ngày 30/4, lực lượng Tăng
thiết giáp cùng bộ binh Trung đoàn 24 (Sư đoàn 10) tiến tới Ngã tư Bảy Hiền mở mũi
đột kích mạnh trên hướng chính diện, đánh tan lực lượng cố thủ tại đây, phát triển
tiến công về phía Lăng Cha Cả. Tăng thiết giáp tiến công mãnh liệt, đánh tan các ổ đề
kháng, tràn vào đánh chiếm các mục tiêu và làm chủ sân bay Tân Sơn Nhất. Cùng lúc
đó, Tiểu đoàn Tăng 2 cùng Trung đoàn bộ binh 28 cũng tiến vào đánh chiếm Sở chỉ
huy Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH.
3.3.3.4. Trên hướng Tây và Tây Nam
Lực lượng Tăng thiết giáp nằm trong đội hình Đoàn 232 tiến công trên hướng
Tây và Tây Nam có Tiểu đoàn Tăng 20, Tiểu đoàn Tăng thiết giáp 23, Đại đội Thiết

giáp 33 (Đoàn 26 Tăng thiết giáp Miền), Tiểu đoàn Tăng 2 (Lữ đoàn Tăng 215) với
tổng số 80 xe tăng, thiết giáp.
7 giờ ngày 28/4, lực lượng Tăng thiết giáp vượt sông Vàm Cỏ Đông cùng bộ
binh nhanh chóng chiếm An Hiệp, Bầu Trâu và tiến công Tân Mỹ, làm chủ Đường số
10 từ Lộc Giang đến Tân Mỹ. Sáng ngày 29/4, Tăng thiết giáp chi viện cho bộ binh
đánh vào thị xã Hậu Nghĩa, làm tan rã hoàn toàn lực lượng phòng ngự tại đây, tạo
điều kiện thuận lợi cho mũi chủ lực Đoàn 232 tiến nhanh vào Sài Gòn. Tiểu đoàn
Tăng 2 cùng bộ binh Sư đoàn 9 bí mật vượt sông Vàm Cỏ Đông tiến công các mục
tiêu ở khu vực Tây Nam Sài Gòn, nhanh chóng tiến vào Ngã tư Bảy Hiền, phối hợp
cùng Tăng thiết giáp của Quân đoàn 3 đánh chiếm Biệt khu thủ đô, Tổng nha Cảnh
sát và tiến vào Dinh Độc Lập hội quân cùng lực lượng Quân đoàn 2. Trên hướng
Nam, Đại đội Tăng 45 chi viện cho bộ binh Sư đoàn 5 tiến công Tân An, Bến Lức,
chia cắt đối phương trên Đường số 4 từ Sài Gòn về Tây Nam Bộ.


16
3.3.3.5. Trên hướng Đông Nam
Lực lượng Tăng thiết giáp tham gia tiến công trong đội hình của Quân đoàn 2
trên hướng Đông Nam là Lữ đoàn Tăng 203 với 75 xe tăng, thiết giáp. 17 giờ ngày
26/4 lực lượng Tăng thiết giáp cùng bộ binh bước vào chiến đấu lần lượt giải phóng
Bà Rịa, tiến đánh Long Thành, yểm trợ bộ binh truy kích tàn quân VNCH đến Phước
Thiện, Nhơn Trạch, phà Cát Lái, đánh chiếm căn cứu Nước Trong. 14 giờ 40 phút,
ngày 29/4, từ căn cứ Nước Trong, đội hình thọc sâu của Lữ đoàn Tăng 203 theo
Đường 15 tiến về nội thành Sài Gòn. 5 giờ 20 phút ngày 30/4, Tăng thiết giáp thọc
sâu đánh tan lực lượng phòng ngự tại ngã ba đường đi Thủ Dầu Một và Thủ Đức. 7
giờ ngày 30/4, Tiểu đoàn Tăng 1 tiến đến cầu Sài Gòn. Trong lúc Tiểu đoàn Tăng 1
đang tác chiến trên cầu Sài Gòn, Đại đội Tăng 4 phía sau nhận lệnh vượt lên thọc sâu
dẫn đầu đội hình tiến công đến cầu Thị Nghè. Sau khi vượt cầu Thị Nghè, Lữ đoàn
Tăng 203 chia làm hai mũi theo Đại lộ Thống Nhất và Đại lộ Hồng Thập Tự tiến vào
Dinh Tổng thống VNCH. 10 giờ 45 phút, hai xe tăng 843 và 390 húc đổ cánh cổng

sắt Dinh Độc Lập. Chính quyền VNCH đến đây chính thức cáo chung, cuộc Tổng
tiến công đã giành toàn thắng.
Tiểu kết chương 3
Trong các chiến dịch, lực lượng Tăng thiết giáp đã có sự chuẩn bị chu đáo về
mọi mặt từ công tác giáo dục chính trị tư tưởng; bố trí lực lượng, đảm bảo hậu cần,
kỹ thuật, chuẩn bị chiến trường và đã thể hiện được vai trò là lực lượng chủ đạo trên
các hướng mũi tiến công, phối hợp cùng với bộ binh, các binh chủng khác hình
thành các mũi thọc sâu, tiêu diệt và phá vỡ hệ thống phòng ngự của đối phương cũng
như đánh chiếm, giữ vững mục tiêu.
CHƯƠNG 4
NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
4.1. Nhận xét
4.1.1. Thành công
Thành công của lực lượng Tăng thiết giáp trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân năm 1975 là một trong những biểu hiện sinh động cho sự chỉ đạo hết sức
đúng đắn của Bộ Tổng Tư lệnh và trực tiếp là Bộ Chỉ huy các chiến dịch với yêu cầu
bí mật bất ngờ, tiến công đột phá, thọc sâu táo bạo, thần tốc, đặc biệt là chú trọng
trong tác chiến hiệp đồng binh chủng.


17
Một là, thành công về nghệ thuật nghi binh tạo thế, giữ được yếu tố bí mật
bất ngờ
Thành công nổi bật của lực lượng Tăng thiết giáp trước hết đó chính là việc giữ
bí mật lực lượng, nghi binh, tạo thế, vận dụng cách đánh thích hợp, bảo đảm yếu tố bí
mật bất ngờ, góp phần tạo ra bước ngoặt vô cùng quan trọng trong các trận đánh đặc
biệt mở màn của chiến dịch Tây Nguyên. Có thể nói, trong cuộc Tổng tiễn công mùa
Xuân 1975, mỗi lần lực lượng Tăng thiết giáp xuất hiện cơ bản đều giữ được yếu tố
bí mật làm cho đối phương bất ngờ và giành thắng lợi giòn giã.
Hai là, vận dụng linh hoạt nhiều cách đánh thích hợp với diễn biến và thực

tiễn chiến trường
Lực lượng Tăng thiết giáp vận dụng nhiều cách đánh mưu trí, sáng tạo, phù hợp
thực tiễn, tạo ra nhịp độ tiến công dồn dập ngày một cao làm cho Quân đội VNCH rơi
vào thế bị động, không thể chống đỡ nổi. Trước hết, lực lượng Tăng thiết giáp đã rất
thành công về khả năng tác chiến trong hành tiến, phát huy sức cơ động vừa hành
quân vừa tác chiến. Khi tác chiến trong hành tiến, lực lượng Tăng thiết giáp đã tùy
vào từng tình hình và thế trận phòng thủ của Quân đội VNCH mà có cách đánh thích
hợp; chủ động trong việc lựa chọn mục tiêu quan trọng, then chốt để tiêu diệt.
Trong suốt cuộc Tổng tiến công, lực lượng Tăng thiết giáp đã luôn nắm vững
tình hình thực tiễn của chiến trường, tổ chức nhiều phương án tác chiến ứng phó kịp
thời đáp ứng với các diễn biến mới. Sự linh hoạt trong các phương án tiến công của
lực lượng Tăng thiết giáp còn được biểu hiện trong các trận đánh tiến công vào các
đô thị với khả năng đánh giá đúng tình hình, đưa ra các phương án tác chiến phù hợp
và giành thắng lợi.
Ba là, thành công trong phối hợp tác chiến hiệp đồng binh chủng
Trong tất cả các chiến dịch trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng của lực
lượng Tăng thiết giáp đã có những bước phát triển vượt bậc, được biểu hiện xuyên
suốt từ cấp chiến dịch cho đến cấp chiến thuật. Đối với cấp chiến dịch, đã chủ động
đề ra nhiệm vụ, cách đánh của Tăng thiết giáp; bàn bạc, phối hợp trao đổi cách hiệp
đồng, cách đánh của các lực lượng khác nhằm thống nhất phương án tác chiến.Về
trình độ hiệp đồng tác chiến cấp chiến thuật, lực lượng Tăng thiết giáp luôn xác định
công tác hiệp đồng tác chiến giữa Tăng thiết giáp với các lực lượng khác trong đội
hình binh chủng hợp thành là rất quan trọng.


18
Đối với lực lượng bộ binh, lực lượng Tăng thiết giáp đã hướng dẫn bộ binh nắm
vững tính năng tác dụng, chiến thuật, kỹ thuật của xe tăng; những đặc điểm cần chú ý
khi hiệp đồng tác chiến giữa bộ binh và xe tăng; thống nhất phương án phối hợp giữa
Tăng thiết giáp và bộ binh cụ thể đến từng chi tiết đối với các trận thực hành tiến

công thọc sâu, đột phá. Trong tiến công đột phá đánh chiếm mục tiêu có phòng ngự
chuẩn bị, Tăng thiết giáp luôn là lực lượng tiến trước với sự yểm hộ chi viện, bám sát
của bộ binh. Đối với các trận tiến công hành tiến, truy kích hay thọc sâu vu hồi, bộ
binh ngồi trên xe tăng, xe thiết giáp cùng cơ động nhanh. Tăng thiết giáp dùng hỏa
lực mạnh bắn chế áp tiêu diệt các ổ đề kháng chi viện cho bộ binh xung phong tiến
nhanh và chọc sâu đánh chiếm các mục tiêu then chốt. Đối với các lực lượng khác
như Công binh, Pháo binh, Cao xạ, lực lượng Tăng thiết giáp cũng đã có sự phối hợp
hết sức ăn ý.
Thành công trong tác chiến hiệp đồng binh chủng của lực lượng Tăng thiết giáp
trong cuộc Tổng tiến công năm 1975 còn được thể hiện ở phương thức hiệp đồng tác
chiến mới, đó là có lúc, có thời điểm các lực lượng khác đến phối thuộc với Tăng
thiết giáp để tổ chức thành đơn vị hỗn hợp bộ binh cơ giới có xe tăng, xe thiết giáp, ô
tô chở bộ binh và xe Cao xạ, Pháo binh, Công binh đi cùng; có lực lượng tại chỗ dẫn
đường để thực hiện tiến công.
4.1.2. Hạn chế
Nằm trong đội hình tác chiến binh chủng hợp thành, lực lượng Tăng thiết giáp
cũng bị ảnh hưởng bởi những hạn chế chung của cuộc Tổng tiến công. Hạn chế của
lực lượng Tăng thiết giáp biểu hiện ở một số vấn đề sau.
Hạn chế về khả năng cơ động lực lượng
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, lực lượng Tăng thiết
giáp bộc lộ một số hạn chế trong việc cơ động lực lượng, triển khai ý định tiến công
chưa rõ ràng cụ thể dẫn đến có thời điểm không thể triển khai tác chiến kịp thời theo
kế hoạch. Nguyên nhân là do sự điều phối đội hình tiến công chưa linh hoạt, nhanh
nhạy, làm cản trở việc cơ động lực lượng, gây thiệt hại về phương tiện cũng như tổn
thất thương vong.
Việc nắm tình hình và khả năng phòng ngự của đối phương có thời điểm
chưa sát
Trong quá trình tác chiến, lực lượng Tăng thiết giáp cũng đã bộc lộ một số hạn chế
trong việc nắm tình hình địa bàn tác chiến, xác định mục tiêu và khả năng phòng ngự



19
của đối phương, đặc biệt là trong các tình huống diễn biến phức tạp, dẫn đến một số trận,
lực lượng Tăng thiết giáp giành thắng lợi chưa trọn vẹn, bị tổn thất, thương vong.
Công tác hiệp đồng tác chiến giữa Tăng thiết giáp với các lực lượng khác có
lúc, có trận đánh chưa được chặt chẽ, thiếu cụ thể
Trong công tác hiệp đồng tác chiến có thời điểm, có trận đánh còn thiếu cụ thể
giữa lực lượng Tăng thiết giáp với các lực lượng Bộ binh, Pháo binh dẫn đến Tăng
thiết giáp phải tạm dừng tiến công để chờ đợi các lực lượng khác hiệp đồng nên sức
chiến đấu bị ảnh hưởng, làm chậm mất thời cơ xung phong và bỏ lỡ thời cơ tiêu diệt
địch, ảnh hưởng đến nhịp độ tiến công, giảm hiệu quả chiến đấu của Tăng thiết giáp.
4.1.3. Đánh giá chung
Lực lượng Tăng thiết giáp đã khẳng định được vai trò quan trọng là lực lượng
nòng cốt đi đầu của các quân binh đoàn chủ lực, nâng cao hiệu suất chiến đấu và nhịp
độ tiến công của đội hình tác chiến binh chủng, góp phần quyết định vào thắng lợi to
lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
4.2. Một số kinh nghiệm
Từ thực tiễn chiến đấu của lực lượng Tăng thiết giáp trong cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã để lại cho Quân đội nói chung và lực lượng Tăng
thiết giáp nói riêng một số kinh nghiệm có giá trị thực tiễn.
Thứ nhất, sử dụng tập trung lực lượng Tăng thiết giáp vào các trận đánh then
chốt, đúng thời cơ trên hướng chiến dịch quan trọng, giành thắng lợi có ý nghĩa
quyết định
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, việc sử dụng lực
lượng tập trung vào đúng thời cơ có lợi nhất, trên hướng chiến dịch quan trọng nhất
là một bước phát triển trong nghệ thuật tác chiến của lực lượng Tăng thiết giáp. Việc
sử dụng tập trung lực lượng trước hết được thể hiện ở số lượng xe tăng, xe thiết giáp
tham gia tác chiến trong toàn bộ cuộc Tổng tiến công cũng như trong một số trận
đánh then chốt mang tính quyết định.
Ngoài ra, lực lượng Tăng thiết giáp đã quán triệt và bố trí lực lượng khá hợp

lý vào từng thời điểm, thời cơ của các trận đánh then chốt có ý nghĩa quyết định, do
đó đã luôn tạo ưu thế áp đảo so với Quân đội VNCH về số lượng và chất lượng tác
chiến. Khi sử dụng tập trung lực lượng, bằng lối đánh táo bạo, chớp đúng thời cơ,
lực lượng Tăng thiết giáp đã cơ bản khắc phục được những thiếu sót trong các trận
đánh trước đây, nhanh chóng đè bẹp và phá vỡ hệ thống phòng thủ của lực lượng


20
Quân đội VNCH trong các chiến dịch của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân năm 1975. Kinh nghiệm cho thấy, việc sử dụng tập trung lực lượng, đúng thời
điểm giúp hình thành những mũi tiến công mạnh để có nhanh chóng tạo thế áp đảo
đối phương, phá vỡ các tuyến phòng thủ hoặc trận địa kiên cố, đồng thời sẽ giúp hình
thành lực lượng dự bị đủ mạnh để sẵn sàng tham gia chiến đấu trong các chiến dịch
dài ngày, có quy mô lớn…
Thứ hai, đánh giá đúng vai trò đột phá thọc sâu của Tăng thiết giáp trong tác
chiến hiệp đồng binh chủng
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, việc sử dụng lực lượng
Tăng thiết giáp tham gia đột phá, thọc sâu chiến dịch đã được đánh giá đúng vai trò.
Trong trận tiến công Buôn Ma Thuột, Tăng thiết giáp đã đột phá trên nhiều
hướng mũi, phát huy sức cơ động nhanh chóng chia cắt, thọc sâu tiêu diệt và chiếm
giữ các mục tiêu chủ yếu. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Tăng thiết giáp với vai trò
lực lượng đột kích chủ yếu, thọc sâu trong đội hình phái đi trước binh chủng hợp
thành đã tổ chức tiến công với tốc độ cao, phát huy hỏa lực mạnh, đập tan hệ thống
phòng thủ của Quân đội VNCH trên các hướng tiến vào thành phố Sài Gòn. Bên cạnh
đó, lực lượng Tăng thiết giáp đã luôn chủ động đột phá, thọc sâu đúng thời điểm, thời
cơ của chiến dịch. Việc đột phá, thọc sâu thành công của lực lượng Tăng thiết giáp
được tạo bởi các yếu tố cấu thành từ việc nghi binh đánh lừa đối phương; công tác
chuẩn bị; khả năng vận dụng cách đánh và sử dụng lực lượng phù hợp. Kinh nghiệm
cho thấy, cần mạnh dạn sử dụng Tăng thiết giáp làm lực lượng chủ đạo trong các mũi
thọc sâu cơ động nhằm tạo khả năng đột kích mạnh, nhanh chóng đột phá các tuyến

phòng thủ trung gian, đánh thẳng vào trung tâm đầu não của đối phương để có thể
trong một thời gian ngắn phá vỡ toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch.
Thứ ba, chú trọng công tác đảm bảo hậu cần - kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu tác
chiến của lực lượng Tăng thiết giáp
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, lực lượng Tăng
thiết giáp đã chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ về công tác đảm bảo hậu cần - kỹ thuật, đáp
ứng yêu cầu tác chiến.
Bảo đảm hậu cần của lực lượng Tăng thiết giáp được thể hiện tốt ở công tác tổ
chức chỉ huy hậu cần, tổ chức bảo đảm vật chất, đảm bảo xăng dầu, vận tải. Kinh
nghiệm đảm bảo hậu cần của lực lượng Tăng thiết giáp cho thấy công tác này cần
được tiến hành tỉ mỉ từ giai đoạn chuẩn bị cho đến giai đoạn chiến đấu. Mọi nhu cầu
về hậu cần của Tăng thiết giáp trong quá trình tác chiến cần được nắm chắc và phải


21
được đáp ứng nhanh chóng, bổ sung kịp thời nhằm đảm bảo tốc độ tiến công và khả
năng tác chiến.
Trong cuộc Tổng tiến công năm 1975, đảm bảo kỹ thuật có vai trò quyết định rất
lớn đến khả năng tác chiến thành công của lực lượng Tăng thiết giáp. Kinh nghiệm cho
thấy, các đơn vị Tăng thiết giáp cần tổ chức lực lượng đảm bảo kỹ thuật xuyên suốt
theo cấp độ đơn vị từ nhỏ đến lớn với quy mô tăng dần, luôn bám sát các mũi tiến
công, trực tiếp tham gia chiến đấu và bảo đảm tại chỗ cho Tăng thiết giáp. Bên cạnh
đó, phương thức bảo đảm vật tư cho sửa chữa cần phù hợp, linh hoạt với tình hình phát
triển tiến công ở các đơn vị. Trong quá trình thực hiện công tác bảo đảm kỹ thuật,
các cấp chỉ huy phải nắm chắc tình trạng kỹ thuật của xe tăng, xe thiết giáp, các loại
xe bảo đảm phục vụ; thường xuyên tiến hành tổng kết công tác bảo đảm kỹ thuật để
rút kinh nghiệm và bồi dưỡng nâng cao trình độ cho bộ đội; đặc biệt cần có phương
án, kế hoạch cụ thể về công tác bảo đảm kỹ thuật trong cả điều kiện thời bình cũng
như khi có tình huống xảy ra để đảm bảo chắc chắn Tăng thiết giáp luôn ở trạng thái
sẵn sàng chiến đấu cao.

Tiểu kết chương 4
Lực lượng Tăng thiết giáp đã có những thành công vượt bậc về nghệ thuật tác
chiến với khả năng nghi binh tạo thế, vận dụng linh hoạt nhiều cách đánh và hiệp
đồng binh chủng mặc dù cũng còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Lực lượng Tăng
thiêt giáp đã rút được những kinh nghiệm quý báu, có giá trị đối với công tác huấn
luyện, chiến đấu hiện nay.
KẾT LUẬN
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử, với sức mạnh áp đảo về quân sự và chính trị, sự ủng hộ,
phối hợp của quần chúng nhân dân, chỉ trong 55 ngày đêm, các lực lượng vũ trang
cách mạng đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn Quân đội VNCH, đập tan hệ thống
chính quyền VNCH từ Trung ương tới địa phương, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước. Góp mặt trong trận quyết chiến chiến lược này có lực lượng
Tăng thiết giáp với tư cách lực lượng đột phá chiến dịch, đột kích thọc sâu, thần tốc
táo bạo, dẫn đầu các hướng mũi tiến công của các quân, binh đoàn chủ lực trong đội
hình tác chiến hiệp đồng binh chủng của QĐNDVN.
1. Ra đời trong cuộc KCCMCN, từ một trung đoàn xe Tăng đầu tiên, lực lượng
Tăng thiết giáp đã dần lớn mạnh và trở thành một lực lượng cơ động đột kích, tham


22
gia đánh hàng trăm trận, hàng chục chiến dịch lớn. Bước vào cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, lực lượng Tăng thiết giáp đã có sự chuẩn bị chu
đáo, tỉ mỉ, toàn diện về mọi mặt từ công tác tổ chức xây dựng, phát triển lực lượng,
chuẩn bị đường cơ động, chuẩn bị vật chất, đảm bảo kỹ thuật, tổng kết kinh nghiệm
chiến đấu, nghiên cứu chiến dịch, chiến thuật, tổ chức huấn luyện thực binh, đề ra
các phương án tác chiến, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ chiến thuật…đến công tác
giáo dục chính trị, động viên tư tưởng cho bộ đội. Cho đến trước thời điểm mở màn
của cuộc Tổng tiến công, Binh chủng Tăng thiết giáp đã có một lực lượng tương đối
mạnh với 5 trung đoàn, lữ đoàn và một số tiểu đoàn độc lập được huấn luyện, trang

bị tốt, tư tưởng chính trị vững vàng nằm trong đội hình các quân, binh đoàn chủ lực,
sẵn sàng cho trận quyết chiến chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước.
2. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, lực lượng Tăng
thiết giáp tham gia chiến đấu trong tất các chiến dịch: Chiến dịch Tây Nguyên, chiến
dịch Trị Thiên - Huế, chiến dịch Nam - Ngãi, chiến dịch Đà Nẵng, các chiến dịch
phá vỡ các tuyến phòng thủ trung gian Phan Rang, Xuân Lộc và chiến dịch Hồ Chí
Minh. Trong quá trình diễn ra cuộc Tổng tiến công, việc bố trí tổ chức, sử dụng lực
lượng và nghệ thuật tác chiến của lực lượng Tăng thiết giáp liên tục được bổ sung và
phát triển qua từng chiến dịch, từng trận đánh. Trong chiến dịch giải phóng Tây
Nguyên, lực lượng Tăng thiết giáp sử dụng lực lượng tập trung với sức mạnh cơ động
và khả năng đột kích kết hợp với nghệ thuật nghi binh tạo thế, hình thành nhiều mũi
hướng tiến công, vận dụng nhiều hình thức chiến thuật phong phú, linh hoạt đã góp
phần giải phóng Tây Nguyên, các tỉnh Duyên hải miền trung, tiêu diệt và làm tan rã
Quân đoàn 2 Quân đội VNCH. Thắng lợi ở Tây Nguyên chứng tỏ sự phát triển cao về
nghệ thuật tác chiến của Tăng thiết giáp với sức tiến công, đột kích mạnh, nhanh
chóng phá vỡ thế trận chiến lược của đối phương, tạo điều kiện cho đại quân phát
triển chiến đấu giải phóng Huế và Đà Nẵng. Trong chiến dịch Huế, chiến dịch Nam Ngãi và chiến dịch Đà Nẵng, lực lượng Tăng thiết giáp với vai trò là lực lượng thọc
sâu chiến dịch đã táo bạo chớp thời cơ, phát huy sức mạnh đột kích góp phần tiêu diệt
và làm tan rã toàn bộ lực lượng Quân đội VNCH ở Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, làm thay đổi tương quan lực lượng, hình thành bàn đạp và
thế trận cho chiến dịch quyết định giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Trong các chiến
dịch tiến công nhằm phá vỡ các tuyến phòng ngự của Quân đội VNCH dọc địa bàn


×