Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Những loài dược liệu bị đe dọa và có nguy cơ tuyệt chủng cần được bảo tồn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.6 KB, 33 trang )

1

Tiểu luận GACP

Chuyên đề 7: “Những loài dược liệu bị đe dọa
và có nguy cơ tuyệt chủng cần được bảo tồn”
Nhóm 3- CĐ Dược K1B
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Vũ Thị Hà Giang
Đỗ Thị Dung
Nguyễn Thị Lệ (03/11)
Đoàn Thị Thanh Hiên
Phạm Thị Mừng
Nguyễn Ngọc Ánh

Đặt vấn đề
Việt Nam từ lâu vẫn nổi tiếng là một quốc gia có nguồn dược liệu tự
nhiên dồi dào và đặc biệt là các loài dược liệu quý. Cũng nhờ có nguồn dược
liệu dồi dào mà nền YHCT của nước ta mới có bề dày lịch sử và nhiều thành
tựu đến như vậy. Nhưng có lẽ niềm tự hào đó đã thuộc về quá khứ khi mà giờ
đây nguồn dược liệu trong nước chỉ đáp ứng được 15% nhu cầu và 85% nhập
từ nước ngoài chủ yếu là từ Trung Quốc.

[1]


Trong khi dược liệu tự nhiên với

lượng dược tính dồi dào, bán đi ồ ạt, giá rẻ mạt thì chúng ta lại nhập về một
khối lượng khổng lồ dược liệu kém chất lượng thậm chí xác dược liệu.


2
Theo thống kê mới nhất của Viện Dược liệu, có 144 loài cây thuốc thuộc
diện quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng cần được bảo tồn. Trong số đó có rất
nhiều loài cây thuốc quý như: Sâm ngọc linh (Panax vietnamensis), Sâm vũ
diệp (P. bipinnatifidus), Tam thất hoang (P. stipuleanatus), các loài Hoàng liên
(Berberis spp.),….
Đối với động vật làm thuốc tình trạng còn bi đát hơn. Bởi tất cả các loài
có giá trị sử dụng làm thuốc phổ biến, đều đã bị săn bắt đến mức cạn kiệt trong
tự nhiên, như khỉ, gấu, hươu, nai, trăn, rắn, kỳ đà, cầy hương … một số loài chỉ
còn vài con (hổ, tê giác …) - mà nguy cơ bị tuyệt chủng là trong tầm tay.
Nhận thấy tầm quan trọng trong việc bảo vệ, phục hồi và phát triển các
nguồn dược liệu quý ở Việt Nam. Nhóm 3 xin tìm hiểu về chuyên đề 7 “Những
dược liệu bị đe dọa và có nguy cơ tuyệt chủng cần được bảo tồn” với các
mục tiêu cụ thể như sau:
1. Khái niệm và đặc điểm của sách đỏ, những loài dược liệu bị đe dọa và
có nguy cơ tuyệt chủng cần được bảo vệ ở Việt Nam.
2. Thực trạng khai thác thuốc từ nguồn dược liệu quý đến nguy cơ tuyệt
chủng.
3. Các phương pháp bảo tồn nguồn dược liệu ở Việt Nam.

Một số từ viết tắt
IUCN: International Union for Conservation of Nature and Natural Resources
WCMC: World Conservation Monitoring Center
HST: Hệ sinh thái

ĐDSH: Đa dạng sinh học
KBT: Khu bảo tồn
VQG: Vườn quốc gia
VTV: Vườn thực vật
VĐV: Vườn động vật


3

I. Khái niệm và đặc điểm của sách đỏ, những loài dược liệu bị đe dọa và có
nguy cơ tuyệt chủng cần được bảo vệ ở Việt Nam
1. Khái niệm

Sách Đỏ IUCN hay gọi tắt là Sách Đỏ (tiếng Anh: IUCN Red List of
Threatened Species, IUCN Red List hay Red Data Book)
là tài liệu có tính chất quốc gia và mang ý nghĩa quốc tế, công bố các loài động vật,
thực vật, côn trùng thuộc loại quí hiếm ở mỗi nước và trên toàn thế giới đang bị đe
dọa giảm sút số lượng hoặc đã có nguy cơ bị tuyệt chủng cần được bảo vệ, phục hồi
và phát triển. Danh sách này được giám sát bởi Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc
tế (International Union for Conservation of Nature and Natural Resources, IUCN).


4
Sách đỏ Việt Nam là danh sách các loài động vật, thực vật ở Việt Nam thuộc
loại quý hiếm, đang bị giảm sút số lượng hoặc có đã nguy cơ tuyệt chủng. Đây là căn
cứ khoa học quan trọng để Nhà nước ban hành những Nghị định và Chỉ thị về việc
quản lý bảo vệ và những biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển những loài động
thực vật hoang dã ở Việt Nam.
2. Đặc điểm [2]
2.1 CÁC TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG CÁC LOẠI ĐƯA VÀO

SÁCH ĐỎ VIỆT NAM (Các tiêu chuẩn do tổ chức quốc tế về bảo tồn thiên nhiên
và tài nguyên thiên nhiên IUCN đề xuất)
Các cấp đánh giá:
ENDANGERED (E) Đang nguy cấp (đang bị đe doạ tuyệt chủng) Là những
taxon đang bị đe doạ tuyệt chủng và không chắc còn có thể tồn tại nếu các nhân tố
đe doạ cứ tiếp diễn. Gồm những taxon có số lượng giảm đến mức báo động ở trong
điều kiện sống bị suy thoái mạnh mẽ đến mức có thể bị tuyệt chủng.
VULNERABLE (V) Sẽ nguy cấp (có thể bị đe doạ tuyệt chủng). Là những
taxon xắp bị đe doạ tuyệt chủng (trong tương lai gần) nếu các nhân tố đe doạ cứ tiếp
diễn. Gồm những taxon mà phần lớn hoặc tất cả các quần thể cuả nó đã bị giảm vì
khai thác quá mức, vì nơi sống bị phá hoại mạnh mẽ hoặc do các biến động khác cuả
môi trường sống. Cũng gồm những taxon tuy số lượng còn khá nhưng vì chúng có
giá trị kinh tế lớn nên việc tìm bắt, khai thác được tiến hành thường xuyên ờ mọi
nơi, dễ đưa tới bị đe dọa.
RARE (R) Hiếm (có thể có nguy cấp) Gồm những taxon có phân bổ hẹp
(nhất là những chi đơn loài) có số lượng ít, tuy hiện tại chưa phải là đối tượng đang
hoặc sẽ bị đe doạ, nhưng sự tồn tại lâu dài của chúng ta mỏng manh.
Các cấp đánh giá khác
Ngoài ba cấp chính trên đây, khi soạn thảo - Sách đỏ Việt Nam còn sử dụng một


5
trong các cấp sau:
THREATENED (T) - Bị đe doạ. Là những taxon thuộc một trong những cấp
trên, nhưng chưa đủ tư liệu để xếp chúng vào cấp cụ thể nào.
INSUFFCIENTLY KNOWN (K) - Biết không chính xác. Là những taxon
nghi ngờ và không biết chắc chắn chúng thuộc loại nào trong các cấp trên vì thiếu
thông tin. Các loại nêu trong cấp này để hy vọng chờ các tác giả xác định mức cụ
thế của chúng.
2.2 CÁC TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG CÁC LOÀI ĐƯA VÀO

SÁCH

ĐỎ

IUCN (The

IUCN

Red

List

of

Threatened

Animals).

Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (Intemational Union of Conservation of
Nature and Natural resources - IUCN) và trung tâm giám sát bảo tồn quốc tế
(World Conservation Monitoring Center- WCMC) đã xây dựng những quy định vế
tình trạng các loài có nguy cơ tuyệt chủng và các danh mục xếp mục đe doạ của các
loài. Sự xếp bậc này căn cứ vào các dữ liệu về phân loại học (Taxonomy), tình
trạng quần thể (Population status), xu hướng quần thể (Population trends), sự phân
bố (Distribution), tình trạng sinh cảnh (Habitat availability), xu hướng địa lý
(Geographic trends) và các mối đe doạ (Threats) và tham khảo ý kiến của các
chuyên gia phân loại học, các chuyên gia về các họ động vật riêng biệt của IUCN
và của các nhà khoa học các nước. Sự xếp bậc này cũng xem xét tình hình pháp
luật liên quan của các nước có loài trên phân bố.
Trong khi điều tra xác định tình trạng các loài, IUCN luôn xem xét lại các

thông tin cũ, cập nhật 2 năm một lần và phổ biến rộng rãi. IUCN còn nghiên cứu để
sửa nội dung và nguyên tắc xác định tình trạng các loài để đáp ứng những đòi hỏi
mới. Năm 1994, IUCN đã sử dụng một số nguyên tắc mới để xác định tình trạng
các loài bị đe dọa. Năm 1996, danh mục mới được bổ xung những chi tiết cụ thể về
tình trạng các loài và phân chia theo các cấp độ sau:


6

1. EX-Tuyệt chủng - Extinct
Một taxon được coi là tuyệt chủng khi không còn nghi ngờ là cá thể cuối cùng
của taxon đó đã chết.
2. EW-Tuyệt chủng ngoài thiên nhiên – Extinct in the wild
Một taxon được coi là tuyệt chủng ngoài thiên nhiên khi chỉ còn thấy trong
điều kiện gây trồng, nuôi nhốt (in captivity) hoặc chỉ là một (hoặc nhiều) quần thể đã
tự nhiên hóa trở lại bên ngoài vùng phân bố cũ.
3. CR - Rất nguy cấp – Critically Endangered
Một taxon được coi là rất nguy cấp khi đang đứng trước một nguy cơ cực kỳ
lớn sẽ bị tuyệt chủng ngoài thiên nhiên trong một tương lai trước mắt, được xác định
bởi một tiêu chuẩn bất kỳ nào dưới đây (A-E).


7
A. Sự suy giảm quần thể dưới bất kỳ dạng nào dưới đây:
1. Suy giảm ít nhất 80% theo quan sát, ước tính, suy đoán hoặc phỏng đoán trong
10 năm cuối hoặc 3 thế hệ cuối (lấy khoảng thời gian nào dài nhất) dựa trên (và xác
định được) một trong các điểm dưới đây:
(a). Quan sát trực tiếp.
(b). Chỉ số về sự phong phú thích hợp với taxon đó.
(c). Sự suy giảm nơi cư trú, khu phân bố hoặc chất lượng nơi sinh cư.

(d). Mức độ khai thác hiện tại hoặc khả năng.
(e). ảnh hưởng của các taxon di nhập, lai tạo, dịch bệnh, chất ô nhiễm, vật cạnh
tranh.
hoặc ký sinh.
2. Suy giảm ít nhất 80%, theo dự đoán hoặc phỏng đoán, sẽ xảy ra trong 10 năm tới
hoặc 3 thế hệ tới (lấy khoảng thời gian nào dài nhất), dựa trên (và xác định được)
một trong các điểm (b), (c), (d) hoặc (e) trên đây.
B. Khu phân bố ước tính dưới 100km2, hoặc nơi cư trú ước tính dưới
10km2, ngoài ra còn chỉ ra được ít nhất 2 trong các điểm sau đây:
1. Bị chia cắt nghiêm trọng hoặc chỉ tồn tại ở một điểm.
2. Suy giảm liên tục, theo quan sát, suy đoán hoặc dự đoán, của một trong các yếu
tố sau:
(a). Khu phân bố.
(b). Nơi cư trú.
(c). Phạm vi hoặc chất lượng nơi sinh cư.
(d). Số địa điểm tìm thấy hoặc số tiểu quần thể.
(e). Số lượng cá thể trưởng thành.
3. Dao động cực lớn của một yếu tố bất kỳ nào dưới đây:
(a). Khu phân bố.
(b). Nơi cư trú.


8
(c). Số địa điểm tìm thấy hoặc số tiểu quần thể.
(d). Số lượng cá thể trưởng thành.
C. Quần thể ước tính chỉ dưới 250 cá thể trưởng thành và một trong các
điểm dưới đây:
1. Suy giảm liên tục ít nhất 25% trong 3 năm cuối hoặc trong thế hệ cuối (lấy
khoảng thời gian nào dài nhất)
2. Suy giảm liên tục, theo quan sát, dự đoán hoặc suy đoán về số lượng cá thể

trưởng thành và cấu trúc quần thể dưới một trong các dạng sau:
(a). Bị chia cắt nghiêm trọng (nghĩa là không một tiểu quần thể nào ước tính có trên
50 cá thể trưởng thành).
(b). Tất cả các cá thể chỉ ở trong một tiểu quần thể duy nhất.
D. Quần thể ước tính chỉ dưới 50 cá thể trưởng thành.
E. Phân tích định lượng cho thấy xác suất bị tuyệt chủng ngoài thiên nhiên ít
nhất là 50% trong 10 năm hoặc 3 thế hệ (lấy khoảng thời gian nào dài nhất).
4. EN - nguy cấp - Endangered
Một taxon được coi là nguy cấp khi chưa phải là rất nguy cấp nhưng đang đứng
trước
(c). Phạm vi hoặc chất lượng nơi sinh cư.
(d). Số địa điểm tìm thấy hoặc số tiểu quần thể.
(e). Số lượng cá thể trưởng thành.
1. Dao động cực lớn của một yếu tố bất kỳ nào dưới đây:
(a). Khu phân bố.
(b). Nơi cư trú.
(c). Số địa điểm tìm thấy hoặc số tiểu quần thể.
(d). Số lượng cá thể trưởng thành.
2. Quần thể ước tính dưới 2500 cá thể trưởng thành và một trong các điểm dưới
đây:


9
3. Suy giảm liên tục ước tính ít nhất 20% trong 5 năm cuối hoặc 2 thế hệ cuối (lấy
khoảng thời gian nào dài nhất) hoặc:
4. Suy giảm liên tục, theo quan sát, dự đoán hoặc suy đoán về số lượng cá thể
trưởng thành và cấu trúc quần thể dưới một trong các dạng sau:
(a). Bị chia cắt nghiêm trọng (nghĩa là không một tiểu quần thể nào ước tính có trên
250 cá thể trưởng thành).
(b). Tất cả các cá thể chỉ ở trong một tiểu quần thể duy nhất.

5. Quần thể ước tính chỉ dưới 250 cá thể trưởng thành.
5. VU - sẽ nguy cấp - Vulnerable
Một taxon được coi là sẽ nguy cấp khi chưa phải là rất nguy cấp hoặc nguy cấp
nhưng đang đứng trước một nguy cơ lớn sẽ bị tuyệt chủng ngoài thiên nhiên trong
một tương lai tương đối gần, được xác định bởi một tiêu chuẩn bất kỳ nào dưới đây
(A-E).
A. Suy giảm quần thể dưới bất kỳ dạng nào dưới đây:
1. Suy giảm ít nhất 20%, theo quan sát, ước tính, suy đoán hoặc phỏng đoán
trong 10 năm cuối hoặc 3 thế hệ cuối (lấy khoảng thời gian nào dài nhất) dựa trên
(và xác định được) một trong những điểm dưới đây:
(a). Quan sát trực tiếp.
(b). Chỉ số về sự phong phú thích hợp đối với taxon đó.
(c). Sự suy giảm nơi cư trú, khu phân bố và/hay chất lượng nơi sinh cư.
(d). Mức độ khai thác hiện tại hoặc khả năng.
(e). Tác động của các taxon di nhập, lai tạo, dịch bệnh, chất ô nhiễm, vật cạnh
tranh hoặc ký sinh.
2. Suy giảm ít nhất 20%, theo dự đoán hoặc phỏng đoán, sẽ xảy ra trong 10
năm tới hoặc 3 thế hệ tới (lấy khoảng thời gian nào dài nhất), dựa trên (và xác định
được) một trong các điểm (b), (c), (d) hoặc (e) trên đây.
B. Khu phân bố ước tính dưới 20.000km2, hoặc nơi cư trú ước tính dưới


10
2000km2, ngoài ra còn chỉ ra được ít nhất 2 trong các điểm dưới đây:
1. Bị chia cắt nghiêm trọng hoặc chỉ tồn tại ở không quá 10 điểm.
2. Suy giảm liên tục, theo quan sát, suy đoán hoặc dự đoán, của một
trong các yếu tố sau:
(a). Khu phân bố.
(b). Nơi cư trú.
(c). Khu phân bố, nơi cư trú và/hoặc chất lượng nơi sinh cư.

(d). Số địa điểm tìm thấy hoặc số tiểu quần thể.
(e). Số lượng cá thể trưởng thành.
3. Dao động cực lớn của một yếu tố bất kỳ nào dưới đây:
(a). Khu phân bố.
(b). Nơi cư trú.
(c). Số địa điểm hoặc số tiểu quần thể.
(d). Số lượng cá thể trưởng thành.
Một nguy cơ rất lớn sẽ bị tuyệt chủng ngoài thiên nhiên trong một tương lai
gần, được xác định bởi một tiêu chuẩn bất kỳ nào dưới đây (A-E).
A. Suy giảm quần thể dưới bất kỳ dạng nào dưới đây:
1. Suy giảm ít nhất 50%, theo quan sát, ước tính, suy đoán hoặc phỏng đoán
trong 10 năm cuối hoặc 3 thế hệ cuối (lấy khoảng thời gian nào dài nhất) dựa
trên (và xác định được) một trong những điểm dưới đây:
(a). Quan sát trực tiếp.
(b). Chỉ số về sự phong phú thích hợp đối với taxon đó.
(c). Sự suy giảm nơi cư trú, khu phân bố và/hay chất lượng nơi sinh cư.
(d). Mức độ khai thác hiện tại hoặc khả năng.
(e). Tác động của các taxon di nhập, lai tạo, dịch bệnh, chất ô nhiễm, vật cạnh
tranh hoặc ký sinh.
2. Suy giảm ít nhất 50%, theo dự đoán hoặc phỏng đoán, sẽ xảy ra trong 10


11
năm tới hoặc 3 thế hệ tới (lấy khoảng thời gian nào dài nhất), dựa trên (và xác
định được) một trong những điểm (b), (c), (d) hoặc (e) trên đây.
B. Khu phân bố ước tính dưới 5000km2, hoặc nơi cư trú ước tính dưới
500km2, ngoài ra còn chỉ ra được ít nhất 2 trong các điểm dưới đây:
1. Bị chia cắt nghiêm trọng hoặc chỉ tồn tại ở không quá 5 điểm.
2. Suy giảm liên tục, theo quan sát, suy đoán hoặc dự đoán, của một trong các
yếu tố sau:

(a). Khu phân bố.
(b). Nơi cư trú.
C. Quần thể ước tính dưới 10.000 cá thể trưởng thành và một trong các
điểm dưới đây:
1. Suy giảm liên tục, ước tính ít nhất 10% trong 10 năm cuối hoặc 3 thế hệ
cuối (lấy khoảng thời gian nào dài nhất) hoặc:
2. Suy giảm liên tục, theo quan sát, dự đoán hoặc suy đoán về số lượng cá thể
trưởng thành và cấu trúc quần thể dưới một trong các dạng sau:
(a). Bị chia cắt nghiêm trọng (nghĩa là không một tiểu quần thể nào ước tính
trên 1000 cá thể trưởng thành).
(b). Tất cả các cá thể chỉ ở trong một tiểu quần thể duy nhất.
D. Quần thể rất nhỏ hoặc thu hẹp lại dưới một trong các dạng sau:
1. Quần thể ước tính chỉ dưới 1000 cá thể trưởng thành.
2. Đặc trưng bởi sự thu hẹp nơi cư trú (điển hình là dưới 100km2) hoặc số địa
điểm tìm thấy (điển hình là dưới 5).
Taxon loại này sẽ dễ bị tác động bởi những hoạt động của con người (hoặc các
biến cố mà tác động được tăng cường bởi các hoạt động con người) có thể có
phản ứng rất nhanh trong một tương lai không lường trước được và do vậy, có
thể sẽ trở thành rất nguy cấp, nguy cấp hoặc ngay cả tuyệt chủng trong một
thời gian rất ngắn.


12
E. Phân tích định lượng cho thấy xác suất bị tuyệt chủng ngoài thiên nhiên
ít nhất là 10% trong 100 năm.
6. LR - ít nguy cấp - Lower risk
Một taxon được coi là ít nguy cấp khi không đáp ứng một tiêu chuẩn nào
của các thứ hạng rất nguy cấp, nguy cấp hoặc sẽ nguy cấp. Thứ hạng này có
thể phân thành 3 thứ hạng phụ
6. 1. Phụ thuộc bảo tồn (cd) - Conservation dependent

Bao gồm các taxon hiện là đối tượng của một chương trình bảo tồn liên tục,
riêng biệt cho taxon đó hoặc nơi ở của nó; nếu chương trình này ngừng lại, sẽ
dẫn tới taxon này bị chuyển sang một trong các thứ hạng trên trong khoảng
thời gian 5 năm.
6. 2. Sắp bị đe doạ (nt) - Near threatened
Bao gồm các taxon không được coi là phụ thuộc bảo tồn nhưng lại rất gần với
sẽ nguy cấp.
6. 3. Ít lo ngại (lc) - Least concern
Bao gồm các taxon không được coi là phụ thuộc bảo tồn hoặc sắp bị đe doạ.
7. DD - Thiếu dẫn liệu - Data deficient
Một taxon được coi là thiếu dẫn liệu khi chưa đủ thông tin để có thể
đánh giá trực tiếp hoặc gián tiếp về nguy cơ tuyệt chủng, căn cứ trên sự phân
bố và tình trạng quần thể. Một taxon trong thứ hạng này có thể đã được
nghiên cứu kỹ, đã được biết nhiều về sinh học, song vẫn thiếu các dẫn liệu
thích hợp về sự phân bố và độ phong phú. Như vậy, taxon loại này không
thuộc một thứ hạng bị đe dọa nào, cũng không tương ứng với thứ hạng LR (ít
nguy cấp).
8. NE - Không đánh giá - Not evaluated
Một taxon được coi là không đánh giá khi chưa được đối chiếu với
các tiêu chuẩn phân hạng.


13
3. Những dược liệu có nguy cơ bị đe dọa và nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam [3]
Một số dược liệu có nguy cơ bị đe dọa và nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam
(Nghị định số 32/2006/NĐ-CP)
TT

Tên Việt Nam


Tên khoa học

1

Hoàng đàn

Cupressus torulosa

2

Bách Đài Loan

Taiwania cryptomerioides

3

Bách vàng

Xanthocyparis vietnamensis

5

Thông Pà cò

Pinus kwangtungensis

6

Thông đỏ nam


Taxus wallichiana (T. baccata
wallichiana)

7

Thông nước (Thuỷ tùng)

Glyptostrobus pensilis

8

Hoàng liên gai (Hoàng mù)

Berberis julianae

9

Hoàng mộc (Nghêu hoa)

Berberis wallichiana

10

Hoàng liên Trung Quốc

Coptis chinensis

11

Hoàng liên chân gà


Coptis quinquesecta

12

Tê giác một sừng

Rhinoceros sondaicus

13

Hươu xạ

Moschus berezovskii

14

Sơn dương

Naemorhedus (Capricornis)
sumatraensis

15

Sao la

Pseudoryx nghetinhensis

16


Rùa hộp ba vạch

Cuora trifasciata

12

Đỉnh tùng (Phỉ ba mũi)

Cephalotaxus mannii

18

Bách xanh (Tùng hương)

Calocedrus macrolepis

19

Bách xanh đá

Calocedrus rupestris


14
20

Pơ mu

Fokienia hodginsii


21

Thông Đà Lạt (Thông 5 Đà Lạt)

Pinus dalatensis

22

Thông lá dẹt

Pinus krempfii

23

Thông đỏ bắc (Thanh tùng)

Taxus chinensis

24

Sa mộc dầu

Cunninghamia konishii

25

Sâm vũ diệp (Vũ diệp tam thất)

Panax bipinnatifidum


26

Tam thất hoang

Panax stipuleanatus

27

Sâm Ngọc Linh (Sâm Việt Nam)

Panax vietnamensis

28

Các loài Tế tân

Asarum spp.

29

Đẳng sâm (Sâm leo)

Codonopsis javanica

30

Cẩm lai (Cẩm lai bà rịa)

Dalbergia oliveri
(D. bariensis, D. mammosa)


31

Gù hương (Quế balansa)

Cinnamomum balansae

32

Vù hương (Xá xị)

Cinnamomum parthenoxylon

33

Vàng đắng

Coscinium fenestratum

34

Hoàng đằng (Nam hoàng liên)

Fibraurea tinctoria (F. chloroleuca)

35

Các loài Bình vôi

Stephania spp.


36

Thổ hoàng liên

Thalictrum foliolosum

37

Bách hợp

Lilium brownii

38

Thạch hộc (Hoàng phi hạc)

Dendrobium nobile

39

Cheo cheo lớn

Tragulus napu

40

Tê tê Java

Manis javanica


41

Tê tê vàng

Manis pentadactyla

42

Rắn hổ mang

Naja naja


15
43

Mang lớn

Megamuntiacus vuquangensis

44

Mang Trường Sơn

Muntiacus truongsonensis

45

Hổ mang chúa


Ophiophagus hannah

46

Kỳ đà vân

Varanus bengalensis (V. nebulosa)

47

Kỳ đà hoa

Varanus salvator

48

Trăn cộc

Python curtus

49

Trăn gấm

Python reticulatus

50

Rắn ráo trâu


Ptyas mucosus

51

Rắn cạp nia nam

Bungarus candidus

52

Rắn cạp nia bắc

Bungarus multicinctus

53

Rắn cạp nong

Bungarus fasciatus

54

Rắn hổ mang

Naja naja

55

Rùa đầu to


Platysternum megacephalum

56

Rùa đất lớn

Heosemys grandis

57

Rùa răng (Càng đước)

Hieremys annandalii

58

Rùa trung bộ

Mauremys annamensis

59

Rùa núi vàng

Indotestudo elongata

60

Rùa núi viền


Manouria impressa

61

Bào ngư chin lỗ

Haliotis diversicolor

62

Tu hài

Lutraia rhynchaena

II. Thực trạng về khai thác thuốc từ dược liệu quý ở Việt Nam đến nguy cơ
tuyệt chủng
Việt Nam có điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi nên có nguồn tài nguyên


16
dược liệu rất phong phú và đa dạng. Qua các số liệu điều tra đã thống kê được trên
5000 loài thực vật được dùng làm thuốc.

[1]

Theo số liệu thống kê của Viện Dược

Liệu- Bộ Y tế nhu cầu dược liệu từ 50.000-60.000 tấn/ năm, công tác phát triển dược
liệu đã và đang được Đảng, Nhà nước quan tâm. Nhiều địa phương đã đầu tư các

vùng trồng dược liệu bền vững, góp phần tăng thu nhập cho người dân và đáp ứng
nhu cầu nguyên liệu đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên, trước nhu cầu về dược liệu, do
sự tác động của người thu mua, nhận thức và ý thức của người dân, công tác quản lý
chưa đáp ứng nhu cầu...nên việc khai thác tài nguyên dược liệu thường diễn ra bừa
bãi, không chú ý đến khả năng tái sinh của các loài. Với nhu cầu sử dụng các loài
dược liệu làm thuốc ngày càng tăng, do khai thác liên tục trong nhiều năm không chú
ý tới bảo vệ tái sinh, cộng với nhiều nguyên nhân khác đã làm cho nguồn tài nguyên
dược liệu Việt Nam bị giảm sút nghiêm trọng, nhiều loài đang đứng trước nguy cơ bị
tuyệt chủng. Bên cạnh đó, do nhu cầu phát triển xã hội, việc chuyển đổi mục đích sử
dụng đất làm các công trình, nhất là thủy điện, thủy lợi, nạn đốt phá rừng, khai thác
rừng bừa bãi. Do vậy đã làm nguồn tài nguyên dược liệu của Việt Nam suy giảm
nghiêm trọng. Có nhiều loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Theo đánh giá,
hiện Việt Nam có tới 144 loài cây dược liệu có tên trong Sách đỏ Việt Nam (2007). [10]
Những năm qua chúng ta đã đạt được nhiều thành công trong công tác phát
triển, bảo tồn, khai thác sử dụng dược liệu chăm sóc bảo vệ sức khoẻ, tuy nhiên còn
nhiều bất cập trong nghiên cứu, quản lý khai thác và phát triển dược liệu.
Lợi ích nhiều mặt thu được từ nguồn tài nguyên cây thuốc Việt Nam thực sự là
lớn lao. Song thực trạng hiện nay do con người đang gây ra là 1 thảm họa, nạn phá
rừng tràn lan, khai thác dược liệu bừa bãi, chưa có kế hoạch tái sinh phát triển, nhiều
loài cây thuốc mọc tự nhiên cho nhiều loại dược liệu quý trong rừng bị phá hủy đã và
đang làm cho vốn quý đa dạng sinh học cây thuốc ngày càng bị cạn kiệt. [4]
Theo Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến, mặc dù có tiềm năng, thế mạnh về dược


17
liệu nhưng số lượng loài cây dược liệu có khả năng khai thác tự nhiên còn rất ít (trên
cả nước hiện chỉ còn khoảng 206 loài cây dược liệu có giá trị có thể khai thác tự
nhiên), nhiều loài cây dược liệu quý hiếm trong nước đang đứng trước nguy cơ cạn
kiệt. Thậm chí, nhiều cây thuốc đã được đưa vào sách đỏ vì có nguy cơ bị tuyệt
chủng.

Thật nghịch lý khi chúng ta đang sở hữu một “kho vàng” có giá trị rất cao về y học và
kinh tế nhưng hàng năm Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn dược liệu từ nước
ngoài, chủ yếu là từ Trung Quốc.
Thạc sĩ Phạm Tiến Thịnh, chi cục kiểm lâm tỉnh Yên Bái là người tiên phong
nghiên cứu nguồn gen cây thuốc Việt Nam tâm sự. “ Nguồn tài nguyên cây thuốc của
nước ta bị 1 số nhà khoa học và công ty nước ngoài lợi dụng khai thác các nguồn gen
quý hiếm đưa về nước hay bị khai thác trao bán cho các nước khác để kiếm lời. Tình
trạng chảy máu tài nguyên dược liệu cực kỳ trầm trọng đối với các dược liệu hoang
dại ở các tỉnh biên giới”. [5]
Do khai thác tài nguyên kéo dài cộng với nhiều nguyên nhân tác động khác,
nguồn cây thuốc tự nhiên nói chung đều đã bị suy giảm, nhất là các cây thuốc có giá
trị sử dụng phổ biến. Trước kia 1 số dược liệu có thể khai thác hàng chục ngàn
tấn/năm như: ba kích, đảng sâm, hoàng tinh....thì thực tế hiện nay các cây thuốc này
đã được đưa vào sách đỏ vì có nguy cơ bị tuyệt chủng. Nghiêm trọng hơn là đối với 1
số cây thuốc vốn được coi là quý ở Việt Nam do bị tìm kiếm không ngừng hoặc vô
tình bị tàn phá hiện đang đứng trước nguy cơ bị cạn kiệt ở các mức độ khác nhau như:
hoàng liên đặc trưng của dãy Hoàng liên sơn nay chỉ tìm thấy dạng dấu tích. [4]
Ví dụ về nạn khai thác dược liệu trái phép ở rừng Quốc gia Pù Mát tỉnh Nghệ
An. [6]
Năm 2004, Viện Dược liệu, Bộ Y tế cùng Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Y tế
Nghệ An đã điều tra khảo sát 50% số xã thuộc miền tây Nghệ An cho thấy: Nghệ An


18
có tới 962 loài cây thuốc, trong đó nhiều loài có giá trị cao như sâm Puxailaleng,
Đẳng sâm, Bảy lá một hoa, Lan Kim tuyến, Sa nhân, Hà thủ ô trắng, Nấm Linh chi
đỏ, Giảo cổ lam, Đông trùng hạ thảo… Nghệ An còn có 31 loài cây thuốc thuộc diện
quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng cần bảo tồn theo sách đỏ Việt Nam. Đây là địa
phương có tiềm năng lớn để phát triển công nghiệp dược phẩm, gắn với trồng, sản
xuất nguồn nguyên liệu dược.

Tuy nhiên, thời gian qua, vấn đề phát triển công nghiệp dược và dược liệu trên
địa bàn chưa được quan tâm đúng mức. Nguồn cây thuốc ở Nghệ An đã và đang bị
suy giảm nhiều, hầu hết các loại cây thuốc có giá trị sử dụng và kinh tế cao đang mất
dần khả năng khai thác lớn do sự khai thác thiếu chú ý bảo vệ tái sinh và do nạn phá
rừng làm rẫy. Doanh nghiệp dược chưa chú trọng phát triển lĩnh vực đông dược, trong
khi dược liệu trên địa bàn tỉnh bị tư nhân thu mua nhiều chở sang biên giới... Hiện
việc trồng, phát triển cây dược liệu vẫn đang ở quy mô nhỏ, tự phát.
Thời gian gần đây, tại các huyện miền núi Nghệ An, người dân “ vô tư” vào
rừng tìm khai thác các loại cây dược liệu như cu li, cây ba gạc, cây huyết đằng, củ ba
mươi mang về bán cho các thương lái ở địa phương để bán cho đầu mối thu gom xuất
đi nước ngoài. Những ngày vừa qua, tại các huyện: Anh Sơn, Con Cuông, Tương
Dương, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong xuất hiện nhiều thương lái thu gom dược
liệu. Hàng trăm người dân đổ xô vào rừng, tận diệt loài cây quý khiến Vườn quốc gia
Pù Mát, khu dự trữ sinh quyển có vành đai xanh lớn nhất Đông - Nam Á bị đe dọa
nghiêm trọng.
Có thời điểm các điểm thu gom cây chua ke (một loại cây chứa dược liệu lại có
khả năng che chắn, chống xói mòn, sạt lở đất) hoạt động nhộn nhịp ngày đêm, với
hàng chục tấn lá chua ke được thu mua mỗi ngày. Một số vùng trọng điểm như: thôn
Tiến Thành, xã Chi Khê, huyện Con Cuông; bản Lũng, xã Tam Thái, huyện Tương
Dương; bản Hốc, xã Diên Lãm, huyện Quỳ Châu. Theo người dân, một kg lá chua ke
khô, thương lái mua với giá bảy đến tám nghìn đồng, nếu lá tươi sẽ có giá khoảng hai


19
nghìn đồng. Năm 2014, tại huyện Anh Sơn, chỉ tính riêng một điểm tại xã Đỉnh Sơn,
mỗi ngày lượng cây chè cỏ đã được thu mua khoảng 20 tấn cây tươi, với giá 800
đồng/kg.
Tại xã Châu Quang, huyện Quỳ Hợp, các loại cây dược liệu này được thương
lái thu mua, đem phơi ven đường và các bãi đất trống. Một người làm thuê cho
thương lái ở đây cho biết, cứ vài ba ngày, người chủ thu mua dược liệu lại chất đầy xe

tải đem sang nước ngoài bán. Theo anh Vi Văn H, trú tại huyện Tương Dương,
chuyên khai thác cây dược liệu từ rừng về bán, cho biết, trước đây, các khu rừng này
có nhiều cây cu li. Thấy nhiều người đến mua, dân bản kéo nhau vào rừng chặt, cho
nên bây giờ, đi cả ngày cũng chỉ chặt được khoảng 20 kg.
Một cán bộ lâm nghiệp ở Con Cuông cho biết, tình trạng người dân bản địa đổ
xô vào vườn quốc gia khai thác dược liệu bắt đầu từ khoảng ba năm trở lại đây. Ban
đầu, bà con khai thác ở vùng đệm, chủ yếu trên nương rẫy. Khi nguồn dược liệu cạn
dần, không ít người tràn sang khu vực bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn quốc gia Pù Mát
để săn tìm. Nhiều loại cây dược liệu, chủ yếu là dây máu chó, hoằng đằng, quả bo bo,
củ thiên niên kiện, hạt sa nhân… trước đây mọc khắp nơi, chẳng ai để ý; nay trước sự
khai thác ồ ạt của người dân, những loại cây này đang có nguy cơ bị xóa sổ. Hạt kiểm
lâm huyện Con Cuông xác nhận việc người dân khai thác các loại cây dược liệu trên
địa bàn để bán lại cho thương lái. Dù biết đây là hiểm họa khó lường, ảnh hưởng
không nhỏ đến môi trường sinh thái, nhưng, muốn xử lý nạn khai thác lâm sản phụ
đang diễn ra tràn lan ở các huyện miền núi như hiện nay phải chờ quy định ra đời mới
có thể xử lý...
Vào tháng 7-2015, tỉnh Nghệ An tổ chức hội thảo khoa học “Phát triển cây
dược liệu thành cây chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An”. Tại hội
thảo, các nhà khoa học, quản lý, đại diện các doanh nghiệp đã tập trung thảo luận
đánh giá thực trạng trồng và phát triển dược liệu, đồng thời đề xuất xây dựng quy
hoạch và chiến lược phát triển dược liệu của tỉnh Nghệ An đến năm 2020 và định


20
hướng đến 2030; thảo luận về công tác quy hoạch các vùng trọng điểm bảo tồn, phát
triển nguyên liệu cây dược liệu; thúc đẩy xã hội hóa trong công tác bảo tồn và phát
triển cây dược liệu. Công tác kết nối các doanh nghiệp trong và ngoài nước cùng với
tỉnh xây dựng vùng nguyên liệu và đầu tư nhà máy chế biến dược phẩm cũng được
hội thảo đề cập, từ đó đề xuất các chính sách khuyến khích, thu hút doanh nghiệp đầu
tư phát triển vùng trồng nguyên liệu tại Nghệ An.

Trước mắt, các ngành, các cấp cần sớm có biện pháp ngăn chặn cây dược liệu
mọc tự nhiên quý hiếm trong rừng đang ồ ạt “chạy” sang nước ngoài.
“Phát triển công nghiệp dược phẩm gắn liền với trồng, sản xuất cây dược liệu là
định hướng lớn, cần tập trung đẩy mạnh của Nghệ An trong thời gian tới. Cây dược
liệu chính là cây chiến lược để giúp miền tây Nghệ An thoát nghèo. UBND tỉnh Nghệ
An sẽ giao cho các sở, ban, ngành và đơn vị liên quan xây dựng chiến lược phát triển
cây dược liệu”.
HUỲNH THANH ĐIỀN
Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An
“Thương lái nước ngoài mua dược liệu thô với giá rẻ nhưng sau khi chế biến, họ nhập
lại Việt Nam với giá cắt cổ. Trong khi đó, chất lượng dược liệu mua từ nước ngoài lại
không được cam kết, bảo đảm một cách chắc chắn an toàn cho sức khỏe người sử
dụng vì chúng ta không trực tiếp kiểm tra, giám sát quá trình khai thác, sơ, chế biến”.
TRƯƠNG VĂN HIỀN
Tổng Giám đốc Tổng Công ty CP vật tư nông nghiệp Nghệ An
“Do khai thác liên tục nhiều năm, thiếu chú ý bảo vệ tái sinh, cộng với nạn phá rừng
làm nương rẫy nên nhiều loài cây thuốc quý có trữ lượng lớn bị suy giảm nghiêm
trọng. Vì vậy, Nghệ An cần xây dựng một kế hoạch lâu dài để khai thác và sử dụng
bền vững nguồn tài nguyên cây thuốc”.


21
Vào đầu thế kỷ này, Việt Nam có khoảng 60% diện tích được rừng che phủ, giờ
đây giảm xuống còn 20%. Trong đó chỉ có 3% hoặc ít hơn rừng nhiệt đới là chưa bị
xâm phạm. [4]
Việc sử dụng nguồn nguyên liệu dược liệu hiện nay có rất nhiều vấn đề báo động.
Theo ước tính, nguyên liệu làm thuốc có nguồn gốc thảo mộc được sử dụng hàng năm
tại cộng đồng, tại các cơ sở y tế, phòng khám đông y, sản xuất và kinh doanh...khoảng
50000 tấn/năm thì 15% nguyên liệu do thu hái và khai thác tự nhiên, và còn lại do
nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ.[1] Thực trạng của nguyên liệu

này hiện nay:


Đối với nguyên liệu tự nhiên, mọc hoang dại, vấn đề khai thác quá mức, không
có sự kiểm soát của các cấp các ngành đã làm cho không phát triển và bảo tồn



bền vững được.
Đối với nguồn nguyên liệu được trồng trọt tại các khu vực, làng nghề truyền
thống như: Thanh Trì, Ninh Hiệp (Gia Lâm), Nghĩa Trai (Hưng Yên), Lạc Yên
(Yên Bái), Trà My (Quảng Nam), núi Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Sa Pa (Lào Cai),
Sìn Hồ (Lai Châu), Đà Lạt do không có kế hoạch điều tiết nên việc trồng trọt
biến thiên tăng, giảm thất thường theo cơ chế thị trường, có khi đột biến về giá
cả tăng gấp 2, 3 chục lần vì trồng ít mà nhu cầu sử dụng và xuất khẩu tăng dẫn
đến việc tư nhân làm hàng giả để chạy theo lợi nhuận, dẫn đến chất lượng dược
liệu giảm và không an toàn cho người sử dụng, hay có khi bị mất mối nhập
khẩu nguyên liệu (Ví dụ như quế, sả) thì người dân lại phá đi 1 diện tích lớn



cây thuốc đã được trồng lâu đời vì ế không ai mua.
Đối với dược liệu nhập từ Trung Quốc hay còn gọi là thuốc bắc thì khi nhập các
vị thuốc bắc qua biên giới, Nhà nước chỉ coi là 1 loại hàng hóa bình thường
như đồ gia dụng chứ không tính đến đó là 1 sản phẩm đặc biệt, đó là thuốc ảnh
hưởng đến tính mệnh của con người. Theo đánh giá của các kiểm nghiệm dược
liệu thì trên thị trường thuốc đông dược (nguyên liệu thô) hiện nay có rất nhiều


22

vị dược liệu chỉ lalà hàng trung phẩm hay thứ phẩm của Trung Quốc được bán
sang Việt Nam và do thiếu nguyên liệu nên rất nhiều dược liệu bị dùng thay thế
bởi các nguyên liệu rẻ tiền hơn, kém chất lượng hơn ví dụ như vị Hoài sơn,
dược liệu là rễ của cây củ mài nhưng hiện nay trên thị trường chỉ có củ cọc, củ
mỡ được bán dưới tên hoài sơn. Hay vị thuốc Đan sâm, nếu mua ở phố Lãn
Ông các thời kỳ khác nhau thì nguyên liệu hoàn toàn khác nhau, có những đợt
nguyên liệu được nhuộm màu đỏ để có màu nâu đỏ tự nhiên của vị đan sâm,
nhưng khi dùng nước rửa thì màu đỏ này thôi ra và dược liệu không có vỏ màu
đỏ nữa. [4]
Những loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng bởi nạn săn bắt trái phép ở nước ta do
có những quan niệm sai lầm về công dụng chữa bệnh của chúng như:
Sừng tê giác theo phương pháp dân gian cho rằng nó có vị đắng, tính hàn có tác dụng
thanh nhiệt, giải độc, lương huyết, an thần và chữa các bệnh như sốt cao, hôn mê nói
nhảm, co giật, sốt phát ban. Theo như truyền miệng thì sừng tê giác có tác dụng chữa
ung thư, bồi bồ cơ thể khỏe mạnh, chữa yếu sinh lý, cường dương cho nam giới.
Vẩy tê tê, mật gấu, cao khỉ… Tình trạng săn bắt, giết hại và buôn bán động vật hoang
dã tuy không mới nhưng chưa bao giờ là cũ, và ngày càng nhức nhối hơn khi những
hành vi trái pháp luật, trái đạo đức này có dấu hiệu gia tăng trở lại, bởi các đối tượng
buôn lậu đang kiếm được lợi nhuận “khủng” từ việc buôn bán này.
Sự nhẫn tâm và những thủ đoạn tinh vi của những đối tượng săn bắt đã gây ra hậu quả
nghiêm trọng cho các loài động vật rừng, trong số đó có không ít những loài động vật
quý hiếm có trong sách đỏ quốc gia và quốc tế như: tê giác, hổ, voi, khỉ, gấu…
Từ rừng núi biên cương cho đến các khu bảo tồn quốc gia, tình trạng săn bắt
động vật hoang dã đã lên đến mức báo động, nơi nào động vật hoang dã cũng bị săn
đuổi. Chạy theo lợi nhuận trước mắt, những đối tượng săn bắt động vật hoang dã đã
không quan tâm đến quy định của pháp luật, cũng như hệ sinh thái tự nhiên đang dần
biến mất. Đáng chú ý, ngay tại thủ đô Hà Nội, việc buôn bán động vật hoang dã cũng


23

diễn ra công khai. [7]
Không những thế, cùng với nạn khai thác rừng trái phép và đốt rừng làm nương
rẫy cũng để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đến các loài động vật. Nhiều loài
động vật bị mất đi do không có nơi cư trú.
III.

Các phương pháp bảo tồn nguồn dược liệu ở Việt Nam

Để ngăn ngừa sự suy thoái đa dạng sinh học, Việt Nam đã tiến hành công tác bảo
tồn đa dạng sinh học khá sớm. Hai phương pháp bảo tồn phổ biến được áp dụng ở
Việt Nam là: Bảo tồn nội vi hay nguyên vị (Insitu conservation) và bảo tồn ngoại vi
hay chuyển vị (Exsitu conservation).
1. Bảo tồn nội vi (Insitu)
* Khái niệm: Bảo tồn nguyên vị hay bảo tồn tại chỗ, bảo tồn nội vi, bảo tồn insitu là biện pháp bảo vệ tại chỗ tất cả các HST, các nơi sinh cư và các loài trong môi
trường tự nhiên của chúng. Có thể nói đây là biện pháp hữu hiệu nhất bảo tồn tính
ĐDSH.
Bảo tồn nội vi bao gồm các phương pháp và công cụ nhằm mục đích bảo vệ các
loài, các chủng và các sinh cảnh, các hệ sinh thái trong điều kiện tự nhiên.
* Phương pháp thực hiện: Tuỳ theo đối tượng bảo tồn để áp dụng các hình thức
quản lý thích hợp. Thông thường bảo tồn nguyên vị được thực hiện bằng cách thành
lập các khu bảo tồn và đề xuất các biện pháp quản lý phù hợp.
Bảo tồn nội vi là hình thức bảo tồn chủ yếu ở Việt Nam trong thời gian vừa qua.
* Thành tựu đã đạt được:
Kết quả của phương pháp bảo tồn này thể hiện rõ rệt nhất là đã xây dựng và đưa
vào hoạt động một hệ thống rừng đặc dụng.


24
Việt Nam là một trong những nước sớm quan tâm đến vấn đề bảo tồn tài nguyên
đa dạng sinh học.

- Ngày 7 tháng 7 năm 1962, Vườn quốc gia Cúc Phương là KBT đầu tiên được
thành lập ở miền Bắc. Thời gian đầu gọi là khu “rừng cấm” Cúc Phương, đây là khu
bảo tồn thiên nhiên đối với hệ động thực vật trên núi đá vôi nằm tiếp giáp ở vùng sinh
thái đồng bằng Bắc bộ và Tây Bắc.
- Ở miền Nam, năm 1965, Phạm Hoàng Hộ và Phùng Trung Ngân đã đề nghị và
được chính phủ Sài Gòn quyết định thành lập 10 khu bảo vệ vùng thấp: Côn Đảo,
Châu Đốc, Bảo Lộc, Rừng cấm săn bắn Đức Xuyên (Buôn Ma Thuột), đảo Hoang
Loan và Mũi Dinh. Vùng núi cao có 3 khu: Chư Yang Sin (2405m), Đỉnh Lang Bian
(2183m) và Bạch Mã-Hải Vân (1450m). Theo số liệu của IUCN (1974) miền Nam Việt
Nam có 7 khu bảo tồn với diện tích 753.050 ha (Cao Văn Sung- Hệ thống các khu bảo
vệ thiên nhiên ở Việt Nam- 1994).
Sau ngày thống nhất đất nước hệ thống các KBT được dần dần mở rộng, bổ sung
và hoàn thiện cả về quy mô diện tích, và hệ thống quản lý bảo vệ. Hệ thống các KBT
của Việt Nam hiện nay có 211 khu, bao gồm:
- Các KBT rừng (Khu rừng đặc dụng) thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn đang quản lý 128 KBT ( đã được Chính phủ công nhận).
- Các khu bảo tồn biển do Bộ Thủy sản đề xuất 15 KBT.
- Khu bảo tồn đất ngập nước do Bộ Tài nguyên và môi trường đề xuất 68 KBT.
Các KBT đất ngập nước và trên biển hiện mới chỉ mới đề xuất, nhưng chưa có
quyết định phê duyệt chính thức.

Bảng 5. Phân loại hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam. [8]
T.T

Loại

Số lượng

Diện tích (ha)



25
Vườn Quốc gia

30

1.041.956

II

Khu Bảo tồn thiên nhiên

60

1.184.372

IIa

Khu dự trữ thiên nhiên

48

1.100.892

IIb

Khu bảo tồn loài/sinh cảnh

12


83.480

III

Khu Bảo vệ cảnh quan

38

173.764

Tổng cộng (Khu bảo tồn)

128

2.400.092

Trong 128 KBT rừng hiện nay có 30 Vườn quốc gia (VQG), 48 Khu dữ trữ thiên
nhiên, 12 khu bảo tồn loài và sinh cảnh, 38 khu bảo vệ cảnh quan, với tổng diện tích
2.400.092 ha, chiếm gần 7,24% diện tích tự nhiên trên đất liền của cả nước. Một số
khu rừng nghiên cứu tại các Viện, Trung tâm, các trường học cũng đã được thống kê
vào trong hệ thống rừng đặc dụng, theo Luật bảo vệ và phát triển rừng sửa đổi năm
2004.
Hê thống các khu rừng đặc dụng hiện có phân bố rộng khắp trên các vùng sinh
thái toàn quốc. Tuy nhiên hệ thống các khu rừng đặc dụng hiện nay có đặc điểm là
phần lớn các khu rừng đặc dụng đều có diện tích nhỏ, phân bố phân tán. Trong số 128
KBT có 14 khu có diện tích nhỏ hơn 1000 ha, chiếm 10,9%. Các khu có diện tích nhỏ
hơn 10.000 ha là 52 khu, chiếm 40,6% các khu bảo tồn, bao gồm VQG 4 khu, 9 khu
dữ trữ thiên nhiên, 9 khu bảo vệ loài, 30 khu bảo vệ cảnh quan. Chỉ có 12 khu có diện
tích từ 50.000 ha trở lên. Nhiều khu bảo tồn còn bao chiếm nhiều diện tích đất nông
nghiệp, đất thổ cư, ranh giới một số khu bảo tồn trên thực địa chưa rõ ràng, còn có

tranh chấp, tính liên kết các khu yếu, chưa hình thành được các hành lang liên kết các
KBT nhỏ, có nhiều đặc điểm giống nhau v.v.
Trong nông nghiệp và lâm nghiệp, bảo tồn nguyên vị được hiểu là việc bảo tồn
các giống loài cây trồng nông nghiệp và cây rừng được trồng tại đồng ruộng hay rừng


×