Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Văn học tran le _dan gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.11 KB, 15 trang )

Văn học tran _le


Mục lục
1

2

Văn học Việt Nam thời Trần

1

1.1

Tổng quan văn học thời Trần . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

1

1.2

Điều kiện phát triển . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

1

1.3

Sự xuất hiện của thơ văn chữ Nôm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

1

1.3.1



Hàn uyên . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

1

1.3.2

ơ văn chữ Nôm đời Trần . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

2

1.4

Các thể loại và một số tác phẩm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

2

1.5

Tác giả và tác phẩm tiêu biểu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

2

1.5.1

Trần ốc Tuấn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

2

1.5.2


Trần ang Khải . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

2

1.5.3

Trần ái Tông . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

1.5.4

Trần ánh Tông . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

1.5.5

Trần Nhân Tông . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

1.5.6

Chu Văn An . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

1.5.7


Trương Hán Siêu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

1.5.8

Mạc Đĩnh Chi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

1.5.9

Hồ ý Ly . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

1.5.10 Lê Trắc . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

1.5.11 Sử Hy Nhan . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

1.6

Liên kết ngoài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3


1.7

Chú thích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

4

1.8

Liên kết ngoài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

4

Văn học Việt Nam thời Tiền Lê

5

2.1

Khái quát . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

5

2.2

Tác phẩm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

5

2.2.1


ơ sấm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

5

2.2.2

Văn chương bang giao . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

5

2.2.3

Nam quốc sơn hà . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

6

2.2.4

ốc tộ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

7

2.3

Xem thêm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

8

2.4


am khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

8

2.5

Liên kết ngoài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

8

i


ii

MỤC LỤC
2.6

3

Chú thích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

8

Văn học dân gian

9

3.1


Đặc trưng của văn học dân gian . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

9

3.1.1

Tính truyền miệng của văn học dân gian

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

9

3.1.2

á trình sáng tác tập thể (Tính tập thể)

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

9

3.1.3

Tính hiện thực của văn học dân gian . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

9

Hệ thống thể loại của văn học dân gian . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

9


3.2.1

ần thoại

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

9

3.2.2

Sử thi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

9

3.2.3

Truyền thuyết

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

9

3.2.4

Cổ tích

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

10


3.2.5

Ngụ ngôn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

10

3.2.6

Một số thể loại khác . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

11

3.3

Xem thêm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

11

3.4

Chú thích

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

11

3.5

Nguồn, người đóng góp, và giấy phép cho văn bản và hình ảnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


12

3.5.1

Văn bản . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

12

3.5.2

Hình ảnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

12

3.5.3

Giấy phép nội dung . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

12

3.2


Chương 1

Văn học Việt Nam thời Trần
Văn học đời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong không ngừng qua suốt các đời vua. Năm Kiến Trung
thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225-1400).
thứ tám (1232), vua ái Tông đã cải tổ lại việc thi

cử của đời Lý, mở kỳ thi ái học sinh để tuyển mộ
người hiền; năm iên Ứng Chính Bình thứ năm (1243)
1.1 Tổng quan văn học thời Trần vua đặt Phạm Ứng ần làm chức quan ượng thư
tri ốc tử giám đề điệu, ra lệnh các con quan văn
Nước Việt dưới đời Trần xuất hiện nhiều thiên tài quân phải vào trường này học; năm iên Ứng Chính Bình
sự, tạo nên những chiến công sáng chói trong lịch sử thứ mười (1247) ái Tông lập thêm tam khôi: trạng
dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, nhân tài đời Trần nguyên, bảng nhãn, thám hoa để khuyến khích thí sinh;
không chỉ giới hạn trong lãnh vực quân sự, mà còn có năm Nguyên Phong thứ ba (1253) ái Tông lập ốc
rất nhiều nhân vật, nhà văn, thơ kiệt xuất trong lãnh học viện để giảng dạy, truyền chiếu toàn quốc cho các
vực văn học. Nếu thi ca và văn chương là nền tảng của học giả, khuyên nên vào ốc học viện giảng đọc Tứ
tư tưởng Việt, tư tưởng từ đó được hệ thống hóa thành thư Ngũ kinh. Đời Nhân Tông năm iệu Bảo thứ ba
nhân sinh quan và triết lý Việt, thì đóng góp của đời (1281), vua lập nhà học ở phủ iên Trường, cử quan
Trần rất quan trọng trong việc phát huy một nền văn về giảng dạy. Đến đời Phế Đế, năm Xương Phù thứ
hóa thuần túy Việt Nam. Bắt nguồn từ một nhân vật bảy (1384) lập thư viện ở núi Lạn Kha , cử Trần Tông
gốc gác ngư dân thuyền chài, không biết gì về văn học, làm trưởng viện giảng dạy học trò, và vua Nghệ Tông
các triều đại nhà Trần đã để lại một nền văn học có thường đích thân thăm viếng. Đời uận Tông, năm
phần vượt trội, hơn hẳn đời nhà Lý. Không những thế, ang ái thứ 10 vua ban chiếu cấp ruộng học cho
dưới các triều đại này việc phổ biến chữ Nôm và ốc các châu phủ có lợi tức, đặt quan Đốc học dạy dỗ các
ngữ thi cho ta thấy người Việt đã bắt đầu phát huy một học trò. Các việc trên đây cho thấy tuy trải qua nhiều
nền văn hóa đầy tự tin và ý thức độc lập, vượt lên khỏi tai biến binh đao, các vua nhà Trần không hề xao lãng
trong việc khuyến khích sự học.
ảnh hưởng sâu đậm của Trung ốc.
Lý do thứ hai văn học đời Trần có những thành công tốt
đẹp là do từ đời uận Tông trở về trước, việc học chú
trọng về kinh thuật, đào tạo cho người học có bản lĩnh
suy luận cơ bản, không chú trọng lối học từ chương.
Do đó, nhà Trần có những học giả kiệt xuất như Chu
Văn An, Trương Hán Siêu, và những nhà tư tưởng độc
lập như Hồ ý Ly. Có học giả bình luận rằng nhờ vậy
văn học đời Trần "…có khí cốt, không ủy mị non nớt

như các đời khác…”

1.2 Điều kiện phát triển

1.3 Sự xuất hiện của thơ văn chữ
Nôm
1.3.1 Hàn Thuyên
Trước đời Trần, văn chương ốc ngữ nước Việt chỉ
có tục ngữ, ca dao, hoặc các loại văn chương bình dân
Một trong những lý do văn học đời Trần có những truyền khẩu . eo Khâm định Việt sử thông giám cương
thành tựu tốt đẹp là do việc học được khuyến khích mục, tháng tám, mùa thu năm iệu Bảo tứ tư đời Nhân
Việt Điện U Linh Tập, phần dẫn nhập, bản Hán văn, 1959

1


2

CHƯƠNG 1. VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI TRẦN

Tông (1282) có con ngạc ngư lớn xuất hiện ở sông
Phú Lương, vua sai quan Hình bộ thượng thư Nguyễn
uyên viết bài văn vất xuống sông đuổi cá. Con cá
bỏ đi, vua xem việc nầy giống sự tích Hàn Dũ ở Trung
ốc, nên ban lệnh đổi tên họ ông thành Hàn uyên
. Ông có biệt tài làm được thơ phú bằng chữ quốc ngữ,
đặt ra Hàn luật. eo Dương ảng Hàm thì Hàn luật
chính là Đường luật ứng dụng vào Việt ngữ, và công
Hàn uyên rất lớn, vì nhờ có ông áp dụng vào thơ phú
chữ Nôm, nhiều người bắt chước theo ông, nên nền văn

chương chữ Nôm được khởi đầu từ đây . Tại Bách khoa
toàn thư Việt Nam viết: Nguyễn uyên là người đầu
tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật
(kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc).

binh oát Hoan tiến đánh Chi Lăng, Trần ốc
Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp. Vua
Nhân Tông thấy thế giặc mạnh, cho vời ông về Hải
Dương mà phán "ế giặc to như vậy, mà chống
với chúng thì dân sự tàn hại, hay là trẫm sẽ chịu
hàng để cứu muôn dân?" Vương tâu: "Bệ hạ nói
câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn Miếu Xã Tắc
thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém
đầu tôi đi đã, rồi sau hãy hàng‼" Vua nghe thế yên
lòng. Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu
20 vạn quân Nam, và thảo bài Dụ chư tỳ tướng
hịch văn ('
), thường gọi là Hịch tướng sĩ)
để khuyên răn tướng sĩ, đại ý khuyên binh sĩ học
tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học
tập trận pháp theo sách Binh thư yếu lược, chuẩn
bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần
thứ 2.

1.3.2

Thơ văn chữ Nôm đời Trần

Sử chép nhiều người đời Trần bắt chước Hàn uyên
làm thơ phú quốc âm, gây thành phong trào làm thơ

phú và viết văn bằng chữ Nôm . Các bài thơ văn này
nay đã thất truyền, nhưng sử còn ghi lại tên một số tác
giả và tác phẩm:
1. Hàn uyên viết Phi sa tập.
2. Nguyễn Sĩ Cố viết một số bài thơ văn chữ Nôm.
3. Chu Văn An viết ốc ngữ thi tập.
4. Hồ ý Ly viết ốc ngữ thi nghĩa.
5. Trong Nghĩa sĩ truyện của Hoàng Trừng có ghi lại
năm bài văn nôm đời Trần chép sự việc Nguyễn
Biểu đi sứ, ăn cỗ đầu người, bị tướng Trương Phụ
chém, như sau:
a) Bài thơ nôm vua Trần tặng Nguyễn
Biểu lúc đi sứ.
b) Bài thơ nôm của Nguyễn Biểu họa
lại.
c) Bài thơ nôm của Nguyễn Biểu viết
lúc ăn cỗ đầu người.
d) Bài văn tế Nguyễn Biểu chữ nôm do
Trần Trùng ang viết.
e) Bài kệ chữ nôm của vị sư chùa Yên
ốc (nơi Nguyễn Biểu bị hành hình)
khen ngợi chí khí của ông.

1.4 Các thể loại và một số tác phẩm
1.5 Tác giả và tác phẩm tiêu biểu
1.5.1

Trần Quốc Tuấn

• Hị tướng sĩ áng 12 năm Giáp ân 1284, hiệu

iệu Bảo năm thứ 6, đời Trần Nhân Tông, đại

• Binh thư yếu lược Do Hưng Đạo Đại Vương Trần
ốc Tuấn soạn, đại ý ghi các điều cốt yếu từ các
binh thư về việc dùng binh, giúp các tướng lãnh
và quân sĩ trau dồi khả năng quân sự.

1.5.2 Trần Quang Khải
• Tòng giá hoàn kinh (
) (còn được biết đến
với các tên Tụng giá hoàn kinh sư, Tụng giá hoàn
kinh sứ) do Trần ang Khải viết sau khi quân
dân nhà Trần chiến thắng quân Nguyên lần thứ
hai. Bài thơ đại ý nói về cảm xúc người tướng khi
theo xa giá vua trở về kinh đô khải hoàn. Hiện còn
hai bản lưu truyền, một của Trần Trọng Kim , một
của Ngô Tất Tố.
• Phúc hưng viên ( ) Sau khi chiến thắng quân
Nguyên, ượng tướng Trần ang Khải về hưu
lúc tuổi già và nghỉ ngơi tại tư dinh của ông, có
vườn riêng tên gọi “Phúc hưng viên”. Bài thơ này
đại ý tả cảnh nhàn nhã thời thanh bình. Hiện còn
một bản lưu truyền của Ngô Tất Tố.
• Lưu gia độ ( ) Bài thơ này đại ý tả cảnh khách
qua bến đò Lưu gia, nhớ lại ngày xưa từng hộ tống
xa giá vua có dừng quân nơi đây, nay non sông thái
bình, trở lại chốn cũ đầu đã bạc, thấy hoa mai nở
trắng xóa như tuyết bên bờ sông. Hiện còn một
bản lưu truyền của Ngô Tất Tố.
• Xuân nhật hữu cảm (

) gồm hai bài thơ xuân,
hiện còn hai bản lưu truyền của Ngô Tất Tố. Bài
thứ nhất đại ý nói mùa xuân, một người đóng chặt
cửa, ngồi nhìn mưa bụi bay trên hoa mai, nghĩ đến
ba phần ngày xuân đà bỏ phí hết hai, nay năm
mươi biết sức đã suy, nhưng hào khí ngày nào
vẫn còn, dùng vào chi hơn là đè ngọn gió Đông
mà làm một bài thơ. Bài thứ hai nói cảnh đêm
xuân gần tàn, dưới bóng trăng mờ thấy hơi lành
lạnh ngọn gió đưa đến, sáng ra mấy chùm bông
liễu trên không bay lạc vào gác, vài cành trúc đập


1.6. LIÊN KẾT NGOÀI
vào hiên như muốn quấy rầy giấc ngủ, xa xa hình
như đang mưa, trong gió đưa lại hơi mát làm mọi
sự tươi tỉnh. Người sực nhớ giật mình, thấy mình
không còn xuân trẻ, nay chỉ có ba chén rượu giải
sầu, nhưng khi say cầm vỗ lại thanh gươm thời
trẻ, thấy nhớ ngọn núi xưa nơi đã tung hoành một
thời.

1.5.3

Trần Thái Tông

• Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh
• Ký anh phong am Tăng Đức Sơn
• Ngưu Mã Bạch Cốt Tinh HOang Dong ai
• Bạch MÃ Sông Toàn Trì Việt ành ốc Khà Ái


1.5.4

Trần Thánh Tông

• Đề Huyền thiên động
• Hạ cảnh

1.5.5

Trần Nhân Tông

• Xuân hiểu
• Nguyệt

1.5.6

Chu Văn An

• ất trảm sớ (bài sớ xin chém bảy quyền thần)
Bài sớ này viết vào đời Dụ Tông, khi Chu Văn An
làm quan trong triều và chứng kiến một số quan
lại hủ bại, bèn viết sớ xin vua chém các người này.
Khi vua không nghe, ông từ quan về hưu và sau
đó không còn tham chính .

1.5.7

Trương Hán Siêu


• Bạ Đằng giang phú (phú sông bạch đằng) Bài
này Trương Hán Siêu tả cảnh sông Bạch Đằng,
nhắc nhở công của quân dân nhà Trần đánh quân
Nguyên, và khuyên hậu duệ trong nước đời sau
nên biết gìn giữ giang sơn .

3

1.5.8 Mạc Đĩnh Chi
• Ngọc tỉnh liên phú (Phú hoa sen ở giếng ngọc)
Năm Hưng Long thứ hai mười hai (1304), đời Trần
Anh Tông, Mạc Đĩnh Chi đi thi, đỗ trạng nguyên,
khi vào chầu, vua thấy người ông nhỏ bé, lại xấu
xí, nên không vui. Ông bèn viết bài phú hoa sen ở
giếng ngọc, tự ví mình như loài hoa sen hiếm quý
chỉ có người sành điệu mới biết thưởng thức. Vua
xem khen hay và bổ ông làm quan .

1.5.9 Hồ Quý Ly
• ốc ngữ thi nghĩa sách dùng chữ quốc ngữ chua
nghĩa Kinh i để các giáo sư dạy hậu phi và cung
nhân. Sách này Hồ ý Ly chú giải theo ý mình,
không theo lời chú thích trước của Chu Tử .
• Minh đạo lục sách gồm 14 thiên, nay đã thất
truyền, nhưng theo sử thì có rất nhiều tư tưởng
mới mẻ về học thuật: (a) về đạo thống, Hồ ý
Ly chủ trương nên tôn Chu Công làm tiên thánh,
giáng Khổng Tử làm tiên sư; (b) về kinh truyện,
ông cho rằng sách Luận ngữ có 4 việc đáng nghi
ngờ; (c) về các danh nho người Hán, ông cho Hàn

Dũ là hạng đạo nho (ăn cắp văn người khác), Chu
Mậu úc, Trình Di, Dương i, Chu Hy, là hạng
học rộng nhưng tài kém, chỉ biết răm rắp theo ý
cũ. Ngô Tất Tố khi bàn về hiện tượng này cho
rằng "…những điều ông ta nói (trong Minh đạo lục)
chẳng những ở ta từ trước đến hồi gần đây chưa ai
nghĩ tới, mà đến ở Tàu, trừ bọn anh nho sinh sau
ý Ly ba bốn thế kỷ, cũng chưa có ai dám nói…"

1.5.10 Lê Trắc
• Nội phụ
• Đô thành

1.5.11 Sử Hy Nhan
• Trảm xà kiếm phú
• Đại Việt sử lược

1.6 Liên kết ngoài

• Linh tế tháp ký

• Khái quát Văn học Lý-Trần, Đại học Sư phạm Cần
ơ, xem tại đây:

• an Nghiêm tự bi văn bài này ghi việc xây dựng
trùng tu chùa an Nghiêm.

• Triết học Trần ái Tông, của Nguyễn Đăng ục,
xem tại đây:



4

CHƯƠNG 1. VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI TRẦN

1.7 Chú thích
1. ^ Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần (VHĐT),
Ngô Tất Tố, Nhà xuất bản Đại Nam, Khai Trí,
Sàigòn, 1960, trang 6
2. ^ Việt Nam Văn Học Sử-Yếu (VHSY), Dương ảng
Hàm, Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo-dục, Sàigòn,
1968, trang 232-238
3. ^ Việt Điện U Linh Tập, Mạnh Nghị Trần Kinh
Hòa, Nhà xuất bản Khai Trí, Sàigòn, 1959, phần
dẫn nhập, trang 5
4. ^ VHĐT, sđd., trang 15-16
5. ^ Việt Nam Sử Lược (VNSL), Trần Trọng Kim,
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo-dục, Sàigòn, 1971
trang 124. Có sách chép là năm iên-ứng chínhbình thứ nhất (1238) thì mở khoa ái học sinh
(VHĐT, sđd., trang 14)
6. ^ nay gọi núi Phật Tích hay núi non Tiên thuộc
xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
7. ^ VHĐT, sđd., trang 16
8. ^ VHĐT, sđd., trang 116-17
9. ^ VHĐT, sđd., trang 6-13
10. ^ VHSY, Dương ảng Hàm, sđd. tr. 235
11. ^ VHSY, Dương ảng Hàm, sđd. tr. 236.
12. ^ VHSY, Dương ảng Hàm, sđd. tr. 237-238
13. ^ VNSL, Trần Trọng Kim, sđd. trang 139
14. ^ VHSY, Dương ảng Hàm, sđd. tr. 235

15. ^ VHĐT, sđd., trang 6
16. ^ VHĐT, sđd., trang 7
17. ^ VNSL, Trần Trọng Kim, sđd. trang 147
18. ^ VHĐT, sđd., trang 85-86
19. ^ VHSY, Dương ảng hàm, sđd., tr. 2, tr. 292
20. ^ VHSY, Dương ảng hàm, sđd., tr. 118, dẫn
Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển
9, chương 7, trang 26a
21. ^ VHSY, Dương ảng hàm, sđd., tr. 119,
22. ^ VHSY, Dương ảng hàm, sđd., tr. 293,
23. ^ VHSY, Dương ảng hàm, sđd., tr. 294

1.8 Liên kết ngoài
• Khái quát văn học Lý - Trần - Giáo trình Đại học
Cần ơ


Chương 2

Văn học Việt Nam thời Tiền Lê
2.2.1 Thơ sấm

Văn học Việt Nam thời Tiền Lê là giai đoạn đầu tiên
của nền văn học Việt Nam, thời kỳ này đã xuất hiện các
tác phẩm nổi tiếng có đề tên tác giả người Việt. Dưới
triều vua Lê Đại Hành, ngoài chiến tích phá Tống - bình
Chiêm lẫy lừng, còn có thành tựu lớn về văn chương.
Hai áng thơ chính luận, hai kiệt tác không tiền khoáng
hậu Nam quốc sơn hà và ốc tộ đều là tác phẩm mở
đầu cho dòng văn học trung đại, đều là sự khai sáng

của tinh thần yêu nước và tinh thần nhân đạo, những
truyền thống lớn của văn hóa, văn học dân tộc. Nam
quốc sơn hà có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập,
còn ốc tộ có giá trị như một bản tuyên ngôn hòa
bình. Hai kiệt tác văn chương xuất hiện ở giai đoạn đầu
tiên của nền văn học dân tộc Việt Nam.

ời này được xem là “vỡ tổ sấm ký" [1] . Người xưa quan
niệm sấm là những điều hiện ra, bày ra trước (Sấm giả triệu dã); sấm lấy quỷ quyệt khéo léo làm lời nói kín, dự
đoán lành dữ. Sấm thời này là sản phẩm của thiền sư,
đạo sĩ, nho giả, mỗi người đều có ý đồ riêng khi tung
ra những lời sấm, mỗi người đều có phần hiếu sự khi
mượn lời thần bí báo trước sự cố cho rằng có ý nghĩa
đổi đời sẽ xảy ra, nhưng phần chắc lại là khẳng định
những biến cố đã xuất hiện. Nói thế vì sấm có thể có
những câu báo trước, nhưng hầu hết lại được đặt ra khi
đã xuất hiện các nhân vật và sự kiện lịch sử hữu quan.
Câu sấm vào loại sớm thời này là:
(Trần ốc Vượng dịch).
Việt sử lược ghi lời sấm xuất hiện vào năm 974, để báo
trước sự kiện sẽ diễn ra vào năm 979, Đại Việt sử ký
toàn thư còn thêm cả chuyện 12 sứ quân và triều Lý
xuất hiện bằng một khổ thơ 4 câu. Về mặt văn học, có
thể xem lời sấm trên đây là sự phản ánh xung đột chết
chóc, và điều tiên tri Hoàng đế anh minh sẽ xuất hiện.
iền sư Vạn Hạnh “hễ nói ra điều gì, thiên hạ đều coi
như lời sấm” [2] , đã hơn một lần báo trước Nhà Lý sẽ
thay Nhà Tiền Lê.

2.1 Khái quát

Văn học thời Tiền Lê đóng góp quan trọng trong việc
khai mở nền văn học Việt Nam. ời kỳ này đã xuất
hiện những tên tuổi như Đỗ Pháp uận, Khuông Việt.
Trước đây, theo quán tính, người Việt thường gọi ơ
văn Lý - Trần hoặc Văn học thế kỷ X - XIV, gồm cả
trước tác của ba triều đại Ngô - Đinh - Lê. Nhưng cả ba
triều đại này, ngoài những vần sấm thi ngang qua, thì
triều Ngô đã có gì, ngoài lời bàn của Ngô yền về kế
sách phá Hoằng ao, chưa đủ tiêu chí là một tác phẩm
văn học thành văn; triều Đinh cũng chưa thấy gì thêm,
ngoài lời sấm "Đỗ ích thí Đinh Đinh…” Chỉ còn triều
Tiền Lê, thời Lê Hoàn, với những phát hiện mới, có thể
khẳng định: Nhà Tiền Lê là một triều đại khai sáng văn
học dân tộc bằng hai kiệt tác thi ca Hán Nôm.

Sấm cho biết một nét sinh hoạt văn hóa tâm linh độc
đáo của cộng đồng, lý tưởng muôn đời của dân tộc:
muốn có thánh đế minh vương để an nguy trị loạn. Sự
phồn thịnh của sấm thi, sấm ngữ, là nét đặc biệt của
tinh thần thời đại.

2.2.2 Văn chương bang giao

ơ văn thời này, ngoài một số bài thơ - kệ của các
iền sư, thấy có ba chủ đề, đề tài nổi bật:

Với tinh thần tự chủ, tự cường, triều đại Lê Đại Hành
còn có danh tác của văn chương bang giao. Văn học
bang giao thời này mở đầu bằng một giai thoại Lý Giác,
sứ thần nhà Tống sang ta năm 987, bẻ bai hai câu thơ

trong bài Vịnh nga của Lạc Tân Vương, để đùa anh lái
đò Pháp uận:

1. ơ sấm,
2. Văn chương bang giao,
3. Văn học yêu nước.

Không ngờ, anh lái đò ung dung ngâm tiếp, cũng cải
biên đôi chữ, cho trọn vẹn áng thơ hay của Lạc Tân
Vương thần đồng Đường thi, khi mười tuổi:

2.2 Tác phẩm

âm ý của Lý sứ thần "điển nhã" đến vậy, mà vẫn bị
5


6
chú lái đò ngang “bắt bài” bằng tinh thần vô tốn (không
thua kém) tri thức văn hóa chung ở các nước đồng văn
trong vùng. Khác với vẻ đẹp nên thơ của một thi thoại,
bài thơ lưu biệt của Lý Giác tặng Pháp uận (lần này
thì với tư cách pháp sư cố vấn của triều đình) đã có sắc
thái chính trị. Pháp uận đem thơ này dâng vua. Vua
cho iền sư Khuông Việt xem. Khuông Việt nói: “ơ
này có ý tôn trọng bệ hạ không khác gì vua Tống” (Đại
Việt sử ký toàn thư). Đó chính là lời thơ ở hai câu kết:
Đến khi Giác ra về cùng năm 987, Khuông Việt làm
bài từ theo điệu Vương lang quy để đưa tiễn, theo lệnh
Lê Hoàn. Khuông Việt tức Ngô Chân Lưu (933-1011),

theo sử sách là hậu duệ của Ngô yền, thời Đinh Tiên
Hoàng được lĩnh chức Tăng thống và được ban hiệu là
Khuông Việt đại sư (nhà sư lớn khuông phò nước Việt).
Dưới triều Lê Đại Hành, sư được vua kính trọng “phàm
các việc quân quốc của triều đình, sư đều được tham
dự". Khi giặc Tống xâm lược, vua sai sư đến đền cầu
đảo thần linh phù hộ, giặc sợ hãi tan chạy”. Sư cùng
Pháp uận được cử ra tiếp sứ, dùng tài ứng đối ngoại
giao khiến Giác kính phục. Bài Vương lang quy dưới
đây, thể hiện một tình cảm chân thành, một thái độ
thân mật, với giọng điệu trữ tình, vừa đằm thắm, hồn
hậu, vừa cứng cáp, sáng trong, vượt qua lối thơ bang
giao thù tạc nhiều sáo ngữ, lắm từ chương:

CHƯƠNG 2. VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI TIỀN LÊ

2.2.3 Nam quốc sơn hà

Chiến tích anh hùng của cộng đồng quốc gia Đại Cồ
Việt thời đại Lê Hoàn, gắn với sự xuất hiện của một bài
thơ huyền thoại: Nam quốc sơn hà. Đầu những năm
90 của thế kỷ XX, nhân đi tìm tác phẩm đầu tiên của
văn học dân tộc, để phản bác một ngộ nhận: Bạch vân
chiếu xuân hải - bài phú khoa Tiến sĩ thời Đường của
Khương Công Phụ (người Việt gốc Hoa, đời thứ ba, thi
đỗ lại trở về đất tổ, làm quan to, có lúc ngang Tể tướng
thời Đường) là tác phẩm đầu tiên của văn học Việt, nhà
nghiên cứu Bùi Duy Tân đã chú ý đến xuất xứ của bài
thơ Nam quốc sơn hà. GS. Trần ốc Vượng mách cho
những dòng viết của GS. Hà Văn Tấn, trong bài Lịch

sử, sự thật và sử học[3]
“Không một nhà sử học nào có thể chứng
minh được rằng bài thơ Nam quốc sơn hà
là của Lý ường Kiệt. Không có một sử
liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép
rằng trong trận chống Tống ở vùng sông
Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng
ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống,
Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý ường
Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể
đoán rằng Lý ường Kiệt là tác giả của bài
thơ. Nhưng đó là đoán thôi, làm sao nói chắc
được bài thơ đó là của Lý ường Kiệt. ế
nhưng, cho đến nay mọi người dường như
đều tin rằng đó là sự thật, hay nói đúng hơn,
không ai dám nghi ngờ đó không phải là sự
thật”.

Bài từ, ngoài cảm xúc chân tình, làm nên giá trị như đã
nói trên, còn giàu ý nghĩa về thể loại. Vương lang quy
là tác phẩm mở đầu cho thể tài từ khúc trong văn học
cổ, một thể tài đang thăng hoa để trở thành danh ngữ
Tống từ, tiếp nối Đường thi, Hán phú… Sư nước Việt
ngâm Tống từ tiễn Tống sứ của nước Đại Tống. “Bài từ
tiễn sứ Lý Giác nhà Tống, lời lẽ nõn nà, có thể vốc được”
(Lê ý Đôn). Tác phẩm quả thực có nhiều chữ hay, tứ
đẹp, vừa lụa là gấm vóc, vừa tao nhã điển chương. Tất
cả nhằm thể hiện ý hướng: dùng ngôn từ nghệ thuật
[4]
chuyển tải đường lối bang giao hòa hợp Nam Bắc, một a xuất xứ bài Nam quốc sơn hà cho thấy:

cách chân tình lịch lãm. Đường lối bang giao ấy là thừa
1. Không có một văn bản nào ghi nhận Lý ường
nhận vai trò bá quyền chủ tể của Bắc triều Đại Tống
Kiệt là tác giả, hoặc tương truyền là tác giả bài
và vị trí chư hầu, phiên quốc của nước Nam. Bảo vệ
thơ.
chính quyền tự chủ là bất di bất dịch, còn thần phục
thiên triều thì có thể uyển chuyển, linh hoạt, sáng tạo,
2. Tất cả các văn bản đều ghi nhận bài thơ là của
cập nhật, thậm chí giả vờ. Sứ mệnh chính trị bang giao
thần. ần đây là Trương Hống, Trương Hát,
của bài ca tiễn sứ đã được đại gia Khuông Việt thể hiện
tướng lĩnh của Triệu ang Phục, bị Lý Phật tử
thành công.
ép hàng, không chịu khuất phục, nên tự tử, trở
Vương lang quy dù có là danh tác văn chương giàu ý
thành phúc thần, được thờ phụng ở gần 300 ngôi
nghĩa lịch sử, thì người ta cũng khó đồng tình với Nhà
đền ven các triền sông Cầu, sông ương…
văn - Giáo sư Trần anh Đạm, khi ông lấy bài này,
3. ần đọc thơ của thần, âm phù dương gian trợ
sóng đôi với bài ốc tộ, xem đó là hai tuyệt tác mở
quốc an dân, chống ngoại xâm, dẹp nổi loạn, trừ
đầu lịch sử văn học Việt Nam thời cổ của hai thiền sư
tai hoạn, kể đã nhiều lần. Nổi bật là hai lần thần
thi sĩ thời này. (Xem Hai thiền sư thi sĩ mở đầu văn học
trực tiếp đọc thơ giúp các tướng lĩnh đánh giặc
cổ điển Việt Nam - Hồn Việt - Nhà xuất bản. Văn học).
cứu nước. Lần thứ nhất giúp Lê Hoàn chống Tống
Dựa vào tư liệu mà giới nghiên cứu cổ Việt Nam học,

(981), lần thứ hai giúp Lý ường Kiệt chống Tống
trong mươi năm gần đây phát hiện, Bùi Duy Tân cho
(1076). Văn bản bài thơ đọc hai lần khác nhau, và
rằng ốc tộ và Nam quốc sơn hà mới là hai kiệt tác
cũng khác nhau ở hầu hết các dị bản còn lại.[5]
ngang qua một đời vua: Lê Đại Hành.
4. Bài thơ không hề được tuyển vào các tuyển tập thơ
ca chữ Hán thời xưa, trước sau nó vẫn là thành


2.2. TÁC PHẨM

7

phần cơ hữu trong truyền thuyết dân gian. Nam
quốc sơn hà chắc là do nhân sĩ thời tự chủ sáng
tác, song đã được dân gian hóa, được hoàn thiện
dần theo đặc trưng tập thể truyền miệng. Rồi sau
được cố định trong thần tích, thần phả, truyện ký,
nhưng vẫn lưu truyền trong dòng đời, qua nhiều
thế hệ, âm phù con cháu đánh giặc cứu nước. Cho
nên, phải coi đó là bài thơ thần, tác giả là khuyết
danh cũng được, nhưng là vô danh, hoặc vô danh
thị thì khoa học hơn.

xưa và hoàng đế Trung Hoa cùng thời. Hơn nữa, thời
này chưa có ngoại xâm lăm le ngoài cõi, chưa cần lời
lẽ “tuyên ngôn”. Mà là ở thời Hoàng đế Lê Hoàn, như
PGS.TS. Trần Bá Chí khẳng định: Nam quốc sơn hà là
bản tuyên ngôn độc lập, chỉ có thể ra đời sau hàng ngàn

năm Bắc thuộc, nhưng không phải vào thời Ngô yền
còn loạn lạc, chưa tức vị, trước khi chống Nam Hán, mà
là ở thời Lê Đại Hành chống Tống khi thể chế, ngôi vị
đã vững vàng, an định[6] . Nguyễn ị Oanh trong một
công trình nghiên cứu trên Tạp chí Hán Nôm (Số 1 2002), bài Về thời điểm ra đời của bài thơ Nam quốc
5. Từ trong những văn bản đáng tin cậy trên đây, sơn hà cũng chỉ ra rằng: bài thơ Nam quốc sơn hà vốn
có thể thấy: ngộ nhận Lý ường Kiệt là tác giả xuất hiện thời Lê Hoàn, như nhiều sách Lĩnh Nam chích
Nam quốc sơn hà của Trần Trọng Kim trong Việt quái đã ghi chép, nhưng nhà sử học Ngô Sĩ Liên, theo
Nam sử lược xuất bản từ 1919-1920, là do tự ý, chứ quan điểm Nho giáo chính thống, ghét cái vô luân của
không dựa vào bất kỳ một tư liệu Hán Nôm nào. Lê Hoàn, ưa lòng trung nghĩa của Lý ường Kiệt, nên
Sau đó, hầu hết các học giả đều sai theo, cho mãi đã đem thơ thần phù trợ vua Lê gán cho phù trợ tướng
đến hết thế kỷ thứ XX, có Hoàng Xuân Hãn, Đặng Lý; nay nên trả bài thơ về cho sĩ dân thời đại Lê Hoàn.
ai Mai hoài nghi.
Nam quốc sơn hà được coi như bản tuyên ngôn độc
Về thời điểm xuất hiện của bài thơ Nam quốc sơn hà lập, vừa khẳng định chủ quyền, lãnh thổ, ngôi vị Nam
cũng như truyền thuyết Trương Hống - Trương Hát, đế, vừa thể hiện niềm tin ta thắng, địch thua, dựa vào
như một tác phẩm nhân gian truyền miệng. Tư liệu còn thiên lý và chính nghĩa, là chủ đề của bài thơ, cũng là sự
lại cho ta biết thần phù trợ người trừ tai ngữ hoạn nhiều thăng hoa của tinh thần dân tộc thời phá Tống - bình
lần, ở nhiều nơi vào những năm tháng khác nhau từ Chiêm của triều đại Lê Đại Hành. Nhận định như thế là
Ngô - Đinh - Lê xuống đến Lý - Trần. Song, thần trực phù hợp với quy luật và tiến trình phát triển văn hoá,
tiếp đọc thơ âm phù đánh giặc ngoại xâm, thì chỉ có văn học, của lịch sử dân tộc.
hai lần. Lần giúp Lý ường Kiệt, nhiều người đã biết,
lần giúp Lê Hoàn được kể như sau: Năm iên Phúc
nguyên niên (980) đời Lê Đại Hành, Hầu Nhân Bảo, Tôn
Toàn Hưng cầm đầu đạo quân xâm lược nước Nam. Đến
sông Đại an, hai bên đối lũy, cầm cự với nhau. Lê Đại
Hành được mộng báo của thần Trương Hống - Trương
Hát: “Nay quân Tống phạm cõi, làm khổ sinh linh nước
ta, cho nên anh em thần đến yết kiến, xin nguyện cùng
nhà vua đánh giặc để cứu sinh linh”. Canh ba đêm sau,

trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng… hai đạo âm
binh áo trắng, áo đỏ cùng xông vào trại giặc mà đánh.
ân Tống kinh hoàng. “ần nhân tàng hình ở trên
không, lớn tiếng ngâm rằng:

2.2.4 Quốc tộ

ân Tống nghe thấy, xéo đạp vào nhau mà chạy tan…
Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần,
truy phong cho hai vị thần nhân, sai dân phụng thờ,
huyết thực hưởng đời đời. (Lĩnh Nam chích quái - Trần
ế Pháp - Vũ ỳnh - Kiều Phú).

Kiệt tác thứ hai, ở triều đại Hoàng đế Lê Hoàn là một bài
ngũ ngôn tuyệt cú của nhà sư Pháp uận, danh gia đã
đề cập tới ở phần trên, khi tiếp sứ Lý Giác. eo iền
uyển tập anh, tác phẩm duy nhất còn giữ lại được văn
bản bài thơ, thì Đỗ Pháp uận (915-990) học rộng, có
tài văn thơ, lời nói phần nhiều hợp với sấm ngữ. “Trong
buổi đầu, khi nhà Tiền Lê mới sáng nghiệp, sư có công
dựng bàn, hoạch định sách lược. Khi thiên hạ thái bình,
sư không nhận chức của triều đình phong thưởng. Vua
Lê Đại Hành lại càng thêm kính trọng, thường không
gọi tên mà gọi Đỗ Pháp sư, thường ủy thác cho sư các
công việc văn hàn… Vua từng hỏi sư về vận nước ngắn
dài, sư đáp:

Dựa vào tư liệu trên đây và nhiều văn bản truyền
thuyết, thần tích được ghi chép lại trong có bài thơ
thần Nam quốc sơn hà, một số nhà nghiên cứu cho

rằng bài thơ đã xuất hiện đầu thời tự chủ. Nhưng không
phải là thời đã giành được chính quyền, nhưng vẫn tự
xưng và tự phong là Tiết độ sứ từ Khúc ừa Dụ đến
Dương Đình Nghệ. Cũng không phải triều Ngô yền
đã xưng vương, thể hiện ý thức tự chủ, sánh ngang
với các chư hầu của thiên triều. Ngô Sĩ Liên chép bài
thơ này vào kỷ nhà Lý, nên có người thời sau tưởng là
thơ Lý ường Kiệt. ậm chí cũng không thể là triều
Đinh, dầu cho thời này, vua đã dám xưng là Đinh Tiên
Hoàng, sánh so ngang ngửa với Tần ủy Hoàng ngày

Trong văn bản chữ Hán, bài thơ không có tên. Các tập
thi tuyển thời xưa không tuyển bài này. ơ văn Lý Trần (tập I) có lẽ là tập sách giới thiệu bài thơ đầu tiên,
với nhan đề: Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn (Trả lời
nhà thơ hỏi về vận nước). Tổng tập văn học Việt Nam
(Tập 1) xuất bản 1980, đặt tên bài thơ là ốc tộ (Vận
nước, hoặc Ngôi nước). Đây là bài thơ có tên tác giả
xuất hiện sớm nhất, nên được các sách văn học sử, tổng
tập, tuyển tập và cả sách giáo khoa văn học đặt vào vị
trí khai sáng cho văn học cổ dân tộc. Một số sấm thi,
sấm ngữ và cả Nam quốc sơn hà thường là khuyết danh
hoặc vô danh, nên chưa thể xác định được năm tháng
tác phẩm ra đời. ơ kệ của một số thiền sư nặng về


8

CHƯƠNG 2. VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI TIỀN LÊ

thuyết giáo, giá trị văn học có phần hạn chế và hầu hết

ra đời còn sau cả ốc tộ, nên tính chất cột mốc của
tác phẩm là điều cần khẳng định.
Cũng như Nam quốc sơn hà, ốc tộ là bài thơ giàu
sắc thái chính luận, một bài thơ viết về những vấn đề
chính trị xã hội hiện hành của đất nước. Để trả lời nhà
vua “hỏi về vận nước ngắn dài”, nhà thơ đã lấy ngôn
từ giản dị mà thâm thúy, bày tỏ chính kiến của mình:
“Vận mệnh nước nhà dài lâu, bền vững khi nhà vua
dựng mở được nền thái bình bằng phương sách “vô vi
nhi trị". Ba nhãn tự: quốc tộ, thái bình, vô vi vừa là
điều kiện vừa là nhân quả cho nhau. "ốc tộ" có nhiều
nghĩa, trong văn cảnh cụ thể này, nên hiểu là vận mệnh
quốc gia. “ái bình” theo Hán Việt từ điển của GS. Đào
Duy Anh: rất bình yên, thịnh trị, tức một xã hội thanh
bình, yên vui, không bạo lực, xung đột, chiến tranh.
“Vô vi” là nhãn tự có hàm ý uyên áo. Khái niệm vô
vi đầu tiên được hiểu là một thuật ngữ trong sách Lão
Tử, nhằm chỉ một thái độ sống thuận theo tự nhiên,
không bị trói buộc trong khuôn phép đạo đức nhân vi.
Sách giáo khoa Ngữ văn 10, bộ mới, khi đặt bài này ở vị
trí mở đầu cho văn học cổ trung đại, thêm cho “vô vi”
nghĩa trong “vô vi pháp” của sách Phật: từ bi, bác ái, vị
tha. ậm chí có thể nghĩ rằng, với tư cách một thiền
sư, một cố vấn chính sự, Pháp uận đã thể hiện quan
niệm tam giáo trong lời thơ. “Vô vi” ở đây gồm “vô vi”
của Đạo giáo, “vô vi pháp” của Phật giáo, song chủ yếu
là “vô vi nhi trị" của Nho gia. Vô vi ở bài thơ chủ yếu
là thể hiện phương châm đức trị, đó là hàm ý uyên áo
của nhà sư. Như vậy là, với ốc tộ, Pháp uận đã
khẳng định giang sơn bền vững, với một nền thái bình

muôn thuở, trong đó nhà vua lấy đức để trị dân. Trả lời
nhà vua, bằng bốn câu thơ, với nội dung như thế, Pháp
uận là thiền sư - thi sĩ đầu tiên thể hiện lý tưởng thái
bình muôn thuở của cộng đồng Đại Cồ Việt thời đại Lê
Hoàn.

2.3 Xem thêm
• Nhà Tiền Lê
• ốc tộ
• Nam quốc sơn hà

2.4 Tham khảo
• Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội

2.5 Liên kết ngoài
• NAM QUỐC SƠN HÀ VÀ QUỐC TỘ - HAI KIỆT
TÁC VĂN CHƯƠNG CHỮ HÁN NGANG QUA

TRIỀU ĐẠI LÊ HOÀN, BÙI DUY TÂN, Tạp chí
Hán Nôm
• ốc tộ của Đỗ Pháp uận và bài học để vận
nước lâu dài, Bùi Ngọc Minh - 21-04-2011 02:44:51
PM, Hội nhà văn Việt Nam
• BÀI QUỐC TỘ CỦA QUỐC SƯ PHÁP THUẬN,
PGS.TS Nguyễn Đăng Na, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, ứ tư, 03 áng 8 2011 00:31, GIÁO
HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
• iền sư Pháp uận với bài thơ “ốc Tộ", Trần
Anh uận, Cập nhật lúc 17:14' 9/4/2010, Nghệ An

online
• Để hiểu rõ hơn bài ốc tộ của iền sư Pháp
uận., GVC. Nguyễn Hùng Vĩ, ngày 29 tháng 3
năm 2011 21:28, Khoa Văn học, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội

2.6 Chú thích
[1] Ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi
[2] iền uyển tập anh
[3] (Tổ ốc - 401 - 1 - 1988)
[4] Các nội dung dưới đây đã được viết thành nhiều bài,
đăng tải trên nhiều sách báo, tạp chí (Xưa & Nay, Nghiên
cứu văn học, Tạp chí Hán Nôm, Văn hóa dân gian, ế
giới mới, Văn nghệ, Văn hiến Hà Nội, Lý Công Uẩn và
Vương triều Lý, Khảo và luận, Từ điển tác gia - tác phẩm,
Hợp tuyển văn học trung đại, Sách giáo khoa Văn học
9, Tư liệu văn học 10 v.v…), soạn thành giáo án giảng
giải ở hàng trăm giảng đường đại học và cao học, cấu
tạo thành lời cho nhiều hội thảo, nhiều cuộc chuyện trò,
trao đổi… Tất cả đều một kết luận: Nam quốc sơn hà là
bài thơ thần, vô danh, không phải của Lý ường Kiệt
như đã ngộ nhận. Kết luận này tuy khoa học, và không
kém phần thuyết phục, nhưng ngược lại một định luật,
tuy không đúng nhưng từ lâu đã ăn sâu vào tâm thức
đại chúng, nhất là khi đất nước chống ngoại xâm, vì thế
không dễ có ngay sự đồng thuận rộng rãi. Đành chờ
đợi, chắc cũng chẳng bao xa, khi mà toàn bộ sách giáo
khoa trung học bộ mới, cả sách lịch sử và ngữ văn đều
đã khẳng định: Nam quốc sơn hà là bài thơ thần, Lý
ường Kiệt có thể chỉ là người sử dụng bài thơ thần,

để động viên quân sĩ xung trận mà thôi.
[5] bài Nam quốc sơn hà hiện hành, ở cả sách giáo khoa,
thấy có ở văn bản Việt sử tiêu án của Ngô ì Sĩ, Trương
Tôn thần sự tích - khuyết danh v.v… chỉ khác Đại Việt sử
ký toàn thư: đảo “phận định” thành "định phận” (Xem
Hợp tuyển văn học Trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản.
Giáo dục, H. 2004).
[6] (Xem: Tạp chí Hán Nôm số 4-2003. Bài Về mấy bài
Tuyên ngôn độc lập)


Chương 3

Văn học dân gian
Văn học dân gian (VHDG) hay văn học truyền miệng 3.2
là những sáng tác văn học do nhân dân tạo nên và lưu
truyền. VHDG cũng là những sáng tác nghệ thuật ngôn
từ như văn học viết, nhưng lại có những đặc điểm riêng
về lịch sử ra đời & phát triển, về người sáng tác, về cách 3.2.1
thức sáng tác & lưu truyền, về nội dung tư tưởng & thể
loại nghệ thuật

Thần thoại

ần thoại là loại hình tự sự dân gian thường kể về các
vị thần, xuất hiện ở thời công xã nguyên thuỷ nhằm
giải thích các hiện tượng tự nhiên, thể hiện khát vọng
chinh phục tự nhiên của người Việt

3.1 Đặc trưng của văn học dân gian

3.1.1

Hệ thống thể loại của văn học
dân gian

Tính truyền miệng của văn học dân
gian

• Tác phẩm VHDG được lưu giữ bằng phương thức
truyền miệng từ đời này sang đời khác, từ địa
phương này sang địa phương khác.

3.2.2 Sử thi

• Tính truyền miệng làm nên nhiều bản, gọi là dị
bản.
Sử thi là những tác phẩm tự sự dân gian có quy mô
lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những
hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về
3.1.2 Quá trình sáng tác tập thể (Tính tập một hay nhiều biến cố lớn lao diễn ra trong đời sống
thể)
cộng đồng của nhân dân thời cổ đại. Nhân vật của sử
thi mang cốt cách của cộng đồng, tượng trưng cho sức
á trình sáng tác tập thể diễn ra như sau:
mạnh, niềm tin của cộng đồng.
• Đầu tiên 1 người khởi xướng, tác phẩm hình thành
và được tập thể tiếp nhận

Xem thêm về một số bộ sử thi
nổi tiếng: Sử thi Đẻ đất đẻ nước

(Mường), sử thi Đăm Săn, sử thi
Uylixơ (Hy Lạp)…

• Sau đó những người khác tiếp tục lưu truyền &
sáng tác lại làm cho tác phẩm biến đổi dần, hoàn
thiện & phong phú thêm về nội dung cũng như
hình thức nghệ thuật.

3.2.3 Truyền thuyết

• VHDG là tài sản chung của mỗi tập thể, mỗi cá
nhân đều có thể sửa chữa, bổ sung tác phẩm
VHDG theo quan điểm & khả năng nghệ thuật của
mình.

Khái niệm

3.1.3

Tính hiện thực của văn học dân gian
Truyền thuyết là loại truyện dân gian kể về những sự
kiện và nhân vật có liên quan đến lịch sử, thường có
yếu tố tưởng tượng kì ảo. Truyện thể hiện cách đánh
giá và thái độ của nhân dân đối với nhân vật và sự kiện
lịch sử được kể đến.

Tính hiện thực của văn học dân gian thể hiện rõ nét
nhất ở những bài ca nghi lễ, bài hát đối đáp giao duyên,
các bài hò lao động,…, gắn bó và phục vụ cho các sinh
hoạt cộng đồng của nhân dân.

9


10

CHƯƠNG 3. VĂN HỌC DÂN GIAN

Nhân vật

Khái niệm

Trong truyền thuyết, nhân vật có liên quan đến lịch sử
nhưng không phải là nhân vật lịch sử. Nhân vật trong
truyền thuyết thường có xu hướng lý tưởng hoá: nhân
dân gửi vào đó ước mơ, khát vọng của mình. VD: Khi
có lũ lụt, họ ước mơ có thần trị thuỷ (Sơn Tinh), khi có
giặc, họ ước mơ có người anh hùng cứu nước chống ngoại
xâm không màng danh lợi (ánh Gióng), khi hoà bình,
họ ước mơ có thần sáng tạo văn hoá (Lang Liêu),…

Cổ tích là loại truyện dân gian kể về một số kiểu nhân
vật quen thuộc: nhân vật bất hạnh, nhân vật xấu xí,
nhân vật có tài năng kì lạ, nhân vật thông minh, nhân
vật ngốc nghếch,…, thường có yếu tố tưởng tượng thần
kì độc đáo. Cố tích thường thể hiện ước mơ, niềm tin
của nhân dân về chiến thắng cuối cùng của cái thiện
đối với cái ác, cái tốt đối với cái xấu, sự công bằng đối
với sự bất công… Cố tích ra đời khi xã hội đã có sự phân
chia giai cấp.


Đặc trưng thi pháp
Đặc trưng thi pháp
Hiện thực và tưởng tượng trong truyền thuyết Hiện
thực trong truyền thuyết là hiện tượng xã hội loài người
nhưng được bó hẹp trong phạm vi từ bộ tộc đến bộ lạc,
rồi tiến dần đến nhà nước có xã hội chuyên chế.
Nhân dân thường dùng yếu tố tưởng tượng kì ảo để thể
hiện tính tưởng tượng trong truyền thuyết. Những yếu
tố ấy không có thật ngoài đời nhưng có thật trong tâm
tình của nhân dân với lịch sử.

Trong mỗi truyện cổ tích đều có những yếu tố của thực
tế, nhưng những yếu tố ấy lại được hư cấu kì ảo để xây
dựng nên một thế giới khác với thế giới hiện tại - thế
giới cổ tích, mà trong thế giới ấy, mọi điều đều có thể
xảy ra.
Trong cổ tích, người ta
bay trên không trung,
ngồi lên tấm thảm biết
bay, đi hia bảy dặm,…, và
nói chung, truyện cổ tích
đã mở ra trước mắt con
người ta cánh cửa sổ để
trông vào một cuộc sống
khác, mơ tưởng cuộc sống
tốt đẹp hơn.[2]

Cốt truyện truyền thuyết ường xoay quanh nhiều
nhân vật, thậm chí có thể xây dựng thành 2 hệ thống
nhân vật đối lập nhau.

Đặc trưng nhân vật Nhân vật của truyền thuyết chủ
yếu là người hoặc bán thần (thần nhưng có khát khao,
ước mong, nguyện vọng giống con người, hay còn gọi
là ‘’nửa thần nửa người’’)

3.2.5 Ngụ ngôn
Ngôn ngữ truyền thuyết Cô đọng, ít miêu tả, chủ yếu
là thuật lại hành động của nhân vật, kể những hoàn
cảnh xuất thân của nhân vật. Lời thoại của nhân vật là
lời thể hiện lòng nhiệt huyết của nhân vật đối với đất Khái niệm
nước trong hoàn cảnh lâm nguy. Không gian được sử
dụng trong truyền thuyết là không gian đời thường – Loại truyện được kể, bằng văn xuôi hoặc văn vần,
mượn chuyện của đồ vật, con vật,… hoặc về chính con
xã hội – chiến trường – đất nước.
người để nói bóng gió,kín đáo chuyện con người, nhằm
khuyên nhủ, răn dạy con người ta một bài học nào đó
Những truyền thuyết dân
trong cuộc sống.
gian thường có cái cốt lõi
là sự thật lịch sử mà nhân
dân ta, qua nhiều thế hệ,
đã lý tưởng hoá, gửi gắm
vào đó tâm tình thiết tha
của mình, cùng với thơ và
mộng, chắp đôi cánh của
trí tưởng tượng dân gian,
làm nên những tác phẩm
văn hóa mà đời đời con
người còn ưa thích. [1]


Nguồn gốc
Một phần lớn của truyện ngụ ngôn bắt nguồn từ truyện
loài vật do sự gần gũi giữa con người với tự nhiên nên
con người đã “gán” cho con vật tính cách của con người.
Khi đó, truyện ngụ ngôn dần xuất hiện.
Nội dung truyện
• Đả kích giai cấp thống trị

3.2.4

Cổ tích

• Phê phán thói hư tật xấu
• ể hiện triết lý dân gian


3.4. CHÚ THÍCH
Đặc trưng thi pháp
• Kết cấu truyện ngụ ngôn thường ngắn, ít tình tiết.
Phần truyện kể thì nổi lên, phần ý nghĩa thì lắng
đọng, người đọc tự rút ra.
• Nhân vật trong truyện ngụ ngôn rất đa dạng, được
xây dựng đối lập nhau để tạo sức hấp dẫn cho
truyện (thông minh với ngu ngốc, tốt bụng với xấu
xa, to lớn với nhỏ bé,…).
• Tác giả dân gian còn dùng biện pháp phủ định và
biện pháp ẩn dụ để xây dựng truyện ngụ ngôn.
Nói ngay hay trái tai.
“Cứ nói thuần luân lý, thì
dễ sinh lòng chán nản;

Cứ mượn truyện kể ra,
thì luân lý mới trôi chảy.”
[3]

3.2.6

Một số thể loại khác

1. Truyện cười: được xây dựng trên cơ sở mâu thuẫn
trong cuộc sống, làm bật lên tiếng cười nhằm mục
đích mua vui giải trí & phê phán thói hư tật xấu.
2. Tục ngữ: là những câu nói ngắn gọn, hàm xúc,
có hình ảnh, nhịp, vần, thể hiện kinh nghiệm của
nhân dân được đúc kết qua thực tiễn đời sống hằng
ngày.
3. Câu đố: là những câu nói, câu văn có vần dùng để
mô tả một vật, một khái niệm, một hiện tượng,…
buộc người đọc, người nghe đưa ra đáp án hoặc lời
giải thích nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy
& cung cấp những tri thức về đời sống.
4. Ca dao: là những bài thơ trữ tình dân gian thường
là những câu hát có vần, có điệu nhằm diễn tả thế
giới nội tâm của con người.
5. Vè: là tác phẩm tự sự dân gian có lời thơ mộc mạc
kể về những sự kiện diễn ra trong xã hội nhằm
thông báo & bình luận.
Ngoài ra, VHDG còn có một số thể loại khác như truyện
thơ, chèo,…

3.3 Xem thêm

• Văn học Việt Nam
• Chèo
• Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam
• Sân khấu cổ truyền Việt Nam

11

3.4 Chú thích
[1] Phạm Văn Đồng, Nhân ngày giỗ Tỗ vua Hùng, báo Nhân
dân, ngày 29-4-1969.
[2] eo M.Go-rơ-ki, Về truyện cổ tích
[3] eo Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Đông Tây ngụ ngôn,
Tủ sách Hoa tiên, Sài Gòn, 1970, trang 5-6


12

CHƯƠNG 3. VĂN HỌC DÂN GIAN

3.5 Nguồn, người đóng góp, và giấy phép cho văn bản và hình ảnh
3.5.1

Văn bản

• Văn học Việt Nam thời Trần Nguồn: />9Di_Tr%E1%BA%A7n?oldid=26004466 Người đóng góp: DHN, Mekong Bluesman, Vương Ngân Hà, Trung, Lưu Ly, Huỳnh Tường
Minh, Annonymous, Docteur Rieux, Trungda, Vietuy, Tiểu Bạch, Qbot, Pq, ASM~viwiki, TuHan-Bot, Alphama, AlphamaBot,
itxongkhoiAWB, TuanminhBot, Én bạc AWB, Phamnguyenthanhtam và 6 người vô danh
• Văn học Việt Nam thời Tiền Lê Nguồn: />E1%BB%9Di_Ti%E1%BB%81n_L%C3%AA?oldid=23503489 Người đóng góp: Kien1980v, TuHan-Bot, Cheers!-bot, AlphamaBot,
itxongkhoiAWB và TuanminhBot
• Văn học dân gian Nguồn: Người đóng góp:

Duyệt-phố, I Love Triệu Đà, AlphamaBot, Hugopako, Damian Vo, Tuanminh01, TuanminhBot, Nguyennam181077, Én bạc AWB,
Voxo711711 và 26 người vô danh

3.5.2

Hình ảnh

• Tập_tin:Binh_Son_tower_2.jpg Nguồn: Giấy phép:
Public domain Người đóng góp: Chuyển từ vi.wikipedia sang Commons by Phó Nháy using CommonsHelper. Nghệ sĩ đầu tiên:
Viethavvh tại Wikipedia Tiếng Việt
• Tập_tin:Commons-emblem-copyedit.svg
Nguồn:
/>Commons-emblem-copyedit.svg Giấy phép: CC BY-SA 3.0 Người đóng góp:
• File:Gnome-emblem-important.svg Nghệ sĩ đầu tiên: GNOME icon artists, Fitoschido
• Tập_tin:Commons-emblem-question_book_orange.svg
Nguồn:
/>1f/Commons-emblem-question_book_orange.svg Giấy phép: CC BY-SA 3.0 Người đóng góp: class='image'>alt='Commons-emblem-issue.svg'
src='https:
//upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/b/bc/Commons-emblem-issue.svg/25px-Commons-emblem-issue.svg.png'
width='25'
height='25'
srcset=' />svg/38px-Commons-emblem-issue.svg.png
1.5x,
/>Commons-emblem-issue.svg/50px-Commons-emblem-issue.svg.png
2x'
data-file-width='48'
data-file-height='48'

/></a>
+ <a href='//commons.wikimedia.org/wiki/File:Question_book.svg' class='image'>estion book.svgsrcset=' />1.5x,
/>2x'
data-filewidth='252' data-file-height='199' /></a> Nghệ sĩ đầu tiên: GNOME icon artists, Jorge 2701
• Tập_tin:Question_book-new.svg Nguồn: Giấy phép:
CC-BY-SA-3.0 Người đóng góp: Chuyển từ en.wikipedia sang Commons. Created from scratch in Adobe Illustrator. Based on Image:
Question book.png created by User:Equazcion Nghệ sĩ đầu tiên: Tkgd2007
• Tập_tin:VietDienULinhTap1.JPG Nguồn: Giấy phép: Phạm
vi công cộng Người đóng góp: ? Nghệ sĩ đầu tiên: ?
• Tập_tin:Văn_học_Việt_Nam.png Nguồn: />87t_Nam.png Giấy phép: CC-BY-SA 3.0 Người đóng góp:
Tôi sáng tạo ra toàn bộ tác phẩm
Nghệ sĩ đầu tiên: Trình ế Vânthảo luận

3.5.3

Giấy phép nội dung

• Creative Commons Aribution-Share Alike 3.0



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×