Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiền lương trong khu vực công-CHÍNH SÁCH TIÈN LƯƠNG KHU VỰC CÔNG Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.63 KB, 17 trang )

Mã lớp:

ĐH14NL1
Nguyễn Thị Phương Ly

Số báo danh:

192

1453404041212

Tiền lương trong khu vực công
ThS. Nguyễn Văn Hiếu
CHÍNH SÁCH TIÈN LƯƠNG KHU VỰC CÔNG Ở VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
Tiểu luận (hoặc tham luận):
Cuối kì
Giữa kì
Tiểu luận (hoặc tham luận) này được hoàn thành vào ngày 16/06/2017
Giám khảo 1 (Ký và ghi rõ họ tên)
ĐIỂM SỐ
ĐIỂM CHỮ

Giám khảo 2 (Ký và ghi rõ họ tên)

TP.HỒ CHÍ MINH, THÁNG 06 NĂM 2017


MỤC LỤC



PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chính sách tiền lương của mỗi quốc gia điều giữ vai trò vô cùng quan trọng trong
việc điều tiết nền kinh tế thị trường. Do đó, một chính sách tiền lương hoàn thiện sẽ
góp phần vào việc tạo động lực thúc đẩy kinh tế, phân phối thu nhập, điều chỉnh cung
cầu thị trường lao động, phân bổ nguồn lực, tích lũy tiêu dùng và vấn đề an sinh xã
hội. Đây là đòn bẫy quan trọng tạo ra mối tương tác chặt chẽ về chính trị, kinh tế - xã
hội.
Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hội nhập, việc xây dựng một hệ thống lương cải cách
theo cơ chế thị trường là điều tất yếu và đây là vấn đề được hầu hết lao động quan tâm.
Tuy nhiên việc cải cách tiền lương khu vực công sẽ gặp nhiều bất cập trong việc xác
lập tiền lương như: hệ thống bảng lương có nhiều bậc, hệ số mức lương ở các ngạch
thì phụ thuộc vào thâm niên công tác và bằng cấp. Thêm nữa, tiền lương trong vực
công sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng và trách nhiệm của cán bộ công tác trong
cơ quan nhà nước, tăng lương hợp lý sẽ là động lực để tăng năng suất và chất lượng
lao động. Do đó, chính sách và thể chế xác lập tiền lương cần được cải thiện nhằm đáp
ứng nhu cầu của thị trường lao động đang thay đổi và đảm bảo rằng chính sách này
hợp lý để giữ cán bộ không chuyển sang khu vực khác. Chính sách tiền lương trong
bối cảnh hội nhập được xây dựng hợp lý không chỉ giúp ích cho lao động trong khu
vực công mà nó còn góp phần cho việc đảm bảo hội nhập kinh tế nước ta sâu hơn vào
nền kinh khu vực và quốc tế, đem lại lợi ích cho toàn thể người lao động, doanh
nghiệp và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Bởi sự ảnh hưởng và tầm quan trọng của
chính sách tiền lương trong giai đoạn hội nhập nên tôi đã chọn đề tài “Chính sách tiền
lương trong khu vực công ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập” làm đề tài nghiên
cứu của mình.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng bài viết: Tiền lương và chính sách tiền lương khu vực công trong bối
cảnh hội nhập.

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi tiền lương trong khu vực
công ở Việt Nam, thời gian thay đổi mức lương cơ sở giai đoạn 2006 đến nay.

3


3. Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm đem đến cái nhìn toàn cảnh về chính sách tiền lương trong khu vực công ở
Việt Nam hiện nay, phát hiện ra những cơ hội và thách thức trong chính sách tiền
lương khu vực công hiện nay, từ đó gợi ý một số khuyến nghị nhằm giúp hoàn thiện
chính sách trong tương lai.

4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận hoàn thiện nhờ sưu tầm tài liệu trong giáo trình, các trạng mạng
Internet và bài báo có liên quan đến nội dung bàn luận.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích và đánh giá một số nội
dung để làm rõ ý nghĩa xác thực của đề tài.

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN
LƯƠNG TRONG KHU VỰC CÔNG
1.1 Các khái niệm
Tiền lương trong khu vực công
Theo PGS.TS Lê Chi Mai cho rằng:
Tiền lương trong khu vực công là phần tiền trả cho công chức, viên chức theo ngạch
bậc do Nhà nước quy định. Đây là số tiền mà các cơ quan tổ chức của nhà nước trả
cho người lao động theo quy định và được thể hiện trong hệ thống thang, bảng lương

do Nhà Nước ban hành.
Chính sách tiền lương trong khu vực công
Chính sách tiền lương là quan điểm, phương thức, cách tính toán để xác định mức tiền
lương trong một phạm vi.
Hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng
cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn
lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung
trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Gắn chặt việc xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. (Bộ Chính trị khóa IX - Nghị
quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”, ngày 27/11/2001)
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền lương
Mục tiêu thứ 1: Tiền lương bằng nhau cho các công việc như nhau được thực hiện
trong điều kiện giống nhau
Mục tiêu thứ 2: Tiền lương khác nhau căn cứ vào những khác biệt trong công việc
hoàn thành, trách nhiệm được giao và phẩm chất
Mục tiêu thứ 3: Tiền lương chính quyền cần được trả tương xứng với tiền lương khu
vực tư nhân
5


Mục tiêu thứ 4: Các cơ cấu tiền lương của chính quyền phải xem xét lại một cách định
kì và rà soát một cách có hệ thống để đảm bảo có hiệu lực liên tục.
1.3 Nội dung của chính sách tiền lương
Chính sách tiền lương trong nền công vụ có những vấn đề theo trật tự sau:
- Xác định các loại vị trí công việc và đội ngũ nhân viên để áp dụng kế hoạch nào
- Trình bày chính sách tiền lương: gồm tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp khác
- Bảng thanh toán tiền công ghi rõ các lớp tiền công tương ứng với mỗi lớp công việc
- Các bảng biểu về quy tắc trả lương, trả lương làm thêm giờ
- Các quy tắc xác định các khoản tiền trả cho những trường hợp đặc biệt ví dụ như khi

được đề bạt, thuyên chuyển, hạ chức..
- Các quy tắc liên quan đến tỷ lệ chi trả đặc biệt như tuyển dụng, khiếu nại của nhân
viên các trường hợp nghiêm trọng các tình huống khẩn cấp...
- Các quy tắc chi trả liên quan hình thức nghỉ việc, nghỉ sinh đẻ, những tình huống bất
thường và không nhất quán và giải quyết những khiếu nại của nhân viên về các quyết
định trả công
1.4 Vai trò và tác động của chính sách tiền lương
Một nền công vụ quyết định trong lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước, sản xuất
hàng hóa công, chính sách phát triển kinh tế xã hội, quản lí dự án các vấn đề thu chị
ngân sách, ổn định tài chính phát triển xã hội.
Chính sách tiền lương góp phần quan trọng trong việc hình thành một nên công vụ tốt.
Tiền lương của cán bộ, công chức phải đặt trong mối quan tâm hàng đầu vì nó tác
động trực tiếp đến đời sống, đến động cơ, đến mục tiêu hoàn thành công việc của công
chức trong nền công vụ. Nền công vụ tốt sẽ tạo điều kiện tốt cho phát triển kinh tế, xã
hội.

6


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG KHU VỰC CÔNG Ở VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
2.1 Bối cảnh hội nhập
Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập vào các thị trường quốc tế,
như sự thành lập khối Cộng đồng ASEAN sẽ tạo nên sự chuyển đổi từ nền kinh tế có
tiền lương thấp sang nền kinh tế có năng suất lao động cao cho các nước trong khu vực
ASEAN. Đặc biệt, các nước trong khu vực có thể cạnh tranh dựa trên năng suất chứ
không phải bằng mức lương thấp. Việc hội nhập kinh tế sẽ đòi hỏi nhu cầu về lao động
được dự báo sẽ chắc chắn tăng mạnh. Tuy nhiên, việc tiền lương của người lao động
có được tăng hay không còn phụ thuộc vào năng suất và chất lượng của người lao
động. Đặc biệt, các chính sách cải cách tiền lương về mức lương tối thiểu và thương

lượng tiền lương sẽ là cơ sở bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Việt Nam đã đạt được bước tiến quan trọng trong việc xác lập tiền lương tối thiểu
nhưng như vậy chưa đủ. Hệ thống pháp luật và thể chế cho thương lượng tập thể về
lương cần được cải thiện và các tiêu chuẩn lao động quốc tế là khuôn khổ và những
công cụ hữu hiệu để thực hiện điều này. Chính sách và thể chế xác lập tiền lương cần
được cải thiện nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động đang thay đổi và đảm
bảo rằng việc hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và quốc tế sẽ mang lại lợi ích
cho người lao động, doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam.
Do đó việc xác lập mức lương tối thiểu và thương lượng tập thể là hai công cụ quan
trọng, bổ trợ cho nhau trong hệ thống điều chỉnh tiền lương của một nền kinh tế thị
trường. Trong khi mức lương tối thiểu bảo vệ những người lao động nghèo nhất, thì
thương lượng tập thể đem lại cơ hội điều chỉnh tiền lương cho những người có thu
nhập cao hơn mức lương tối thiểu. Việc phát triển quan hệ lao động hài hòa có thể giúp
cho chủ lao động và người lao động thích ứng với những thay đổi do hội nhập sâu
rộng hơn ở cấp khu vực và toàn cầu mang lại.

7


Trong khu vực công, tiền lương là số tiền mà các cơ quan, tổ chức của Nhà nước
trả cho người lao động theo cơ chế, chính sách của Nhà nước và được thể hiện trong
hệ thống thang, bảng lương do Nhà nước quy định.
Trong hoạt động công vụ, tiền lương đóng giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong
những yếu tố tiên quyết thu hút và giữ được những người có tài năng tham gia hoạt
động trong khu vực công, tránh hiện tượng chảy máu chất xám từ khu vực công sang
khu vực tư. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế thì tiền lương trong khu vực công
càng quan trọng, đây là lúc cần dùng nhân tài để đẩy mạnh các tiến độ về kinh tế ,lãnh
đạo và truyền đạt các chủ trương và chính sách của Đảng và nhà nước trong bối cảnh
hội nhập này đến tất cả nhân dân.
Tuy nhiên, theo kết quả điều tra của Công đoàn viên chức Việt Nam, mức lương cứng

của cán bộ công chức viên chức hiện nay vẫn khá thấp, phần lớn là hưởng lương ở
mức cán sự và chuyên viên, chiếm khoảng 73% (cán sự chiếm 32% và chuyên viên
41%), còn ở mức chuyên viên chính là 24% và chuyên viên cao cấp là 3%. Do đó để
đáp ứng thực hiện tốt chính sách tiền lương trong khu vực công, đặc biệt áp dụng hệ
thống trả lương dựa trên năng lực và hiệu quả công việc là một vấn đề cần đặt ra trong
bối cảnh hội nhập ngày nay.
2.2 Chính sách tiền lương khu vực công trong bối cảnh hội nhập
2.2.1 Thực trạng và mức lương cơ sở sau những lần điều chỉnh
Hiện trạng tiền lương của cán bộ, công chức viên chức còn rất thấp so với yêu cầu
tái sản xuất sức lao động, đặc biệt là cán bộ, công chức viên chức sống ở khu vực
thành thị. Tính từ năm 2006 đến nay, Chính phủ đã có 9 lần điều chỉnh mức lương cơ
sở, từ 450.000đ năm 2006 lên 1.210.000đ năm 2016 và 1.300.000đ năm 2017. Tốc độ
phát triển bình quân toàn giai đoạn 2006 - 2017 đạt 10,4%/năm. Tổng mức Nhà nước
chi cho cải cách tiền lương trong năm 2016 là 13.055 tỉ đồng để cải cách tiền lương.
Số tiền này sử dụng vào các mục đích gồm: tinh giản biên chế, điều chỉnh lương hưu
đối với người có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động thấp dưới 2 triệu
đồng/tháng.
Bảng 1: Mức lương cơ sở giai đoạn 2006 - 2017
Đơn vị tính: đồng
Mức lương cơ sở
Nghị định

Thời điểm áp dụng

(đồng/ tháng)

8


94/2006/NĐ-CP

Ngày 07/09/2006

01/10/2006

450.000

01/01/2008

540.000

01/05/2009

650.000

01/05/2010

730.000

01/05/2011

830.000

01/05/2012

1.050.000

01/07/2013

1.150.000


15/07/2016

1.210.000

01/07/2017

1.300.000

166/2007/NĐ-CP
Ngày 10/12/2007
33/2009/NĐ-CP
Ngày 06/04/2009
28/2010/NĐ-CP
Ngày 25/3/2010
22/2011/NĐ-CP
Ngày 04/04/2011
31/2012/NĐ-CP
Ngày 12/04/2012
66/2013/NĐ-CP
Ngày 27/06/2012
47/2016/NĐ-CP
Ngày 26/05/2016
47/2017/NĐ-CP
Ngày 24/04/2017
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Nhận xét:
Tuy mức lương cơ sở tăng liên tục trong thời gian qua nhưng với tình hình kinh tế hiện
nay, thì mức lương cơ sở chưa đáp ứng được cuộc sống tối thiểu của người lao động.
Hiện mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang được
thực hiện từ năm 2006 đến ngày 01/07/2013 là 1.150.000 đồng/tháng, ngày

01/07/2017 lên 1.300.000đ/tháng, mới chỉ đạt 44,2% so với mức lương tối thiểu bình
quân của 4 vùng của khu vực doanh nghiệp và tính ra mới đạt 35,6% so với mức chi
cho nhu cầu tối thiểu.
9


Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, mức chi tiêu bình quân 1 nhân khẩu ở thành thị
là 2.461.000 đồng/tháng, ở nông thôn 1.444.000 đồng/tháng và của cả nước là
1.763.000 đồng/tháng. Như vậy, mức lương cơ sở 1.150.000 đồng/tháng (2013),
1.300.000đ/tháng (01/07/2017) áp dụng đối với cán bộ, công chức chỉ bằng 46,7% so
với mức chi tiêu bình quân 1 nhân khẩu ở thành thị, bằng 79,6% so với mức chi tiêu
bình quân 1 nhân khẩu ở nông thôn và 65,2% so với mức của cả nước.
Từ ngày 1/7/2017, thực hiện điều chỉnh tăng lương cơ sở từ 1.210.000 đồng/tháng lên
1.300.000 đồng/tháng (tăng 90.000đ) đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng
vũ trang, bảo đảm thu nhập của đối tượng có hệ số lương từ 2,34 trở xuống không
giảm so với mức đang hưởng.
2.2.2 Nhận định về chính sách tiền lương sau những lần cải cách
Thứ nhất, quan điểm, chủ trương về cải cách chính sách tiền lương của Đảng từ
năm 2006 đến nay là đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Quan điểm coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư
cho phát triển, tạo động lực để phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng dịch vụ công,
góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà
nước. Đặc biệt, Luật Cán bộ, công chức đã quy định công chức có 2 năm liên tiếp
không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị cho thôi việc. Thực hiện tốt việc xác định vị trí việc
làm sẽ là cơ sở và căn cứ để tính toán được biên chế công chức phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng quản lý trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Người nào không đáp ứng được các yêu cầu của vị trí việc làm sẽ bị đưa ra khỏi công
vụ.
Thứ hai, đang tách dần tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực hành
chính nhà nước và khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công, chính sách tiền lương

với chính sách bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội. Đó là bước
ngoặc rất quan trọng cải cách tiền lương trong điều kiện mới theo định hướng thi
̣trường.
Thứ ba, gắn cải cách tiền lương cán bộ, công chức, viên chức, với cải cách hành
chính và xây dựng nền công vụ, tinh giảm biên chế khu vực hành chính Nhà nước,
phát triển khu vực sự nghiệp, công cấp dịch vụ công theo nhu cầu phát triển của xã
hội. Tuy phải tiến hành dần dần từng bước nhưng là hướng đi đúng đắn.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới cơ chế tiền lương, mở rộng và làm rõ trách nhiệm, quyền
tự chủ, quyền tự trách nhiệm của đơn vị công trong việc xếp lương, trả lương gắn với
chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công theo tinh thần xã hội. Đây cũng là định
hướng rất quan trọng trong cải cách và trong cơ chế nguồn cải tạo tiền lương cán bộ
công chức viên chức. Theo Vụ Tiền lương (Bộ Nội vụ), sẽ cố gắng đến năm 2018 điều
10


chỉnh mức lương cơ sở của công chức đảm bảo nhu cầu tối thiểu - khoảng 3 triệu
đồng/tháng và phụ cấp công vụ khoảng 30%. Tuy nhiên, theo PGS.TS.Trần Văn Thiện,
Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực – Trường Đại học Kinh tế
TP.Hồ Chí Minh: “Mặc dù đã qua nhiều lần điều chỉnh mức lương tối thiểu nhưng nếu
tính tới chỉ số lạm phát và giá cả tiêu dùng thì lương tối thiểu thực tế chỉ tăng hơn 0,05
lần. Tính ra, trung bình mỗi năm lương tối thiểu thực tế chỉ tăng 0,64%”.
2.3 Những vấn đề đặt ra cho chính sách tiền lương khu vực công trong bối cảnh
hội nhập
2.3.1 Cơ hội
Chính sách hội nhập đã đem lại nhiều cải thiện đáng kể trong đời sống cho người
lao động. Đặc biệt, Việt Nam đã và đang thực hiện công cuộc đổi mới, cải cách mạnh
mẽ và hoàn thiện cơ chế, chính sách, trong đó chính sách tiền lương đã có nhiều điều
chỉnh để phần nào theo kịp những biến chuyển của thị trường, phù hợp với hội nhập
sâu, rộng vào kinh tế khu vực toàn cầu. Kết quả đổi mới đó đã góp phần bảo đảm
quyền và lợi ích chính đáng của cả người sử dụng lao động và người lao động .

Hội đồng tiền lương tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương theo cơ chế thị trường,
gắn với chính sách việc làm, tăng cường thương lượng tiền lương. Tiền lương tối thiểu
vẫn tiếp tục điều chỉnh theo lộ trình đảm bảo tiền lương tối thiểu đáp ứng nhu cầu sống
tối thiểu, đáp ứng hài hòa lợi ích của tiền lương trong khu vực công.
Nhà nước đã ban hành Nghị định quy định cụ thể về chính sách tiền lương trong
khu vực công bằng hệ thống thang bảng lương để các tổ chức áp dụng thông qua đó
Nhà đã quản lý và điều chỉnh phù hợp với từng loại hình đơn vị, cân đối được thu, chi
ngân sách, bảo vệ quyền lợi cho người lao động; hệ số lương và mức lương tối thiểu là
cơ sở để đơn vị sử dụng lao động làm cơ sở đóng và thụ hưởng chế độ Bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các chế độ khác theo quy định. Mục đích
để giữ chân người lao động trong khu vực công và hạn chế tối đa “chảy máu chất
xám” trong bối cảnh hội nhập này.
2.3.2 Thách thức
Trong vòng hai năm trở lại đây, Việt Nam đã đạt được mức tăng lương đáng kể,
nhưng vẫn còn một khoảng cách xa mà quốc gia này phải vượt qua để bắt kịp với thế
giới. Trong thời gian tới, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng có tác
động mạnh đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Việc thực hiện các
Hiệp định thương mại tự do đã ký kết và các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới,
cùng với việc hình thành Cộng đồng ASEAN mở ra cho nước ta nhiều cơ hội thuận lợi
nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức.
11


Thứ nhất, mặc dù điều chỉnh tiền lương nhưng tiền lương so với các khối ngoài
khu vực công vẫn còn kém xa đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập này, hậu quả dẫn đến
khi tiền lương thấp công chức sẽ không chỉ sống bằng lương mà chủ yếu từ thu nhập
ngoài lương. Các khoản thu nhập ngoài lương có thể khác nhau giữa các cơ quan nhà
nước và giữa các vị trí công chức, nhưng nhìn chung Nhà nước chưa quản lý được.
Điều này dẫn đến hiện tượng không công bằng trong chính sách tiền lương và thu nhập
của công chức, đồng thời nảy sinh tâm lý sẵn sàng “nhảy việc” hoặc “bỏ việc” để vào

được những cơ quan hay những vị trí có thể mang lại càng nhiều thu nhập lương tốt
hơn. Do đó việc đảm bảo lương cho cán bộ phù hợp với nhu cầu thị trường là một
thách thức đối với chính sách lương Việt Nam.
Thứ hai, cơ chế “bình quân chủ nghĩa”, “đến hẹn lại lên” trong cách trả lương và
tăng lương cho công chức cũng là một điểm yếu trong chính sách tiền lương hiện nay.
Nhiều người có tuổi nhưng thiếu năng lực vẫn nghiễm nhiên được hưởng mức lương
cao gấp hai, gấp ba những công chức trẻ có năng lực thật sự. Không có sự khác nhau
rõ ràng trong cơ chế trả lương cho những công chức làm việc với chất lượng và hiệu
quả khác nhau. Dù làm nhiều hay ít, hiệu quả hay không, miễn là không bị kỷ luật,
công chức vẫn sẽ được trả lương theo ngạch, bậc hay bằng cấp và thâm niên.ngân sách
chi cải cách lương tăng nhưng không tăng được chất lượng đội ngũ cán bộ công chức
viên chức. Nhiều năm qua, mỗi năm, ngân sách nhà nước đều bố trí hàng chục ngàn tỷ
đồng để thực hiện cải cách tiền lương nhưng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức không được nâng cao, thậm chí giảm sút; bộ máy vẫn trì trệ, phiền hà đây là
sự lãng phí lớn đối với ngân sách Nhà nước. TS Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội dẫn ra ước tính của chuyên gia: có tới 30% công chức
không làm được việc, tương đương 700.000 người, tiêu tốn 17.000 tỉ đồng từ ngân
sách nhà nước mỗi năm. Thực tế đầy mâu thuẫn này vô hình chung làm triệt tiêu động
lực phát triển của công chức.Và trong bối cảnh hội nhập này nếu vẫn tiếp tục theo cơ
chế không đánh giá năng lực trên kết quả công việc thì việc làm mất động lực làm việc
cho người lao động là tất nhiên .
Thứ ba, do ngân sách nhà nước có giới hạn nên việc tăng lương nhiều lần trong
thời gian qua là một nỗ lực lớn của Nhà nước trong cải cách chính sách tiền lương đối
với công chức, nhưng không mang lại những thay đổi đáng kể về lương thực tế nếu
gắn với tốc độ gia tăng giá tiêu dùng. Do đó, việc nâng lương không có tác dụng cải
thiện hơn đời sống của công chức và cũng không làm thay đổi được hiệu quả, chất
lượng của công việc theo chiều hướng tích cực hơn.

12



CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GỢI Ý TRONG VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH
SÁCH TIỀN LƯƠNG KHU VỰC CÔNG TRONG BỐI CẢNH HỘI
NHẬP
3.1 Đổi mới tư duy bắt kịp xu thế hội nhập quốc tế
Đổi mới tư duy trong việc cải cách chính sách và hệ thống tiền lương. Đổi
mới quan điểm “trả lương thấp” theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của
tiền lương trong cơ chế thị trường. Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao
động, được hình thành theo quy luật thị trường, dựa trên cung- cầu về sức lao
động, chất lượng, cường độ lao động và mức độ cạnh tranh việc làm. Cần đổi
mới từ cơ chế hoạt động đến cơ chế tài chính (bao gồm tiền lương) đối với khu
vực sự nghiệp công theo hướng là các tổ chức dịch vụ công được thu phí (giá)
dịch vụ tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ các chi phí khác.
3.2 Hoàn thiện chế độ phụ cấp
Thực hiện chế độ phụ cấp công vụ đối với cán bộ, công chức và lực lượng
vũ trang; căn cứ khả năng ngân sách Nhà nước và điều tra mức sống trung
bình trong xã hội để xây dựng hệ số tiền lương tăng thêm đối với cán bộ, công
chức thuộc khu vực này; hay nói cách khác là đặt tiền lương khu vực nhà
nước trong mối tương quan với các khu vực khác trong xã hội và phù hợp với
mức tiền lương trung bình trên thị trường sức lao động. Tiếp tục nghiên cứu
áp dụng chế độ phụ cấp thâm niên nghề cho phù hợp đối với một số ngành,
nghề (đặc biệt là đối với các ban tham mưu của cấp uỷ Đảng các cấp còn lại)
trong khả năng của ngân sách nhà nước cho phép. Việc hoàn thiện chế độ
phụ cấp sẽ làm cho người lao động trong khu vực công cảm thấy được nhiều
sự đãi ngộ hơn và gắn kết bền bỉ với khối khu vực công này hơn.
3.3 Trao quyền tự chủ
Việc trao quyền tự chủ trong việc xây dựng quy chế trả lương cụ thể đối với
công chức, viên chức trên cơ sở cân đối với nguồn thu nhập quốc dân cũng như
tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương cho các tỉnh, thành có nguồn thu tự
cân đối được nhu cầu cải cách tiền lương. Đồng thời, trao quyền chủ động cho
người đứng đầu tổ chức trong việc tuyển dụng, bố trí, sắp xếp công chức thuộc

quyền, từng bước chuyển dần những vị trí không quan trọng sang hợp đồng lao
động theo vị trí công việc, sử dụng nhân lực dưới nhiều hình thức khác nhau.
13


Nhà nước chỉ giữ lại hình thức quản lý biên chế ở những khâu, những vị trí
quan trọng. Trao quyền từ chủ sẽ giúp cho khối khu vực công bảo đảm chế độ
tiền lương thực sự là nguồn thu nhập chính, tạo sự an tâm, động viên lớn cho
đội ngũ công chức, viên chức trong bối cảnh hội nhập này.

14


PHẦN KẾT LUẬN
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của
lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị
trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra
dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình
từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác
động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Ngày nay,
hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát
triển.Việc hội nhập đã mang đến cho Việt Nam những bước tiến mới trên thị
trường quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng gặp không ích bất cập đặc biệt
vấn đề điều tiết cơ chế tiền lương sao cho phù hợp với thị trường hội nhập này.
Để thực hiện thành công và có chính sách tiền lương hợp lý trong bối cảnh
hội nhập thì việc xây dựng hệ thống tiền lương đặc biệt tiền lương trong khu
vực công phải xác lập chặt chẽ với cơ chế thị trường. Chính sách tiền lương
không đơn thuần là giải quyết vấn đề lương tối thiểu mà người lao động đạt
được mà nó yêu cầu cần phải đạt tới sự công bằng và hợp lý trong việc trả
lương cho công chức được dựa trên vị trí công việc đảm nhận và theo kết quả

công việc xây dựng lộ trình lương tối thiểu và hệ thống thang bảng,cấp bậc
lương phù hợp và ổn định lâu dài đối với công chức.
Trong môi trường hội nhập, việc cạnh tranh là vô cùng khốc liệt, mà việc
giữ chân nhân tài đặc biệt lãnh đạo và công viên chức là điều vô cùng quan
trọng. Họ là những trụ cột cho việc tiên phong trong bối cảnh hội nhập này, vì
vậy nếu xây dựng chính sách tiền lương đúng là thực hiện đầu tư cho phát triển,
tạo động lực để kinh tế phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ công, góp
phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà
nước./.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Nguyễn Tiệp,TS.Lê Thanh Hà ,2011.Giáo trình Tiền lương –
Tiền công .Nhà xuất bản lao động –xã hội .
2. Luong.Com.VN.Mức lương trong khu vực công 2016 .Truy cập ngày
13/06/2017 tại />3. Nguyễn Kim Dĩnh ,2005.Tiền lương thời kì đổi mới và hội nhập quốc
tế.Truy cập ngày 14/06/2017 tại
Hoi-NHaP-QuoC-Te-184798/
4. Nguyễn Thục Anh ,2014,Phân tích chính sách tiền lương khu vực
công .Truy cập ngày 13/06/2017 tại
cong.htm
5. PGS.TS.Vũ Thị Mai .Hoàn thiện thang bảng lương cho trung tâm nội
thất học đường trực thuộc công ty cổ phần thiết bị giáo duc I.Truy cập
ngày 15/06/2017 tại
duong-truc-thuoc-cong-ty-co-phan-thiet-bi-giao-duc-i31402/
6. Thảo Lan,2016.Chính sách tiền lương cần được tiếp tục hoàn thiện khi
Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế .Truy cập ngày 15/06/2017 tại
nam-hoi-nhap-khu-vuc-va-quoc-te-1303467.html

7. Thúy Hằng ,2014.Chính sách tiền lương trong bối cảnh thị trường và hội
nhập .Truy cập ngày 15/06/2017 tại
truong-va-hoi-nhap.html
8. Trần Ngọc Thới ,2012.Những bất cập trong chính sách tiền lương hiện
hành cần được cải cách.Truy cập ngày 15/06/2017 tại
hanhchinh/2012/18266/Nhung-bat-cap-trong-chinh-sach-tien-luong-hienhanh-can- duoc.aspx
16


9. TS Vũ Xuân Hải ,2014.Hoàn thiện chính sách tiền lương khu vực công
chức danh hành chính trong giai đoạn hiện nay .Truy cập ngày
13/06/2017 tại
chuc-hanh-chinh-trong-giai-doan-hien-nay.htm?page=13
10. Vũ Thị Là ,2009.Chế độ tiền lương tối thiểu ở Việt Nam .Truy cập
ngày 15/06/2017 tại
/>df

17



×