Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Tự do hóa lãi suất để hướng tới tự do hóa tài chính thúc đẩy hội nhập kinh tế việt nam với khu vực và thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.88 KB, 66 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN THÀNH ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2001


1

MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thế giới đang ngày càng trở nên hội nhập với sự hình thành của
các tổ chức hợp tác kinh tế, các khu vực mậu dòch tự do. Trong xu thế toàn cầu đó,
các quốc gia đang mở cửa, bãi bỏ các rào cản mậu dòch, nới lỏng các biện pháp
kiểm soát tài chính để bước vào quá trình hòa nhập toàn cầu nếu không muốn bò tụt
hậu. Chủ trương hội nhập cũng đã được khẳng đònh trong nghò quyết Đại hội VIII:
“Xây dựng một nền kinh tế mở”, “Đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới”. Trong bối cảnh kinh tế thò trường và hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa
tài chính trở nên một xu hướng tất yếu của thời đại, một hệ thống tài chính hiệu quả
là điều thiết yếu để tăng trưởng nhanh chóng.
Trong xu thế tự do hóa tài chính, lãi suất thể hiện cung cầu vốn và giúp luân
chuyển nguồn vốn giữa các quốc gia từ nơi sinh lợi thấp đến nơi sinh lợi cao. Với
vai trò là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, lãi suất là một yếu
tố hết sức quan trọng ảnh hưởng tới tiết kiệm, đầu tư, tiêu dùng và từ đó ảnh hưởng
lớn đến tổng cầu hay sự tăng trưởng của một quốc gia. Trần lãi suất cho vay trong
thời gian qua ở nước ta đã nhiều lần được hạ thấp nhằm tạo môi trường thuận lợi
cho đầu tư và thực hiện chính sách kích cầu, tuy nhiên số dư cho vay vẫn không
tăng đáng kể. Điều đó cho thấy là chính sách lãi suất của ngân hàng Nhà nước chưa


thật sự điều chỉnh cung cầu vốn như mong muốn, chưa phản ánh đúng nhu cầu và
khả năng cung ứng vốn của nền kinh tế nước ta. Phải chăng lãi suất cần phải được
tự do hóa cũng như xu thế tự do hóa thò trường hàng hóa để phản ánh được cung cầu
về vốn trong nền kinh tế? Để hội nhập với thế giới, góp phần thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng, bắt buộc ngành ngân hàng phải cải cách hơn nữa về chính sách lãi suất để
tín dụng thật sự là động lực cũng như là công cụ đònh hướng cho các hoạt động kinh


2
tế trong quá trình hội nhập. Với đề tài:” Giải pháp cho quá trình tự do hóa lãi
suất để hướng tới tự do hóa tài chính - góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế Việt
Nam với khu vực và thế giới ”, tôi hy vọng đóng góp một phần nhỏ ý kiến của
mình cho quá trình đổi mới của ngành ngân hàng nước ta và để hoàn thiện hơn nữa
chính sách lãi suất của ngân hàng Nhà nước, từng bước tiến đến tự do hóa lãi suất
và tự do hóa tài chính trong tương lai, để cho chính sách lãi suất phải đi trước một
bước trong quá trình đổi mới và hội nhập ở nước ta. Đây là vấn đề rộng lớn và
phức tạp, với sự hạn hẹp về thời gian và khuôn khổ của một đề tài, tôi không có
tham vọng nghiên cứu toàn bộ các vấn đề về lãi suất và biến động của nó trong
thời gian dài, đề tài không tham vọng giải quyết hết mọi yêu cầu đổi mới của
ngành ngân hàng mà chỉ tập trung phân tích một số điểm cơ bản để có thể đònh
hướng cho chính sách lãi suất của ngành ngân hàng nước ta chuyển dần sang tự do
hoá lãi suất.


3

CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT VÀ VẤN ĐỀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
TRONG XU HƯỚNG HỘI NHẬP KINH TẾ HIỆN NAY.


1.1 TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT
1.1.1 Khái niệm về lãi suất
1.1.1.1 Lợi tức tín dụng:
C.Mác cho rằng “Sau một thời gian nhất đònh tư bản cho vay được hoàn lại
người chủ sở hữu của nó kèm theo một giá trò tăng thêm đó là lợi tức tín dụng” và
ông khẳng đònh rằng lợi tức tín dụng là một phần của lợi nhuận do người đi vay tạo
ra từ việc sử dụng vốn vay và phân phôí lại cho người cho vay. Đây là một sự phân
phối lại thật hợp lý giữa người có “của” và người có “công”.
Công thức tổng quát phản ánh sự vận động của tư bản cho vay (tiền tệ) được
C.Mác mô tả một cách thuyết phục T-T’ hoặc T’=T+Δ t
Như vậy, lợi tức tín dụng là phần giá trò tăng thêm mà người đi vay phải trả
cho người cho vay sau khi đã sử dụng số tiền vay trong một thời gian nhất đònh. Lợi
tức được coi là cái giá phải trả cho việc sử dụng tiền vay. Thực chất là tiền trả cho
doanh nghiệp thuê vốn.
1.1.1.2 Lãi suất tín dụng
Cùng với hoạt động tín dụng, phạm trù lãi suất tồn tại và phát triển trong nền
kinh tế hàng hoá là một tất yếu khách quan. Lãi suất là giá của quyền sử dụng vốn
hay là cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên thò trường bất kỳ. Lãi suất trong
nền kinh tế thò trường như các nhà kinh tế học khẳng đònh là “giá để vay mượn
hoặc thuê những dòch vụ tiền”, vì việc vay mượn hoặc thuê những dòch vụ tiền liên
quan đến việc tạo ra tín dụng do vậy người ta có thể coi lãi suất như là giá cả tín
dụng. Như vậy, lãi suất tín dụng (còn gọi là tỷ suất lợi tức) có thể được tính bằng tỷ


4
lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức thu được trong một thời gian (năm, quý, tháng) với
tổng số vốn bỏ ra cho vay trong cùng thời gian đó.
1.1.2 Các loại lãi suất
Lãi suất có thể được phân loại theo các tiêu thức khác nhau. Nếu xét về mặt
công dụng có thể phân ra các lọai như sau:

1.1.2.1 Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản là lãi suất giữ vò trí quan trọng, chi phối các loại lãi suất khác.
Lãi suất cơ bản do ngân hàng trung ương xác đònh và công bố trên cơ sở tình hình
thực tế và mục tiêu của chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản là lãi suất để các ngân
hàng, tổ chức tín dụng ấn đònh lãi suất kinh doanh như lãi suất tiền gởi, tiết kiệm,
lãi suất cho vay, lãi suất chiết khấu… Lãi suất cơ bản có thể quy đònh tối đa như lãi
suất trần hoặc có thể quy đònh lãi suất tối thiểu như lãi suất sàn.
Ở nước ta, lãi suất cơ bản là công cụ quản lý của nhà nước vì thế nó do nhà
nước quy đònh. Theo khoản 12 điều 9, luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy đònh
lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước Việt nam công bố làm cơ sở cho
các tổ chức tín dụng ấn đònh lãi suất kinh doanh”.
1.1.2.2 Lãi suất tái cấp vốn
Bao gồm lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu của ngân hàng trung ương. Đây là
lãi suất mà ngân hàng trung ương sử dụng để tái cấp vốn cho các ngân hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng. Ngân hàng trung ương sử dụng công cụ này để điều
chỉnh khối lượng tín dụng của nền kinh tế. Cụ thể là khi ngân hàng trung ương
muốn mở rộng tín dụng thì hạ thấp lãi suất tái chiết khấu và ngược lại, nếu muốn
thu hẹp tín dụng thì ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu. Khi hệ thống
ngân hàng ổn đònh, nền kinh tế phát triển tốt, hệ thống luật pháp đồng bộ và hoàn
chỉnh thì ngân hàng trung ương sẽ không ấn đònh lãi suất cơ bản nữa, lúc này lãi
suất tái chiết khấu đóng vai trò lãi suất cơ bản.


5
1.1.2.3 Lãi suất trên thò trường tài chính
Thò trường tài chính bao gồm thò trường tiền tệ và thò trường vốn, là nơi mua bán
các chứng từ có giá ngắn và dài hạn. Các chứng từ có giá ngắn hạn thì có trái
phiếu, tín phiếu kho bạc, các loại thương phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gởi, kỳ
phiếu ngân hàng, các khế ước cho vay…. Người chủ trái phiếu sẽ được hưởng lãi sau
một thời gian. Người bán trái phiếu là người cần tiền và người mua trái phiếu là

người có tiền muốn đầu tư để sinh lợi sau một thời gian ngắn. Điều này cho thấy
rằng lãi suất trên thò trường tiền tệ có tác dụng lôi cuốn một số lượng tiền tiết kiệm
hoặc tiền dư tạm thời từ nơi thừa sang nơi thiếu hoặc nơi cần.
Sự biến đổi lãi suất trên thò trường tiền tệ tuân theo một vài yếu tố chính:
• Giá của trái phiếu: giá của trái phiếu biến đổi ngược chiều với lãi suất.
• Sự tương quan cung và cầu trái phiếu
• Sự dự đoán của những người tham gia trên thò trường tiền tệ về trái phiếu
• Sự can thiệp của ngân hàng trung ương trên thò trường tiền tệ
Trong khi đó, các chứng từ có giá dài hạn như các giấy nợ trung hạn, dài hạn
(chứng khoán có thời hạn trên một năm) và các loại cổ phiếu được mua bán trên thò
trường vốn. Lãi suất trên thò trường tiền tệ là lãi suất ngắn hạn, còn lãi suất trên thò
trường vốn là lãi suất dài hạn.
Những biến đổi của lãi suất trên thò trường vốn cũng phụ thuộc vào những yếu
tố giống như trên thò trường tiền tệ, tức lãi suất thay đổi tỷ lệ nghòch với giá cổ
phiếu và trái phiếu dài hạn và tuỳ thuộc vào mối tương quan giữa cung và cầu của
chứng khoán. Nếu so với trái phiếu ngắn hạn trên thò trường tiền tệ, thường biến
động rất mạnh với lãi suất, thì giá trái phiếu dài hạn biến động chậm hơn. Trên thò
trường tín dụng trung và dài hạn này không có sự can thiệp trực tiếp của ngân hàng
trung ương. Ngân hàng trung ương không mua bán chứng khoán mà chỉ có ảnh
hưởng gián tiếp qua việc can thiệp trên thò trường tiền tệ từ đó tác động đến lãi suất


6
thò trường vốn. Nói chung lãi suất ngắn hạn biến đổi mạnh hơn, sâu rộng hơn lãi
suất dài hạn và thường thấp hơn lãi suất dài hạn.
1.2.3.4 Lãi suất kinh doanh
Là loại lãi suất do các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng xác đònh
và công bố để áp dụng đối với các khách hàng gửi vốn và vay vốn. Trong điều kiện
còn lãi suất cơ bản thì lãi suất kinh doanh xoay quanh lãi suất cơ bản và trong điều
kiện không còn lãi suất cơ bản thì nó phụ thuộc lãi suất tái chiết khấu và tự nó điều

chỉnh cho phù hợp.
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại, người ta ấn
đònh các lãi suất như sau: Lãi suất huy động, lãi suất cho vay, lãi suất chiết khấu.
Trong hoạt động vay, cho vay lẫn nhau giữa các ngân hàng trên thò trường liên ngân
hàng còn có lãi suất liên ngân hàng IBOR (Interbank Offered Rate).
Ở các nước tư bản phát triển, lãi suất tín dụng thương mại được tham chiếu từ
lãi suất IBOR, tùy theo mức độ rủi ro mà lãi suất từng vùng hay từng khế ước được
cộng thêm một số % nhất đònh.
Lãi suất tín dụng thương mại = IBOR + x %
1.1.3 Vai trò của lãi suất
Vai trò của lãi suất có tác động rất lớn đến nền kinh tế – xã hội. Lãi suất là một
trong những công cụ để thực thi chính sách tiền tệ. Lãi suất có những tác dụng sau:
1.1.3.1 Lãi suất là công cụ điều tiết vó mô nền kinh tế:
Lãi suất vừa là đối tượng quản lý vừa là một công cụ quan trọng trong chính
sách tiền tệ. Lãi suất được sử dụng đúng đắn và phù hợp với những điều kiện, tình
hình kinh tế trong từng thời kỳ nhất đònh sẽ có tác dụng trực tiếp đến việc kiềm chế
lạm phát cũng như kích thích tiết kiệm để đầu tư, nhưng nếu sử dụng nó cứng nhắc
không phù hợp với điều kiện của nền kinh tế, lãi suất lại trở thành vật kiềm hãm,
trói buộc nền kinh tế. Như nhận đònh của nhà kinh tế học người Pháp A.Poial: “Lãi


7
suất là một công cụ tích cực trong phát triển kinh tế và đồng thời lại còn là công cụ
kiềm hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào việc nó được sử dụng như thế
nào”.
Lãi suất là công cụ quan trọng trong chính sách tiền tệ thể hiện ở chỗ lãi suất là
một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu tiền tệ. Khi mức cung
ứng tiền tăng lên, nếu đem số tiền tạm thời thừa ra cho vay hoặc đầu tư thì lãi suất
sẽ hạ xuống. Khi lãi suất giảm, giá thành đầu tư giảm theo, các doanh nghiệp lại
tăng đầu tư, nhu cầu đầu tư và tiêu dùng tăng lên, lãi suất lại tăng lên. Lãi suất còn

phải phản ánh thực trạng kinh tế của một nước, thông qua sự biến động của lãi suất,
người ta có thể dự đoán được nền kinh tế đang phát triển hay suy thoái.
1.1.3.2 Lãi suất là động lực của tiết kiệm và đầu tư:
Trong nền kinh tế thò trường, lãi suất là một trong những loại giá cả được rất
nhiều đối tượng khác nhau quan tâm vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến những hoạt động
kinh tế của từng người, từng gia đình, từng doanh nghiệp và có những hệ quả quan
trọng đối với sức khoẻ của nền kinh tế. Đối với mỗi người, mỗi gia đình, lãi suất tác
động đến những quyết đònh phân bổ thu nhập cho tiết kiệm hay tiêu dùng. Đối với
mỗi doanh nghiệp, lãi suất tác động đến việc mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất
kinh doanh. Lãi suất càng cao thì khích lệ công chúng hạn chế tiêu dùng trong hiện
tại để tăng tỷ lệ tiết kiệm trong thu nhập. Sau đó từ khoản tiết kiệm này, họ sẽ chọn
hướng đầu tư vào hoạt động tài chính khi thấy có lợi hơn. Ngược lại, ở mức lãi suất
cao sẽ làm hạn chế các doanh nghiệp đi vay mượn vốn để đầu tư, bởi lẽ khi đó thu
nhập có được từ các dự án đầu tư khó mà bù được số lãi phải trả cho số tiền vay.
Mặt khác, trong nền kinh tế mở cửa, lãi suất còn ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng
ngoại tệ ra, vào của một quốc gia. Khi lãi suất trên thò trường trong nước tăng, kết
quả là nguồn vốn ngắn hạn trên thò trường thế giới sẽ đổ vào để hưởng chênh lệch
và ngược lại. Điều này sẽ ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu ngoại tệ, dẫn đến thay


8
đổi tỷ giá và quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá cũng như cán cân thanh toán quốc
tế. Tóm lại, một mức lãi suất cao hay thấp được giữ trong một thời gian đủ dài sẽ có
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiết kiệm và đầu tư, do đó ảnh hưởng đến sự phát
triển của nền kinh tế.
1.1.4 Các yếu tố tác động đến lãi suất
1.1.4.1 Về cấp độ vó mô:
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong
nền kinh tế vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế hàng ngày của mỗi cá
nhân hay doanh nghiệp và có những hệ quả quan trọng đối với nền kinh tế. Vậy

diễn biến của lãi suất là do những yếu tố nào tác động? Trong nền kinh tế thò
trường có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất, nhưng ở đây chúng ta chỉ xem
xét những yếu tố ảnh hưởng tực tiếp.
1.1.4.1.1 Cung, cầu về vốn tín dụng
Giá cả hàng hoá thông thường phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thò trường.
Lợi tức – giá cả đồng vốn cũng lên xuống theo quan hệ cung cầu. Cung cầu về vốn
tín dụng bò chi phối bởi nhiều yếu tố qua bảng 1.1 :
Bảng 1.1:
CUNG

CẦU
-Nhu cầu tín dụng cá nhân

-

Những khoản tiết kiệm cá nhân

-

Tiết kiệm của doanh nghiệp (khấu hao -Đầu tư kinh doanh
và lợi nhuận dùng để tái đầu tư)

-Thâm hụt ngân sách của chính phủ

-

Thặng dư ngân sách của chính phủ

-Thiếu hụt ngân sách đòa phương


-

Thặng dư ngân sách đòa phương

-Số giảm về cung

-

Số tăng thêm về cung hoặc giảm về cầu

-Số tăng về cầu


9
Khi lãi suất trong thò trường tăng lên, trong điều kiện không đổi, cầu thường
giảm xuống và ngược lại. Mỗi cá nhân, doanh nghiệp trong thò trường đều cố gắng
sử dụng đồng tiền sao cho có hiệu quả nhất và họ chỉ biết bảo vệ sự an toàn và
thành quả của mình, không chủ đònh củng cố lợi ích kinh tế chung trên thò trường,
song trong quá trình theo đuổi lợi ích riêng thì bàn tay vô hình của thò trường đã
buộc họ phải theo quỹ đạo của lợi ích chung không nằm trong dự đònh ban đầu của
từng cá nhân và điều đó dẫn đến lãi suất trên thò trường làm cân bằng cung và cầu
tiền tệ. Mặt khác, cung và cầu của quỹ cho vay đến lượt nó lại tác động trở lại đối
với lãi suất, một sự tác động đến phía cung do chính sách mở rộng tiền tệ hay thắt
chặt tiền tệ sẽ làm cho lãi suất giảm hoặc tăng lên.
1.1.4.1.2 Yếu tố lạm phát
Rõ ràng ngày nay ai cũng thừa nhận tỷ lệ lạm phát và mức lãi suất có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau theo hướng, lãi suất tăng cao trong các thời kỳ có tốc độ lạm
phát tăng cao.
Hình 1.1
Lãi suất

S1

S0

i1
i0
D0

D1

Quỹ cho vay
Giả đònh với môi trường giá cả ổn đònh. Mức cung, cầu và lãi suất đối với quỹ
cho vay biểu hiện bằng S0 và D0 và i0 . Lạm phát tăng kéo theo giá cả tiếp tục tăng,
lúc đó đường cung quỹ cho vay giảm xuống S1 và đường cầu tăng lên D1 và kéo
theo mức thăng bằng lãi suất tới i1 .


10
Giải thích:
Thứ nhất về phía cung, khi lạm phát tăng, lãi suất thực tế mà người cho vay
được hưởng và giá trò thực tế của vốn gốc được hoàn lại khi đến hạn đã bò bào mòn
do tác động của lạm phát. Chính tác động của lạm phát khiến người ta phải tính
toán thận trọng và mối lo ngại về một sự tổn thất khi phải đưa vốn ra cho vay, do đó
xu hướng là giam giữ tiền lại hoặc chuyển sang thò trường tài sản. Điều đó dẫn đến
cung giảm và đường cung dòch chuyển sang trái.
Thứ hai về phía cầu, lạm phát sẽ kích thích đi vay vì người vay được hưởng lợi
do hàng hoá mua vào bằng vốn vay giữ nguyên giá trò trong khi đó gánh nặng nợ
thực sự lại giảm bớt do lạm phát (người cho vay bò thiệt hại). Do đó đường cầu dòch
chuyển sang phải nên lãi suất tăng vì vậy thăng bằng lãi suất trên thò trường tăng
lên.

Lãi suất tín dụng biến động trong khung giới hạn sau đây:
Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất tín dụng < Tỷ suất lợi nhuận bình quân
Giới hạn tối đa của lãi suất là tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế. Quá
giới hạn này, lãi suất mất tính chất sản xuất kinh doanh và trở thành lãi suất cho
vay nặng lãi phá hoại sản xuất. Giới hạn tối thiểu của lãi suất chính là chỉ số lạm
phát bởi vì nó sẽ làm cho người gởi tiền ít ra cũng bảo toàn được vốn.
Do mối liên quan giữa lãi suất và lạm phát, người ta chia lãi suất làm hai loại:
• Lãi suất danh nghóa: là lãi suất công bố để áp dụng trong các quan hệ tài
chính tín dụng.
• Lãi suất thực: là giá trò thực sự thu được từ hoạt động đầu tư.
Ý nghóa của việc nghiên cứu lãi suất thực tế và lãi suất danh nghóa:
Thứ nhất, lãi suất thực tế là lãi suất được chỉnh lại theo những thay đổi dự tính
về mức giá (tỷ lệ lạm phát). Do đó, nó phản ánh chính xác hơn chi phí thực của việc


11
vay tiền. Chúng ta có thể xác đònh mối quan hệ giữa lãi suất thực tế và tỷ lệ lạm
phát:

i = r + β pe
i

:Lãi suất danh nghóa

r

:Lãi suất thực tế

pe


:Tỷ lệ lạm phát dự tính

Nếu lãi suất thực tế được giữ ở mức khá ổn đònh cả một thời kỳ và nếu β = 1,
lúc đó những biến động trong lãi suất danh nghóa (i) có thể được tính trên cơ sở
những thay đổi về lạm phát.
Thứ hai, chính lãi suất thực tế chứ không phải lãi suất danh nghóa ảnh hưởng
đến đầu tư và tái phân phối thu nhập giữa con nợ và chủ nợ, các dòng chảy về vốn
ngắn hạn giữa các nước với nhau.
Thứ ba, nếu lãi suất danh nghóa nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát thì lãi suất thực âm có
hại cho thò trường tiền tệ và nền kinh tế.
1.1.4.1.3 Chính sách tiền tệ của chính phủ:
Sự can thiệp của chính phủ, đặc biệt thông qua chính sách tiền tệ là nhân tố tác
động rất mạnh đến lãi suất, bởi vì chính sách tiền tệ sẽ sử dụng các công cụ để tác
động đến cung tiền (M) của nền kinh tế. Trên nguyên tắc, khi cung tiền tăng, nếu
các yếu tố khác không đổi, lãi suất có khuynh hướng giảm xuống và ngược lại, khi
cung tiền giảm thì lãi suất có khuynh hướng tăng lên. Thông thường trong thực tế,
khi cung tiền tăng thì lạm phát sẽ có xu hướng gia tăng. Khi đó, lãi suất thực thỏa
thuận giữa người đi vay và người cho vay sẽ gia tăng để bù trừ lạm phát. Nếu ngân
hàng trung ương muốn thực hiện chính sách nhằm kiểm soát lượng tiền cung ứng và
kiểm soát lạm phát, nhất đònh sẽ phải tác động đến lãi suất. Chẳng hạn khi muốn
giảm bớt cung tiền (thắt chặt tiền tệ) thì ngân hàng trung ương sẽ nâng lãi suất
chiết khấu, nhờ đó các mức lãi suất tín dụng theo đó cũng được nâng lên và ngược


12
lại khi ngân hàng trung ương muốn gia tăng cung tiền (nới lỏng tiền tệ) thì ngân
hàng trung ương sẽ giảm lãi suất chiết khấu và các mức lãi suất tín dụng cũng giảm
theo từ đó khuyến khích các doanh nghiệp đi vay nhiều hơn.
1.1.4.2 Về cấp độ vi mô
1.1.4.2.1 Kỳ hạn:

Chính từ sự khác nhau về kỳ hạn của các khoản vay (hoặc cho vay), lãi suất
của mỗi loại cũng khác nhau. Người ta chia ra hai loại lãi suất là lãi suất ngắn hạn
và lãi suất dài hạn.
Lãi suất ngắn hạn thường thấp hơn lãi suất dài hạn vì những khoản đầu tư ngắn
hạn thường có lợi tức không ổn đònh. Hơn nữa, chính lợi tức không ổn đònh của nó là
nguyên nhân làm cho lãi suất này biến động khá thường xuyên và dữ dội. Nhiều
khi trong một ngày, ở các nước phát triển, nó có thể lên xuống hai ba mức do ảnh
hưởng của lợi tức chứng khoán.
Lãi suất dài hạn: vì tính lâu dài của nó, các khoản đầu tư này thường được sử
dụng cho các khu vực sản xuất, kinh doanh bền chắc với lợi tức ít thay đổi. Do lợi
tức của đầu tư ổn đònh, lãi suất của loại này thường cao hơn các loại khác.
1.1.4.2.2 Tính thanh khoản:
Thể hiện mức độ nhanh hay chậm của việc chuyển một tài sản trở lại thành
tiền mặt. Với những tài sản có thời gian đáo hạn ngắn như chứng khoán ngắn hạn,
các khoản cho vay dự trữ... khả năng thanh khoản cao và chi phí chuyển đổi thấp do
đó lãi suất của nó thấp. Ngược lại, những tài sản có tính thanh khoản thấp như trái
phiếu, các khoản cho vay dài hạn... chi phí chuyển đổi cao thì thường có lãi suất
cao.
1.1.4.2.3.Rủi ro:
Thể hiện qua việc vốn đầu tư bò mất giá, vốn không thu hồi được, lợi tức bò âm
vì lạm phát cao..., đối với vốn vay có thời gian đáo hạn càng dài thì rủi ro càng cao.


13
Do đó, các ngân hàng luôn tìm cách nâng lãi suất lên để bù đắp những rủi ro có thể
xảy ra. Đây có thể coi như là khoản bảo hiểm tín dụng.
Ngoài các yếu tố trên, lãi suất còn phụ thuộc vào chi phí quản lý ngân hàng, lợi
tức dự kiến chia cho cổ đông, sự cạnh tranh của các ngân hàng khác, quan hệ giữa
ngân hàng và người vay...
1.1.5 Các chế độ lãi suất

1.1.5.1 Chế độ lãi suất ấn đònh
Chế độ lãi suất ấn đònh được áp dụng vào thập niên 80 ở Việt nam trong thời
kỳ kinh tế kế hoạch tập trung đến năm 1999. Nhà nước quản lý trực tiếp bằng cách
công bố tất cả các loại lãi suất. Các ngân hàng, các tổ chức tín dụng phải xác đònh
lãi suất kinh doanh trong khung giới hạn đó và chấp hành một cách tuyệt đối. Trong
nền kinh tế thò trường, lãi suất biến động theo cung cầu về vốn nên lãi suất ấn đònh
chỉ là một khung khống chế tương đối. Chế độ lãi suất ấn đònh dễ vận dụng cho các
nước đang phát triển và ít gây rủi ro so với lãi suất thả nổi nhưng nó lại kém linh
hoạt nên khó trở thành công cụ mạnh và kòp thời của chính sách tền tệ.
1.1.5.2 Chế độ lãi suất thả nổi có can thiệp:
Lãi suất được thả nổi thông qua thò trường tiền tệ. Tuy nhiên, với tư cách là cơ
quan thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương sẽ tác động gián tiếp tới lãi
suất tiền gửi và tiền vay của ngân hàng thương mại bằng lãi suất tái chiết khấu và
lãi suất trên thò trường tiền tệ liên ngân hàng để điều tiết cung cầu tín dụng, điều
tiết khối lượng tiền của nền kinh tế. Như vậy, trong nền kinh tế thò trường, công cụ
lãi suất sẽ trở thành công cụ linh hoạt để thực thi chính sách tiền tệ cũng như phát
triển khả năng cạnh tranh và hiệu quả quản lý tài sản của các ngân hàng.
1.1.5.3 Chế độ lãi suất tự do hoàn toàn:
Là chế độ lãi suất trong đó không có sự can thiệp của chính phủ vào việc hình
thành lãi suất trên thò trường nói riêng và hoạt động tài chính nói chung. Các dòng


14
vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có hiệu suất sinh lợi thấp đến nơi có hiệu suất sinh
lợi cao và lãi suất được hình thành tự nhiên theo tác động cung cầu về vốn trên thò
trường. Đây chính là một phần của tự do hoá tài chính.
1.2 TỰ DO HÓA LÃI SUẤT VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC TỰ DO HÓA
LÃI SUẤT.
1.2.1 Tự do hóa tài chính
Tự do hoá tài chính là một nền tài chính mà trong đó không có hoặc chỉ có sự

can thiệp rất ít của chính phủ vào hoạt động và các quá trình tài chính. Trong môi
trường tự do hoá tài chính, các quan hệ và các giao dòch tài chính vận động theo cơ
chế thò trường. Các dòng vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có hiệu suất sinh lợi thấp
đến nơi có hiệu suất sinh lợi cao mà không gặp phải một rào cản nào. Các dòng
vốn đó bao gồm các nguồn vốn đầu tư khu vực công và tư, vốn dân cư, vốn của các
tổ chức tài chính, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước, vốn đầu tư trực
tiếp và gián tiếp. Như vậy, có thể nói vắn tắt rằng tự do hoá tài chính là một quá
trình tiến tới hoạt động tự do trên các thò trường tài chính. Thò trường tài chính theo
truyền thống bao gồm thò trường tiền tệ và thò trường vốn. Nhưng nói đến tự do hoá
tài chính thì không thể không kể đến thò trường thứ ba đó là thò trường ngoại hối,
bởi vì tự do hóa tài chính không chỉ ngụ ý sự lưu chuyển vốn trong nước mà cả trên
phạm vi toàn cầu. Vốn khi lưu chuyển qua biên giới quốc gia thì tất yếu phải liên
quan đến sự chuyển đổi từ đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác. Hay nói
cách khác, theo đònh nghóa, tỷ giá hối đoái là giá của đồng tiền nước này được tính
bằng một đồng tiền nước khác. Do đó, lợi tức dự tính của tiền gởi nước ngoài so với
tiền gởi trong nước là nhân tố trung tâm của việc xác đònh tỷ giá. Lợi tức dự tính
phụ thuộc vào lãi suất và vào phần trăm thay đổi của tỷ giá dự kiến, chính ở đây
chúng ta gặp lại yếu tố lãi suất, và cũng chính ở đây chúng ta có thể thấy được sự
giao thoa giữa thò trường tiền tệ và thò trường vốn với thò trường ngoại hối. Cả ba


15
làm nên thò trường tài chính. Vì thế thò trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái là một
vấn đề quan trọng trong tự do hoá tài chính. Tự do hoá tài chính có hai cấp độ là tự
do hoá tài chính nội đòa và tự do hoá tài chính quốc tế.
1.2.2 Tự do hóa lãi suất – hạt nhân của tự do hóa tài chính
Tự do hóa lãi suất là cơ chế điều hành lãi suất dựa trên cơ sở cung cầu vốn,
mức tiết kiệm, thu nhập, chi tiêu của cá nhân và những nhân tố khác trên thò trường,
nhà nước không ấn đònh và không khống chế lãi suất hay nói cách khác là lãi suất
hình thành theo cơ chế thò trường. Các ngân hàng được quyền công bố lãi suất kinh

doanh trong hoạt động và cho vay.
Hạt nhân của tự do hóa tài chính là tự do hóa lãi suất. Lãi suất phải do thò
trường quyết đònh, phụ thuộc vào cung, cầu đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập trong
nền kinh tế. Chúng ta đều biết nền kinh tế có ba loại giá là giá hàng hóa và dòch
vụ, giá vốn (lãi suất) và giá ngoại tệ (tỷ giá hối đoái) nên tự do hóa lãi suất thường
tác động mạnh đến nền kinh tế quốc dân, quyết đònh tốc độ và tính chất tăng trưởng
kinh tế. Trong tự do hóa tài chính, lãi suất do thò trường quyết đònh, song các nhà
hoạch đònh chính sách cũng cần kiểm soát quá trình tự do hóa lãi suất.
Thứ nhất, họ phải quyết đònh thời điểm bắt đầu và tốc độ tự do hóa lãi suất căn
cứ vào những tiến bộ đạt được trong cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước và
thực hiện “văn minh tín dụng” nghóa là tăng số lượng các ngân hàng có chính sách
tín dụng theo cơ chế thò trường.
Thứ hai, họ phải quyết đònh lộ trình tự do hóa tức là trật tự tiến hành tự do hóa
lãi suất của các công cụ tài chính sao cho không làm tổn hại đến hệ thống ngân
hàng.
Thứ ba, ngân hàng trung ương cần phát triển chiến lược chỉ đạo chính sách tiền
tệ trong khuôn khổ hệ thống tài chính đã tự do hóa. Trong khi cho phép các lực


16
lượng thò trường đóng vai trò quyết đònh trong việc phân bổ các nguồn lực tài chính
thì các nước cần phát triển một thò trường tiền tệ có hiệu quả.
Cuối cùng, các nhà hoạch đònh chính sách cần tích cực chuẩn bò những công
công cụ tài chính mới cần thiết sau khi tiến hành tự do hóa.
1.2.3 Sự cần thiết phải tự do hóa lãi suất ở Việt nam
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã và đang trở thành xu thế tất yếu của thời
đại, thành đặc tính xuyên xuốt, chi phối mọi hoạt động từ lời nói, hành động cho tới
ý nghó, tư duy trong thiên niên kỷ mới. Chính vì vậy mỗi con người, mỗi quốc gia
đều nỗ lực không ngừng để chuẩn bò điều kiện cần thiết, tích cực tham gia để giành
lấy thành công trong quá trình hội nhập. Người ta thường nói, hội nhập đem l

nhiều thuận lợi song cũng gây ra không ít khó khăn và thách thức. Nhưng nếu
không hội nhập là tự tách mình ra khỏi thế giới ngày càng gắn kết với nhau chặt
chẽ hơn. Nền tài chính tiền tệ của Việt nam cũng không tách khỏi quỹ đạo chung
đó. Lãi suất được tự do hoá sẽ linh hoạt hơn so với khi bò kiểm soát và có khả năng
linh hoạt điều tiết để thích nghi với điều kiện thay đổi, tự động tạo ra sự kích thích
cho tăng trưởng tài chính, cải tiến và thay đổi cơ cấu mà chính phủ hoặc là không
thể quản lý được hoặc là chậm thu được kết quả.
Việt Nam cần chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao hiệu quả và chất lượng
các quan hệ tài chính-tiền tệ để khẳng đònh vò trí của Việt Nam trong hoạt động tài
chính khu vực và quốc tế. Một trong những quan hệ tài chính quan trọng nhất đó là
chính sách lãi suất. Chính sách lãi suất phải theo xu hướng hội nhập, phù hợp với
thông lệ, quy đònh và nguyên tắc quốc tế. Vì thế tự do hóa lãi suất là tất yếu khách
quan.
1.2.4 Tác động của tự do hóa lãi suất đến nền kinh tế nước ta
1.2.4.1 Tác động của tự do hóa lãi suất đến nền kinh tế nước ta


17
Một khi tiến đến tự do hóa lãi suất là ta đã tạo được điều kiện thuận lợi cho
việc gia nhập vào các khối kinh tế, hội nhập chung vào nền kinh tế thế giới. Việc
áp dụng mức trần lãi suất sẽ tác động làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền
tệ, làm cho ngân hàng hạn chế khả năng cho vay và đầu tư. Đây là một trong những
nguyên nhân làm hạn chế sự sự phát triển của nền kinh tế nước ta, hạn chế khả
năng tự đứng vững bằng nội lực của chính mình. Nếu không khắc phục thì chúng ta
sẽ dể dàng bò lệ thuộc về kinh tế khi tiến hành hội nhập. Một chính sách lãi suất
linh hoạt sẽ tạo điều kiện cho ta đủ cơ sở để phát triển nền kinh tế quốc gia theo xu
hướng toàn cầu hóa và ngày càng tiến sâu vào nền kinh tế thò trường.
Khi tiến hành tự do hóa lãi suất, các ngân hàng thương mại thả nổi lãi suất,
chấp nhận tính lãi theo kết quả thương lượng của từng thương vụ, sẽ có nhiều khách
hàng tìm đến và vì vậy sẽ mở ra nhiều cơ hội đầu tư có hiệu quả hơn, giúp phân bổ

nguồn vốn có hiệu quả hơn. Không phải ngân hàng tìm khách hàng đơn phương nữa
mà cả khách hàng cũng tìm đến ngân hàng bởi vì cả hai cùng có lợi. Khi lãi suất
tăng lên sẽ tác động làm cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp thận trọng hơn trong
các dự án kinh doanh của mình. Họ sẽ đầu tư vào những dự án có lợi nhuận cao để
đủ bù đắp cho những chi phí đã bỏ ra trong đó có cả chi phí sử dụng vốn vay, hoặc
để tạo ra khoản lợi nhuận cao hơn lãi suất tiền gởi ngân hàng. Chính vì vậy mà các
dự án sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế sẽ tạo ra được hiệu quả cao, chắc chắn
hơn. Như vậy tự do hóa lãi suất sẽ tạo nên một môi trường kinh doanh có hiệu quả
là tiền đề cho nền kinh tế tăng trưởng thực và phát triển ổn đònh.
Tự do hóa lãi suất sẽ tác động làm cho lạm phát giảm đi và kích thích nền kinh
tế tăng trưởng. Bởi vì, khi nền kinh tế thế giới sử dụng tiền lưu thông thoát ly chế
độ kim bản vò và thay bằng tiền không đủ giá thì chứa đựng bên trong nó khả năng
tiềm tàng của lạm phát. Khi nền kinh tế có lạm phát, lúc này lãi suất tiền gởi thực
sẽ có giá trò âm (nếu lãi suất tiền giởi thấp hơn chỉ số lạm phát), các ngân hàng sẽ


18
nâng mức lãi suất lên để khống chế khối lượng tiền ra lưu thông và làm cho lãi suất
tiền gởi có giá trò dương, lạm phát sẽ giảm đi. Tuy nhiên, xét ở một khiá cạnh khác
của lạm phát ta lại thấy một ý nghóa khác. Lạm phát, trong một chừng mực nhất
đònh lại là yếu tố kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi vốn được đưa vào nền kinh tế
bằng con đường tín dụng sẽ tạo điều kiện kích thích đầu tư cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu, tạo ra nhiều sản phẩm hơn cho xã hội, thu hút nhiều việc làm hơn góp
phần tạo thu nhập, giảm thất nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy tự do
hóa lãi suất trong chừng mực nhất đònh có thể kết hợp với các giải pháp kích cầu để
tạo ra một mức độ lạm phát vừa phải nhằm kích thích cho sự tăng trưởng kinh tế.
1.2.4.2 Điều kiện tiến đến tự do hóa lãi suất ở nước ta
Thực tế các năm qua ở nước ta đã cho thấy, một chính sách lãi suất cứng nhắc
và thiên về các công cụ kiểm soát tài chính trực tiếp như một mức lãi suất trần cứng
nhắc, hạn mức tín dụng hay lãi suất cho vay ưu đãi sẽ kiềm hãm sự tăng trưởng kinh

tế và chính sách lãi suất chưa huy động được vốn tối đa cho mục tiêu công nghiệp
hóa-hiện đại hóa nước nhà. Tự do hóa tài chính, đặc biệt là tự do hóa lãi suất sẽ
góp phần huy động nguồn lực thông qua hệ thống tài chính chính thức, đồng thời
nâng cao hiệu quả của hệ thống tài chính, để lónh vực tài chính thật sự là một mạch
máu lưu thông huyết mạch của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy vậy, mức độ thành công trong việc thực hiện tự do hóa tài chính của các quốc
gia khác nhau lại không giống nhau. Ví dụ Úc, Nhật, Mỹ, Malaysia,… thì khá thành
công trong khi Philippine, Thổ Nhỹ Kỳ, Chi Lê, Achentina, Uraguay… thì lại thất
bại. Điều này còn tuỳ thuộc cách thức và tiến trình tự do hoá lãi suất ở mỗi nước
với những đặc điểm riêng biệt và khác nhau, phụ thuộc vào xuất phát điểm của
từng nước như mức độ kiểm soát tài chính, đặc điểm và tính chất của hệ thống tài
chính, khả năng và trình độ quản lý của các cấp quản lý vó mô vv…, phụ thuộc vào
điều kiện quốc tế trong từng giai đoạn tự do hóa như xu hướng chung về cải cách tài


19
chính, quyền lợi và mâu thuẫn của các cường quốc tài chính, trạng thái tài chính
quốc tế như khủng hoảng, suy thoái hay đang phát triển. Tóm lại, dù là tác động
bên trong hay bên ngoài thì việc thực hiện tự do hóa tài chính cũng đòi hỏi phải rất
cẩn thận. Bất kỳ sự nhảy vọt nào từ cực này (hạn chế quá mức) sang cực kia (tự do
quá mức) đều có thể dẫn đến khủng hoảng và tình trạng vô chính phủ. Bên cạnh
đó, các nhân tố quyết đònh tăng trưởng kinh tế còn là kết quả tổng hợp của nhiều
giải pháp vó mô và chiến lược phát triển kinh tế, chứ không chỉ phụ thuộc vào tự do
hóa lãi suất. Xét trong từng điều kiện cụ thể của Việt nam thì trong thời điểm hiện
nay, còn phải giải quyết các vấn đề tồn đọng sau đây mới có thể tiến hành tự do
hóa lãi suất được:
-Nền tảng kinh tế vó mô vẫn chưa ổn đònh, nguy cơ tái lạm phát vẫn còn tiềm
ẩn và Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có thể kiểm soát lạm phát một cách tốt nhất
cho mục tiêu phát triển kinh tế. Ngân sách vẫn còn rất căng thẳng, tích lũy nội đòa
thấp, vốn đầu tư còn thấp và phụ thuộc chủ yếu vào vốn đầu tư nước ngoài.

-Xuất phát điểm của nền kinh tế ở mức quá thấp, so sánh thu nhập trung bình
của các tầng lớp dân cư còn ở mức thấp. Trình độ kỹ thuật và trang thiết bò còn rất
thấp.
-Khu vực sản xuất, nhất là khu vực Nhà nước, hoạt động kém hiệu quả, còn
đang trong giai đoạn chấn chỉnh, xắp xếp lại,hiệu quả của việc cải tổ này còn chưa
rõ nét.
-Hệ thống ngân hàng, nhất là các Ngân hàng thương mại cổ phần, vẫn còn yếu
kém, vốn nhỏ, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý vẫn còn bất cập so với những
đòi hỏ khách quan của nền kinh tế và mức độ hội nhập kinh tế.
-Hiện tại, các công cụ tài chính như thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác để thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu chưa được phổ biến.
Hơn nữa, nghiệp vụ tái cấp vốn của ngân hàng Nhà nước chưa thực hiện đúng nội


20
dung kinh tế của nó, chủ yếu còn mang tính cho vay trực tiếp. Do đó, công cụ lãi
suất tái chiết khấu chưa đủ mạnh để chi phối lãi suất thò trường, tác động của ngân
hàng thương mại đến cung cầu tín dụng trong nền kinh tế chưa đủ mạnh để khống
chế mức lãi suất tín dụng theo mục tiêu mà nền kinh tế đã đặt ra.
-Nghiệp vụ thò trường mở ra đời nhưng tác động còn rất yếu kém, nhiều khi
không có tác dụng điều tiết thò trường theo lý thuyết của thò trường này, điều này
gây khó khăn cho việc điều tiết cung ứng tiền tệ và lãi suất theo mục tiêu của nền
kinh tế và khi có những tác động xấu đến thò trường.
-Trình độ quản lý kinh tế của cán bộ trong các cơ quan nhà nước từ Trung ương
cho đến đòa phương vẫn còn nhiều vấn đề phải xem xét, nhất là ở những tỉnh vùng
sâu, vùng xa.
-Tác động của ngân hàng Nhà nước vào điều tiết lưu thông tiền tệ, cung cầu
vốn trong nền kinh tế còn rất yếu kém.
Vì vậy, phương án tối ưu của chính sách lãi suất trong thời gian trước mắt là
Nhà nước cần tiếp tục điều hành bằng lãi suất cơ bản, khai thác tác động của lãi

suất cơ bản để có thể tiến đến tự do hóa lãi suất trong tương lai gần khi điều kiện
cho phép. Nhanh chóng xác lập các điều kiện cần thiết để trong tương lai gần chúng
ta có thể điều hành chính sách tiền tệ của mình theo hướng hoàn toàn tự do hóa.

[\


21

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TẠI VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA – NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ.
2.1 THỰC TRẠNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TẠI VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN TỪ 1986 CHO ĐẾN NAY.
2.1.1 Giai đoạn từ 1986-1990
2.1.1.1 Giai đoạn 1986-1988:
Sau cuộc cải cách giá-lương-tiền tháng 9 năm 1985, đặc biệt là sau đại hội Đảng
lần VI, nền kinh tế nước ta có nhiều đổi mới cho nên chính sách lãi suất cũng có
nhiều thay đổi. Trong thời kỳ này với thời gian chưa đầy một năm rưỡi từ 10/1986
đến 03/1988, Nhà nước đã điều chỉnh mức lãi suất 3 lần với những đặc điểm cơ bản
như :
• Các mức lãi suất đều do Nhà nước quy đònh, còn ngân hàng chỉ làm
nhiệm vụ cho vay, thu nợ theo chức năng
• Biểu lãi suất quy đònh quá nhiều mức gây khó khăn cho việc thực hiện
nghiệp vụ tín dụng
• Lãi suất tiền gởi tiết kiệm cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay.
2.1.1.2 Giai đoạn từ tháng 3/1988 đến 1990
Trong thời kỳ này có sự thay đổi lớn về hệ thống tổ chức ngân hàng xuất phát từ
yêu cầu đổi mới hệ thống ngân hàng để đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần và cũng phân đònh rõ vai trò quản lý nhà nước trên

phương diện vó mô, vai trò trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng và nghiệp vụ ngân
hàng. Nhà nước đã có nghò đònh 53/HĐBT ngày 26/3/1988 phân chia hệ thống ngân
hàng thành hai cấp là ngân hàng Nhà nước và ngân hàng chuyên doanh. Tháng
5/1990 pháp lệnh ngân hàng Nhà nước, pháp lệnh ngân hàng thương mại, công ty


22
tài chính và hợp tác xã tín dụng ra đời đánh dấu bước đổi mới quan trọng của hệ
thống ngân hàng, khẳng đònh hệ thống ngân hàng Việt nam đã thực sự tổ chức
thành hai cấp.
Ngày 06/02/1990, chủ tòch HĐBT ra chỉ thò số 39/CT về điều chỉnh lãi suất Ngân
hàng theo nguyên tắc lãi suất bảo toàn vốn cho người gởi và người cho vay. Kòp
thời điều chỉnh cho phù hợp với sự biến động của chỉ số giá thò trường. Lãi suất cho
vay phải lấy phục vụ sản xuất kinh doanh có hiệu quả là chính, đồng thời đảm bảo
chi phí và hạch toán của ngân hàng, có ưu tiên đối với một số ngành, mặt hàng theo
quy đònh của Nhà nước. Việc điều chỉnh lãi suất được tiến hành từng bước theo
hướng thu hẹp dần khoản cách giữa lãi suất tiết kiệm và lãi suất tiền gởi của các tổ
chức kinh tế để tiến tới một lãi suất hợp lý. Tiếp tục thực hiện chỉ thò số 39/CT của
Chủ tòch Hội Đồng Bộ Trưởng, ngày 19/3/1990 ngân hàng Nhà nước có quyết đònh
số 18/NH-QĐ, theo quyết đònh này, lãi suất tiền gởi của các tổ chức kinh tế được
chia thành không kỳ hạn và các loại kỳ hạn.
• Lãi suất tiền gửi tiết kiệm:
Dựa vào quyết đònh số 55/HĐBT ngày 10/3/1989, ngân hàng Nhà nước ra quyết
đònh số 29/NH-QĐ ngày 16/3/1989 quy đònh về nâng mức lãi suất tiền gởi tiết kiệm
để kiềm chế lạm phát. Sau khi lạm phát giảm dần, ngân hàng Nhà nước đã ra nhiều
quyết đònh điều chỉnh giảm lãi suất tiền gởi tiết kiệm.
• Lãi suất tiền gởi và tiền cho vay của ngân hàng Nhà nước đối với các ngân
hàng thương mại quốc doanh và các tổ chức tín dụng khác :
Do hệ thống ngân hàng được tổ chức thành hai cấp theo NĐ 53/HĐBT và hai
pháp lệnh ngân hàng cho nên xuất hiện thêm loại lãi suất quan hệ giữa ngân hàng

Nhà nước với các tổ chức tín dụng. Lãi suất này được hình thành đầu tiên theo
quyết đònh số 27/NH-QĐ ngày 13/05/1988. Trong thời kỳ này, nó được điều chỉnh
nhiều lần theo các quyết đònh của ngân hàng Nhà nước


23
Tóm lại, lãi suất ngân hàng trong thời kỳ này từ 1986-1990 có đặc điểm:
1. Lãi suất được điều chỉnh nhiều lần. Do đó mức lãi suất có phần nào phù hợp
với chỉ số giá cả hiện hành trên thò trường.
2. Điều chỉnh lãi suất tương đối đồng bộ có nghóa là khi điều chỉnh lãi suất tiền
gởi tiết kiệm, đồng thời cũng điều chỉnh lãi suất giữa ngân hàng với các tổ
chức kinh tế và lãi suất giữa ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại
hoặc có thể một quyết đònh của ngân hàng Nhà nước sẽ điều chỉnh cả mấy
loại lãi suất.
3. Sau khi hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, nhất là sau khi pháp lệnh
ngân hàng có hiệu lực đã giảm dần tính chất độc quyền của Nhà nước trong
việc quy đònh các mức lãi suất.
4. Trong thời kỳ này đã hình thành nên các loại lãi suất để kòp thời triển khai
các nghiệp vụ ngân hàng cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thò trường.
Chẳng hạn như lãi suất cho vay giữa ngân hàng Nhà nước và ngân hàng
thương mại, lãi suất cho vay thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ…
5. Đã có sự thay đổi về cách thức quy đònh mức lãi suất làm cho việc vay vốn
ngày càng có hiệu quả hơn. Chẳng hạn quyết đònh số 18/NH-QĐ, tiền gởi
các tổ chức kinh tế được phân ra thành tiền gởi không kỳ hạn 0,9%/tháng và
kỳ hạn 3 tháng là 1,8%/tháng.
Tuy nhiên, chính sách lãi suất trong thời kỳ này vẫn còn nhiều bất cập như:
-

Lãi suất âm và mang tính bao cấp


-

Lãi suất huy động cao hơn lãi suất cho vay

-

Lãi suất còn quá phân biệt giữa các thành phần kinh tế.

2.1.2 Giai đoạn từ 1991-1995:
Nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thò trường đã có những bước tiến
khá vững chắc. Trong điều kiện đó, hệ thống lãi suất tín dụng đã có những chuyển


24
hướng tích cực. Đây là thời kỳ chính sách lãi suất âm bò loại bỏ và chuyển dần sang
lãi suất dương và từ tháng 6/1991 đã thực hiện triệt để chính sách lãi suất dương
trong hoạt động tín dụng.
Diễn tiến tình hình lãi suất tiền gởi và cho vay của các tổ chức tín dụng đối với
các tổ chức kinh tế và dân cư:
Ngày 11/7/1991, ngân hàng Nhà nước có quyết đònh số 93/NH-QĐ về việc ban
hành lãi suất cho vay đối với hộ sản xuất nông lâm, diêm, ngư nghiệp. Lãi suất này
phân chia theo vùng: Đồng bằng sông Cửu Long 6%/tháng, miền Tây 5%/tháng,
đồng bằng Bắc bộ 4%/tháng, miền núi hải đảo 3%/tháng.
Sau khi hai pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực thi hành, Nhà nước cho phép thành
lập một số ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh… Ngân hàng Nhà
nước có quyết đònh số 94/NH-QĐ ngày 11/7/1991 quy đònh lãi suất cho vay tối đa
của các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh là 6% tháng, lãi suất huy động vốn tối
đa là 2% tháng. Ngoại tệ tham gia vào quá trình lưu thông và thanh toán trong nền
kinh tế nước ta ngày càng nhiều. Các tổ chức kinh tế có quỹ ngoại tệ xí nghiệp gửi
vào ngân hàng và vay ngoại tệ của ngân hàng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh

ngày càng tăng. Do đó trong thời kỳ này, ngân hàng Nhà nước ra nhiều quyết đònh
điều chỉnh lãi suất tiền gởi và cho vay ngoại tệ giữa các tổ chức tín dụng và các tổ
chức kinh tế. Theo quyết đònh số 202/NH-QĐ ngày 30/10/1991 bắt đầu áp dụng lãi
suất dương cho một số đối tượng, có nghóa là mức lãi suất cho vay cao hơn lãi suất
tiền gởi tiết kiệm. Các ngân hàng thương mại quốc doanh được huy động nguồn vốn
bằng hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích và sử dụng nguồn vốn đó để cho
vay. Ngân hàng Nhà nước quy đònh mức lãi suất cho vay từ nguồn vốn huy động kỳ
phiếu theo ngoại tệ: thực hiện theo mức thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng
bao gồm lãi suất huy động cộng lệ phí ngân hàng.


×