Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận chính sách đối ngoại xung đột quan hệ tam giác việt nam campuchia trung quốc những năm 70 80 90 thế kỉ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.14 KB, 24 trang )

Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

PHẦN MỞ ĐẦU
Tên đề tài: Xung đột trong quan hệ tam giác Việt Nam – Campuchia – Trung
Quốc trong những năm 70-80-90 của thế kỉ XX.
Chính sách đối ngoại Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn, song hành cũng
những biến cố của lịch sử. Trong ba thập niên cuối của thế kỉ XX, vấn đề nổi cộm
nhất trong nhiệm vụ đối ngoại của ta là giải quyết xung đột trong quan hệ tam giác
Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc. Đây cũng là vấn đề lịch sử quan trọng không
chỉ bởi tầm quan trọng của hai nước láng giềng trong sự phát triển của dân tộc mà
nó để lại cho ta nhiều bài học về ngoại giao cho những giai đoạn tiếp theo.
Nghiên cứu xung đột quan hệ tam giác giữa ba nước, bản tiểu luận tập trung
hướng những đối sách của Đảng và nhà nước ta trên cở sở tình hình lúc đó và đưa
ra những nhận xét, đánh giá và đúc rúc thành những bài học kinh nghiệm.
Với nỗ lực của bản thân vì mục đích tái hiện một cái nhìn toàn vẹn nhất
một góc lịch sử Việt Nam sau chặng đường dài chiến đấu bảo vệ tổ quốc cũng
như những chính sách đối ngoại Việt Nam giai đoạn này, bài tiểu luận hy vọng
đem đến những thông tin hữu ích cho thầy cô và các bạn trong quá trình học tập,
nghiên cứu.


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

NỘI DUNG CHÍNH
I. GIAI ĐOẠN 1975 – 1986
1.1Bối cảnh lịch sử:
1.1.1 Bối cảnh trong nước
- Những năm 70 của thế kỉ XX, nước Việt Nam ta thời kỳ này đã trải qua
những sự kiện to lớn: Hiệp định Paris 1973 về Việt Nam kết thúc cuộc đàm phán
1968-1973 giữa Việt Nam và Mỹ, toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975
đã đưa Việt Nam tới đỉnh cao của giải phóng dân tộc và uy tín quốc tế.


- Song ngay sau đó, nước ta lại bắt đầu đương đầu với cuộc chiến mới. Chỉ
hơn 4 năm sau khi giải phóng được đất nước, ta lại bị xô đẩy vào cuộc chiến thảm
khốc ở Campuchia, đối đầu ngay với Trung Quốc, kẻ đã từng là đồng minh chiến
lược của ta trong 30 năm chiến đấu chống xâm lược phương Tây. Sau hai cuộc
kháng chiến gian khổ, dân ta mới chỉ được hưởng mùi vị của chiến thắng và hoà
bình êm ả chưa đầy 5 năm. Vết thương chiến tranh chưa lành thì đã lâm vào cảnh
nửa hoà bình nửa chiến tranh
- Chiến tranh chống Mỹ tuy gian khổ khốc liệt song Việt Nam còn có được
mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ, còn trong cuộc chiến đấu chống diệt
chủng Polpot thì Việt Nam hầu như hoàn toàn cô lập. Các nước cùng khu vực lo sợ
Việt Nam sau khi “hạ xong” Campuchia sẽ phát huy sức mạnh quân sự ra cả Đông
Nam Á. Còn Trung Quốc ra sức vu khống “Việt Nam xâm lược Campuchia” và có
mưu đồ lập “Liên bang Đông Dương” để làm chủ cả Lào lẫn Campuchia, xoá mờ
tính chất “chống diệt chủng” của việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia.
- Cùng thời gian này, do những khó khăn kinh tế – xã hội chồng chất của thời
kỳ chiến tranh chưa được tháo gỡ, lại bị bao vây cấm vận bên ngoài nên trong nước
đã nảy sinh ra tình trạng “vượt biên” trốn ra nước ngoài của một bộ phận dân chúng
ở cả miền Nam lẫn miền Bắc, tạo thêm gánh nặng về đối ngoại cho ta, bôi đen thêm
hình ảnh Việt Nam trên quốc tế. Vấn đề Campuchia và vấn đề “thuyền nhân” lúc đó
quả là gánh nặng trên mặt trận đối ngoại của ta trong thập niên 80 của thế kỷ 20.
- 1986, nước ta thực hiện đường lối Đổi mới, đề ra nhiều chính sách phù hợp
với xu thế mới của tình hình trong nước và quốc tế.


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

1.1.2 Bối cảnh quốc tế
- Tình hình thế giới:
+ Thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ không chỉ là một tác
nhân đưa đến những thay đổi rất quan trọng trong chiến lược của các nước lớn mà

còn làm chuyển đổi cục diện chính trị khu vực Đông Nam Á. Nể sợ sức mạnh quân
sự và ý chí kiên cường của Việt Nam, mặt khác lo ngại mối đe doạ từ nước Trung
Hoa khổng lồ tăng lên một khi Mỹ rút khỏi Đông Nam Á, đồng thời lại có yêu cầu
phát triển kinh tế, các nước ASEAN sốt sắng bình thường hóa cải thiện quan hệ với
Việt Nam; tổ chức liên minh quân sự SEATO tan rã; xu hướng hoà bình, ổn định ở
Đông Nam Á phát triển.
+ Sau khi bị “gáo nước lạnh” ở Việt Nam Mỹ lo tháo chạy khỏi Đông Nam Á,
song lại sợ tạo ra một “khoảng trống” có lợi cho các đối thủ của mình. Một mặt sợ
Liên Xô thừa thế mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á và thế giới, mặt khác lo Trung
Quốc phát huy vai trò nước lớn Châu Á để lấp chỗ “trống” đó nên Mỹ vừa tìm cách
khai thác mâu thuẫn Xô – Trung vừa muốn có một nước Việt Nam độc lập cả với
Trung Quốc lẫn Liên Xô để duy trì thế cân bằng chiến lược giữa ba nước lớn trong
khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
+Trung Quốc đứng về phía Mĩ chống Liên Xô, nội bộ xã hội chủ nghĩa bị chia
rẽ. 1969 xảy ra xung đột biên giới Xô – Trung, 1979 Trung Quốc phát động cuộc
chiến tranh biên giới phía bắc Việt Nam. Trung Quốc và Liên Xô đang có những
mâu thuẫn bất đồng sâu sắc. vì lẽ đó Mỹ ra sức viện trợ cho Trung Quốc trong chiến
tranh Việt Nam. Trong khi đó Việt Nam lại nghiêng hẳn về phía Liên Xô để tranh
thủ sự ủng hộ từ các nước XHCN. Như vậy, về thực chất đây là “sân chơi” của các
nước lớn”.
Sau chiến tranh lạnh, xu thế hòa dịu trong quan hệ Xô Mỹ được đề cao. Mâu
thuẫn trong chiến tranh lạnh đã hạ nhiệt. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã
khiến các nước có xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển. Hơn nữa năm 1991, Liên
bang Xô Viết sụp đổ, trật tự 2 cực không còn.
- Tình hình Đông Dương
+ 30.4.1975: Việt Nam thống nhất.
+ 16.4.19745: Phnôm pênh giải phóng.


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX


+ Lào: tuyên bố thiết lập chế độ Cộng hòa Đại chủ nghĩa
+ Sau khi giành độc lập,quan hệ Việt Nam - Campuchia trở nên phức tạp. Sự
đối đầu ấy trở thành xung đột quân sự ngay từ tháng 5.1975 và phát triển lên thành
cuộc chiến tranh biên giới Tây-Nam nước ta. Trong khi trả lời phỏng vấn, ngày
8.1.78, Z. Brezinski, cố vấn an ninh của tôngt thống Mỹ, đã nhận định: “Điều lý thú
đây là trường hợp đầu tiên của một cuộc chiến tranh qua tay người khác giữa Liên
Xô và Trung Quốc: xung đột giữa Việt Nam được Liên Xô ủng hộ và Campuchia
được Trung Quốc ủng hộ.”
Sau chiến tranh lạnh, Việt Nam và Đông Nam Á muốn hoà bình, ổn định và
phát triển. Không muốn có sự can thiệp của các nước lớn
1.2 Xung đột mối quan hệ tam giác Việt Nam – Campuchia – Trung Quốc
1.2.1 Xung đột Việt Nam – Trung Quốc
-1.2.1.1Nguyên nhân “ bất hòa” Việt Nam – Trung Quốc.
- Mối quan hệ giữa Việt Nam – Trung Quốc
Tuy được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương
và Chiến tranh Việt Nam, các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà và Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện từ năm 1968 do:
Việt Nam muốn cùng lúc giữ mối quan hệ với cả Liên Xô và Trung Quốc.
Trong khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng gay gắt thì mối quan
hệ giữa Việt Nam với Liên Xô ngày càng phát triển theo hướng tích cực. Liên Xô là
chỗ dựa vững chắc cho Việt Nam trong giai đoạn này.
Bất đồng quan điểm giữa Việt Nam với Trung Quốc về cách tiến hành cuộc
chiến tại miền Nam Việt Nam trở nên rõ rệt. Trung Quốc muốn Việt Nam chỉ tiếp
tục chiến tranh du kích có giới hạn chống Mỹ, trong khi Việt Nam muốn tiến hành
chiến tranh quy mô để thống nhất Tổ quốc của họ.Và hơn thế nữa, VN muốn trực
tiếp đàm phán với Mỹ, không cần thông qua một nước nào làm trung gian.Sau sự
kiện Tết Mậu Thân, VN bắt đầu đàm phán với Hoa Kỳ, trong khi đó Trung Quốc
phản đối.
Năm 1975, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Lê Duẩn thẳng thừng từ chối đưa

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc.


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

Trung Quốc bắt đầu nói đến một Việt Nam “ hắc tâm”, “ vô ơn”, “ngạo
ngược”.
Mối quan hệ 3 nước Đông Dương
Việt Nam trong giai đoạn này thể hiện sự nỗ lực trong việc xây dựng mối quan
hệ đặc biệt chặt chẽ giữa 3 nước Đông Dương trong đó Việt Nam giữ vị thế đứng
đầu. Cũng trong quá trình thống nhất Việt Nam đã thể hiện được sức mạnh quan
trọng của mình trong vùng. Điều đó là sự nguy hại với Trung Quốc.
Tuy nhiên mối quan hệ giữa Việt Nam – Campuchia ngày càng xấu đi khi
Khmer Đỏ cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu và bắt đi hàng trăm
dân thường. Trung Quốc cũng theo đó, làm hậu thuẫn cho Campuchia để “ trừng
phạt” Việt Nam
Tranh chấp biển Đông giữa Việt Nam – Trung Quốc
Năm 1973, Liên Hiệp Quốc bắt đầu thảo luận về vấn đề chủ quyền của các
quốc gia đối với vùng đặc quyền kinh tế trên biển. Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa quyết định tuyên bố chủ quyền với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
dựa theo hiệp ước Pháp-Thanh kí kết năm 1887.
Về phía Trung Quốc, với cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 1970 nước
này đã tìm kiếm các nguồn khai thác dầu mỏ trên biển Đông sát với Việt Nam, một
hành động mà theo Việt Nam là chiến lược bao vây đất nước họ.
Tranh chấp giữa hai nước về hai quần đảo này đã bắt đầu ngay từ năm 1975
sau khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo này.
Vấn đề Hoa Kiều
Trước năm 1975, có khoảng 1,5 triệu người gốc Hoa sinh sống tại Việt Nam,
15% ở phía Bắc vĩ tuyến 17 và 85% còn lại sinh sống ở miền Nam Việt Nam. Năm
1956 chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra chính sách buộc người Hoa phải nhập

quốc tịch Việt Nam hoặc sẽ bị trục xuất khỏi lãnh thổ. Theo chính sách một quốc
tịch này, Hoa kiều nếu không nhập quốc tịch Việt Nam sẽ bị cho thôi việc, các báo
và cơ sở giáo dục tiếng Hoa cũng bị đóng cửa. Từ năm 1977 có 70.000 Hoa kiều từ
Việt Nam quay về Trung Quốc
Như vậy, có thể thấy những mầm mống bất hòa giữa Việt Nam với Trung
Quốc bắt nguồn từ những mối quan hệ phức tạp giữa Liên Xô – Trung Quốc – Việt


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

Nam – Mỹ, từ tuyên bố chủ quyền của nước Việt Nam thống nhất năm 1975 đối với
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, từ cách ứng xử của Việt Nam đối với người
Việt gốc Hoa và từ những cố gắng của Việt Nam trong việc xây dựng quan hệ chặt
chẽ giữa ba nước Đông Dương. Những hành động này của Việt Nam được Trung
Quốc xem là sự hỗn xược và Trung Quốc “ phải dạy cho Việt Nam một bài học”.
1.2.1.2 Biểu hiện xung đột trong mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
* Chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979
- Nguyên nhân trực tiếp.
Ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân đội Việt Nam tổng phản công trên biên
giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền Khmer Đỏ. Trung Quốc
ngay lập tức có lí do để tiến hành cuộc chiến với Việt Nam.
TQ muốn thử nghiệm một cuộc chiến tranh biên giới có giới hạn để biểu lộ rõ
khả năng tương trợ của Liên xô, và họ khôn ngoan tuyên bố trước là “dạy cho Việt
Nam bài học” để giới hạn mức độ giao tranh và tổn thất.
TQ muốn thử nghiệm chủ thuyết phòng thủ linh động (active defense
doctrine), đưa cuộc phòng thủ biên giới vào sâu lãnh thổ đối phương. Đồng thời họ
cũng muốn giảm bớt áp lực cho quân đội chư hầu Pol Pot, vì theo họ VN sẽ đưa các
đại đơn vị thiện chiến từ campuchia về miền Bắc.
Mục đích của Trung Quốc
Trung quốc ra sức rêu rao rằng muốn “Trừng phạt” Việt Nam vì đã lật đổ chế

độ Khmer Đỏ tại Campuchia - một đồng minh của Trung Quốc. "Các lực lượng
biên phòng Trung Quốc đã hành động khi tình hình trở nên không thể chấp nhận
được và không còn lựa chọn nào khác. Chúng tôi không muốn một tấc đất nào của
Việt Nam. Cái chúng tôi muốn là một đường biên giới ổn định và hòa bình. Sau khi
đánh trả các thế lực hiếu chiến đủ mức cần thiết, các lực lượng biên phòng của
chúng tôi sẽ quay lại bảo vệ chặt chẽ biên giới của tổ quốc."
Nhưng thực chất âm mưu của Trung Quốc là:
Nhanh chóng chiếm đóng vùng biên giới Việt-Trung, đặc biệt là các thị xã
trọng yếu gồm Lạng Sơn (chốt chặn nối Quốc lộ 1A của Việt Nam với Trung Quốc),
Cao Bằng và Lào Cai. Vùng chiếm đóng dự kiến với bề sâu chừng vài chục km sẽ


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

được Trung Quốc sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc tấn công vào sâu nội địa Việt
Nam.
Tiêu hao lực lượng chủ lực và làm suy yếu khả năng phòng ngự phía Việt Nam
bằng việc quét sạch các đồn biên phòng, tiêu diệt một phần lực lượng quân địa
phương và các đơn vị quân độc lập khác của Việt Nam.
Hủy diệt cơ sở hạ tầng và nền kinh tế ở các vùng chiếm đóng để đưa nền kinh
tế Việt Nam tới chỗ sụp đổ
Diễn biến
+ Âm mưu của Trung Quốc:
Giai đoạn đầu (17/2 – 25/2/1979) phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên của Việt
Nam và chiếm Cao Bằng, Lào Cai, cùng hai thị trấn Cam Đường và Đồng Đăng,
cửa ngõ dẫn vào Lạng Sơn
Giai đoạn hai ( 26/2- 5/3/1979) tấn công Lạng Sơn và khu vực bao quanh ở
phía đông, Sa Pa và Phong Thổ ở phía tây bắc.
Giai đoạn ba (6/3 – 18/03/1979) bình định và phá hủy các căn cứ quân sự ở
khu vực biên giới trước khi rút quân về nước.

Kết quả
Giai đoạn 1: quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, và
một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy
nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam cũng như có chiến thuật
lạc hậu so với phía Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại
nặng. Quân Việt Nam còn phản kích đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh
(Quảng Tây) và Malipo (Vân Nam) của Trung Quốc nhưng chỉ có ý nghĩa quấy rối.
Giai đoạn 2: Việt Nam giành thế chủ động với các sư đoàn chủ lực có xe tăng,
pháo binh, không quân hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các
khu vực bị chiếm đóng.
Giai đoạn 3: Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố đã "hoàn thành
mục tiêu chiến tranh", "chiến thắng" và bắt đầu rút quân. Cũng ngày 5 tháng 3 năm
1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Ngày 7 tháng 3, Việt Nam tuyên
bố rằng để thể hiện "thiện chí hòa bình", Việt Nam sẽ cho phép Trung Quốc rút
quân.


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

Tuy Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến
nhưng cả hai bên đều phải chịu thiệt hại nặng nề về người và của.Cuộc chiến để lại
đặc biệt nhiều tác hại lớn cho phía Việt Nam. Ngoài các thương vong về con người,
tổn thất cụ thể về cơ sở vật chất hạ tầng ở 6 tỉnh biên giới bị phá hủy do trận chiến,
Việt Nam còn phải gánh chịu nhiều khó khăn, thiệt hại do thái độ và chính sách thù
địch, vây hãm mà Trung Quốc và đồng minh của Trung Quốc gây ra trên các mặt
trận quân sự, kinh tế, ngoại giao,...
Xung đột biên giới Việt – Trung những năm 80.
Bối cảnh
Tháng 3/1979 Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam sau cuộc chiến tranh biên
giới. Trung Quốc tuyên bố họ không tham vọng dù "chỉ một tấc đất lãnh thổ Việt

Nam". Trên thực tế, quân Trung Quốc chiếm đóng khoảng 60 km2 lãnh thổ có tranh
chấp mà Việt Nam kiểm soát trước khi chiến sự nổ ra. Tại một số nơi như khu vực
quanh Hữu Nghị Quan gần Lạng Sơn, quân Trung Quốc chiếm đóng các mảnh đất
không có giá trị quân sự nhưng có giá trị biểu tượng quan trọng. Tại các nơi khác,
quân Trung Quốc chiếm giữ các vị trí chiến lược quân sự làm bàn đạp để từ đó có
thể tiến đánh Việt Nam.
Việc Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ biên giới làm cho Việt Nam căm
giận, và giữa hai phía nổ ra một loạt trận giao tranh nhằm giành quyền kiểm soát
các khu vực đó. Xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp diễn cho
đến năm 1988 với ít nhất là 6 đợt giao tranh, đỉnh điểm là các năm 1984-1985.
Các giai đoạn
Năm 1980: pháo kích Cao Bằng
Năm 1981: tấn công các cao điểm ở Lạng Sơn và Hà Giang
Năm 1984: xâm lấn biên giới ở Vị Xuyên
Tháng 12/1986 – tháng 1/1987: “ chiến tranh giả”
Năm 1988: hải chiến Trường Sa.
Kết quả
Kể từ tháng 4 năm 1987, quân Trung Quốc giảm qui mô các hoạt động quân
sự tại Việt Nam, dù quân của họ tiếp tục tuần tra tại Lão Sơn và Yên Sơn. Từ 41987 tới 10-1989 họ chỉ tiến hành 11 cuộc tấn công, chủ yếu là pháo kích.


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

Trung Quốc dần thực hiện việc rút quân khỏi các vị trí đã chiếm đóng của Việt
Nam trong thời gian trước. Từ năm 1989, Trung Quốc rút khỏi một số điểm ở phía
Bắc suối Thanh Thủy. Ngày 13-3 năm 1989, họ rút khỏi 20 vị trí và đến tháng 9
năm 1989, họ rút khỏi 9 điểm còn lại
Tới đầu những năm 1990, cùng với việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia
và Liên Xô sụp đổ, quan hệ giữa hai nước dần trở lại bình thường
Năm 2009 hai nước kí kết hiệp định phân mốc lãnh thổ.

Trung Quốc dùng vấn đề người Hoa để chống Việt Nam từ bên trong
Ở Việt Nam có khoảng 1 triệu 20 vạn người Hoa sinh sống; gần 1 triệu người
ở miền nam, trên 20 vạn người ở miền bắc. Năm 1955, Đảng Lao động Việt Nam và
Đảng cộng sản Trung Quốc đã thoả thuận là người Hoa ở miền bắc Việt Nam do
Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo và dần dần chuyển thành công dân Việt Nam.
Trong hơn 20 năm qua, người Hoa ở miền bắc được hưởng quyền lợi và làm nghĩa
vụ như công dân Việt Nam. Còn người Hoa ở miền nam, từ năm 1956 dưới chính
quyền Ngô Đình Diệm đã vào quốc tịch Việt Nam để được hưởng nhiều điều kiện
dễ dàng.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tiếp
tục nghiêm chỉnh thực hiện sự thoả thuận năm 1955 giữa hai đảng về người Hoa ở
miền bắc, đồng thời tôn trọng thực tế lịch sử về người Việt gốc Hoa ở miền nam
Việt Nam, coi người Hoa ở cả hai miền là một bộ phận trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam.
Ngược lại, những người cầm quyền Trung Quốc xuyên tạc sự thoả thuận năm
1955 giữa hai đảng, phủ nhận thực tế lịch sử về những người Việt gốc Hoa ở miền
nam Việt Nam, coi tất cả người Hoa ở hai miền là kiều dân Trung Quốc để đòi
quyền lãnh đạo những người ấy. Trên thực tế, họ lập các tổ chức phản động và
màng lưới gián điệp người Hoa trên đất Việt Nam. Các tổ chức gọi là “Hoa kiều hoà
bình liên hiệp hội”, “Hoa kiều tiến bộ”, “Hoa kiều cứu vong hội”, “Đoàn thanh niên
chủ nghĩa Mác Lênin”, “Hội học sinh Hoa kiều yêu nước”, “Mặt trận thống nhất
Hoa kiều”…do Bắc Kinh thành lập và chỉ huy, đã hoạt động chống lại các chính
sách của chính quyền, chống lệnh đăng ký nghĩa vụ quân sự, chống việc đi xây
dựng vùng kinh tế mới, kích động tâm lý huyết thống trong người Việt gốc Hoa,


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

khơi lên phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc. Họ in tiền giả, đầu cơ tích trữ,
nâng giá hàng nhằm phá kế hoạch ổn định và phát triển kinh tế của các cơ quan Nhà

nước ở miền nam Việt Nam. Với những thủ đoạn đó, những người cầm quyền Trung
Quốc đã gây thêm khó khăn cho nhân dân miền nam Việt Nam vốn đã gặp biết bao
khó khăn do 30 năm chiến tranh của đế quốc để lại, khiến cho nhiều người về sau
bỏ nước ra đi tìm một nơi mà họ cho là dễ làm ăn hơn. Trung Quốc đã dùng người
Hoa làm công cụ gây rối loạn về chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt Nam như họ đã làm
ở một số nước Đông nam châu Á và Nam Á.
Trung Quốc dùng vấn đề viện trợ để tăng thêm sức ép với Việt Nam
Năm 1973, những người lãnh đạo Trung Quốc đã long trọng hứa sẽ viện trợ
cho Việt Nam ít nhất trong 5 năm liền ở mức kim ngạch năm 1973.
Năm 1975, khi chào mừng nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền nam
Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc cũng nói: “sẽ tiếp tục làm tròn nghĩa
vụ quốc tế của mình, kiên quyết ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa nhằm củng cố thành
quả thắng lợi, thống nhất và xây dựng Tổ quốc của nhân dân Việt Nam”. Tuy nhiên,
đây chỉ là những tuyên bố giả dối nhằm che dấu những âm mưu đen tối chống lại
nước CHXHCN Việt Nam của họ. Trên thực tế:
Năm 1969 – 1970: Trung Quốc giảm viện trợ đối với Việt Nam vì họ không
tán thành Việt Nam thương lượng với Mỹ để kéo Mỹ xuống thang chiến tranh
Năm 1971-1972 họ tăng viện trợ đối với Việt Nam cao nhất so với các năm
trước vì họ muốn lợi dụng vấn đề Việt Nam để thương lượng với Mỹ.
Năm 1975 họ lại dùng viện trợ để gây sức ép với Việt Nam. Họ khước từ
những yêu cầu viện trợ mới của Việt Nam, thậm chí khước từ cả những khoản viện
trợ cũ đã thỏa thuận từ trước. Chỉ trong hơn một tháng, bất chấp luật pháp và tập
quán quốc tế, họ đơn phương tuyên bố chấm dứt toàn bộ viện trợ kinh tế và kỹ thuật
cho Việt Nam, gọi về nước tất cả chuyên gia và cán bộ kỹ thuật Trung Quốc đang
công tác ở Việt Nam.
Ngày 22 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc ngừng tuyến xe lửa liên vận tới Việt
Nam. Đầu tháng 1 năm 1979, đường bay Bắc Kinh - Hà Nội cũng bị cắt.
Đây là một đòn cực kỳ thâm độc, đưa ra đúng lúc nhân dân Việt Nam đang
phải đối phó với những thử thách khó khăn. Đi đôi với việc cắt viện trợ, rút chuyên



Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

gia, tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Trung Quốc còn ngang nhiên vận
động các nước, các tổ chức quốc tế ngưng viện trợ cho công cuộc xây dựng lại Việt
Nam.
*Xung đột Việt Nam – Campuchia
- Biểu hiện xung đột :
+ Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam
Khmer Đỏ: là một tổ chức chính trị cầm quyền tại
Campuchia từ 1975 đến 1979 luôn thể hiện sự hiếu chiến và thù địch với Việt
Nam.
Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc
mà không gặp phải bất kỳ sức kháng cự nào từ phía Việt Nam. Sáu ngày sau quân
Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu. Tức giận
vì hành vi gây hấn của Khmer Đỏ, Hà Nội phản công giành lại các đảo này. Trận
đánh ở Phú Quốc làm nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thực sự lo
ngại, vì cùng thời gian đó, quan hệ Việt Nam và Trung Quốc đang xấu đi. Mối lo
ngại này càng tăng thêm vì sự hiện diện của cố vấn Trung Quốc ở Campuchia và
Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho lực lượng vũ trang Khmer Đỏ.

Ngày 20/5/1975 thường vụ TW Đảng Polpot quyết định 3 chủ trương lớn:
(1).Làm sạch nội bộ nhân dân.
(2).Xác định Việt Nam là kẻ thù số 1, kẻ thù truyền kiếp.
(3). Xây dựng xã hội mới của Camphuchia, không chợ, không tiền, không
trường học, không trí thức, không tôn giáo, không đô thị.


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX


9/9/1975: Xi Ha Núc từ Bắc Kinh trở về. Trong hồi ký Chiến tranh và hi
vọng, ông kể lại lời Xon Xen - Bộ trưởng quốc phòng của chính phủ Polpot hồi đó:
“Muốn cho đất nước và giống nòi Camphuchia khỏi bị hoạ diệt vong, phải vĩnh viễn
cắt khỏi thân thể Campuchia 3 phẫu thuật”
Kiên quyết không để cho người Việt Nam sống ở Campuchia.
Ra lệnh cho người dân Campuchia phải làm việc gian khổ hơn nhân dân Việt
Nam gấp 2 lần, 10 lần, để Camphuchia mạnh hơn.
“Chấp nhận” 1 cuộc chạm trán vũ trang trên quy mô lớn với Việt Nam.
Tiếp theo cuộc đột kích vào các đảo Thổ Chu và Phú Quốc, Khmer Đỏ tiến
hành hai cuộc xâm nhập qui mô lớn vào Việt Nam. Cuộc tấn công đầu tiên diễn ra
vào tháng 4 năm 1977, quân chính qui Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt
Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường. Cuộc
tấn công thứ hai diễn ra vào tháng 10 cùng năm, lần này quân Khmer Đỏ tiến sâu
đến 15 km trong lãnh thổ Việt Nam
Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản của Pol Pot họp bàn
chủ trương chống Việt Nam và quyết định thành lập 15 sư đoàn. Trong nghị quyết
của họ có ghi: "Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm
diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2
triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam". Pol Pot đã điều 13
trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công vào
lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15-20 km. Trong các đợt tấn công đó, Khmer
Đỏ đã thực hiện thảm sát đối với người Việt Nam, một ví dụ là vụ thảm sát Ba Chúc
vào tháng 4 năm 1978 với 3157 dân thường bị giết hại.
Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng
thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer
Chiến dịch phản công của Việt Nam
Sau khi đánh tan sức kháng cự của quân Khmer Đỏ, quân đội Việt Nam
chuyển sang phản công
12/1978, quân đội Việt Nam được hỗ trợ bởi một số tiểu đoàn Khmer thân Việt
Nam đã kiểm soát một vùng đệm dọc biên giới trong lãnh thổ Campuchia



Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

1978: quân đội Việt Nam đánh trên toàn
tuyến biên giới. Quân đội của bè lũ Pôn Pốt
nhanh chóng tan rã,bị đánh bật ra khỏi Phnom
Pênh, rút về vùng biên giới phía Tây, giáp
Thái Lan. Phnom Pênh được giải phóng
Nhờ có sự giúp đỡ của Trung Quốc, Hoa
Kỳ và Thái Lan, từ tình trạng chỉ còn là những
nhóm du kích hồi cuối năm 1979, đến cuối
năm 1980 lực lượng Khmer Đỏ đã hồi phục
sức mạnh, với quân số tăng từ 20.000 lên
40.000. Đến cuối năm 1981, chiến tranh du
kích của Khmer Đỏ thực hiện tại Campuchia
lan rộng mạnh mẽ tại những khu vực rộng lớn.
Từ năm 1979 đến giữa năm 1985, quân đội Việt Nam thực hiện các chiến dịch
quân sự truy quét đánh phá các căn cứ của Khmer Đỏ. Tới năm 1985, Việt Nam huy
động khoảng 60 ngàn quân cho chiến dịch tấn công, cùng với hàng chục ngàn dân
công Campuchia xây đường và mở rộng các sân bay dã chiến tại khu vực biên giới
Sau các chiến dịch 1984-85 của Việt Nam, lực lượng đối lập bị nhiều tổn thất.
Kể từ năm 1986, các lực lượng này về cơ bản không thể là mối đe dọa lớn đối với
chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia được nữa.
22.12.1987 Việt Nam đề nghị cùng Trung Quốc dàn xếp một cuộc gặp giữa
CHND Campuchia và Khmer Đỏ, Trung Quốc không đáp ứng.
Xung đột Việt Nam – Campuchia càng ngày càng bế tắc
Gorbachov tuyên bố:
“Vấn đề Campuchia không thể giải quyết ở các thủ đô xa xôi, kể cả ở Liệp
Hiệp Quốc, phải giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai nước XHCN láng

giềng’’
Nguyên nhân xung đột
Vì sao mâu thuẫn Campuchia – Việt Nam trong thời kỳ này lại trở nên căng
thẳng?


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

Việt Nam và Campuchia vốn là 2 nước láng giềng anh em. Xung đột giữa 2
nước bắt đầu từ khi Khmer Đỏ cầm quyền tại Campuchia. Trong khi cầm quyền, nó
đã được hậu thuẫn bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, vì muốn cô lập nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lúc đó đang được Liên Xô hậu thuẫn. Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa cùng với Mỹ và Thái Lan, vào thời kì mặn nồng nhất của quan
hệ Trung - Mỹ, cung cấp vũ khí, thông tin tình báo và căn cứ để tiếp tế và cung cấp
nơi trú ẩn cho bính lính Khmer Đỏ. Do đó, Khmer Đỏ sẵn sàng tiến đánh Việt Nam,
giết hại và tàn sát dân thường.
Vì sao Trung Quốc chọn Campuchia để làm đồng minh đánh Việt Nam?
Trung Quốc hậu thuẫn cho Campuchia để thực hiện âm mưu của mình là vì:
Thứ nhất, Campuchia thời kỳ đó đang có lực lượng đứng đầu là Khmer Đỏ.
Tuy tuyên bố là đi theo chủ nghĩa Cộng sản, song thực chất Khmer Đỏ có khuynh
hướng của một tổ chức theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Lợi dụng tình hình này,
Trung Quốc có thể ra chiêu bài lợi dụng chính quyền Campuchia lúc bấy giờ để gây
sức ép và trở ngại với Việt Nam. Đồng thời làm cái cớ để tiến đánh Việt Nam.
Thứ hai, Campuchia là nước láng giềng chung biên giới với Việt Nam ở phía
Tây Nam. Vị trí ấy gây sức ép lớn đối với Việt Nam, bị lâm vào thế kìm cặp và phải
đối chọi với nhiều kẻ thù cùng 1 lúc trên biên giới đất liền.
1.3 Những chủ trương của Đảng lúc đó:
- Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là “Ra sức
tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương
chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.

+ Trong quan hệ với các nước, Đại hội VI chủ trương củng cố và tăng cường
tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo
vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia; sẵn sàng thiết
lập, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và
mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn
trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
+ Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối
ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô – coi
quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề
Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông
Nam Á hoà bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại.
- Đại hội lần thứ V của Đảng xác định: công tác đối ngoại phải trở thành một
mặ trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của các thế
lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta.
+Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác
toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hòn đá tảng trong
chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào –
Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước
ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết
các trở ngại, nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình và ổn định; chủ
trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc
cùng tồn tại hoà bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt
nhà nước, về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật với tất cả các nước không phân
biệt chế độ chính trị.

+ Thực tế cho thấy, ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn
(1975-1986) là xây dựng quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa; củng cố và tăng cường đoàn kết hợp tác với Lào và Campuchia; mở rộng
quan hệ hữu nghị với các nước không liên kết và các nước đang phát triển; đấu
tranh với sự bao vây, cám vận của các thế lực thù địch.
1.4 Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
-

a. Kết quả và ý nghĩa
Trong 10 năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã hội
chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô. Ngày 29-6-1978, Việt
Nam ra nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện trợ hàng năm và kim
ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liện Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác
trong khối SEV đều tăng. Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và
hợp tác toàn diện với Liên Xô.
- Từ năm 1975 đến năm1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với
23 nước; ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

quốc tế (IMF); ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng Thế
giới (WB); ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); ngày
20-9-1977, tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt
động trong phong trào Không lien kết…Kể từ năm 1977, một số nước mở quan hệ
hợp tác kinh tế Việt Nam.
- Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philíppin
và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao
với Việt Nam.
=> Những kết quả đối ngoại trên đây có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách

mạng Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và
mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã
tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến
tranh.
b, Hạn chế và nguyên nhân
- Bên cạnh những kết quả nêu trên, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm
1986, quan hệ quốc tế của Việt Nam gặp những khó khăn, trở ngại lớn. Nước ta bị
bao vậy, cô lập, trong đó đặc biệt là từ cuối thập kỷ 70 thế kỷ XX, lấy cớ “Sự kiện
Campuchia” các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm vận
Việt Nam…
Trong cuốn “Hồi ức và suy nghĩ, ông Trần Quang Cơ nguyên thứ trưởng bộ
ngoại giao Việt Nam nhận định những sai lầm trong đường lối đối ngoại Việt Nam
lúc đó như sau:
• Ta không khôn ngoan duy trì quan hệ cân bằng với Trung Quốc và Liên Xô, nhân tố


cực kỳ quan trọng đảm bảo thắng lợi của ta trong kháng chiến chống Mỹ.
Mà ta nghiêng hẳn về phía Liên Xô trong quan hệ đối ngoại, trông chờ sự viện trợ
của người “anh cả”. Trong hoàn cảnh nước ta lúc này còn nhiều khó khăn và Mỹ
vẫn giữ “mối thù” từ chiến tranh Việt Nam nên sẵn sàng “mượn tay” Trung Quốc để
trả thù món nợ chiến tranh. Vì vậy, cần một đường lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt
nhằm tránh những đụng độ bất lợi cho ta. Điều đó không có nghĩa là đầu hàng
Trung Quốc mà chỉ là “cân bằng” trong quan hệ với 2 nước này, cần có những giải
pháp linh họat để tránh đối đầu gay gắt. Các nhà phân tích lúc đó cũng cho rằng,
Liên Xô có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam nhưng Trung Quốc lại là nước láng giềng,


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

ngay cạnh VN nên tác động trực tiếp đến tình hình nước ta. Vì vậy sự cân bằng là

cần thiết
• Bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá quan hệ với Mỹ, năm 1977, khi chính quyền Carter đã


chủ động đề nghị hai bên bình thường hoá quan hệ không điều kiện.
Bình thường hóa quan hệ với Mỹ lúc này không có nghĩa là xoay 180 độ về phía
Mỹ mà đối đầu với Liên Xô mà là giữ một mức độ bình thường, trung lập trong mối
quan hệ với Trung Quốc trong thời điểm căng thẳng Xô – Mỹ đang lên cao. Nước ta
là một nước nhỏ, đồng thời vừa trải qua chiến tranh không nên tham gia vào “cuộc
chơi” của các nước lớn.
Hơn nữa, các nhà phân tích cho rằng, đằng sau sự bình thường hóa quan hệ
dưới thời chính quyền Carter là chính sách nhắm đến Châu Á Thái Bình Dương của



Mỹ. Việt Nam chỉ như một “con bài” lúc đó
Đánh giá sai và không gia nhập khối ASEAN ngay từ 1976 khi cả 6 nước này đều



mong muốn ta tham gia vì lợi ích của mỗi một quốc gia và của chung khu vực.
Việc Việt Nam từ chối tham gia vào khối ASEAN ngay từ thời gian này đã gây ra
cho Việt Nam những bất lợi lớn như không tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế,
khiến cho nước ta bị rơi vào tình trạng bao vây, cấm vận lâu dài. Mỹ và Trung Quốc
nhân cơ hội đó “vu” cho Việt Nam có âm mưu “xưng bá” thành lập Liên Bang

Đông Dương khiến cho Việt Nam bị cộng đồng quốc tế lên án sâu sắc.
• Dính líu quá sâu và quá lâu vào vấn đề Campuchia.
- Những sai lầm này có hệ quả liên quan chặt chẽ với nhau, gây thiệt hại lớn cho ta về
-


đối ngoại về an ninh-quốc phòng, về phát triển kinh tế trong một thời gian dài.
Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trên, là do trong quan hệ đối ngoại giai đoạn
này chúng ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hoà hoãn và chay
đua kinh tế trên thế giớ mà dính líu quá sâu đến chiến tranh Cam pu chia. Do đó, đã
không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công
cuộc khôi phục và phát triển khinh tế sau chiến tranh; không kịp thời đổi mới quan

-

hệ đối ngoại cho phù hợp với tình hình.
- Những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975-1986)b suy cho cùng
đều xuất phát từ nguyên nhân căn bản đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng chỉ ra là
“bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan”


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

II. GIAI ĐOẠN 1986 ĐẾN CUỐI NHỮNG NĂM 90 CỦA THẾ KỈ XX
2.1 Tình hình thế giới và Đông Nam Á
- Trên thế giới, xu thế hòa dịu trong quan hệ Xô Mỹ được đề cao. Mâu thuẫn
trong chiến tranh lạnh đã hạ nhiệt. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã khiên các
nước có xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển. Hơn nữa, năm 1991 Liên bang Xô Viết
sụp đổ, trật tự 2 cực không còn.
- Các nước Đông Nam Á lúc này cũng muốn duy trì hòa bình, ổn định và phát
triển, không muốn có sự can thiệp của các nước lớn.
2.2 Chủ trương của Việt Nam
* Đại Hội Đảng lần thứ VI (12/ 1986):
a. Trước Đại Hội VI:

- 03.1986: Trung Quốc tuyên bố chỉ nói chuyện với Việt Nam sau khi vấn đề
Campuchia đã được giải quyết theo cách của Trung Quốc. (Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia, lập chính phủ liên hiệp Campuchia 4 bên gồm Sihanouk, Son San,
Khieu Samphon, Heng Xamrin; do Sihanouk đứng đầu)
- 9.7.1986: Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam họp, ra nghị quyết 32/BCT,
xác định giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia để có thể bình thường hóa quan
hệ với Trung Quốc ("điều chỉnh chính sách ngoại giao và tiến tới giải pháp về
Cam-pu-chia"; "cùng tồn tại hòa bình với Trung Quốc, ASEAN, Mỹ’’)
Gorbachov tuyên bố:
“Vấn đề Campuchia không thể giải quyết ở các thủ đô xa xôi, kể cả ở Liệp
Hiệp Quốc, phải giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai nước XHCN láng
giềng’’
- 10.1986: Trung Quốc tuyên bố Việt Nam rút xong quân khỏi Campuchia,
Trung Quốc mới chấp nhận đàm phán với Việt Nam.
b. Đại hội Đảng lần thứ VI
Các nước XHCN bộc lộ những nhược điểm về kinh tế và xã hội. Vì thế, trong
thời gian này đã có những cải cách.
1978: Trung Quốc tiến hành cải cách của Đặng Tiểu Bình.
Liên Xô: cải cách Goocbachop (1985 – 1991) nhằm mục đích đưa đất nước
Liên Xô phát triển đi lên nhưng không được như mong muốn, dẫn đến việc Liên
bang tan rã.


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

Các nước XHCN khác cũng tiến hành cải cách.
Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung này.
- Đây là đại hội đánh dấu sự đổi mới của Việt Nam trên toàn diện, trong đó có
lĩnh vực đối ngoại: Đề ra khái quát đường lối đối ngoại với Liên Xô, các nước
XHCN và các nước láng giềng (có Trung Quốc và Campuchia)

c. Sau Đại hội VI
-Các cuộc gặp JIM 1 và JIM 2 (Jakarta Informal Meeting)
Tiền đề: cuộc gặp giữa đại diện hai khối là ASEAN và Đông Dương tại Tp. Hồ
Chí Minh (1987), bàn vấn đề Campuchia gắn với vấn đề Đông Nam Á, việc Việt
Nam công bố đợt rút quân 1987, mời quan sát viên nước ngoài đã làm thay đổi tình
hình. Tuy nhiên, Trung Quốc đã không công nhận cuộc gặp này.
- Trên cơ sở đó, JIM 1 và JIM 2 diễn ra (7/1988 và 1/ 1989) đã bàn đến các
biện pháp cụ thể để tiến tới hoà giải và hoà hợp dân tộc Campuchia, tạo khuôn khổ
hợp tác giữa ASEAN và Đông Dương để giải quyết các vấn đề khu vực.
- Tháng 1/1989, ta nối lại đàm phán với Trung Quốc ở Bắc Kinh để cố gắng
bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc.
Nội dung:
Chủ yếu bàn về Campuchia
Việt Nam tuyên bố rút toàn bộ quân ra khỏi Campuchia
→ Ý nghĩa trong giải quyết xung đột, góp phần xây dựng một Campuchia mới
Thoả thuận về nội dung bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
→ Cải thiện quan hệ Việt - Trung
- Tháng 1/ 1989: Cũng có cuộc tiếp xúc Việt Nam – Campuchia ở lễ kỷ niệm
10 năm thành lập Cộng hoà Nhân dân Campuchia
- Đàm phán Việt Trung 6/ 1990
Ý đồ Trung Quốc về vấn đề quan hệ với Việt Nam và về vấn đề Campuchia đã
bộc lộ rõ: Trung Quốc muốn có vai trò trung tâm và chủ động trong cả quá trình giải
quyết vấn đề Campuchia → khẳng định các vấn đề châu Á không thể giải quyết mà
không có Trung Quốc.
Trung Quốc ép ta chấp nhận lập trường của họ về Campuchia để chia rẽ ta với
bạn Campuchia, sau khi đã cố gắng tách Việt Nam khỏi Lào và Liên Xô


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX


- Cuộc gặp cấp cao Việt – Trung ở Thành Đô (3 – 4/ 9/ 1990):
+Kết quả: văn bản gọi là “Biên bản tóm tắt” gồm 8 điểm.
7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa
hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn
đề Campuchia với bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Không có điểm nào theo yêu cầu của ta.
‘’... không phải là một thành tựu đối ngoại của ta, là một sai lầm hết sức đáng
tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã
hành động một cách vô nguyên tắc...’’
‘’...làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và làm việc bình thường hoá
quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta xấu đi.’’
- Hiệp định Paris về Campuchia (10/ 1991
10/ 1990: Các thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An đưa ra giải pháp
khung cho vấn đề Campuchia.
23/ 10/ 1991: Hiệp định Paris về vấn đề Campuchia đượ ký kết. Campuchia
tiến hành tổng tuyển cử. Tình hình Campuchia đi vào ổn định.
2.3.Nhận xét
- Trong giai đoạn này, Việt Nam đã tiến hành những cải cách mạng tính chất
chiến lược trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực đối ngoại nhằm theo kịp xu
thế hòa bình, hợp tác, phát triển của thế giới đồng thời tránh những mâu thuẫn xung
đột trong khu vực gây bất lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam.
Đường lối đối ngoại mềm mỏng, linh hoạt hơn, đã khắc phục được những hạn
chế, yếu kém trong giai đoạn trước, tránh được tình trạng chủ quan, duy ý chí
- Tuy vậy, trong đàm phán quốc tế, ta quá nôn nóng trong giải quyết quan hệ
với Trung Quốc, có vẻ quá nhân nhượng so với Trung Quốc khiến cho ta mất nhiều
quyền lợi trong đàm phán.
=> Đường lối đối ngoại của nước ta trong việc giải quyết xung đột trong quan
hệ tam giác Trung Quốc-Việt Nam-Cam pu chia trong 3 thập niên cuối thế kỉ XX
ban đầu còn có một số sai lầm nhưng đã dần được cải thiện để xóa bỏ xung đột, tiến
đến một khu vực hòa bình, ổn định.



Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

KẾT LUẬN
Vấn đề xung đột quan hệ tam giác giữa Nam-Campuchia-Trung Quốc trong 3
thập niên cuối của thế kỉ XX là một trong những vấn đề khó, hiện nay vẫn còn
nhiều tranh cãi, ý kiến trái chiều về lịch sử cũng như về đường lối đối ngoại của
Đảng và nhà nước ta lúc đó.
Dựa trên cở sở chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng,
nhóm nghiên cứu đã nỗ lực hết sức nhằm cung cấp những thông tin hiệu quả, chính
xác và toàn diện về vấn đề này. Trên cơ sở đó đề ra những bài học cho những giai
đoạn lịch sử tiếp theo của dân tộc.
Bài tiểu luận không tránh khỏi những sai sót, rất mong thầy cô và các bạn
đóng góp ý kiến để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
U. Bớc-sét (1986) “Tam giác Trung Quốc – Campuchia – Việt Nam”, Nhà
xuất bản thông tin lí luận Hà Nội.
“Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung quốc 30 năm qua”, Nhà xuất bản sự
thật, 1979.
/>%E1%BB%9Bi_Vi%E1%BB%87t-Trung,_1979.



Xung đột quan hệ tam giác Việt Nam-Campuchia-Trung Quốc những năm 70-80-90 thế kỉ XX

MỤC LỤC



×