Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về xây DỰNG ĐẢNG TIỂU LUẬN CAO HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.08 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một kho tàng vô giá, đó
là di sản tư tưởng của Người. Những tư tưởng khoa học và cách mạng của Hồ
Chí Minh trên nhiều lĩnh vực mãi mãi là ngọn đèn soi sáng con đường cách
mạng Việt Nam. Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của mình.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã và đang khẳng định những di sản của lý
luận Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống mãnh liệt và trường
tồn. Cho dù thế giới có đổi thay, diễn biến phức tạp thì tư tưởng về cách mạng
Việt Nam, về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam mãi mãi không thay đổi. Trong suốt 8 thập kỷ qua, với vai
trò là đội tiên phong, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tuy nhiên, sự
khủng hoảng, đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã làm cho
một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân lao động mất niềm tin vào tương lai
của chủ nghĩa xã hội, hoài nghi vào con đường phát triển theo định hướng xã
hội mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn. Các thế lực thù địch và bọn cơ hội đủ
màu sắc lợi dụng tình hình ấy, ra sức tiến công vào chủ nghĩa Mác – Lênin; vu
cáo, xuyên tạc, hạ thấp ý nghĩa, giá trị của tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, hạ
thấp uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước.
Để tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự giữ địa vị chỉ đạo trong đời sống
chính trị - tinh thần của xã hội ta; để Đảng ta giữ vững vai trò là chiến sĩ tiên
phong, chèo lái con thuyền cách mạng đi tới bến bờ vinh quang thì việc
nghiên cứu và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng là rất quan trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng được thể hiện trên rất nhiều
nội dung, song trong đó nổi bật lên là tư tưởng của Người về tư tưởng, chính
1



trị, tổ chức của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị. Đây là
những quan điểm toàn diện và phong phú, thể hiện sự sáng tạo và phát triển
học thuyết về xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, càng đặc biệt có ý
nghĩa quan trọng ở bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay.
2. Mục đích, yêu cầu
• Mục đích: Giúp mọi người nhận thức, hiểu rõ được tầm quan trọng
của tư tưởng Hồ Chí minh về xây dựng Đảng
• Yêu cầu : Nắm vững được tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
3. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng: Tư tưởng, chính trị, tổ chức.
4. Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp phương pháp logic với so sánh, tổng hợp, phân tích, chứng
minh…
5. Phạm vi nghiên cứu:
Những tài liệu lịch sử cụ thể cùng hệ thống tư liệu về tư tưởng Hồ Chí
Minh
6. Kết cấu đề tài: Gồm có 2 chương:
Chương 1: Cở sở khách quan và những luận điểm cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng.
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng: Tư tưởng, chính
trị, tổ chức

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ KHÁCH QUAN VÀ NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG

1.1. Cơ cở khách quan
- Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN). Suốt cả cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh luôn luôn kiên định quan
điểm và lập trường xây dựng ĐCSVN theo chủ nghĩa Mác - Lênin và rèn
luyện ĐCSVN theo hướng đó. Đó là “Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, nghĩa là những thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên
quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc
và nhân dân”. Xây dựng ĐCSVN trong sạch vững mạnh chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh.Với Người xây
Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để Đảng hoàn thành vai trò
chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc và nhân dân. Trong quan niệm của
Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với sự tồn tại của Đảng
;còn Đảng còn hoạt động, còn cần phải tổ chức xây dựng, chỉnh đốn. Xây
dựng, chỉnh đốn Đảng là làm cho mỗi cán bộ Đảng viên hiểu rõ, hiều đúng và
thực

hiện

tốt

quan

điểm,

đường

lối,

chính


sách

của

Đảng.

- Trong giai đoạn Cách mạng mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước theo định hướng XHCN với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh, dân tộc ta đang đứng trước nhiều thời cơ, vận
hội, nhưng có không ít khó khăn thách thức.Vai trò lãnh đạo của Đảng càng
phải được khẳng định. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cần
được nâng cao hơn bao giờ hết. Theo Hồ Chí Minh xây dựng chỉnh đốn Đảng
mang tính quy luật và là nhu cầu tồn tại và phát triển của Đảng. Đảng có trong
sạch thì mới vững mạnh, vượt qua những khó khăn thử thách hoàn thành sứ
mệnh cách mạng của mình.
3


1.2. Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
Là người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng
và rèn luyện Đảng Cộng sản thành một đảng cách mạng chân chính, bộ tham
mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, để
lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội. Trong những di
sản tư tưởng mà Người để lại, những luận điểm của Người về Đảng cộng sản,
về xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, là
một phần cực kỳ quan trọng. Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của
Người nhằm chỉnh đốn và đổi mới Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch
vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, là một
trong những nhiệm vụ chủ yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta. Đây thực sự

là vấn đề then chốt đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đổi mới đang được triển
khai rộng khắp trên cả nước ta hiện nay.
Những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam là: Đảng cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt
Nam đến thắng lợi; Đảng Cộng sản Việt nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; Đảng
Cộng sản Việt nam - “Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của
dân tộc Việt Nam”; Đảng Cộng sản Việt nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
“làm cốt”; Đảng Cộng sản Việt nam phải được xây dựng theo những nguyên
tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa
là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng lãnh đạo, dân làm chủ. Phải
thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân; và
Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
Đảng Cộng sản Việt nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc
của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản là một trong những luận điểm chủ yếu
của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt nam. Đây chính là những nguyên
tắc mà Lênin đã đề ra, để phân biệt với những đảng cơ hội của Quốc tế II,
4


những đảng đó đã biến thành tôi tớ của giai cấp tư sản, phản bội chủ nghĩa
Mác và quyền lợi của giai cấp vô sản. Nếu khái quát những luận điểm của Hồ
Chí Minh, có thể thấy Người đã đề cập những nguyên tắc xây dựng Đảng sau:
- Tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng
Cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của
mỗi người, vừa phát huy sức mạnh của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó
với nhau trong một tổ chức. Vì vậy, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung là hai
mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau trong một nguyên tắc. Dân chủ
để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, chứ không phải là dân chủ theo

kiểu phân tán, tùy tiện, vô tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân
chủ,chứ không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán, chuyên quyền.
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc
lãnh đạo của Đảng. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người đã phân tích
rất rõ về nguyên tắc này: một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thể thấy
hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc, hiểu hết
được mọi chuyện. Vì vậy, cần phải có nhiều người cùng tham gia lãnh đạo.
Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do
đó hiều được mọi mặt, mọi vấn đề. Về cá nhân phụ trách, Người đã chỉ rõ
việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần
giao cho một người phụ trách, nếu giao cho một nhóm người thì cũng cần có
một người phụ trách chính. Như thế công việc mới chạy, như thế mới tránh
được thói dựa dẫm, người này ỷ vào người kia, ỷ vào tập thể. Không xác định
rõ cá nhân phụ trách, thì giống như “ nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”. Tập
thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn đi đôi với nhau. Tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung.
- Tự phê bình và phê bình: Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này.
Người coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là luật phát triển của Đảng.
Mỗi đảng viên trước hết tự mình phải thấy rõ mình, để phát huy ưu điểm,
5


khắc phục khuyết điểm. Hơn nữa, nếu biết tự phê bình tốt thì mới phê bình
người khác tốt được. Tự phê bình và phê bình là nhiệm vụ thường xuyên chứ
không phải là giải pháp nhất thời, là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm
cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ. Đó cũng
chính là vũ khí để nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng, để Đảng làm tròn sứ
mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc.
Thực hiện tự phê bình và phê bình thật đúng đắn, nghiêm túc không phải là
việc dễ dàng. Tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa

học cách mạng, mà còn là nghệ thuật của cách mạng; cán bộ càng cao, trách
nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình . Muốn thực
hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với
bản thân mình cũng như với người khác. Phải phê phán những thái độ lệch
lạc, sai trái thường xảy ra trong phê bình và tự phê bình như thiếu trung thực,
che dấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, nể nang
né tránh, dĩ hòa vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng phê bình để nói xấu, bêu nhọ,
vùi dập, đả kích người khác...
- Kỷ luật nghiêm minh và tự giác: Cùng với nguyên tắc tập trung dân
chủ, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác làm cho Đảng thực sự là một
tổ chức chiến đấu chặt chẽ để giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập dân tộc
và CNXH. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh
và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: Sức mạnh vô
địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của
cán bộ, đảng viên. Nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, vì đó là kỷ luật đối
với mọi cán bộ, đảng viên, không phân biệt cán bộ lãnh đạo cao hay thấp, là
cán bộ lãnh đạo hay đảng viên thường, mọi cán bộ, đảng viên đều bình đẳng
trước kỷ luật của Đảng. Tự giác là thuộc về mỗi cán bộ, đảng viên đối với
Đảng, một tổ chức của những người tự nguyện đứng trong một hàng ngũ để
cùng chiến đấu cho độc lập dân tộc và CNXH. nếu việc vào Đảng không phải
là việc ép buộc đối với bất cứ đảng viên nào, thì việc tuân thủ kỷ luật của
6


Đảng cũng như vậy. Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ
trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và
sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng. Có như vậy, Đảng mới là một
khối thống nhất về tư tưởng và hành động. nếu không có kỷ luật, không thống
nhất về tư tưởng và hành động, “Đảng sẽ kỷ luật lỏng lẻo, công việc bế tắc”.
Từ việc tuân thủ kỷ luật của Đảng, mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp

ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật củaa các đoàn
thể, pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai được cho phép mình coi
thường, thậm chí đứng trên tất cả. Ý thức kỷ luật đó là ý thức của giai cấp
công nhân, ý thức của Đảng của giai cấp công nhân. Việc đề cao ý thức kỷ
luật đó đối với mọi cán bộ, đảng viên từ trên xuống dưới chỉ làm tăng thêm uy
tín của Đảng; ngược lại, ý thức kỷ luật đó càng thấp, nếu cán bộ, đ/viên càng
có nhiều vi phạm kỷ cương phép nước, tự cho mìnhlà người lãnh đạo, coi
thường kỷ luật của các đoàn thể nhân dân, thì uy tín của Đảng càng giảm
thấp, càng đưa đến những nguy cơ cho Đảng.
- Đoàn kết thống nhất trong Đảng: Trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu
dài và gian khổ, toàn đảng phải đoàn kết thành một khối vững chắc, toàn
Đảng phải thống nhất ý chí và hành động, mọi đảng viên phải bảo vệ sự đoàn
kết thống nhất của Đảng như bảo vệ con ngươi của mắt mình-Đây là một
nguyên tắc quan trong của Đảng kiếu mới của Lênin. Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng như
khối đại đoàn kết toàn dân. Phải xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân. Tư
tưởng đoàn kết toàn Đảng, toàn dân là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh.
Quán triệt tư tưởng này trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng và
nhân dân ta đã xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc
giành được những thắng lợi ngày càng to lớn hơn. Cơ sở để xây dựng sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng và Điều lệ
Đảng. Đây là cơ sở để tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, về tổ chức, từ đó có
7


sự thống nhất về hành động của toàn Đảng, nhằm đưa đường lối, quan điểm
của Đảng vào cuộc sống, biến các chủ trương của Đảng thành hành động cách
mạng của quần chúng nhân dân. Sự đoàn kết thống nhất thật sự, lành mạnh,
chân chính trong Đảng chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở này. Tình hình

càng phát triển, nhiệm vụ càng nặng nề, càng đòi hỏi phải củng cố và tăng
cường sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, nhất là đối với cán bộ lãnh
đạo; bởi lẽ sự đoàn kết thống nhất của cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng lớn đến
sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến toàn Đảng. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng Đảng
Cộng sản Việt nam thực sự là một đảng mácxít-lêninnít chân chính, là Đảng
của Hồ Chí Minh để làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang và trách nhiệm nặng nề
trước dân tộc, đồng thời có những đóng góp tích cực vào phong trào cách
mạng thế giới. Trong nhiều thời kỳ, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
đã được quán triệt trên cả 03 mặt xây dựng Đảng: chính trị, tư tưởng và tổ
chức, làm cho Đảng trở thành bộ tham mưu sáng suốt lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng. Từ đó Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân
tộc giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn cho độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã
hội.
Về chính trị, đó là đường lối chính trị đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững
vàng trong mọi tình huống phức tạp, mọi bước ngoặc hiểm nghèo, mọi giai
đoạn cách mạng khác nhau. Trên cơ sở kiên định mục tiêu lâu dài là độc lập
dân tộc và CNXH, Đảng biết tập trung giành thắng lợi cho từng bước đi lên
của cách mạng.
Về tư tưởng, đó là tư tưởng cách mạng triệt để, tư tưởng cách mạng tiến
công, luôn đề phòng và kịp thời khắc phục những lệch lạc “ tả- hữu”, chống
cơ hội, xét lại, chống giáo điều bảo thủ, đồng thời dự báo các chiều hướng có
thể xảy ra. Đó là tư tưởng cách mạng khao học lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm
nền tảng, lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát, lấy cải tạo hiện thực
Việt Nam làm việc tiêu, để vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác8


Lênin, đồng thời làm giàu thêm trí tuệ của mình bằng việc kế thừa và phát
huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thâu hóa những tinh hoa văn hóa
nhân loại, để giành thắng lợi cho cách mạng.

Về tổ chức, đó là một tổ chức chính trị trong sạch vững mạnh; một tổ
chức chiến đấu kiên cường, khi tiến đánh thì trăm người như một; một tổ chức
với một đội ngũ cán bộ đảng viên coi trọng việc tu dưỡng đạo đức, cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư, nâng cao năng lực, luôn gắn bó máu thịt với dân,
dám hy sinh xả thân vì sự nghiệp cách của Đảng và của dân tộc. Đó là một tổ
chức trọng chất lượng hơn số lượng, lấy việc nâng cao vai trò và sức chiến
đấu của Đảng làm nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên và của
toàn Đảng. Sau các phong trào yêu nước 30 năm đầu thế kỷ XX, năm 1930
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặc của cách mạng Việt
Nam. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng
lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước VNDCCH;
thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên
CNXH. Tuy nhiên trong quá trình lãnh đạo cách mạng, có lúc Đảng đã phạm
khuyết điểm sai lầm, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã thoái hóa biến chất,
làm tổn hại đến uy tín và thanh danh của Đảng. Với tinh thần cách mạng của
một Đảng cách mạng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, dám công khai thừa nhận khuyết
điểm sai lầm trong công tác lãnh đạo, công khai vạch rõ những tệ nạn đã có ở
một bộ phận cán bộ, đảng viên, từ đó đề ra những biện pháp cần thiết để sửa
chữa, khắc phục. Tình hình mới đòi hỏi Đảng ta phải trưởng thành hơn, vượt
lên chính bản thân mình, đồng thời cũng làm bộc lộ rõ những điều bất cập.
Những thành tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những ưu điểm, khuyết
điểm trong công tác xây dựng Đảng. Từ Đại hội VIII đến nay, Đảng ta đã có
nhiều cố gắng tiến hành nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng và
9


nhiệm vụ trung tâm là phát triển Kinh tế. Hội nghị TW 6 (lần 2) đã ra Nghị

quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng; mở
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình
trong toàn Đảng. Qua gần 2 năm thực hiện, cuộc vận động đã thu được một số
kết quả và kinh nghiệm bước đầu nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra. Trong
công tác xây dựng Đảng, bên cạnh những ưu điểm, đang nổi lên một số mặt
yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện
đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư
tưởng chính trị và đạo đức, lối sống. Một số tổ chức Đảng ở các cấp chưa
được chỉnh đốn, dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không
đoàn kết. Công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém, bất cập. Công tác
tổ chức, cán bộ còn một số biểu hiện trì trệ. Tổ chức thực hiện các Nghị quyết
của Đảng và pháp luật của nhà nước còn yếu. Nguyên nhân trực tiếp và chủ
yếu của những tồn tại trên là do nhiều cấp ủy và tổ chức Đảng chưa chỉ đạo
tập trung và kiên quyết công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chủ trương, biện
pháp thiếu đồng bộ; chưa kết hợp tiến hành tự phê bình và phê bình với kiện
toàn tổ chức, đổi mới cơ chế, chính sách, chỉnh đốn các khâu quản lý kinh tế
tài chính và tăng cường công tác giáo dục cán bộ, đảng viên.

10


CHƯƠNG II:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
2.1. Xây dựng Đảng về tư tưởng lý luận
Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lý luận
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Khi huấn luyện cho cán
bộ cách mạng năm 1925 – 1927, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng
phải làm theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người
không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”, “ chủ nghĩa” ấy là chủ nghĩa

Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mác – Lênin như trí khôn của con
người, như bàn chỉ nam đinh hướng cho con tàu, nói lên vai trò cực kỳ quan
trọng của lý luận ấy trong tất cả các thời kì cách mạng. Với ý nghĩa đó, theo
Người, chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành “cốt”, trở thành nền tản tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong việc
tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh lưu ý những
điểm sau đây:
Một là, việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác –
Lênin phải luôn phù hợp với từng đối tượng.Hồ Chí Minh không để lại những
tác phẩm chuyên khảo về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nhưng ở
nhiều bài viết, bài nói Người luôn luôn đề cập tới nguyên tắc cơ bản này bằng
nhiều cách nói, cách viết, cách diễn đạt khác nhau nhằm giúp cán bộ, đảng và
quần chúng nhân dân dễ nhớ, dễ hiểu, dễ vận dụng. Cả cuộc đời của Người là
tấm gương sáng về việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn. Một trong những biểu hiện sinh động ấy là, trong hoạt động cách mạng
Người luôn luôn sâu sát thực tế, gắn bó với cơ sở, gần gũi với nhân dân.
Trong khoảng 10 năm từ 1955 - 1965, Hồ Chí Minh đã thực hiện trên 700
lượt đi thăm, tiếp xúc với cán bộ, bộ đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông

11


dân, các cụ phụ lão, các cháu thanh, thiếu niên nhi đồng, các đơn vị bộ đội,
thanh niên xung phong, các hợp tác xã, bệnh viện, trường học... Như vậy, mỗi
năm có tới hơn 70 lần xuống cơ sở, gặp gỡ tiếp xúc với quần chúng nhân dân.
Điều này đủ thấy Hồ Chí Minh gắn bó với quần chúng, sâu sát với cơ sở, thực
tế như thế nào.
Hai là, việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin phải luôn luôn phù
hợp vời từng hoàn cảnh. Theo Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin
phải tránh giáo đều, đồng thời chống việc xa rời các nguyên tắc cơ bản của

chủ nghĩa Mác – Lênin.Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, Đảng viên rằng:
“quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là góp phần
trực tiếp ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều”. Để làm
tốt điều này thì một mặt, phải ra sức học tập, nâng cao trình độ lý luận cũng
như chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, phải có phương pháp học tập đúng
đắn, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế. Nếu không,
chưa khắc phục được bệnh kinh nghiệm thì đã mắc phải bệnh giáo điều, bệnh
sách vở. Người chỉ rõ: "lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không
đúng thì sẽ không có kết quả”.
Điều quan trọng nữa theo Người là phải thống giáo điều ngay trong học
tập chủ nghĩa Lênin. Khi còn sống Người luôn phê phán kiểu học học thuộc
lòng chủ nghĩa Mác- Lênin, học sách vở Mác - Lênin nhưng không học tinh
thần Mác – Lênin. Đó là học theo kiểu mượn những lời của Mác - Lênin dễ
làm cho người ta lầm lẫn. Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin
là phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập lập trường, quan
điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan
điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong
công tác cách mạng của chúng ta. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập
cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là
học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một
cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Hồ Chí
12


Minh cũng căn dặn cán bộ, đảng viên học tập lý luận thì nhằm mục đích để
vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái
vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng. Như vậy, học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin không phải vì chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng không phải vì học
tập thuần túy, càng không phải học tập vì mục đích cá nhân nhằm có cái để
mặc cả với tổ chức. Học tập trước hết là để làm người, rồi mới làm cán bộ và

phụng sự Tổ quốc, nhân dân, giai cấp. Cho nên người cán bộ, đảng viên phải
có thái độ học tập đúng đắn mới có thể khắc phục được bệnh giáo điều trong
nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng này của Hồ Chí Minh cho tới nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý
luận và thực tiễn đối với chúng ta. Người cũng lưu ý rằng: không nên coi chủ
nghĩa Mác - Lênin là kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng nhắc .Có
như vậy thì việc nghiên cứu, học tập vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin mới có
hiệu quả. Cùng với việc chống giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác - Lênin
thì còn phải chống giáo điều trong vận dụng lý luận cũng như kinh nghiệm
của nước khác. Người căn dặn cán bộ, đảng viên không chú trọng đến đặc
điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là
sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều. Để chống cả hai loại giáo
điều này, theo Hồ Chí Minh thì biện pháp cơ bản là phải gắn lý luận với thực
tiễn cách mạng nước nhà. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với
thực tiễn cách mạng, khi vận dụng kinh nghiệm và lý luận phải xuất phát từ
thực tiễn nước nhà. Người cũng nhấn mạnh rằng, cùng với việc chống bệnh
giáo điều thì phải đề phòng, ngăn ngừa chủ nghĩa xét lại. Bởi lẽ, nếu không có
quan điểm đúng đắn trong việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn thì người ta dễ nhấn mạnh thái quá những đặc điểm dân tộc để
phủ nhận những giá trị phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin,nhưng nếu quá
nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh
nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của
chủ nghĩa xét lại. Đồng thời, Người còn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết
13


dùng lý luận đã học được để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao
hiệu quả công tác, công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần
nghiên cứu cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái
chìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới.

Ba là, trong quá trình hoạt động, Đảng phải chú ý học tập, kế thừa
những kinh nghiệm tốt của Đảng Cộng sản khác đồng thời Đảng phải tổng kết
kinh nghiệm để bổ sung cho chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác – Lênin
là học thuyết nêu lên những vấn đề cơ bản nhất, trên cơ sở đó mỗi đảng vận
dụng một hoàn cảnh, điều kiện riêng của mình. Bởi lẽ mỗi nước đều có nhũng
hoàn cảnh riêng không nước nào giống nước nào. Chính vì vậy, ta không thể
áp đặt nguyên si hoàn cảnh của nước khác vào được mà ta cần phải thật mềm
dẻo biết chọn lọc cái nào phù hợp với điều kiện của nước mình. Trong quá
trình vận dụng đó, mỗi Đảng lại giải quyết thành công những vấn đề mới,
tổng kết những lý luận bổ sung và làm giàu thêm nội dung lý luận Mác –
Lênin. Chính vì thế mà chúng ta thấy chủ nghĩa Mác- Lênin là một học thuyết
mở, nó luôn được tiếp nhận, được bổ sung, được nạp thêm năng lượng từ
cuộc sống. Thực tiễn hoạt động của Đảng ta cũng cần có sự tổng kết thường
xuyên để bổ sung vào kho tàn lý luận Mác – Lênin. Đây là thái độ và trách
nhiệm thường xuyên của Đảng ta.
Trung thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta qua mọi giai
đoạn và mọi thời kỳ cách mạng đều coi trọng xây dựng Đảng vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Để xác định được đường lối đúng, Đảng
luôn luôn coi trọng việc giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh bằng nhiều hình thức đồng thời xuất phát đầy đủ từ thực tiễn Việt Nam
để vận dụng sáng tạo trên tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới ở nước ta bắt nguồn từ đường lối đổi mới đúng đắn, có
nguyên tắc của Đảng ta. Bí quyết thành công đầu tiên của Đảng ta là không
ngừng nâng cao trình độ lý luận trong toàn Đảng, trước hết là trong cán bộ
lãnh đạo cấp chiến lược, bám sát thực tiễn để bổ sung, phát triển và hoàn thiện
14


đường lối theo mục tiêu con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn
là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Bốn là, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó chính là chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ
nghĩa Mac – Lenin; chống những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ
nghĩa Mac – Lênin.
2.2. Xây dựng Đảng về chính trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dựng Đảng về chính trị có nhiều
nội dung, bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, xây dựng và thực hiện nghị
quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính
trị, nâng cao bản lĩnh chính trị…Trong đó, theo Hồ Chí Minh, đường lối
chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Xây
dựng đường lối chính trị trở thành một trong số những vấn đề cực kỳ quan
trọng trong xây dựng Đảng ta. Người coi Đảng là đội tiên phong chính trị của
giai cấp công nhân và khi đã trở thành Đảng cầm quyền thì Đảng đồng thời là
đội tiên phong chính trị của cả dân tộc. Đường lối chính trị là vấn đề cốt tử
đầu tiên quyết định vận mệnh của Đảng và cả vận mệnh của dân tộc. Hồ Chí
Minh đã xác định cho Đảng ta một đường lối chính trị đúng đắn; làm cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong Cương lĩnh đầu tiên, Người viết “làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản”.
Nhờ đường lối chính trị đúng đắn của Hồ Chí Minh ngay từ đầu, Đảng
ta đã đoàn kết các giai cấp, tầng lớp cách mạng, các lực lượng yêu nước trên
cơ sở liên minh công nông. Đó là yếu tố quan trọng đầu tiên giúp Đảng ta
nắm được độc quyền lãnh đạo. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đáp ứng
nguyện vọng, lợi ích của quần chúng lao động nên đã nhanh chóng phát động
được cao trào trong những năm 1930-1931, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến
hành Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh nước

15



Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đã định hướng đúng cho sự phát triển của các
thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có vai trò định hướng phát triển
cho toàn xã hội. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị của mình, chủ yếu
bằng việc đề ra cương lĩnh, đường lối chiến lược, phương hướng phát triển
kinh tế - xã hội cũng như sách lược và quy định những mục tiêu phát triển của
xã hội theo hướng lâu dài cũng như của từng giai đoạn. Đảng muốn xây dựng
đường lối chính trị đúng đắn cần phải coi trọng những vấn đề: đường lối
chính trị phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng nó
vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ; trong xây dựng đường
lối chính trị, phải học tập kinh nghiệm của các đảng cộng sản anh em, nhưng
phải tính đến những điều kiện cụ thể của đất nước và của thời đại trong từng
giai đoạn hoặc cả thời kỳ dài; để có đường lối chính trị đúng, Đảng phải thực
sự là đội tiên phong dũng cảm, là bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Hồ Chí Minh lưu ý cần phải
giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ, đảng
viên để họ kiên định lập trường. giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn
cảnh. Đồng thời, người cũng cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị
gây hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh của Tổ quốc, sinh mệnh chính trị
của hàng triệu đảng viên cũng như của hàng triệu nhân dân lao động.
2.3. Xây dựng Đảng về tổ chức
Hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến đến cơ sở phải thật chặt
chẽ, có tính kỉ luật cao. Sức mạnh các tổ chức liên quan chặt chẽ với nhau,
mỗi cấp độ tổ chức có chức năng nhiệm vụ riêng. Hồ Chí Minh rất coi trọng
vai trò của chi bộ vì:
- Chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng
- Chi bộ là môi trường tu dưỡng, rèn luyện, giám sát Đảng viên
- Chi bộ có vai trò quan trọng trong việc gắn kết Đảng với nhân dân.

16



2.3.1. Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng:
Theo Người, trước tiên là phải tuân thủ theo các nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt Đảng.
Về nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc cơ bản trong xây dựng
Đảng, Hồ Chí Minh lý giải vấn đề tập trung trong Đảng là: “Thiểu số phải
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, tất cả đảng viên phải chấp hành
vô điều kiện Nghị quyết của Đảng”. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
phải chú ý thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Người nói: “Phải thật sự
mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình...”. Ở Hồ Chí
Minh, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng là sự thống nhất biện chứng giữa
dân chủ và tập trung, tập trung phải trên cơ sở dân chủ và dân chủ phải dưới
sự chỉ đạo của tập trung. Có dân chủ trong Đảng mới có dân chủ ở ngoài xã
hội song dân chủ không phải là vô chính phủ.
Về nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, theo quan điểm của
Người, chỉ có tập thể lãnh đạo mới huy động được tất cả trí tuệ của đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc, vì
“một người dù khôn ngoan tài giỏi đến mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu
cũng chỉ trông thấy, xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không
thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy cần phải có
nhiều người, nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này,
người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó, góp kinh nghiệm và xem xét
của nhiều người thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt và có thấy rõ khắp
mọi mặt thì vấn đề mới giải quyết chu đáo khỏi sai lầm”. Nhưng theo Người,
“tập thể lãnh đạo” mới chỉ là một vế. Người cho rằng: “Tập thể lãnh đạo và cá
nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”. Bởi lẽ, nếu không có cá
nhân phụ trách thì sẽ sinh cái tệ người này uỷ cho người kia, người kia uỷ cho
người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong.
Thực hiện đúng đắn nguyên tắc này mới tránh cho Đảng không rơi vào chủ


17


quan, độc đoán, chuyên quyền và mới biến đường lối của Đảng trở thành thực
tiễn sinh động
Về nguyên tắc tự phê bình và phê bình, theo Hồ Chí Minh đây là vũ khí
sắc bén nhất để làm cho Đảng ta trong sạch vững mạnh, để làm cho phần tốt
trong mỗi con người nảy nở, phần xấu bị mất dần đi và là quy luật phát triển
của Đảng. Người nhận thức sâu sắc rằng, tuy Đảng ta gồm những người có
tài, có đức, phần đông là những người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu
nước nhất ..., nhưng "không phải là người người đều tốt, việc việc đều hay,
mỗi người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng”, do vậy trong Đảng phải
luôn luôn tự phê bình và phê bình, mà phê bình và tự phê bình “phải tiến hành
thường xuyên như người ta rửa mặt hàng ngày; phải thẳng thắn, chân thành,
trung thực, không nể nang, không giấu giếm, không thêm bớt khuyết điểm,
phải có tình yêu thương lẫn nhau”. Cách phê bình cũng phải thành thật, giàu
lòng nhân ái, khách quan. Thái độ phê bình phải có văn hoá, mang tính chất
xây dựng chứ không phải nói xấu nhau. Những người bị phê bình thì phải vui
vẻ nhìn nhận để sửa chữa. Được như vậy thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà
Đảng sẽ khoẻ mạnh vô cùng.
Về kỷ luật nghiêm minh, tự giác, Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng
đòi hỏi tất cả mọi tổ chức đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước
Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng.
Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng
cộng sản chủ nghỉa cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ
chức đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi mỗi đảng viên
phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ việc
tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, Nhà nước, nhân dân.
Về đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Bác căn dặn: “Đoàn kết là một

truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung
ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng cũng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa
18


trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin; cương lĩnh, điều lệ
Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng; nghị quyết của tổ chức đảng các cấp.
Muốn đoàn kết, thống nhất trong Đảng phải thường xuyên, nghiêm chỉnh tự
phê bình và phê bình, tu dưỡng đạo đức cách mạng, công bằng chủ nghĩa cá
nhân, phải “ sống với nhau có tình, có nghĩa”. Đoàn kết tốt làm cho “Đảng ta
tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như là một người”
2.3.2. Cán bộ, công tác cán bộ của Đảng:
Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là mắt khâu trung gian nối liền
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Người cán bộ phải có đủ đức và tài, phẩm
chất và năng lực, trong đó, đức, phẩm chất là gốc.
+ Hồ Chí Minh cho rằng, công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng,
“muôn việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém”. Nội dung bao
hàm các mắt khâu liên hoàn, có quan hệ chặt chẽ với nhau: tuyển chọn cán
bộ; đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ;hiểu, đánh giá đúng cán bộ; tuyển
dụng, bố trí, cán bộ; thực hiện các chính sách đối với cán bộ.
2.3.3. Về tuyển chọn cán bộ:
Những tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ công chức Nhà nước theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là: Phải trung thành với Tổ quốc với cách mạng, chế độ XHCN;
có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi; phải có mối liên hệ mật thiết với mọi
người xung quanh; dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm,
nhất là trong những tình huống khó khăn; thất bại không hoang mang, tự ti;
thắng lợi không kiêu ngạo, tự mãn.
2.3.4. Về đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ:
Người cán bộ, trong quá trình hoạt động, ít nhiều đều phải trải qua đào

tạo, bồi dưỡng với nhiều hình thức khác nhau, mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh
rằng, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Huấn luyện cán bộ là một
trong những nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Mục đích của huấn luyện cán bộ là xây dựng một đội ngũ cán bộ thực sự
vững mạnh, có đủ đức, đủ tài để dẫn dắt phong trào quần chúng, lãnh đạo
19


cách mạng đi đến thành công. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm
đến huấn luyện - đào tạo và bồi dưỡng - cán bộ.Vận dụng sáng tạo quan điểm
của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh
cho rằng: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành công hoặc
thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể, huấn
luyện mà cán bộ làm được việc là có lãi, nếu cán bộ không làm được việc là
lỗ. Vì vậy, “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”.
Đối với Quân đội, Hồ Chí Minh cho rằng, huấn luyện cán bộ là công
tác tích trữ lực lượng, la công tác chuẩn bị chiến đấu tích cực, là nâng cao
chất lượng chính trị, quân sự của bộ đội nói chung, cán bộ nói riêng. Huấn
luyện là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài của việc xây dựng Quân đội trong
thời bình. Người dạy: Bộ đội cũng ví như con dao cái súng, không lau chùi
luôn sẽ hỏng, chăm luyện tập sẽ tiến bộ. Theo Hồ Chí Minh, huấn luyện cán
bộ phải toàn diện. Người viết: Nếu anh em tư tưởng vững, chính trị vững, kỹ
thuật khá, thân thể khỏe mạnh thì nhất định thắng. Trái lại, nếu anh em chính
trị khá, nhưng quân sự kém, hoặc chính trị quân sự đều khá nhưng thân thể
yếu đuối thì không thắng được. Nội dung huấn luyện toàn diện, song có trọng
tâm trọng điểm, thiết thực, phù hợp với chức trách nhiệm vụ của cán bộ. Nội
dung huấn luyện được Người chỉ ra bao gồm: Huấn luyện chính trị, huấn
luyện lý luận, huấn luyện chuyên môn, dạy công tác, dạy văn hoá, cả đức và
tài, trong đó phải lấy đức làm gốc. Phải thiết kế nội dung huấn luyện thật cụ
thể, sát với đặc thù của từng lĩnh vực, từng ngành của cán bộ đảm nhiệm, chứ

không được chung chung, không thiết thực. Theo Người, những tài liệu huấn
luyện phải nhằm vào sự cần dùng, cần thiết của quần chúng. Phải hỏi: Người
đến chịu huấn luyện rồi, có áp dụng được ngay không? Có thực hành được
ngay không? Nếu không thiết thực như thế, thì huấn luyện mấy năm cũng vô
ích.

20


2.3.5. Về phương châm huấn luyện cán bộ:
Phải đảm bảo tính cơ bản, thiết thực, vững chắc. Người chỉ rõ, Phải
thực hành khẩu hiệu: làm việc gì học việc ấy. Vô luận quân sự, chính trị, kinh
tế, văn hoá, tổ chức, tuyên truyền, công an, cán bộ ở môn nào phải học thông
thạo công việc ở môn ấy. Nghĩa là, huấn luyện cán bộ phải trên cơ sở chức
trách, nhiệm vụ, chức năng nghiệp vụ của từng đối tượng để định ra nội dung
huấn luyện cho phù hợp, thiết thực, đảm bảo cho cán bộ không chỉ có kiến
thức toàn diện mà nhất thiết phải thành thạo và làm tốt chức trách nhiệm vụ
được giao. Đặc biệt, Hồ Chí Minh rất coi trọng tính thiết thực. Người chỉ ra
những khuyết điểm trong huấn luyện: “Thí dụ: Huấn luyện cho cán bộ trong
các cơ quan hành chính mà không đụng đến công việc hành chính. Còn dạy
chính trị thì mênh mông mà không thiết thực, học rồi không dùng được” .
2.3.6. Về nguyên tắc huấn luyện cán bộ:
Theo Hồ Chí Minh, lý luận gắn liền với thực tiễn, với chức trách,
nhiệm vụ của cán bộ. “Học tập thì theo nguyên tắc: Kinh nghiệm và thực tế
phải luôn đi cùng nhau. Thí dụ: khoa học chính trị dùng sách vở, bài báo bàn
về chiến lược, chiến thuật làm tài liệu lý luận; lấy lịch sử và kinh nghiệm
tranh đấu của Đảng làm tài liệu thực tế”. Học cốt để mà làm nên trong lúc học
lý luận phải nghiên cứu, liên hệ với thực tiễn, kinh nghiệm thực tiễn, để sau
khi học tập có thể nâng cao được tư duy lãnh đạo và trình độ năng lực tổ chức
thực hiện chức trách, nhiệm vụ.

2.3.7. Về phương pháp và hình thức huấn luyện:
Theo Hồ Chí Minh, cần phải có phương pháp huấn luyện thiết thực,
chu đáo, không tham nhiều, cốt yếu là làm cho người học hiểu được vấn đề;
học rồi phải đem ra áp dụng ngay được, như vậy là thành công. Vì vậy, phải
kết hợp chặt chẽ giữa huấn và luyện. Người lưu ý: Người huấn luyện, phải
học cách nói của quần chúng, phải dùng lời lẽ, những thí dụ giản đơn, thiết
thực và dễ hiểu. Phải có tính chịu khó dạy bảo, mới có thể nâng đỡ những
người đồng chí mình còn kém, giúp cho họ tiến bộ. Khi họ đã tiến bộ, cứ thả
21


cho họ làm, thả cho họ phụ trách, khuyến khích họ cứ cả gan mà làm, cứ để
họ “tuỳ cơ ứng biến”, mới có thể phát triển tài năng của họ. Hết sức tránh việc
gì cấp trên cũng nhúng tay vào, cán bộ như một cái máy, việc gì cũng chờ
mệnh lệnh, sinh ra ỷ lại, mất hết sáng kiến.
Người phê phán triệt để cách huấn luyện chỉ đem lý luận khô khan nhét
cho đầy óc họ. Rồi bày cho họ viết những chương trình, những hiệu triệu rất
kêu. Nhưng đối với việc thực tế, tuyên truyền, vận động, tổ chức, kinh
nghiệm thì chỉ nói qua loa mà thôi. Huấn luyện kiểu đó là nhồi nhét cán bộ
một mớ lý luận suông, khô khan, đơn điệu, vô ích và có hại cho cán bộ. Theo
Người, cách học tập đúng là: Tổ chức từng ban cao cấp hoặc trung cấp. Lấy
tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào. Sắp xếp thời gian và bài
học phải cho khéo, có sự liên thông và không mâu thuẫn nhau.
Để huấn luyện cán bộ cho thiết thực và có hiệu quả, việc tổ chức các
lớp, các khoa huấn luyện phải phù hợp với từng đối tượng, từng bậc học; phải
phù hợp với trình độ nhận thức, điều kiện sức khoẻ và tính chất hoạt động của
từng đơn vị, từng đối tượng cán bộ. Người huấn luyện phải làm kiểu mẫu về
mọi mặt, nhất là tư tưởng, đạo đức, lối sống và phải học thêm mãi. Cách thức
kiểm tra, thi khảo phải nghiêm túc, chặt chẽ, đánh giá đúng thực chất.


22


KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng giữ một vị trí đặc biệt quan
trọng. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam,
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh không ngừng
chăm lo xây dựng, rèn luyện Đảng ta thành một đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh, tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của dân tộc, xứng
đáng là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí
Minh đã nêu và yêu cầu các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thực hành những
quan điểm hết sức sâu sắc, có tác dụng soi sáng lâu dài trong việc chăm lo xây
dựng, chỉnh đốn Đảng ta. Tư tưởng của Người về xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước
ta trong mọi thời kỳ. Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng Đảng
đã chứng tỏ, sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
công nhân, giải phóng xã hội, giải phóng con người ở Việt Nam cần có Đảng.
Và vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam càng quan trọng hơn trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Chọn lựa Đảng làm người tổ
chức, lãnh đạo theo Hồ Chí Minh đó là một sự lựa chọn tất yếu của lịch sử. Vì
vậy, trọng trách của Đảng hết sức nặng nề nhưng cũng rất vinh quang.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 1,
tr 94.

2. Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, sách đã dẫn, tập 1, tr. 127.
3. Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, sách đã dẫn, tập 2, tr. 256.
4. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 12, tr 108.
5. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Hồ ChíMinh, biên niên tiểu sử, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 3,
tr. 123.
6. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 10, tr. 591.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị Quốc gia, H. 2002, t2, tr267.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.2, tr 280.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.7, tr 228.

24


MỤC LỤC

25


×