Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn tập Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.61 KB, 48 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
------------------***-------------------

A.
I.
1.

2.

a.
-

-

NHÀ NƯỚC
Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, khái niệm của nhà nước.
Nguồn gốc của Nhà nước.
Nhà nước xuất hiện một cách khách quan tự sự tan rã của chế độ công xã nguyên
thủy. Tiền đề kinh tế cho sự ra đời của nhà nước là chế độ tư hữu tài sản. Tiền đề xã hội
cho sự ra đời của nhà nước là sự phân chia xã hội thành các giai cấp (hoặc chí ít là các tầng
lớp xã hội) mà giữa các gia cấp, tầng lớp đó, những lợi ích cơ bản đối kháng nhau đến mức
không thể điều hòa được. Đó là quy luật hình thành nhà nước nói chung. Trên thực tế, sự
xuất hiện của nhà nước ở các vùng và các dân tộc khác nhau còn có những đặc điểm riêng
do chịu ảnh hưởng của những điều kiện kinh tế, xã hội và ngoại cảnh không giống nhau
Bản chất của Nhà nước.
Bản chất nhà nước, quyền lực nhà nước là một trong những vấn đề trung tâm của các
cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng từ trước tới nay. Theo quan điểm triết học, bản chất của
sự vạt và hiện tượng đố là tất cả những mặt, những khuynh hướng cơ bản quy định sự tồn
tại, phát triển của sự vật, hiện tượng. Như vậy xác định bản chẩ nhà nước tức là xác định
tất cả những phương diện (những mặt) cơ bản quy định sự tồn tại, phát triển của nhà nước.


Xác định bản chất của nhà nước cũng là xác định, lý giải nhà nước là phương thức tổ chức
xã hội, là tổ chức quyền lực công có trong tay công cụ pháp luật cùng bộ máy quản lý đặc
thù để duy trì, barod dảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Như vậy cần phải tiếp cận
bản chất nhà nước từ quan điểm toàn diện bởi chính bản thân nhà nước là một tổ chức
chính trị đặc biệt luôn tồn tại trong tổng thể các mối liên hệ phổ biến với các tổ chức, lực
lượng, hiện tượng khác của xã hội.
Bản chất nhà nước là một thể thống nhất bao gồm 2 phương diện: giai cấp và xã hội.
Cách thức và mức độ thể hiện, thực hiện phương diện giai cấp và xã hội không hoàn toàn
giống nhau trong những thời kỳ phát triển của xã hội trên bình diện quốc gia và quốc tế.
Dưới đây là những vấn đề cơ bản về bản chất nhà nước.
Tính giai cấp.
Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấ không thể điều hòa được.
Nhà nước xuất hiện ở đâu và khi nào mà những mâu thuẫn giai cấp, xét một cách khách
quan, không thể điều hòa được.
Tính giai cấp của nhà nước được thể hiện: nhà nước đó do giai cấp nào tổ chức thành,
quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp nào; bảo về lợi ích giai cấp nào là chủ yếu. Xét
1


-

-

b.
-

-

-


-

trên phương diện này, nhà nước trước hết là bộ máy cưỡng chế đặc biệt trong tay giai cấp
thống trị xã hội, là công cụ sắc bén nhất để duy trì sự thống trị giai cấp và bảo vệ quyền lợi
cho giai cấp cầm quyền, thiết lập một trật tự xã hội phục vụ cho lợi ích của giai cấp đó.
Tính giai cấp của nhà nước quy định nội dung hoạt động của nhà nước. Tuy là đại biểu
chính thức cho toàn xã hội, song nhà nước trước hết phục vụ bảo vệ quyền lợi cho giai cấp
thống trị.
Nhà nước là công cụ đặc biệt của quyền lực chính trị, thực hiện sự thống trị về kinh tế,
chính trị và về tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Sự thống trị của giai cấp được thể
hiện trên 3 mặt: kinh tế, chính trị, tư tưởng. Quyền lực kinh tế tạo cho chủ sở hữu khả năng
bắt người bị bóc lột phải lệ thuộc về kinh tế. Cần có một bộ máy nhà nước đủ sức củng cố
quyền lực kinh tế và đủ áp lực đối với xã hội. Quyền lực chính trị, thông qua bộ máy nhà
nước để đàn áp, bắt phải phục tùng ý chí nhà nước, giai cấp thống trị. Nhờ có nhà nước,
giai cấp thống trị về kinh tế trở thành thống trị về chính trị. Do nắm được quyền lực nhà
nước, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị trở thành hệ tư tưởng thống trị xã hội, bắt buộc xã
hội phải lệ thuộc mình về tư tưởng.
Phụ thuộc vào những yếu tố khách quan và chủ quan, mức độ thể hiện, thực hiện tính giai
cấp không hoàn toàn như nhau trong tổ chức và hoạt động của các nhà nước khác nhau ở
vào những giai đoạn lịch sử nhất định. Các yếu tố này bao gồm: tương quan lực lượng giai
cấp, lực lượng xã hội, bối cảnh quốc tế, truyền thống, phong tục, tâm lý dân tộc, hoàn cảnh
lịch sử, quan điểm chính trị, đạo đức của nhà cầm quyền, ý thức giác ngộ của nhân dân…
Ví dụ, do hoàn cảnh lịch sử, tính giai cấp trong các nhà nước chiếm hữu nô lệ, phong kiến
và các nhà nước tư sản trước đây đc thể hiện một cách quyết liệt, thậm chí thô bạo.
Tính xã hội.
Đây là thuộc tính thứ 2, phương diện hoạt động thứ 2 củ nhà nước tỏng bất kỳ giai đoạn
phát treerin nào, chỉ khác nhau về sự thể hiện và thực hiện. Ngay từ thời đại của mình, các
nhà kinh điển Mác, Lê Nin đã khẳng định vấn đề này, chỉ có điều, do hoành cảnh, điều kiện
lịch sử lúc bấy h, tính xã hội của NN chưa đc đề cập sâu, rộng như tính giai cấp.
Tính xã hội của nhà nước đc thể hiện, bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị,

nhà nước còn phải quan tâm đến việc bảo đảm, bảo vệ, giải quyết lợi ích ở mức độ nhất
định cho các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội và các vấn đề chung của toàn xã hội. Với
tư cách là đjai diện chính thức cho toàn xã hội, nhà nước đồng thời còn thực hiện những
công việc chung, những chức năng xã hội, xuất phát từ bản chất của xã hội.
Tính xã hội là một thuộc tính tất yếu khách quan của bất kỳ một nhà nước nào, không phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của nhà cầm quyền, càng không phải là một sự gán ghép nào cho
nhà nước cả. Nhà nước sẽ không tồn tại được nếu không quan tâm đến quyền lợi của các
giai tầng khác, không giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh. Điều này đặc biệt thể hiện rõ
nét trong xã hội hiện đại.
Mức độ thể hiện và thực hiện tính xã hội không hoàn toàn giống nhau ở các nhà nước và
ngay cả trong một nhà nước, nhuwg vào các giai đoạn lịch sử khác nhau. Bởi vì tính xã
hội, tức các chức năng xã hội của nhà nước, phụ thuộc vào hàng loạt yếu tố khách quan và
chủ quan như hoàn cảnh lịch sử, điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bối cảnh
quốc tế, trình độ nhận thức và quan điểm, đạo đức chính trị của nhà cầm quyền, trình độ và
2


-

3.
o

o

o

o
o

o


o
o
o

nhu cầu của các cá nhân, xã hội…. Đối với Việt Nam, trong nền kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế, ngày càng có nhiều vấn đề xã hội mới phát sinh, đặt lên trách nhiệm xã hội
Nhà nước cần phải giải quyết. Đó là các vấn đề xã hội như lao động, việc làm, bảo vệ môi
trường, tội phạm…
Nhà nước một mặt là tổ chức quyền lực chính trị, mặt khác còn là tổ chức quyền lực công
đại diện lợi ích chung của xã hội, nhằm duy trì và phát triển xã hội. Do vậy, bản chất nhà
nước, yếu tố chi phối hoạt động của nhà nước phải bao gồm 2 phg diện, 2 thuộc tính cơ
bản: tính giai cấp và tính xã hội.
Những đặc trưng cơ bản của nhà nước.
Là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt với bộ máy thực hiện cưỡng chế và quản
lý đời sống nhà nước.
Nhà nước thiết lập quyền lực chính trị đặc biệt mang tính công cộng; thể hiện ở chỗ: NN là
tổ chức quyền lực đặc biệt, không còn hòa nhập với dân cư nữa. NN có bộ máy cưỡng chế
gắn liền vs lực lượng vũ trang, nhà tù, trại tập trung và những cơ quan cưỡng chế khác,
những cơ quan mà k hề có tồn tại trong chế độ thị tộc nguyên thủy và cũng không có trong
các tổ chức phi nhà nước.
Quyền lực NN về bản chất khác vs quyền lực trong tổ chức thị tộc nguyên thủy. Quyền lực
của tổ chức thị tộc nguyên thủy hòa nhập vào xã hội, thể hiện ý chí, lợi ích của toàn xã hội,
được đảm bảo thực hiện bằng sự tự nguyện của các thành viên xã hội. Quyền lực chính trị
của NN thuộc về một thiểu số giai cấp thống trị, được thực hiện bằng một bộ máy với một
lớp người chuyên làm chức năng cưỡng chế và quản lý xã hội theo đường lối của giai cấp
thống trị XH.
Quyền lực NN, các thiết chế và các phương pháp thực hiện cũng khác vs quyền lực xã hội
của các tổ chức chính trị XH. Cùng vs sự phát triển của XH, bộ máy NN đc hoàn thiện để
thực hiện quản lý XH.

NN có lãnh thổ và thực hiện sự quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ
Lãnh thổ, dân cư là những yếu tố cấu thành quốc gia. Quyền lực của NN đc thực hiện trên
toàn bộ lãnh thổ NN.
NN thực hiện sử quản lý dân cư theo lãnh thổ - theo các đơn vị hành chính, không phụ
thuộc vào chính kiến, giới tính, huyết thống, nghề nghiệp. Sự phân chia này đảm bảo cho
sự quản lý tập trung, thống nhất của nhà nước.
Người dân có mqh vs NN bằng chế định quốc tịch, xác lập sự phụ thuộc của công dân vào
một NN nhất định và tương ứng, NN cũng phải có những nghĩa vụ nhất định vs công dân
của mình. Giới hạn lãnh thổ của quyền lực NN còn có hiệu lực cả đối vs ng nước ngoài,
nhưng quy chế pháp lý đối vs ng nc ngoài khác vs công dân nc sở tại.
Tổ chức thị tộc nguyên thủy đc hình thành và tồn tại trên cơ sở huyết thống, không có lãnh
thổ riêng.
Nhà nước có chủ quyền quốc gia.
Là quyền tối cao của NN về đối nội và độc lập về đối ngoại. Tất cả mọi cá nhân, tổ chức
sống trên lãnh thổ của đất nc sở tại đều phải tuân thủ pháp luật nc sở tại đó.
NN là ng đại diện chính thức, đại diện về mặt pháp lý cho toàn XH về đối nội và đối ngoại.
3


o
4.

II.
1.
a.

b.

Tôn trọng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi là nguyên tắc và phương
châm hành động của NN Việt Nam hiện nay trong các quan hệ quốc tế.

NN là tổ chức duy nhất có quyền ban hành PL và đảm bảo thực hiện PL.
NN có quyền định ra và thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc. Thuế đc sử dụng để nuôi
sống bộ máy NN và thực hiện các hoạt động chung của toàn XH.
Khái niệm
Nhà nước là hình thức (phương thức) tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ chức quyền
lực chính trị công cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích trc hết cho
giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động chung nảy sinh từ bản chất của xã hội.
Các chức năng của nhà nước.
Chức năng kinh tế.
Khái niệm.
Chức năng kinh tế là một trong những chức năng quan trọng nhất của nhà nước,
được hiểu là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong tổ chức, điều tiết
và quản lý nền kinh tế nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu vật chất của người dân, nhà nước và
của toàn xã hội.
Vai trò.
Tổ chức, điều tiết, quản lý kinh tế là nhiệm vụ xuyên suốt của nhà nước trong mọi
thời kỳ phát triển của lịch sử. Dưới tác động của nhiều yếu tố khác nhau, như: bản chất nhà
nước, ý chí của giai cấp thống trị, điều kiện cơ sở hạ tầng, điều kiện tự nhiên, trình độ nhận
thức… các hình thức, phương thức thực hiện, mục đích thực hiện chức năng kinh tế của
nhà nước có thể khác nhau. Nhưng, ngay từ khi ra đời cho đến nay, sự tham gia của nhà
nước vào các hoạt động kinh tế luôn có tính tất yếu, khách quan. Không thể có một nhà
nước tồn tại tách biệt khỏi điều kiện cơ sở vật chất của xã hội. Cũng không thể có một xã
hội có sự quản lý của nhà nước mà nền kinh tế lại đặt ra ngoài hoạt động của nhà nước.
Ngay từ những bộ cổ luật đầu tiên của thế giới nhân loại đã biết đến các hình thức hợp
đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất, những quy định về thừa kế,
quyền sở hữu nô lệ, quyền sở hữu ruộng đất của chủ nô cũng như của các giai cấp thống trị
trong việc bảo vệ tư liệu sản xuất, tài sản của mình. Còn ở các nhà nước hiện đại, không
thể thiếu những quy định của pháp luật về thị trường tài chính, về tổ chức và hoạt động của
các loại hình doanh nghiệp, về hoạt động thương mại, về đăng ký, thành lập doanh
nghiệp…

Trong lịch sử cũng đã tồn tại quan điểm cho rằng, sự tham gia của nhà nước vào nền
kinh tế là không cần thiết. Theo thuyết “Bàn tay vô hình”, sẽ tốt hơn nếu thị trường tự
quyết định, tự điều chỉnh theo chính nhu cầu vốn có của nó mà không cần có sự can thiệp
của nhà nước. Nhưng, thực tế lịch sử, mà cụ thể là cuộc đại khủng hoảng cuối những năm
20 và đầu những năm 30 của thế kỷ trước đã cho thấy việc thiếu sự điều tiết của nhà nước
khiến cho nền kinh tế dễ bị tổn thương như thế nào. Vai trò điều tiết của nhà nước lúc này
là thông qua những quy định pháp lý về sự tự do hóa nền kinh tế, mở cửa thị trường, những
quy định về các loại hình công ty, thương hội…
Trong xã hội hiện đại khi quan hệ kinh tế ngày càng trở nên phức tạp, phát triển đa
chiều, khó tiên liệu và dễ bị tổn thương, thì sự hiện diện của nhà nước trong quản lý, điều
4


c.

tiết nền kinh tế ngày trở nên quan trọng và có ý nghĩa xã hội. Thực hiện tốt chức năng kinh
tế không chỉ tạo cơ sở vật chất cho sự thịnh vượng xã hội mà còn tạo sự bình đẳng, công
bằng, ổn định và phát triển chung của toàn xã hội. Các chính sách và thực hiện hiệu quả
các chính sách kinh tế luôn là thước đo tín nhiệm của nhà nước đối với xã hội, đồng thời
cũng là những đảm bảo quan trọng cho việc xây dựng và thực thi các chức năng khác của
nhà nước.
Đặc điểm của chức năng kinh tế
Thứ nhất, là phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước thể hiện qua các hoạt
động của nhà nước trong tổ chức, quản lý và điều tiết nền kinh tế;
Thứ hai, chức năng kinh tế của nhà nước phản ánh bản chất, trình độ phát triển của
nhà nước;
Thứ ba, chức năng kinh tế của nhà nước là phương diện hoạt động đòi hỏi phải được
thực hiện một cách thường xuyên, liên tục trong mối liên hệ chặt chẽ với các hoạt động
khác của nhà nước;
Thứ tư, chức năng kinh tế của nhà nước được thực hiện bằng các hình thức, phương

thức và biện pháp khác nhau có mục tiêu tạo của cải vật chất cho xã hội;
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ, xây dựng và phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy ngoài những đặc điểm chung trong việc thực hiện
chức năng kinh tế còn có những điểm khác biệt cơ bản như sau:
Thứ nhất, chức năng tổ chức, điều hành và quản lý kinh tế của nhà nước được thực
hiện dưới sự lãnh đạo thống nhất về tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản
Việt Nam;
Thứ hai, nhà nước phát triển nền kinh tế thị trường nhưng định hướng xã hội chủ
nghĩa. Điều này trước hết thể hiện ở chỗ, ở Việt Nam các quy luật, nhân tố của nền kinh tế
thị trường vẫn được tôn trọng và đảm bảo. Nhà nước vẫn sử dụng các công cụ của nền kinh
tế thị trường để tổ chức và điều tiết nền kinh tế. Tuy nhiên, với mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nhà nước cần hướng các hoạt động kinh tế phục vụ mục tiêu phát triển xã hội,
phân phối lợi ích kinh tế một cách hài hòa đảm bảo sự bình đẳng, công bằng, ổn định và an
sinh xã hội tạo động lực cho sự phát triển chung của xã hội. Mục đích của các hoạt động
kinh tế không nhằm tối đa hóa lợi nhuận hay phục vụ lợi ích của nhóm người, các tổ chức
độc quyền, mà lợi ích của toàn xã hội;
Thứ ba, mọi chính sách kinh tế phải xuất phát từ lợi ích dân tộc, lợi ích đa số trong
xã hội, lấy sự phát triển con người làm mục tiêu phát triển kinh tế;
Thứ tư, nhà nước không chỉ quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô mà còn trực tiếp tham gia
phát triển kinh tế với tư cách là tổ chức kinh tế độc lập (kinh tế nhà nước) có vai trò như là
thương nhân nhưng không xác định lợi nhuận là mục tiêu chủ yếu, mà xác định vai trò tiên
phong, chủ đạo trong một số lĩnh vực theo chốt tạo tiền đề cơ sở vật chất, hạ tầng cho nền
kinh tế, bảo đảm an ninh quốc gia, lợi ích cơ bản của xã hội.
Như vậy, có thể thấy chức năng kinh tế của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là các phương diện hoạt động chính của Nhà nước trong tổ chức, điều tiết và
quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện bản chất dân chủ phù
5


hợp định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo sự ổn định, thịnh vượng, công bằng, bình đẳng

và phát triển toàn diện của xã hội.
d.

Các hình thức pháp lý thực hiện chức năng kinh tế
Thực hiện chức năng kinh tế luôn gắn liền với những hình thức xác định. Hình thức
thực hiện chức năng kinh tế là sự biểu hiện ra bên ngoài những mong muốn (ý chí) của
Nhà nước nhằm tổ chức, điều tiết và quản lý nền kinh tế.
Với mục tiêu xây dựng và phát triển nề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Việt Nam đang thực hiện chức năng kinh tế theo các hình thức cơ bản sau đây:
- Nhà nước tổ chức, quản lý, điều tiết kinh tế bằng pháp luật
Trong xã hội hiện đại, pháp luật luôn là công cụ hữu hiệu nhất để nhà nước tổ chức,
điều tiết và quản lý nền kinh tế. Với những thuộc tính ưu việt vốn có, pháp luật có thể tác
động mạnh mẽ, có giá trị bắt buộc chung đối với toàn xã hội. Pháp luật có tính thống nhất
và được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước giúp cho những quy định liên quan
đến tổ chức, điều tiết và quản lý kinh tế được triển khai thực hiện một cách thống nhất,
nhanh chóng và hiệu quả. Ngoài ra, tính minh bạch, chặt chẽ, dân chủ và công bằng của
pháp luật cũng là những đảm bảo cần thiết tạo lập niềm tin và môi trường kinh tế bình
đẳng, lành mạnh, bền vững cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế.
Thực hiện quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, Nhà nước đã tổ chức xây
dựng, ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế hoặc các lĩnh vực liên
quan. Trong những năm gần đây, pháp luật kinh tế luôn là lĩnh vực phát triển nhất trong hệ
thống pháp luật quốc gia. Có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt
động doanh nghiệp, pháp luật về thị trường tài chính, thuế, về cạnh tranh, kinh doanh
thương mại, thị trường bất động sản, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại,
hạn chế độc quyền, quản lý thị trường… được ban hành mới hoặc sửa đổi bổ sung. Ngoài
chức năng sáng tạo pháp luật, để phục vụ các hoạt động ngoại thương, quan hệ kinh tế
quốc tế Việt Nam cũng tích cực ký kết hoặc tham gia nhiều điều ước quốc tế, đặc biệt là
các hiệp định thương mại song, đa phương.
Song song với hoạt động lập pháp và ký kết, tham gia các điều ước quốc tế, tổ chức
thực hiện và bảo đảm thực hiện các quy phạm pháp luật cũng luôn được Nhà nước chú

trọng. Việc thiết lập các cơ chế giám sát, thành lập các cơ quan chuyên trách đảm bảo pháp
luật được thực thi nghiêm chỉnh cũng được đề cao.
Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có cả yếu tố chủ quan và khách
quan, hệ thống pháp luật kinh tế của nước ta, về cơ bản chưa đồng bộ và chưa đáp ứng
được yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Việc triển khai thực hiện các văn bản pháp
luật còn chưa nghiêm, tư duy quản lý còn lạc hậu chưa theo kịp thay đổi của yêu cầu
mới… Tất cả các yếu tố đó đã phần nào làm suy giảm vai trò của pháp luật như là công cụ
chủ yếu trong điều tiết và quản lý nền kinh tế. Nhưng, không thể phủ nhận một thực tế, là
những nỗ lực của nhà nước trong nhiều năm trở lại đây đã và đang góp phần tạo nên hành
lang pháp lý cơ bản có hiệu quả trong tổ chức, điều tiết và quản lý nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
6


Nhà nước tổ chức, quản lý, điều hành kinh tế bằng chính sách, kế
hoạch
Ngoài pháp luật, nhà nước còn quản lý nền kinh tế bằng kế hoạch chính sách.
Trong quá trình quản lý nền kinh tế Đảng và Nhà nước thường xuyên thực hiện kế
hoạch hóa nền kinh tế. Trong rất nhiều nghị quyết của Đảng cũng như của cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất (Quốc hội) nhiều kế hoạch phát triển kinh tế xã hội theo các giai
đoạn, thời kỳ đã được xác định và thực hiện. Kế hoạch là hình thức nhà nước thiết lập các
mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình tổ chức, quản lý, điều tiết nền kinh tế theo lộ trình hoặc
các bước thực hiện nhằm phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả, hợp lý để thực hiện mục
tiêu đặt ra.
Ngoài kế hoạch, chính sách kinh tế cũng là hình thức thường xuyên được thực hiện
để quản lý nền kinh tế. Chính sách kinh tế là những sách lược mà nhà nước tác động nên
nền kinh tế để đạt được mục tiêu nhất định. Chính sách kinh tế bao gồm một số loại chủ
yếu, đó là: chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách điều tiết hoạt động kinh tế, chính sách kinh
tế đối ngoại và chính sách phát triển kinh tế…
- Nhà nước tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế với tư cách

chủ thể đặc biệt – kinh tế nhà nước
Trong quá trình quản lý nền kinh tế, nhà nước không chỉ quản lý bằng các phương
tiện vĩ mô, mà trong nhiều trường hợp nhà nước tham gia trực tiếp vào các hoạt động sản
xuất kinh doanh thông qua các tập đoàn, doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, doanh
nghiệp nhà nước có vốn hoặc cổ phần chi phối. Tuy nhiên, để đảm bảo các điều kiện của
nền kinh tế thị trường, kinh tế nhà nước chỉ tham gia vào các lĩnh vực then chốt, những
lĩnh vực hành hóa và dịch vụ công cộng mà nếu nằm trong tay doanh nghiệp của tư nhân
thì có nguy cơ gây thiệt hại cho toàn xã hội hoặc tham gia vào những lĩnh vực mà tư nhân
không có điều kiện hoặc không muốn tham gia (do không hoặc ít phát sinh lợi nhuận, địa
bàn khó khăn…). Đây cũng là điểm đã được quy định trong Hiến Pháp 2013. Theo đó, tại
khoản 1 Điều 51, “nền kinh tế VN là nền KT thị trường định hướng XHCN với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần KT; KT nhà nước giữ vai trò chủ đạo.”
-

Nhà nước Việt Nam muốn quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có kết quả trước hết cũng phải dựa trên yêu cầu khách quan của các quy luật của
kinh tế thị trường. Do đó phương pháp quản lý của Nhà nước ta về nhiều phương diện cũng
có những nét giống như phương pháp quản lý của nhà nước ở các nước tư bản: thừa nhận
tính độc lập của các chủ thể kinh tế để họ có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, tự
chịu trách nhiệm lỗ lãi; xây dựng hệ thống thị trường có tính cạnh tranh, giá cả chủ yếu do
thị trường quyết định; xây dựng cơ chế điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm hướng dẫn,
giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế, hạn chế những khuyết tật của thị trường; xây
dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo ra khuôn khổ cho hoạt động kinh tế; tôn trọng và thực
hiện các thông lệ quốc tế trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Cần phải lưu ý rằng, kinh tế nhà nước không lấy mục tiêu lợi nhuận làm mục tiêu
chủ yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Kinh tế nhà nước có mục tiêu xã hội, đảm bảo
7


e.


f.
-

quốc phòng an ninh công cộng, giúp nhà nước điều tiết nền kinh tế và tạo lập môi trường
thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển.
Các phương pháp thực hiện chức năng kinh tế
Quản lý nền kinh tế chỉ thực sự hiệu quả khi nhà nước sử dụng các phương pháp phù
hợp. Đối với từng đối tượng, lĩnh vực và thời điểm cụ thể nhà nước có thể sử dụng rất
nhiều các phương pháp khác nhau để đạt được mục tiêu quản lý kinh tế. Một số phương
pháp phổ biến trong quản lý kinh tế là giáo dục, thuyết phục, khuyến khích, cưỡng chế hay
các phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế…
Giáo dục là phương pháp tác động có định hướng làm thay đổi nhận thức của chủ
thể. Ví dụ, nhà nước giáo dục người dân về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như tuân thủ
những quy định pháp luật về kinh doanh mặt hàng liên quan đến vệ sinh an toàn thực
phẩm.
Thuyết phục là phương pháp tác động làm cho chủ thể khác nghe theo và thực hiện
theo những lời khuyên, những khuyến cáo, chỉ dẫn của nhà nước trong hoạt động kinh tế.
Ví dụ, nhà nước thuyết phục người dân nói không với những mặt hàng không rõ nguồn gốc
xuất xứ hay thuyết phục người dân trồng những giống lúa cho năng xuất và chất lượng cao
phục vụ xuất khẩu.
Khuyến khích là phương thức nhà nước tác động nên các chủ thể quan hệ kinh tế với
mục đích hướng họ theo những hoạt động, hành vi mà nhà nước cho là có lợi cho nền kinh
tế. Ví dụ, nhà nước khuyến khích người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.
Cưỡng chế là biện pháp nhà nước dùng để bắt buộc chủ thể quan hệ kinh tế dừng,
chấm dứt hoặc thực hiện các hoạt động theo yêu cầu của nhà nước. Ví dụ, thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp vi phạm điều kiện ngành nghề đăng
ký kinh doanh.
Phương pháp hành chính là các phương pháp có tính chất mệnh lệnh, áp đặt có tính
chất bắt buộc của nhà nước đối với chủ thể trong quan hệ kinh tế vì mục tiêu quản lý kinh

tế. Ví dụ, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các cơ sở kinh doanh vàng miếng SJC cần phải có
giấy phép kinh doanh vàng miếng.
Phương pháp kinh tế là các biện pháp nhà nước áp dụng căn cứ vào quy luật kinh tế,
quy luật thị trường nhằm quản lý nền kinh tế. Ví dụ, để kiềm chế lạm phát nhà nước nâng
lãi suất tiền gửi, kiểm soát tín dụng, hạn chế đầu tư công hay để phục hồi thị trường bất
động sản nhà nước nới lỏng tín dụng, hạ lãi xuất tiền gửi…
Như vậy, có thể thấy chức năng kinh tế luôn là một trong những chức năng quan
trọng nhất của nhà nước. Thực hiện tốt chức năng kinh tế là đảm bảo sự tồn tại, phát triển
của nhà nước nói riêng, toàn bộ hệ thống chính trị nói chung, đồng thời tạo điều kiện tiền
đề về cơ sở vật chất để thực hiện các chức năng khác của nhà nước.
Nội dung chức năng kinh tế
Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước sử dụng phương pháp kinh tế, vận dụng các
quy luật kinh tế để quản lý, đảm bảo hiệu quả quản lý thông qua các công cụ vĩ mô như
pháp luật, kế hoạch, chính sách... Nhà nước đưa ra dự kiến về khả năng phát triển kinh tế;
8


-

điều chỉnh và thay đổi chính sách nhằm hướng dẫn hành vi của các chủ thể trong hoạt động
sản xuất kinh doanh. Như vậy, kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường đã xóa bỏ mọi
hình thức áp đặt trong giao nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh, đảm bảo quyền tự chủ
kế hoạch cho các chủ thể, kích thích các nhà kinh doanh cạnh tranh, cải tiến kỹ thuật công
nghệ để đứng vững trên thị trường.
Hiện nay, Việt Nam đang triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011 – 2020 trong Chương trình hành động của Chính phủ (Ban hành kèm theo
Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2012).
Xây dựng hệ thống pháp luật và đổi mới công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô.
Nền kinh tế thị trường là hệ thống phức tạp và đầy biến động, các hoạt động kinh tế

đều hướng tới lợi ích cục bộ, vì vậy sự bất ổn, rủi ro và sự xâm phạm lợi ích lẫn nhau có
thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu không có những quy tắc đủ mạnh để điều chỉnh. Từ nhu cầu
khách quan đó mà pháp luật trở thành công cụ không thể thay thế để đảm bảo cho các quan
hệ kinh tế diễn ra theo trật tự nhất định. Bằng cách gián tiếp, Nhà nước tạo ra khung pháp
lý cho các chủ thể tự do hoạt động; quy định tư cách chủ thể; ngăn ngừa các yếu tố tác
động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo môi trường để vận hành các quan hệ kinh
tế một cách thuận lợi, an toàn, đồng thời định ra các phương thức nhằm duy trì và đảm bảo
trật tự kinh tế. Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh, ổn định nền kinh tế thông qua các
công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng là những đòn bẩy
tác động đến nền kinh tế nhằm kiểm soát và hạn chế hậu quả trước các biến động bất lợi
của thị trường. Nhà nước quản lý vĩ mô về tài chính đối với các doanh nghiệp thông qua
các công cụ như thuế, lãi suất, tỉ giá...Nhà nước tiến hành đổi mới chính sách tiền tệ, giá cả
cho phù hợp với cơ chế thị trường, kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất, ổn định sức mua
đồng tiền Việt Nam, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn. Các công cụ tài chính, tiền
tệ, tín dụng phát huy vai trò trong việc tạo ra các yếu tố kích thích hay kìm hãm sự phát
triển của các quan hệ kinh tế thị trường theo hướng nhất định.
Trong hơn 10 năm qua, Việt Nam đã có nhiều thay đổi tích cực về pháp luật quản lý
các lĩnh vực kinh tế. Có thể kể đến một số luật quan trọng như bộ Luật Lao động 1994 ( đã
được sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007) đã tạo thành nền tảng pháp lý đầu tiên cho
thị trường lao động bằng việc công nhận quyền tự do tìm việc làm và quyền lựa chọn
người lao động – hai yếu tố cơ bản tạo ra quan hệ cung – cầu cho thị trường lao động.
Năm 1996, Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành, để thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước
ngoài và tiến tới hài hòa luật pháp của Việt Nam với khung luật pháp quốc tế. Luật đầu tư
nước ngoài đã được điều chỉnh, bổ sung và sửa đổi 4 lần (vào các năm 1990, 1992, 1996 và
2000). Việt Nam cũng đã tiếp tục bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện nhiều luật quan trọng
khác như: Luật đất đai, Luật cạnh tranh, Luật doanh nghiệp…theo hướng hỗ trợ hội nhập
kinh tế quốc tế. Hiện nay, Việt Nam vừa ban hành hiến pháp mới (2013), do vậy sẽ kéo
theo sự thay đổi của hệ thống văn bản pháp luật sao cho thống nhất và phù hợp.
Trong quan hệ quốc tế, Chính phủ Việt Nam cũng đã tích cực tham gia ký kết nhiều
hiệp định thương mại song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, gia nhập

các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế, nhất là kể từ giai đoạn sau khi gia nhập WTO.
9


-

-

-

g.
-

o

o

Xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước xây dựng Chiến lược phát triển kết cấu hạ
tầng và Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, trong đó chiến lược phát triển
bao gồm hệ thống những mục tiêu, chính sách và giải pháp cơ bản, có tính chất dài hạn về
phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng; và Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng là cụ thể hóa
chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng: luận chứng, lựa chọn phương án phát triển và phân
bố mạng lưới kết cấu hạ tầng trên các vùng lãnh thổ, các giải pháp và tổ chức thực hiện,
các công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên.
Kiểm tra, giám sát nền kinh tế.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư cách là chủ thể quản lý tối cao thông qua các cơ
quan chức năng nhằm điều chỉnh thống nhất các quá trình kinh tế vĩ mô. Trong nền kinh tế
thị trường hiện đại, Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nền kinh tế nhằm kịp
thời phát hiện và xử lý những sai sót, ách tắc, đổ vỡ, những khó khăn, vướng mắc cũng

như những cơ hội phát triển kinh tế nhằm đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả và
theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảm bảo bình đẳng xã hội và giải quyết những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.
Cơ chế vận động của nền kinh tế thị trường thể hiện ưu thế ở chỗ phát huy tính năng
động, sáng tạo của mọi chủ thể kinh tế trong việc đáp ứng nhu cầu phong phú và biến động
của xã hội, đồng thời hệ thống pháp luật hướng dẫn, điều chỉnh và bảo hộ quyền lợi hợp
pháp của các chủ thể kinh tế. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ những khuyết
tật dễ nhận thấy là: đầu cơ, độc quyền, tiêu thủ cạnh tranh, khủng hoảng kinh tế, thất
nghiệp, hủy hoại tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái...Hơn nữa, nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam được xác định là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa điểm khác biệt với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là phải hạn chế thấp nhất tình
trạng người bóc lột người, đảm bảo sự bình đẳng xã hội. Việc phát triển kinh tế không chỉ
nhằm mục đích đơn thuần là tăng trưởng kinh tế mà phải lấy mục tiêu tăng trưởng kinh tế
làm cơ sở để phát triển toàn diện con người, giải quyết hài hòa những vấn đề kinh tế - xã
hội, bảo tồn các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc, đồng thời bảo vệ môi trường sinh
thái và phát triển bền vững
Thực trạng chung hiện nay của chức năng kinh tế
Về xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế.
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay đc triển
khai dựa theo Chương trình hành động của chính phủ thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011-2020, ban hành kèm theo Nghị quyết số 10/ND-CP ngày 24 tháng 4
năm 2012. Theo đó, các phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu là:
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi
trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính, trong đó tập trung vào việc xây dựng
mới hoặc sửa đổi, bổ sung các bộ luật, luật cho phù hơp với Hiến pháp 2013, Thực hiện Đề
án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước theo chương trình hành động được Chính phủ phê duyệt.
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo
hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
10



o
o
o
o

-

o
o
o

o

o

-

Phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh
tranh.
Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững.
Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có
sức cạnh tranh.
Phát triển hài hòa, bền vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới, ưu tiên phát triển
kinh tế - xã hội các địa bàn đặc biệt khó khăn.
Về đảm bảo môi trường pháp lý và các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, pháp luật là công cụ quan trọng thực
hiện chức năng kinh tế của Nhà nước. Bằng pháp luật, Nhà nước thừa nhận, hướng dẫn cho
phép, ngăn cấm, khuyến khích, hạn chế nhằm đảm bảo cho các quan hệ kinh tế tồn tại và
phát triển. Nhà nước khuyến khích các yếu tố tích cực của thị trường như cạnh tranh lành

mạnh, bảo vệ môi trường, người lao động, đồng thời ngăn cấm các yếu tố tiêu cực như độc
quyền, cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, trốn thuế…Pháp luật trong nền
kinh tế thị trường không chỉ là công cụ của Nhà nước mà còn là phương tiện của các chủ
thể kinh tế tự bảo vệ quyền và thực hiện nghĩa vụ:
Pháp luật quy định chế độ sở hữu mới và cơ cấu lại nền kinh tế với nhiều thành phần cùng
phát triển, cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật.
Pháp luật xác định cơ cấu chủ thể trong kinh tế thị trường và tạo điều kiện cho nền kinh tế
Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Pháp luật quy định cơ sở pháp lý cho sự hình thành và phát triển các loại thị trường; đồng
thời điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế như quy định về quyền và
nghĩa vụ, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền của các tổ chức, cá nhân; quy định cơ chế
xử lý các vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp trong hoạt động kinh tế.
Về xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế - xã hội
Đối với kết cấu hạ tầng kỹ thuật, Nhà nước tiến hành quy hoạch tổng thể và chiến lược
quốc gia về phát triển hạ tầng nhằm huy động các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho
đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở; ban hành quy hoạch tổng thể về đầu tư, về phân vùng phát
triển kinh tế, trên cơ sở đó xác định rõ các công trình đầu tư phát triển trọng điểm, ưu tiên.
Đối với kết cấu hạ tầng xã hội, Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích các loại hình dịch
vụ phục vụ trực tiếp cho kết cấu hạ tầng xã hội như: dịch vụ tài chính - ngân hàng, bảo
hiểm, vận tải, giáo dục, y tế, du lịch, văn hóa, thể thao...
Về kiểm tra, giám sát nền kinh tế.
Nhằm thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nền kinh tế, thời gian qua nhà nước đã
tập trung nâng cao chất lượng xây dựng, kiểm tra, thanh tra và giám sát việc tuân thủ các
quy tắc, chuẩn mực về kinh tế - xã hội. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể tiến hành
kiểm tra định kỳ hoặc bất thường, đồng thời nhà nước quy định chế độ kiểm tra riêng, chặt
chẽ hơn đối với doanh nghiệp hoạt động trên quy mô lớn hoặc kinh doanh trong lĩnh vực
kinh tế đặc thù (ngân hàng, bảo hiểm...) hay lĩnh vực kinh doanh dễ phát sinh độc quyền
hoặc ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.
11



o

o

h.
o

o
o

o

o
o

i.

Về hoạt động điều tiết thu nhập, đảm bảo bình đẳng xã hội, khắc phục những khiếm khuyết
của nền kinh tế thị trường.
Mục tiêu công bằng và bình đẳng xã hội mà VN hướng tới đó là: đảm bảo công bằng về cơ
hội việc làm, bình đẳng trong việc sử dụng các nguồn lực phát triển, công bằng vềnghĩa vụ
đóng góp cho Nhà nước, bình đẳng về hưởng thụ các thành quả phát triển chung thông qua
các chế độ phúc lợi công cộng, các dịch vụ công kết hợp với chính sách xã hội cho các đối
tượng ưu tiên…Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành và sửa đổi nhiều luật thuế mới đảm
bảo sự hài hoà lợi ích giữa ba chủ thể: người lao động - doanh nghiệp - Nhà nước như:
Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế xuất khẩu nhập khẩu,
Luật ngân sách nhà nước, Luật thuế thu nhập cá nhân…, đồng thời thực hiện việc điều
chỉnh hệ thống tiền lương, thành lập quỹ bảo hiểm xã hội...
Một trong những chính sách rõ nét nhằm đảm bảo bình đẳng xã hội là Nhà nước đã quan

tâm đến chính sách xoá đói giảm nghèo và khuyến khích người dân làm giàu chính đáng,
nổi bật là việc giao đất, giao rừng cho hộ nông dân sử dụng ổn định, lâu dài và không phải
trả tiền sử dụng đất; việc cho vay với lãi suất thấp hoặc không lãi suất để người nghèo có
vốn tạo công ăn việc làm...
Đánh giá về thực trạng thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước
Ưu điểm:
Hạn chế, bất cập:
Hệ thống pháp luật về kinh tế và các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước còn thiếu đồng
bộ và bất cập so với thực tiễn. Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng
luôn bị động trước diễn biến phức tạp của các quan hệ kinh tế thị trường nên thường xuyên
phải sửa đổi, bổ sung. Việc vận hành các chính sách tiền tệ trong nhiều trường hợp còn
lúng túng, thụ động; hệ thống ngân hàng còn nhiều yếu kém trong việc huy động và phân
bổ các nguồn tín dụng; ngân sách nhà nước tồn tại tình trạng thâm hụt, thất thu, cán cân
thu, chi chưa hợp lý.
Đầu tư của Ngân sách nhà nước trực tiếp vào kết cấu hạ tầng chưa phù hợp thể hiện ở tỷ lệ
chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách còn quá cao so với chi thường xuyên và so với GDP.
Hệ thống thuế hiện nay vẫn chưa thực sự là đòn bẩy kích thích đầu tư và tiêu dùng; Chính
sách thuế cao tuy làm tăng thu ngân sách nhà nước, nhưng làm giảm tái tích lũy sản xuất
cho các doanh nghiệp dẫn đến trình độ trang bị kỹ thuật của doanh nghiệp chậm đổi mới.
Các loại thị trường trong nền kinh tế chậm được đồng bộ hóa, nhiều nguyên tắc thị trường
bị vi phạm; việc sử dụng vốn ngân sách nhà nước thông qua các công cụ thị trường còn
mang nặng tính hình thức.
Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tuy được sắp xếp lại, giảm được một số đầu mối
nhưng vẫn lạc hậu và hạn chế so với sự phát triển của nền kinh tế theo hướng thị trường.
Các hành vi vi phạm pháp luật buôn lậu, tiêu thụ hàng giả, tham nhũng diễn ra phổ biến ở
nhiều nơi , một mặt cho thấy ý thức chấp hành pháp luật kém của người dân, nhưng mặt
khác cũng cho thấy sự bất cập, hạn chế của PL hiện hành, cũng như năng lực yếu kém của
cán bộ nhà nước.
Giải pháp
12



o
o

o

o
o
o

o

o
o

o
o

o

o

Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước
với thị trường
Xây dựng đồng bộ, nâng cao chất lượng và tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp
luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện ngày càng tốt hơn an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền
kinh tế thị trường. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an ninh kinh tế.
Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và bằng các nguồn lực,

các chính sách hướng các quá trình phát triển kinh tế-xã hội và hệ thống kinh doanh vào
những lĩnh vực và địa bàn cần thiết, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của sự phát triển.
Quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản quốc gia, thực hiện tốt chức năng chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp nhà nước.
Phát triển mạnh nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đáp ứng yêu
cầu phát triển.
Bảo đảm quốc phòng, an ninh và thực hiện có hiệu quả đường lối đối ngoại của Đảng, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, tạo lập môi trường ngày càng thuận lợi cho phát triển đất
nước.
Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công
cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, nhất
là giám sát thị trường tài chính, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị
trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường.
Hoàn thiện bộ máy nhà nước, tạo bước chuyển mạnh về cải cách hành chính
Đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành pháp và tư pháp, đổi mới tư duy và quy trình xây dựng
pháp luật, nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật. Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Hoàn thiện cơ chế để tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý
thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh
chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân. Quy định rõ và
đề cao trách nhiệm của người đứng đầu.
Đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế, tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với doanh nghiệp và nhân
dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc lập trong
việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia về thủ tục hành chính; giảm mạnh các thủ tục
hiện hành. Công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát việc

thực hiện. Tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm trong hoạt động công vụ. Đẩy mạnh
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành của hệ thống hành chính nhà
nước các cấp.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Sớm ban hành Luật chống
tham nhũng, thực hiện nguyên tắc người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải chịu trách nhiệm
13


o

2.
a.

b.

về hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của cán bộ do mình trực tiếp quản lý trong khi
thi hành công vụ.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây
dựng bộ máy nhà nước
Chức năng xã hội.
Khái niệm
Chức năng xã hội của Nhà nước là phương diện hoạt động cơ bản của Nhà nước thể
hiện bản chất chính trị - xã hội của Nhà nước trong việc thực hiện các trách nhiệm, nhiệm
vụ xã hội ở các giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Nói cách khác, chức năng xã hội là
phương diện hoạt động cơ bản tác động vào lĩnh vực xã hội của đời sống xã hội, thể hiện rõ
nét vai trò và bản chất xã hội của Nhà nước, nhằm định hướng và giải quyết các nhiệm vụ
xã hội đặt ra trước Nhà nước. Trong đó, lĩnh vực xã hội được xác định là một lĩnh vực độc
lập với lĩnh vực chính trị, lĩnh vực kinh tế theo quan điểm của Mác (Mác quan niệm đời
sống xã hội của loài người nói chung gồm bốn lĩnh vực hoạt động cơ bản: kinh tế, chính
trị, tinh thần và xã hội). Tuy nhiên, khái niệm này cũng chỉ mang tính tương đối vì nếu lấy

tính chất đại diện tập trung cho lợi ích chung của xã hội, vai trò tổ chức thực hiện các công
việc chung của xã hội và mục đích vì sự phát triển và tiến bộ xã hội của Nhà nước làm tiêu
chí để xem xét thì các chức năng của Nhà nước ở những mức độ khác nhau, đều chứa đựng
thuộc tính xã hội của Nhà nước.
Vai trò của chức năng xã hội
Chức năng xã hội là cơ sở để xác định và đánh giá bản chất nhà nước, uy tín Nhà
nước, là hình thức phản ánh bản chất xã hội của nhà nước. Chức năng xã hội có ở mọi Nhà
nước, nhưng được thể hiện rõ ràng nhất trong nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong Nhà nước
xã hội chủ nghĩa, chức năng xã hội như là một nhu cầu tự thân, thể hiện tính nhân đạo, bản
chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, là tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so với
các chế độ Nhà nước khác, đó là sự quan tâm, chăm lo cho con người, vì sự phát triển toàn
diện của mỗi con người gắn với sự phát triển của cả cộng đồng.
- Thông qua chức năng xã hội, Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích cho nhân dân. Nhờ
đó, nhân dân tin tưởng vào Nhà nước, ủng hộ Nhà nước, tham gia tích cực các hoạt động
cùng với Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội.
- Chức năng xã hội là cơ sở quan trọng để nhà nước giải quyết những vấn đề xã hội,
có ý nghĩa giúp cho toàn xã hội ổn định và phát triển; đề cao tính tích cực của công dân,
tạo sự bình đẳng xã hội thông qua việc bảo đảm cho công dân có những cơ hội, những khả
năng để tự giải quyết các vấn đề của mình, để phát triển.
- Chức năng xã hội mang lại sự ổn định về mặt xã hội, là tiền đề cho việc thực hiện
các chức năng nhà nước khác (chức năng chính trị và chức năng kinh tế).
Như vậy, chức năng xã hội của Nhà nước có ảnh hưởng lớn đến quan hệ giai cấp,
đến phát triển kinh tế, ổn định xã hội và là điều kiện cho sự phát triển, có vai trò quan trọng
đối với việc thực hiện các chức năng nhà nước khác.
Đối với nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng không ngoại lệ. Chức
năng xã hội luôn giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống các chức năng của Nhà nước. Vị
14


c.


trí đó được xác định xuất phát từ mục đích của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ bản chất
của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; từ mục đích phát triển kinh tế - xã
hội nhằm đạt đến sự giàu mạnh của cả cộng đồng dân tộc và sự phát triển toàn diện của
mỗi công dân, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Để có thể ổn định và phát triển cơ sở xã hội, tác nhân tích cực kích thích, thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của xã hội phù hợp với bản chất nhà nước; bảo
vệ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, cộng đồng, giai cấp, nhóm xã hội và công dân trong
mối quan hệ tương quan, hợp lý giữa chúng; xây dựng và bảo vệ các giá trị xã hội bằng các
chuẩn mực chung nhất mà xã hội công nhận và bảo vệ thì không có gì khác hơn là Nhà
nước phải thực hiện tốt chức năng xã hội của mình. Đó cũng chính là bổn phận, là trách
nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân, "Tất cả những việc mà Đảng và Nhà nước đề ra đều
nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân. Làm gì không nhằm mục đích ấy là không đúng"
Những nội dung cơ bản trong chức năng xã hội của nhà nước.
Thứ nhất, Nhà nước xây dựng chính sách xã hội và pháp luật về các vấn đề xã hội.
Chính sách xã hội là hệ thống các chủ trương và biện pháp do Nhà nước đề ra và
đảm bảo thực hiện nhằm giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề xã hội theo hướng xác
lập và bảo đảm công bằng xã hội, bảo đảm quyền con người và bảo đảm an toàn xã hội cho
công dân. Chính sách xã hội thể hiện bản chất của Nhà nước ta, là sự cụ thể hóa đường lối
chính sách của Đảng cộng sản và luôn được thể hiện dưới hình thức pháp lý. Đổi mới
chính sách xã hội là đổi mới về nội dung và phương thức thực hiện chức năng xã hội của
Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu vì con người, vì một xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh và hoàn thiện Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật là hình thức chủ yếu, cơ bản để Nhà nước chuyển tải các chính sách của
mình thành các chuẩn mực pháp lý, từ đó tác động vào các quan hệ xã hội. Trong hệ thống
pháp luật, Hiến pháp với tính cách là luật cơ bản nhất có vai trò quan trọng trong việc thể
hiện, ghi nhận và tạo cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước. Hiến
pháp không chỉ quy định về tổ chức quyền lực nhà nước, phản ánh tổ chức chính trị của
quốc gia mà còn quy định các mối quan hệ xã hội khác liên quan đến tổ chức xã hội như về
quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc

phòng... Ở Việt Nam, từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến Hiến pháp mới nhất 2013
đều ghi nhận vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng xã hội, thể
hiện trong các quy định về bảo đảm các quyền cơ bản cho công dân, phát triển văn hóa,
giáo dục, chăm sóc y tế, bảo đảm trật tự an toàn xã hội... tuy mức độ và cách thức thể hiện
khác nhau.Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ nội
dung, nhu cầu thực hiện chức năng xã hội và chính sách xã hội của Nhà nước, hệ thống
pháp luật hình thành và phát triển trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của các quan hệ
kinh tế - xã hội, tạo cơ chế pháp lý cho việc giải quyết các vấn đề xã hội. Đồng thời với
việc trở thành phương tiện bảo vệ quyền lực nhà nước, pháp luật là phương tiện hữu hiệu
thực hiện chức năng xã hội góp phần nâng cao các chỉ tiêu chất lượng về xã hội, về giáo
dục, văn hóa...
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, hệ thống pháp luật điều chỉnh các vấn đề xã hội
ngày càng được hoàn thiện. Đặc biệt, hiến pháp mới 2013 càng khẳng định vai trò và chức
15


d.

năng xã hội của Nhà nước ta, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật để thực hiện chức năng xã hội. Cùng với sự thay đổi của Hiến pháp,
Nhà nước ta đã, đang và sẽ ban hành, sửa đổi, hoàn thiện được nhiều văn bản pháp luật
điều chỉnh về các lĩnh vực xã hội: lao động, việc làm, văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức
khỏe nhân dân, thực hiện công bằng xã hội sao cho tương thích và phù hợp.
Thứ hai, Nhà nước tổ chức quản lý và điều hành việc thực hiện các nhiệm vụ, mục
tiêu xã hội, thể hiện trong hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực chủ yếu sau:
- Nhà nước "cung cấp những hàng hóa công cộng cơ bản" để phục vô cho các nhu
cầu chung, lợi ích chung của toàn xã hội, toàn bộ cộng đồng: đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng vật chất kỹ thuật và cung ứng các dịch vụ công cộng.
- Nhà nước điều tiết các vấn đề về lao động, việc làm và phân phối thu nhập.
- Nhà nước điều tiết lĩnh vực giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế và bảo vệ sức khỏe cho

nhân dân
- Bảo vệ môi trường, bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo đảm an toàn xã hội, đấu tranh
phòng chống các tệ nạn xã hội và tội phạm
- Nhà nước thực hiện bảo trợ đối với một bộ phận dân cư thông qua chủ trương xóa
đói giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, ưu đãi xã hội và cứu trợ xã hội
Các phương thức thực hiện chức năng xã hội.
Phương thức thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước là những phương pháp và
hình thức tiến hành các hoạt động thực tiễn khi Nhà nước tác động vào các lĩnh vực của
đời sống xã hội, nhằm đạt được những mục tiêu và giải quyết những nhiệm vụ xã hội đặt ra
cho Nhà nước.
Các hình thức pháp lý
Xuất phát từ nguyên tắc "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật", hình thức pháp
lý được xác định là hình thức chủ yếu của việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước,
thể hiện qua hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hình thức pháp lý là hình thức gắn liền
với việc ban hành pháp luật, thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Những hình thức
pháp lý cùng với các hình thức khác của việc thực hiện chức năng nhà nước tạo thành hoạt
động thống nhất của Nhà nước, thể hiện quyền lực nhà nước, quyền lực nhân dân.
o Tổ chức bộ máy thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước
Bộ máy để thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam hiện nay là một thiết
chế bao gồm hai bộ phận: các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác do Nhà nước thành
lập - được coi là các "yếu tố phụ trợ vật chất". Trong đó, các cơ quan nhà nước là một phần
của bộ máy nhà nước, được lập ra theo yêu cầu của tổ chức quyền lực nhà nước và trực
tiếp thực thi quyền lực nhà nước giữ vai trò trọng yếu trong việc thực hiện chức năng này
còn các yếu tố phụ trợ vật chất mặc dù do Nhà nước lập ra nhưng không có vai trò trong
thực thi quyền lực mà chỉ là phương tiện bảo đảm cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước. Như vậy khái niệm bộ máy thực hiện chức năng theo cách hiểu của chúng
tôi không đồng nhất với khái niệm bộ máy nhà nước.
o Nhà nước tổ chức, huy động các lực lượng xã hội tham gia vào các hoạt động
xã hội, cùng Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội (xã hội hóa)
o


16


Xã hội hóa là một xu hướng, đồng thời cũng là một trong những phương thức thực
hiện chức năng xã hội của Nhà nước, xuất phát từ nhận thức chăm lo cho con người, cho
cộng đồng là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, từng gia đình, là sự nghiệp của
Nhà nước và của toàn dân. Thực tế là Nhà nước không thể giải quyết toàn bộ các vấn đề xã
hội bằng sức mạnh của riêng mình, do đó ngoài việc trực tiếp thực hiện các hoạt động để
giải quyết các vấn đề xã hội, Nhà nước còn tổ chức và quản lý các hoạt động xã hội - các
hoạt động của các chủ thể khác tham gia vào việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà
nước.
o Nhà nước áp dụng các biện pháp kinh tế, hành chính, tuyên truyền giáo dục
• Biện pháp kinh tế
Nhà nước bằng các đòn bẩy kinh tế, bằng tiềm lực kinh tế để thực hiện chức năng
của mình. Nội dung của biện pháp kinh tế chính là sự quản lý bằng lợi ích, thông qua lợi
ích của các thành viên, của cộng đồng và của toàn xã hội. Trong thực hiện chức năng xã
hội, Nhà nước tập trung sử dụng các biện pháp kinh tế sau:
Thứ nhất, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng:
Thứ hai, hỗ trợ vốn và thực hiện các chương trình đầu tư để giải quyết các vấn đề
chung của toàn xã hội cũng như của một bộ phận dân cư nào đó, như lao động, việc làm,
chăm sóc sức khỏe cộng đồng, xóa đói giảm nghèo...
Thứ ba, điều tiết thu nhập và khuyến khích các chủ thể khác tham gia thực hiện
chính sách xã hội thông qua công cụ chủ yếu là thuế.
• Biện pháp hành chính
Đây là biện pháp sử dụng trong các hoạt động mang tính chấp hành - điều hành, là
biện pháp hữu hiệu nhằm đảm bảo vai trò quản lý xã hội của Nhà nước, đảm bảo sự ổn
định và phát triển của xã hội.
• Giáo dục tuyên truyền
Biện pháp này mang tính thuyết phục, là hoạt động của Nhà nước thông qua tuyên

truyền, giáo dục, giải thích, hướng dẫn, nêu gương nhằm tạo ra mét ý thức về lối sống
trong cộng đồng, ý thức pháp luật của mỗi công dân, tạo thãi quen sống và làm việc theo
pháp luật.
e.

Thực trạng
Về chính sách xã hội và hệ thống pháp luật
Thứ nhất, hiện nay, hệ thống chính sách xã hội của Nhà nước ta phát triển khá toàn
diện, trở thành phương thức quan trọng để điều tiết, kiểm soát và giải quyết các vấn đề xã
hội nhưng cũng còn một số hạn chế: do chưa thật sự đảm bảo tính chiến lược tổng thể nên
các chính sách xã hội thường chưa đủ để điều tiết các vấn đề xã hội, phải bổ sung nhiều
lần, dẫn đến hiện tượng chắp vá, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn; nhiều chính sách xã hội
lạc hậu so với tình hình thực tế, chưa tính hết các mối quan hệ cơ bản, chưa thật sự đảm
bảo được nguyên tắc công bằng, nhất là mối quan hệ giữa các đối tượng của chính sách
hoặc giữa các khu vực, các thành phần kinh tế; do hậu quả của cơ chế cũ nên nhiều khi nội
o

17


dung chính sách xã hội và cơ chế quản lý việc thực hiện chính sách xã hội chưa được đổi
mới một cách đồng bộ phù hợp với cơ chế mới.
Thứ hai, mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng do điều kiện thực tế, khi các quan hệ xã
hội vận động liên tục của cơ chế kinh tế - xã hội đang trong quá trình chuyển đổi và những
hạn chế chủ quan của hoạt động xây dựng pháp luật nên hệ thống pháp luật về các vấn đề
xã hội ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập:
- Tính ổn định chưa cao. Rất nhiều văn bản pháp luật, kể cả các luật vừa ban hành
trong một thời gian ngắn đã trở thành lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn phải điều chỉnh,
sửa đổi.
- Còn nhiều văn bản pháp luật mang tính nguyên tắc, tính chiến lược hay nội dung

chung chung mà thiếu các quy định chi tiết, cụ thể dẫn đến khó thực hiện, khó vận dụng,
còn khoảng cách giữa hoạch định với tổ chức thực hiện dẫn đến hạn chế giá trị điều chỉnh
trực tiếp của các văn bản luật đối với các quan hệ xã hội. Cụ thể là: nhiều đạo luật, pháp
lệnh đã ban hành nhưng trong đó có nhiều điều chưa có khả năng điều chỉnh trực tiếp, phải
giao cho Chính phủ hoặc các cơ quan hữu quan khác ra văn bản hướng dẫn thi hành (nếu
không sẽ không thi hành được trên thực tế) mà bước ra văn bản tiếp theo lại thường tiến
hành chậm trễ nên ảnh hưởng rất lớn tới tính khả thi của các văn bản pháp luật.
- Chưa thật sự đồng bộ, thống nhất trong các quy định của pháp luật về thực hiện các
chính sách xã hội.
- Còn thiếu cân đối về số lượng các văn bản điều chỉnh các lĩnh vực cụ thể của lĩnh
vực xã hội.
- Hệ thống luật pháp chưa đủ thông thoáng, cởi mở, còn khoảng cách so với các
nước khác.
o Về việc nhà nước tổ chức quản lý và điều hành việc thực hiện các nhiệm vụ,
mục tiêu xã hội.
Trong điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, các nhu cầu cơ bản của con
người ngày càng tăng cao, bên cạnh đó nhiều vấn đề xã hội cũng nảy sinh, dẫn đến việc
thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu xã hội của các Nhà nước trên Thế giới nói chung và Nhà
nước CHXHCN Việt Nam nói riêng ngày càng khó khăn và cấp thiết. Thực tế cho thấy ở
Việt Nam hiện nay, việc thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu xã hội của Nhà nước ở nhiều
lĩnh vực đã bộc lộ sự kém hiệu quả. Đơn cử như trong lĩnh vực đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng. Mặc dù các cơ sở vật chất kỹ thuật đó đã hỗ trợ lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội,
cũng như phục vụ tốt hơn nhu cầu đi lại, sinh hoạt, nâng cao đời sống cho nhân dân, tuy
nhiên trong lĩnh vực này Nhà nước và các cơ quan chức năng còn thiếu một kế hoạch tổng
thể mang tầm chiến lược, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các đơn vị,
dẫn đến việc không đảm bảo tiến độ, chất lượng công trình, gây ra sự tốn kém không nhỏ
cho ngân sách nhà nước. Việc đầu tư cho các công trình phục vụ phóc lợi xã hội nhiều khi
chưa thật sự thỏa đáng, chưa tương xứng với các lĩnh vực khác, như: đầu tư cho các công
trình văn hóa xã hội phục vụ nhu cầu giải trí, rèn luyện, chăm sóc sức khỏe cho người lao
động sau thời gian làm việc, nơi vui chơi lành mạnh cho trẻ em... chưa được quan tâm

đúng mức. Về vấn đề việc làm, thống kê của các cơ quan chức năng cho thấy tỉ lệ người
18


lao động thất nghiệp, thiếu việc làm ở cả thành thị, nông thôn còn rất cao, và có xu hướng
gia tăng. Thất nghiệp là một trong những nguyên nhân của các tệ nạn xã hội, gây mất ổn
định trật tự an toàn xã hội; đang và sẽ diễn biến rất phức tạp trong quá trình phát triển của
đất nước mà nguyên nhân là do hậu quả của mức tăng dân số và lao động, do đầu tư tập
trung kéo dài cho những ngành sử dụng vốn nhiều hơn là sử dụng lao động, do việc sắp
xếp lại các doanh nghiệp nhà nước nên dôi dư một số lượng lớn người lao động từ khu vực
này...
f.

Giải pháp
- Tăng cường nhận thức và nghiên cứu lý luận về vấn đề chức năng xã hội của Nhà
nước để tạo ra cơ sở lý luận khoa học, nhận thức đúng đắn, góp phần thực hiện tốt chức
năng.
- Tăng cường hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện
chức năng xã hội, phù hợp với yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và yêu cầu
của thực tế đời sống xã hội.
Hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội, chú trọng các chính sách xã hội mang tầm
chiến lược, chính sách chung cho quốc gia đồng thời cũng cần quan tâm đến các chính sách
dành từng loại đối tượng, từng vùng, từng địa phương cụ thể.
- Đổi mới vai trò, chức năng, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của các cơ
quan chuyên trách thực hiện chức năng này trong yêu cầu hoàn thiện mét cách đồng bộ bộ
máy nhà nước. Xác định đúng mức độ, phạm vi tác động của Nhà nước tới lĩnh vực xã hội;
xây dựng và phát triển các tổ chức sự nghiệp và dịch vụ xã hội. Nâng cao trình độ, năng
lực chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và bản lĩnh chính trị của đội ngò cán bộ, công chức
nhà nước.
- Nhà nước cần tăng cường đầu tư và đầu tư có hiệu quả cho việc giải quyết các vấn

đề xã hội.
- Tăng cường mạng lưới và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan
chức năng, phối hợp với phát huy dân chủ, nâng cao vai trò và trách nhiệm của nhân dân
trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước.
- Đẩy mạnh xã hội hóa việc thực hiện chức năng xã hội trên cơ sở phân định rõ trách
nhiệm của Nhà nước, trách nhiệm của cộng đồng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội.
Nhà nước hoàn thiện cơ sở pháp lý và tạo các điều kiện thực tế cần thiết để các tổ chức xã
hội, tổ chức kinh tế và các chủ thể khác tham gia thực hiện chức năng.
- Phát triển quan hệ hợp tác quốc tế, khai thác triệt để những thuận lợi, tranh thủ các
nguồn tài chính và sự giúp đỡ do hợp tác quốc tế mang lại nhưng phải thận trọng, không
19


chấp nhận bị áp đặt những điều kiện đi ngược lại lợi Ých quốc gia, đồng thời đóng góp sức
mình vào việc giải quyết các vấn đề xã hội mang tính quốc tế.
III.

Bộ máy nhà nước.
1. Khái niệm
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ TW đến địa phương, được tổ
chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, thống nhất nhằm thực hiện nhiệm vụ và
chức năng của nhà nước.
Bộ máy nhà nước bao gồm các cơ quan nhà nước như: Quân đội, cảnh sát, tòa án,
nhà tù,…
Trong xã hội có giai cấp, bộ máy nhà nước đều là những công cụ chủ yếu nhất, và có
hiệu lực nhất để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp thống trị về kinh tế, chính trị, tư
tưởng trong xã hội; bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị; nắm giữ đồng thời 3 quyền lực : kinh
tế-chính trị-tư tưởng; sử dụng pháp luật để quản lý xã hội bằng 3 hình thức hoạt động là xd
PL, tổ chức thực hiện PL và bảo vệ PL; áp dụng 2 phương pháp chung, cơ bản để quản lý
XH là giáo dục-thuyết phục và cưỡng chế.

2.

Các bộ phận cấu thành

Cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước, được thành lập và có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Bộ máy NN thực hiện những nhiệm vụ và chức
năng chung của cả nhà nước, còn mỗi cơ quan nhà nước lại thực hiện các nhiệm vụ, chức
năng riêng nhằm tham gia thực hiện nhiệm vụ, chức năng chung của nhà nước.
Đặc điểm cơ bản của CQNN là mang tính chất quyền lực nhà nước và t/c quyền lực
ấy thể hiện ở chỗ:
-

-

Chỉ có cơ quan NN mới có quyền nhân danh cả nướ để thực thi
quyền lực NN
Trong phạm vi thẩm quyền của mình, CQNN có quyền ban hành
VBQPPL hoặc VB áp dụng QPPL có t/c bắt buộc phải thi hành đối
với cá nhân, tổ chức, coq quan nhà nước có liên quan
Có quyền ktra, giám sát việc thực hiện các VB đã ban hành
Có quyền áp dụng các bphap cưỡng chế khi cần thiết đối vs cá nhân,
cơ quan tổ chức có liên quan đã k tự giác và nghiêm chỉnh thực hiện
VB do CQNN ban hành đã có hiệu lực PL, gây ra thiệt hại cho NN,
XH và cá nhân công dân.

20


Thông thườn, bộ máy NN đc cấu tạo bởi các cơ quan quyền lực NN, cơ quan hành
chính NN và các cơ quan tư pháp.

Bộ máy NN đc hoàn thiện dần qua các thời đại, kể từ khi có nhà nước cho tới nay.
-

-

-

3.

Bộ máy nhà nước chiếm hữu nô lệ cấu tạo giản đơn, theo mô hình
quân sự - hành chính và chưa có sự phân định rõ, cụ thể chức năng ,
nhiệm vụ giữa các CQNN.
Bộ máy NN phong kiến cấu tạo phức tạp hơn và giữa các cơ quan
NN đã có sự phân định về chức năng, nhiệm vụ.
Bộ máy NN TS phát triển ở trình độ khá cao và đc tổ chức theo
nguyên tắc phân chia quyền lực để tạo nên cơ chế kiềm chế và đối
trọng nhau giữa các cơ quan nắm giữ 3 loại quyền lực lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Bộ máy NN XHCN k ngừng đc cải cách, hoàn thiện theo hướng NN
pháp quyền của dân, do dân và vì dân.

Bộ máy nhà nước CHXHCNVN
a. Khái niệm

Bộ máy NN CHXHCNVN là hệ thống các cơ quan NN từ TW xuống địa phương, đc
tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, thống nhất nhằm thực hiện những
nhiệm vụ chiến lược và các chức năng của NN vì mục tiêu dân giàu, nc mạnh, XH công
bằng, dân chủ, văn minh.
b.


Đặc điểm.

Bộ máy nhà nước CHXHCNVN được tổ chức thành 4 phân hệ các cơ quan nhà nước
và một chức danh nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch nước. Theo Hiến pháp 2013 và các đạo
luật về tổ chức bộ máy nhà nước thì:
-

Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch
nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Phân hệ các cơ quan quyền lực NN gồm Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước. Hội đồng nhân dân là cquan quyền
lực NN ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân địa phương.
21


-

-

4.

Phân hệ cơ quan hành chính Nhà nước: gồm Chính phủ - cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của
Quốc hội; các cơ quan hành chính NN khác ở TW và Ủy ban nhân
dân – cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, cơ quan chấp
hành của Hội đồng nhân dân, do Hội đồng nhân dân bầu ra.
Phân hệ các cơ quan xét xử, gồm Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự
và các Tòa án khác đc thành lập theo luật định.
Phân hệ các cơ quan kiểm sát việc tuân theo PL, các VKS nhân dân
và các VKS quân sự.

Các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
CHXHCNVN
a. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng.

Hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị nhất nguyên, trong đó chỉ tồn tại
một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam - lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Theo quy định tại Hiến pháp 2013, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam là
đảng cầm quyền, giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, toàn diện bao gồm chính trị,
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao.
Sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo giữ vững bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
giữ vai trò quyết định trong việc xác định phương hướng tổ chức và hoạt động của Nhà
nước. Đó là điều kiện tiên quyết đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý các công việc của Nhà nước.

b.

Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân

Hiến pháp 2013 quy định rõ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân

mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Nhà nước là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, trong hoạt động của
mình Nhà nước đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực
tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ
quan khác của Nhà nước.
22


c.

Nguyên tắc tập trung dân chủ

Đây là nguyên tắc cơ bản áp dụng cho tất cả các cơ quan nhà nước, được
quy định tại Điều 8 Hiến pháp năm 2013: "Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ.".
Thực chất của nguyên tắc này là sự kết hợp hài hòa giữa sự chỉ đạo tập trung, thống
nhất của cấp trên với việc phát huy dân chủ, quyền chủ động sáng tạo của cấp dưới. Về tổ
chức, tất cả các cơ quan đều bắt nguồn từ Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội;
Quốc hội chỉ đạo thống nhất sự hoạt động của cả bộ máy NN, còn các cơ quan NN trong
mỗi phân hệ chịu sự chỉ đạo tập trung thống nhất của cơ quan đứng đầu phân hệ ấy. Về
hoạt động, cơ quan NN câp trên quyết định và tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách,
PL quan trọng nhất về kinh tế, chính trị, VHXH; kiểm tra việc chấp hành của cơ quan cấp
dưới; cơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan cấp trên và trong phạm vi thẩm quyền tự
giải quyết các công việc hàng ngày. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi phải thực hiện chế độ
thông tin, báo cáo và chế độ trách nhiệm rõ ràng giữa các cấp, kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí và mọi biêu hiện quan lieu, hách dịch, cửa quyền.

d.

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Đây là nguyên tắc quan trọng nhất và không thể thiếu, nhất là khi nhà nước Việt
Nam đã được khẳng định tại Hiến pháp 2013 là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Về tổ chức, nguyên tắc này đòi hỏi cơ cấu tổ chức bộ máy NN nói chung, của mỗi
cơ quan nhà nước nói riêng phải theo hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy NN.
Về hoạt động, mọi CQNN, công chức NN đều phải luôn tôn trọng và thực hiện PL
một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất; chỉ đc làm những j PL cho phép; phải làm
những j mà PL yêu cầu phải làm và đều phải chịu trách nhiệm pháp lý khi VPPL, đảm bảo
sự bình đẳng trc PL.

5.

Cải cách bộ máy nhà nước CHXHCNVN

Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt nhưng bộ máy NN
CHXHCNVN vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém cần khắc phục như : còn cồng kềnh, nhiều
tầng nấc trung gian, năng lực của cán bộ công chức còn hạn chế. Thêm vào đó sự ra đời
của HP 2013 càng khiến cho yêu cầu cần cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước trở nên cấp
bách và có ý nghĩa quan trọng đối vs sự nghiệm xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN. Ngoài
23


ra, cải cách bộ máy NN còn xuất phát từ nhu cầu mang tính khách quan của công cuộc đổi
mới trong nước và những biến đổi to lớn của cộng đồng quốc tế.

Việc cải cách bộ máy NN cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
-


-

Phải đặt cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong tổng thể công
cuộc đổi mới Hệ thống chính trị Việt Nam.
Đảm bảo quyền lực NN thuộc về nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Đảm bảo nguyên tắc tính thống nhất, sự phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền lực nhà nước
Cải cách, hoàn thiện bộ máy NN phải được tiến hành theo từng giai
đoạn của một lộ trình nhất định, phù hợp vs trình độ, khả năng và
điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Việc cải cách phải diễn ra toàn diện và đồng bộ đối với các cơ quan
quyền lực NN, cơ quan hành chính NN, cơ quan tư pháp và bổ trợ tư
pháp.

Nội dung cải cách:
Một nội dung đặc biệt quan trọng của Hiến pháp mới là các nguyên tắc tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước: Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa và chủ quyền nhân dân;
nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; nguyên tắc về
tính thống nhất, sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là cơ sở để
hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động các cơ quan quyền lực nhà nước, bao gồm Quốc
hội, chế định Chủ tịch Nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, chính
quyền địa phương…


Cơ quan quyền lực nhà nước ( đặc biệt là quốc hội)

Việc cải cách phải được thực hiện một cách toàn diện, có bước đột phá theo hướng

Quốc hội ngày càng thực hiện quyền lập pháp đầy đủ hơn, thực chất hơn.
Bắt đầu từ việc đổi mới bầu cử để chọn ra được những người có năng lực và đạo
đức tốt vào QH; Các đại biểu QH phải thường xuyên nắm bắt và phản ánh được ý chí
nguyện vọng của cử tri ;
24


Phải xác định được rõ vị trí, vai trò, mqh giữa các cơ quan của QH , trên cơ sở đó
đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
Nâng cao năng lực lập pháp của QH gắn với quy trình lập pháp. Đổi mới quy trình
lập pháp theo hướng dân chủ, minh bạch, chú trọng đến tính khả thi, tính hiệu quả của các
luật khi được ban hành.
Nâng cao năng lực của QH trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước.
Nâng cao năng lực giám sát tối cao của QH.


Cơ quan hành chính nhà nước

Cải cách hành chính là khâu trọng tâm của toàn bộ công cuộc cải cách bộ máy NN,
đáp ứng yêu cầu xd NN pháp quyền nhằm chuyển dần từ một nền hành chính trì trệ, nhiều
tầng nấc, thủ tục phức tạp, k thuận tiện cho ng dân sang 1 nền hành chính gọn nhẹ, trong
sạch, hiệu quả, phục vụ nhu cầu của xã hội 1 cách tốt nhất.
Cải cách hành chính cần đc thực hiện trên cả 3 mặt: (1)cải cách thể chế hành chính
(trọng tâm là thủ tục hành chính); (2) cải cách cơ cấu, tổ chức và quy chế hoạt động của hệ
thống hành chính; (3)hoàn thiện chế độ công vụ, công chức NN.
Đối với thể chế hành chính, việc cải cách cần theo hướng tinh, gọn, có hiệu quả.
khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đảm bảo tính thống nhất, thông suốt
và liên thông giữa các ngành, lĩnh vực khi nằm trong cùng một bộ quản lý đa ngành, đa

lĩnh vực.
Đối với cơ cấu bộ máy hành chính:
TW: Cần phải tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của CP, sắp xếp, thu gọn các
đầu mối của CP.
Đổi mới hoạt động của CP theo hướng CP tập trung vào việc xây dựng các
chính sách, các thể chế, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế- xã họi, chỉ đạo và
phối hợp các ngành, các cấp thực thi chính sách PL.
Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm giữa CP và thủ tướng CP, đề
cao trách nhiệm của thủ tướng CP.
Địa phương: Thiết kế mô hình tổ chức chính quyền ở địa phương cho phù hợp vs đặc điểm
của nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính kte đặc biệt.
25


×