HÀ NỘI
I VỊ TRÍ ĐỊA LÝ:
Thủ đô Hà Nội nằm ở trung tâm vùng đồng bằng sông Hồng, là trung
tâm chính trị , kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, giao dịch quốc tế và là
đầu mối giao thông quan trọng của nứơc ta
Diện tích khỏang 921 Km²
Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên
Phía Nam giáp tỉnh Hà Tây và Hà nam
Phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc
Phía Đông giáp tỉnh Bắc Ninh và Hưng Yên
+ Giao thông
Đường bộ
QL 1A Bắc Nam nối Lạng Sơn-Hà Nội-TP Hồ Chí Minh-Cà Mau
QL 3 nối Hà Nội-Thái Nguyên
QL 5 nối Hà Nội-Hưng Yên
QL 2 nối Sóc Sơn-Vĩnh Phúc
Và nhiều tuyến đường bộ khác nối với các tỉnh
Đường sắt
Hà Nội là đầu mối giao thông dường sắt, có tuyến liên vận sang Bắc
Kinh
Tuyến Hà Nội-TP Hồ Chí Minh
Hà Nội-Hải Phòng
Hà Nội-Lạng Sơn
Hà Nội-Thái Nguyên
Hà Nội-Lào Cai
Đường sông
Mạng lưới đường sông chủ yếu là sông Hồng
Đường hàng không
Sân bay Quốc tế Nội Bài (huyện Sóc Sơn cách thành phố 35Km) với
các chuyến bay trong và ngòai nước
Sân Bay Gia Lâm cách thành phố 8Km
+ Địa Hình
Phần lớn diện tích Hà Nội nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông
Hồng, phía Bắc có dãy Sóc Sơn với đỉnh Chân Chim cao 462m
II HÀNH CHÍNH (9 QUẬN, 5 HUYỆN)
Các quận BA ĐÌNH, HÒAN KIẾM, HAI BÀ TRƯNG, ĐỐNG ĐA,
TÂY HỒ, THANH XUÂN, CẦU GIẤY, LONG BIÊN, HÒANG MAI
Các huyện ĐÔNG ANH, GIA LÂM, SÓC SƠN, THANH TRÌ, TỪ LIÊM
II TÀI NGUYÊN
+ Sinh vật
Rừng trồng ở Sóc Sơn, đặc biệt cây xanh ở Hà Nội dược trồng từ thế
kỷ XIX với các giống cây khắp nơi trên thế giới: sấu, phượng vĩ, vông hoa
vàng, lộc vừng, gụ, bằng lăng, dâu da xoan, bàng, xà cừ, hoa sữa…
+ Đất đai
Các nhóm đất: nhóm đất phù sa, nhóm đất bạc màu, nhóm đất đồi núi
thấp
III KHÍ HẬU THỦY VĂN
+ Khí hậu
Thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng mưa nhiều,
mùa đông lạnh mưa ít
Nhiệt độ trung bình hằng năm 23,6ºC
Lượng mưa trung bình hằng năm 1600-1800 mm
+ Thủy Văn
Hệ thống sông Hồng vói các sông Đuống, sông Nhuệ…
Hệ thống sông Thái Bình với các sông Công, sông Cà Lồ, sông Cầu…
Trên địa phận Hà Nội còn có sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông
Lừ…
Ngòai ra còn có nhiều hồ
Mùa lũ nằm trong mùa mưa. Hà Nội có hệ thống đê điều kiên cố
V DÂN CƯ
Dân số khỏang 3.055.300 người (tính đến 31-12-2003), dân nội thành
chiếm 53%, dân ngoại thành chiếm 47%
VI SƠ LƯỢC HÌNH THÀNH
Năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La và dặt
tên cho kinh đô mới là Thăng Long với lòng mong muốn kinh thành ngày
càng phồn thịnh như rồng bay lên
Năm 1831 vua Minh Mạng dặt tên là Hà Nội có nghĩa là tỉnh nằm
trong (nội) vòng bao quanh của con sông (hà) Hồng và Đáy
Năm 1888 thành lập thành phố Hà Nội
Năm 1945 trở thành thủ đô của nứơc ta
Hà Nội còn dược gọi với nhiều tên khác: Đông Đô, Tràng An, Kinh kỳ, Kẻ
Chợ, Hà Thành…
VII VĂN HÓA DU LỊCH
“ Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
Hà Nội là trung tâm văn hóa, du lịch của nước ta với nhiều di tích
thắng cảnh và tài nguyên văn hóa lịch sử
+ Danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử
BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH
Tòa nhà bảo tàng là khối hình vuông vát góc, đặt chéo, cao gần 20m,
mỗi chiều dài 70m mang biểu tượng một bông sen trắng thanh tao. Bốn khối
hình vuông ở tầng trên cùng vừa là cánh sen, vừa là 4 khuôn cửa hướng
trông ra đường Hùng Vương, nhà sàn của Bác, đường Ngọc Hà, Phố Nguyễn
Thái Học. Chính những sự cách điệu từ 4 khối hình vuông này đã gắn kết
kiến trúc của công trình với cảnh quan thiên nhiên chung quanh. Từ đường
Hùng Vương theo phố Chùa Một Cột dẫn tới cửa chính của Bảo tàng, Con
đường như gạch nối giữa truyền thống lịch sử với thời đại Hồ Chí Minh.
Mặt trước Bảo tàng, trên hình vuông 8m mỗi cạnh là bức phù điêu lớn hình
quốc kỳ và búa liềm đan quyện vào nhau thể hiện tư tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội – mục tiêu con đường mà Bác, Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn và đang đi tới.
Hồ nước tròn nhân tạo có đường kính 18m với hòn non bộ bằng đá
thiên nhiên vùng Hoa Lư cao hơn 7m cạnh tòa nhà tạo thêm khung cảnh khu
bảo tàng thêm sống động, gần gũi. Với diện tích 18.000m2 sử dụng, Bảo
tàng Hồ Chí Minh trở thành bảo tàng lớn nhất và hiện đại nhất nước ta. Tầng
trưng bày gồm 3 không gian chính có quan hệ mật thiết với nhau:
Gian long trọng có chiều cao hơn 9m, trần vòm tượng trương cho bầu
trời, sàn trang trí hoa lá 4 mùa đất nước. Trung tâm đặt tượng đồng toàn thân
đứng của Hồ Chủ tịch. Tượng cao 3m5, trên bệ 0,6m, nặng 3 tấn.
Phân trưng bày tiểu sử là nội dung cơ bản của Bảo tàng. Với 8 chủ đề lớn,
phản ánh cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của Hồ Chủ tịch từ khi sinh ra cho
đến lúc qua đời. Tất cả tư liệu, hình ảnh, hiện vật được trưng bày một cách
có hệ thống, sinh động giúp người xem hiểu khá thấu đáo và sinh động về
cuộc đời và sự nghiệp của Người.
Vòng ngoài cùng là phần trưng bày các chuyên đề và đề mục mở rộng nhằm
bổ sung và làm sâu sắc thêm phần trưng bày tiểu sử, gắn liền với cách mạng
Việt Nam với cách mạng thế giới trong tiến trình cách mạng chung toàn cầu.
Bảo tàng Hồ Chí Minh được khánh thành đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm
ngày sinh của Người, cũng là năm thế giới kỷ niệm Người – một danh nhân
văn hóa.
KHU DI TÍCH - BẢO TÀNG BÁC HỒ
Quảng trường Ba Đình
Nằm ở giữa đại lộ Hùng Vương, quảng trường lịch sử này đã ghi lại
nhiều sự kiện trọng đại của đất nước và Thủ đô.
Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập khai
sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại đây.
Ngày 1/1/1955, hàng chục vạn nhân dân thành phố mít tinh đón mừng Trung
ương Đảng, Chính phủ, và Hồ Chủ Tịch trở về Thủ đô sau 8 năm kháng
chiến chống Pháp thắng lợi.
Từ đó, quảng trường là nơi tổ chức các cuộc mittinh lớn, các lễ
duyệt binh, các cuộc tuần hành biểu dương lực lượng quần chúng.
Ngày 28/3/1964, tại hội trường Ba Đình, Bác Hồ đã khai mạc Hội
nghị Diên Hồng của thời đại mới khẳng định quyết tâm đánh giặc Mỹ xâm
lược, giải phóng miền Nam của toàn dân ta.
Đây cũng là nơi nhân dân Hà Nội cùng với đại biểu nhân dân cả nước
và bạn bè khắp năm châu bốn biển về dự lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh
– người Cộng sản Việt Nam vĩ đại – từ ngày 6 đến ngày 9/9/1969.
Lăng của Người đã xây dựng trên vùng đất thiêng liêng này.
Lăng Bác Hồ
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là một công trình kiến trúc có ý nghĩa
chính trị to lớn, thể hiện tình cảm sâu sắc của nhân dân ta đối với Bác. Lăng
được khởi công ngày 02/9/1973 với sự tham gia của nhiều địa phương, nhiều
cơ quan, đơn vị quân đội và sự giúp đỡ quý báu của Đảng, Chính phủ và
nhân dân Liên Xô anh em. Sau 2 năm thi công liên tục và khẩn trương, Lăng
Bác Hồ đã được khánh thành vào ngày 29/8/1975.
Lăng Bác Hồ được tạo dáng như một đóa hoa sen tượng trưng cho khí
tiết thanh cao của dân tộc ta va phẩm chất cao đẹp của Bác. Sen còn là
tên làng quê Bác – Làng Kim Liên (sen vàng)- và cũng để nhắc mãi
câu ca “Tháp Mười đẹp nhất bông sen, Việt Nam đẹp nhất có tên Bác
Hồ”. Dây hoa văn quanh giường Bác là hình ảnh hoa sen, hoa nhài
được cách điệu… các loài hoa mà Người yêu thích.
Lễ đài chính phía trước Lăng được ốp và lát đá hoa cương, hai bên và
lễ đài phụ làm bằng đá granito có chỉ đồng phân loại.
Cửa Lăng trồng hai hàng đại, bên cạnh là hai bồn cây đài cây vĩ hoa
đỏ và 18 cây Vạn Tuế cảu các tỉnh đồng bằng mừng thọ Bác.
Đường Hùng Vương chạy qua trước Lăng được trồng hai hàng chò
nâu được đưa về từ đất tổ Phong Châu. Thảm cỏ 168 ô tươi xanh mát rượi
trước cửa Lăng, ở giữa quảng trường là cột cờ cao 30m. Hai bên Lăng và
phía sau là vườn hoa, vườn cây ăn quả nơi Bác thường thư giãn sau những
giờ làm việc căng thẳng. Những loài cây quả quý hiếm này đều do đồng bào
ở khắp cả nước gửi về biếu Bác.
Thi hài của Hồ Chủ Tịch được đặt trong hòm kính trong suốt ở phòng
chính trên tầng hai. Gương mặt của Người nằm đó thanh thản như đang nằm
nghỉ sau giờ làm việc. Hình ảnh cờ Đảng và cờ Tổ quốc được ghép bằng đá
quý ngay trên đầu nơi Bác nằm. Từ cửa Lăng nhìn thẳng trên trục đường