Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Báo chí việt nam trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.28 KB, 81 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực để thúc đẩy
phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo dục luôn là vấn đề mà
toàn xã hội quan tâm. Trong xã hội hiện đại với xu thế hội nhập, cạnh tranh,
hợp tác và phát triển, giáo dục hơn bao giờ hết càng được đầu tư đổi mới,
nhằm đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực cho đất nước.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Cần
phải đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình,
nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo
được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với
trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá,
thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo
dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập
cho mọi người, kiến tạo một mô hình xã hội học tập và học tập thường xuyên,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; ưu tiên hàng đầu
cho việc nâng cao chất lượng dạy và học; đổi mới chương trình, nội dung,
phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng
cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập
suy nghĩ của học sinh, sinh viên…
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước không thể thành công nếu
thiếu nguồn nhân lực hiện đại. Chính vì vậy vấn đề đào tạo, giáo dục, chuẩn
bị nguồn lao động cho tương lai luôn là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của mọi
quốc gia, trong thời đại mới. Đổi mới giáo dục, do vậy luôn là yêu cầu thường
xuyên, tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới không ngừng của xã hội, đất
nước. Trong tiến trình phát triển và đổi mới nền giáo dục nước nhà, báo chí


Việt Nam luôn song hành, phản ánh thực trạng giáo dục Việt Nam với cả
những mặt tốt và mặt chưa tốt, mặt tích cực và mặt tiêu cực. Xoay quanh
những vấn đề của đổi mới giáo dục, báo chí không dừng lại ở sự đưa tin, phản


ánh thụ động, mà còn tham dự vào mặt trận đổi mới giáo dục như một trong
những tiếng nói quyền lực, đóng vai trò phản biện, đấu tranh, khám phá, tìm
kiếm con đường và phương pháp đổi mới hiệu quả. Đối tượng phản ánh tác
nghiệp của báo chí không dừng lại ở việc đưa tin, biểu dương những tấm
gương tiêu biểu của thầy cô giáo, của học sinh vượt khó khăn để dạy tốt, học
giỏi, đạt thành tích trong các kỳ thi mà còn đi sâu phân tích những thực trạng
yếu kém, trì trệ, những tiêu cực và bệnh chạy theo thành tích của giáo dục
Việt Nam; lên tiếng phản biện góp phần xây dựng các đề án phát triển, giải
pháp đổi mới, phương cách tiếp cận học hỏi những nền giáo dục tiên tiến,
hiện đại trong khu vực và trên thế giới.
Đề cập đến vấn đề mà cả xã hội quan tâm; sưu tầm, nghiên cứu, đánh
giá những tác phẩm báo chí trên các tờ báo viết về đổi mới giáo dục là một đề
tài có ý nghĩa thiết thực và tính thời sự cao. Cũng thông qua sự khảo sát, đánh
giá đó, chúng tôi hy vọng sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm, kiến
nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả thông tin tuyên truyền các vấn đề
giáo dục. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Báo chí Việt Nam trong công cuộc
đổi mới giáo dục hiện nay” để nghiên cứu. Đề tài sẽ được thực hiện thông
việc khảo sát ba tờ báo: Giáo dục & Thời đại (GD&TĐ), Lao động, Tuổi trẻ
TP. Hồ Chí Minh, trong thời gian từ tháng 1/2008 đến tháng 6/2009 - là thời
gian có những thay đổi, đổi mới lớn trong giáo dục nước ta, nổi bật như sự
đấu tranh quyết liệt để đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đổi mới cơ chế tài
chính - là khâu trì trệ bảo thủ nhất trong nhiều năm qua, đang cản trở sự phát
triển của giáo dục Việt Nam; hay như vấn đề đổi mới phương pháp dạy và
học, đổi mới chương trình sách giáo khoa…


2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Truyền thông, báo chí và giáo dục đào tạo là phạm vi đề tài quen thuộc
của khá nhiều khóa luận tốt nghiệp cũng như luận văn thạc sỹ của sinh viên,
học viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà

Nội, cũng như Học viện Báo chí & Tuyên truyền. Tuy nhiên, qua khảo sát
thấy rằng, các đề tài thường hướng về phạm vi hẹp của báo chí địa phương,
phản ánh vấn đề giáo dục cụ thể của địa phương, như: “Tuyên truyền về giáo
dục đại học trên báo chí thành phố Hồ Chí Minh”; “Báo Hải Dương với việc
tuyên truyền - phản ánh công tác giáo dục - đào tạo”, “Những vấn đề bức
xúc trong giáo dục phổ thông qua sự phản ánh của báo Nghệ An”. Một số
khóa luận lại hướng về các phạm vi đối tượng cụ thể như: “Nâng cao chất
lượng giáo dục bậc tiểu học”, “Giáo dục vùng sâu - vùng xa qua báo
GD&TĐ”, “Báo GD&TĐ 90 - 95 với vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo bậc Đại học”, “Báo chí với tuyên truyền chống tiêu cực trong
giáo dục”, hoặc triển khai theo một hướng rất chung và rất rộng như: “Báo
chí viết về giáo dục”, “Báo chí với vấn đề giáo dục”… Có luận văn nghiên
cứu vấn đề giáo dục nhưng trên sóng phát thanh như: “Nâng cao chất lượng
chương trình phát thanh giáo dục và đào tạo trên sóng Đài tiếng nói Việt
Nam”.
Riêng về vấn đề đổi mới giáo dục, đã có 2 khóa luận bàn tới:
1.“Vấn đề đổi mới giáo dục - đào tạo trên báo GD&TĐ và báo Khuyến
học” - Đoàn Mạnh Hùng - K39A - ĐH KHXH&NV.
2.“Tuyên truyền đổi mới giáo dục trên báo GD&TĐ” - Nguyễn Thanh
Hương - K45 - ĐH KHXH&NV.
Tuy nhiên, thời điểm của 2 khóa luận này khảo sát báo chí từ những
năm 1997-1998, 2002-2003. Hơn nữa, góc độ khảo sát mang tính một chiều


khi chỉ lựa chọn các tờ báo ngành, trong đó tờ GD&TĐ có cơ quan chủ quản
là chính Bộ Giáo dục & Đào tạo (GD&ĐT), nên ít có tiếng nói phản biện.
Như vậy, có thể nói rằng, cho tới thời điểm hiện tại, chưa có đề tài nào
đặt vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện và triệt để những vấn đề cấp thiết
trong đổi mới giáo dục hiện nay dưới góc nhìn đa chiều, cũng như xem xét
các hình thức chuyển tải các vấn đề này trên một số tờ báo có tính đại diện và

tính phản biện đa chiều hiện nay. Với đề tài nghiên cứu “Báo chí Việt Nam
trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay”, chúng tôi hy vọng trên cơ sở
nghiên cứu, tìm tòi và cùng với việc kế thừa có chọn lọc một số kết quả
nghiên cứu đã được công bố, sẽ tìm hiểu vấn đề này một cách nghiêm túc, có
hệ thống và đưa ra được các bài học kinh nghiệm cũng như các giải pháp hiệu
quả, có khả năng ứng dụng và thiết thực với các tờ báo khảo sát.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích:
Luận văn phác họa những nét cơ bản nhất về các vấn đề đổi mới giáo
dục được phản ánh trên báo chí Việt Nam giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó,
luận văn rút ra những kinh nghiệm, giải pháp trong việc phản ánh, thông tin
tuyên truyền các vấn đề giáo dục trên báo chí; đặc biệt là những giải pháp để
nâng cao chức năng phản biện của báo chí với những vấn đề giáo dục.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, luận văn triển khai những nhiệm vụ sau:
- Sưu tầm, khảo sát tất cả các bài báo có nội dung liên quan đến các vấn
đề đổi mới giáo dục trên 3 tờ báo: báo Giáo dục&Thời đại, Lao động, Tuổi
trẻ TP. Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 1/2008 đến tháng 6/2009.


- Đánh giá, nhận xét về nội dung, hình thức phản ánh các vấn đề đổi
mới giáo dục trên 3 tờ báo này: những đóng góp và những hạn chế.
- Rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những kiến nghị, giải pháp để
nâng cao hiệu quả tuyên truyền các vấn đề giáo dục trên báo chí hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề đổi mới
giáo dục, cách thức phản ánh các vấn đề đổi mới giáo dục trên 3 tờ báo: báo
Giáo dục & Thời đại, Lao động, Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh trong trong thời
gian từ tháng 1/2008 đến tháng 6/2009.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh; dựa trên đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng,
Nhà nước Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ của báo chí; về vấn đề giáo dục
và đổi mới giáo dục. Bên cạnh đó, luận văn cũng kế thừa kết quả nghiên cứu
của các công trình khoa học liên quan đã được công bố.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp: thống kê
- so sánh, phương pháp điều tra - khảo sát thực tiễn, phân tích - tổng hợp;
đồng thời tác giả sẽ tập hợp, nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan đến đề
tài. Bên cạnh đó, tác giả sẽ áp dụng các thủ pháp khác như: Phỏng vấn, điều
tra xã hội học để hoàn thành đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:
Luận văn làm rõ một số lý luận về các nội dung đổi mới giáo dục Việt
Nam; về vai trò của báo chí Việt Nam trong việc thông tin, phản ánh sự kiện


nói chung, các vấn đề đổi mới giáo dục nói riêng. Đồng thời, luận văn khảo
sát có hệ thống các cách thức thông tin, phản ánh; cách thức tổ chức thông tin
về các vấn đề giáo dục trên báo chí.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn góp phần phác họa những nét cơ bản nhất về các vấn đề đổi
mới giáo dục nổi bật giai đoạn hiện nay được phản ánh thông qua hoạt động
báo chí tuyên truyền; nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền
các vấn đề giáo dục trên báo chí.
Đồng thời, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho các nhà quản lý, các
nhà báo, nhà giáo, các học viên, sinh viên và những người quan tâm tới vấn
đề phát huy vai trò của báo chí trong đổi mới giáo dục nói riêng và đổi mới
các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung.

7. Kết cấu luận văn:
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
gồm 3 chương:
- Chương I: Đổi mới giáo dục và tiếng nói của báo chí Việt Nam
- Chương II: Thực trạng vấn đề đổi mới giáo dục trên báo chí hiện nay
- Chương III: Kinh nghiệm rút ra và giải pháp nâng cao hiệu quả
tuyên truyền, phản ánh các vấn đề giáo dục


Chương 1:
ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ TIẾNG NÓI CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM

1.1 Đổi mới giáo dục là vấn đề báo chí đặc biệt quan tâm
1.1.1. Đổi mới giáo dục là yêu cầu tất yếu của nền giáo dục Việt Nam
hiện nay
Đổi mới là thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn, hiệu
quả hơn so với trước. Trong giáo dục trước đây thường dùng khái niệm cải
cách giáo dục. Về mặt ý nghĩa, hai khái niệm này có sự gần gũi, tương đồng.
Cải cách là sửa đổi cho hợp lý hơn, cho phù hợp với tình hình mới (Từ điển
tiếng Việt). Chúng ta đã từng tiến hành cải cách ruộng đất, cải cách giáo dục.
Tuy nhiên, trong cải cách ruộng đất cũng có sai lầm nhất định, gây tổn thất
đáng tiếc, sau đó phải làm một cuộc sửa sai. Tại các nước Liên Xô và Đông
Âu trước đây cũng đã làm cuộc cải tổ xã hội (đồng nghĩa với cải cách), kết
quả là hệ thống, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu không thay
đổi theo hướng tốt hơn như mong muốn, mà là sụp đổ hoàn toàn. Từ những
bài học thực tế đó, từ năm 1986 đến nay trên các văn kiện của Đảng, Nhà
nước thường dùng khái niệm đổi mới : Đổi mới tư duy, đổi mới hệ thống
chính trị, đổi mới kinh tế, đổi mới giáo dục, đổi mới cung cách làm ăn…;
trước đây Bác Hồ cũng từng đưa ra lời kêu gọi cán bộ, đảng viên “sửa đổi lề
lối làm việc”, thực chất cũng là đổi mới lề lối làm việc. Trên thực tế, Đường

lối đổi mới do Đại Hội VI của Đảng đề ra năm 1986 đã được toàn Đảng, toàn
dân thực hiện hơn 20 năm qua giành được nhiều thắng lợi to lớn. Chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam đã và đang chuyển biến từ mô hình Chủ nghĩa xã hội hành
chính quan liêu bao cấp sang mô hình Chủ nghĩa xã hội vận hành nền kinh tế
theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, theo hướng tốt hơn, năng


động hơn, hiệu quả. Điều đó đã chứng minh chúng ta dùng khái niệm đổi mới
là hoàn toàn chính xác, liều lượng vừa phải. Đổi mới là làm cho tốt hơn, tiến
bộ hơn, chứ không làm cho sụp đổ, thay cái này bằng cái khác, không đánh
mất nền tảng cơ bản của chủ nghiã xã hội, không làm mất bản sắc văn hóa của
dân tộc.
Đổi mới giáo dục là làm cho hệ thống giáo dục của nước ta, nền giáo
dục đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng tiến bộ hơn, hiệu quả hơn,
tiếp cận nền giáo dục tiên tiến của thời đại, phù hợp với điều kiện Việt Nam.
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ
nghĩa” - trong hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể nhận rõ đó là những cơ
sở lý luận và thực tiễn sâu sắc đầu tiên, mang tính nguyên lý đặt nền móng
cho một nền giáo dục Việt Nam trong thời đại mới. Trải qua 65 năm xây dựng
và phát triển, trong những thời điểm mà tình hình và nhiệm vụ của đất nước
có chuyển biến lớn, có tính bước ngoặt thì giáo dục cũng đã có những cải
cách, đổi mới cho phù hợp và tốt hơn, tiến bộ hơn. Thực tế nền giáo dục Việt
Nam đã qua 4 cuộc cải cách giáo dục: Cải cách giáo dục lần thứ nhất vào năm
1950-1951 là cuộc cải cách giáo dục đầu tiên, thay hệ thống giáo dục do Thực
dân Pháp để lại bằng hệ thống giáo dục của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
nền giáo dục của dân, do dân, vì dân. Cải cách giáo dục lần thứ hai vào năm
1956-1957 nhằm thống nhất hai hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm (của vùng
tự do) và 12 năm (của vùng tạm chiếm mới được giải phóng) thành hệ thống
giáo dục phổ thông 10 năm, theo tính chất của giáo dục xã hội chủ nghĩa. Cải

cách giáo dục lần thứ ba vào năm 1979-1980, sau khi giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước, non sông thu về một mối, với mục tiêu xây dựng một
nền giáo dục Việt Nam thống nhất trên phạm vị cả nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cải cách giáo dục lần thứ tư là kết quả tất yếu của đường lối


đổi mới do Đại hội VI của Đảng năm 1986 đề ra (lúc này không gọi là cải
cách mà là đổi mới giáo dục) được thực hiện trong 3 năm 1978-1980, với mục
tiêu xác lập cơ cấu mới của hệ thống giáo dục quốc dân, và thành lập Bộ Giáo
dục và Đào tạo (trên cơ sở sáp nhập Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Tổng cục Dạy nghề) để điều hành toàn bộ hệ thống giáo dục
quốc dân từ mầm non đến đại học và sau đại học.
Bước vào thế kỷ 21, nhận rõ đây là một giai đoạn phát triển như vũ bão
của thế giới với những thành công đa dạng và to lớn của những phát minh
khoa học, ứng dụng công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin
và phát triển kinh tế tri thức. Toàn cầu hóa, cạnh tranh và hội nhập quốc tế là
xu thế khách quan chi phối mọi quốc gia. Và một công cuộc đổi mới giáo dục
đào tạo đã và đang diễn ra âm thầm ở một số nước này hoặc rầm rộ ở một số
nước khác, nói chung trên quy mô toàn cầu. Bối cảnh thế giới đã và đang tạo
nên những thay đổi sâu sắc trong tư duy về giáo dục, từ quan niệm về chất
lượng đến xây dựng chương trình, tổ chức hệ thống giáo dục. Nhà trường từ
chỗ khép kín chuyển sang mở cửa đối thoại với xã hội, gắn bó mật thiết với
nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, giao lưu quốc tế. Đầu tư cho giáo
dục từ chỗ được xem là phúc lợi chuyển sang coi như đầu tư cho phát triển…
Bước vào thế kỷ 21, tuy giáo dục Việt Nam đã có 15 năm đổi mới theo
quan điểm chỉ đạo của Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) với những thành
quả quan trọng, như đã hoàn thành phổ cập giáo dục Tiểu học vào năm 2000,
nhưng cũng bộc lộ những hạn chế về chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo,
tư duy giáo dục chưa theo kịp tư duy kinh tế, đầu tư cho giáo dục còn dàn trải,

nhiều tệ nạn tiêu cực và bệnh “chạy theo thành tích” đang làm triệt tiêu động
lực dạy và học trong nhà trường, cản trở bước tiến của giáo dục. Trước thời
cơ và thách thức mới của thời đại mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đòi


hỏi giáo dục đào tạo phải đổi mới mạnh mẽ và phát triển nhanh, bền vững,
theo hướng hiện đại đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, cung ứng nguồn
nhân lực chất lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trước
đòi hỏi trên, nếu không có một chiến lược phát triển giáo dục đúng đắn và tầm
nhìn thời đại thì giáo dục đào tạo nước ta sẽ tụt hậu ngày càng xa. Trên cơ sở
quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết TW 2 Khóa VIII về giáo dục đào tạo và
Nghị quyết Đại hội IX, Đại hội X của Đảng, đồng thời nghiên cứu tình hình
đổi mới giáo dục trên thế giới, Chiến lược phát triển giáo dục 10 năm từ 2001
- 2010 đã được xây dựng và ban hành (Theo Quyết định số 201/2001/QĐTTg ngày 27/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ). Tư tưởng chỉ đạo của chiến
lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010 là khắc phục tình trạng bất cập
trên nhiều lĩnh vực; tiếp tục đổi mới một cách có hệ thống và đồng bộ; tạo cơ
sở để nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo, tiếp cận trình
độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, hướng tới xây dựng
một xã hội học tập. Cũng trong năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết
định số 47/2001/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường đại học,
cao đẳng Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Mục tiêu là xây dựng mạng lưới các
trường đại học, cao đẳng đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực phù hợp
với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, phục vụ
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống
đại học, cao đẳng và của toàn xã hội; đảm bảo tính đa dạng, đồng bộ và từng
bước nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; tạo điều kiện thuận lợi cho
các tầng lớp nhân dân được tiếp thu giáo dục sau trung học, được học tập suốt
đời.
Kết quả triển khai Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010: Trong hệ
thống giáo dục phổ thông đã đạt được những kết quả đáng kể, hoàn thành việc

biên soạn và thay bộ sách giáo khoa mới từ lớp 1 đến lớp 12; Giáo dục Tiểu


học tiếp tục củng cố thành tựu phổ cập từ năm 2000, từng bước phổ cập đúng
độ tuổi; Giáo dục Trung học có bước tiến mạnh mẽ, đến cuối năm 2010 hoàn
thành phổ cập THCS trên phạm vi cả nước, một số địa phương tập trung xây
dựng trường chuẩn quốc gia, trường chuyên THPT. Giáo dục đại học, cao
đẳng, trung cấp chuyên nghiệp có bước phát triển mạnh về quy mô, đưa tỷ lệ
số sinh viên/ 10.000 dân năm 2000 là 135, năm 2005 là 179, năm 2010 là 200
sv/vạn dân, đạt mục tiêu đề ra trong chiến lược giáo dục 10 năm.
Tuy nhiên, qua 5 năm đầu triển khai chiến lược giáo dục, ngành giáo
dục cũng nhận thấy còn bộc lộ những hạn chế thuộc về cơ chế quản lý, xuất
hiện nhiều hiện tượng tiêu cực nổi cộm là tiêu cực trong thi cử, bệnh chạy
theo thành tích, vi phạm đạo đức nhà giáo. Từ năm học 2006-2007 toàn ngành
giáo dục phát động cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và
bệnh thành tích trong giáo dục”, gọi tắt là cuộc vận động “Hai không”. Sau 4
năm thực hiện cuộc vận động “Hai không” với tinh thần tuyên chiến quyết liệt
với tiêu cực và bệnh thành tích, đến nay về cơ bản các hiện tượng tiêu cực
gian lận trong thi cử và bệnh chạy theo thành tích đã được khắc phục, lập lại
kỷ cương nền nếp trong toàn ngành. Từ năm học 2007-2008 ngành giáo dục
phát động thêm cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức,
tự học và sáng tạo” cũng được đông đảo cán bộ giáo viên hưởng ứng, những
tấm gương sang của các nhà giáo đã được tôn vinh, những giáo viên có hành
vi vi phạm đạo đức cũng được xử lý kịp thời, tạo môi trường thân thiện và lấy
lại hình ảnh tốt đẹp của nhà giáo trong ngành và xã hội.
Về cơ chế quản lý giáo dục, nhất là quản lý về tài chính trong giáo dục
bộc lộ nhiều khâu, yếu tố lạc hậu, bảo thủ, trì trệ làm cho giáo dục dù có đổi
mới nội dung, chương trình hiện đại cũng không thể phát triển được, cần phải
tháo gỡ. Trong khi nền kinh tế của nước ta đã chuyển sang cơ chế thị trường
định hướng XHCN được hơn 20 năm, đã hình thành các cơ sở giáo dục ngoài



công lập, thì cơ chế tài chính giáo dục vẫn chưa co thay đổi so với thời kinh tế
kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Việc quản lý tài chính ngân sách giáo dục rất
phân tán: địa phương quản lý 74%, các bộ ngành có trường học quản lý 21%,
Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ quản lý 5% - đây là điều không bình thường. Các
địa phương, các bộ, ngành khác chi tiêu như thế nào không báo cáo về Bộ
GD&ĐT, vì vậy Bộ GD&ĐT không thể đánh giá hiệu quả đầu tư của Nhà
nước cho giáo dục như thế nào. Thực tế diễn ra tình hình là, định mức phân
bổ ngân sách giáo dục chưa gắn với các tiêu chí đảm bảo chất lượng giáo dục
đào tạo; chưa có cơ chế chia sẻ trách nhiệm về kinh phí cho giáo dục giữa nhà
nước và người học ở giáo dục đại học, cao đẳng và chuyên nghiệp, về cơ bản
vẫn là bao cấp, bình quân. Chế độ học phí xây dựng từ hơn 10 năm trước đến
nay vẫn chưa thay đổi, không còn phù hợp với sự biến đổi của thị trường, mặt
bằng giá cả… Điều đó dẫn tới tình trạng các cơ sở giáo dục không có đủ
nguồn lực bổ sung đầu tư nâng cấp thiết bị dạy học, tăng lương cho giáo viên.
Công tác xã hội hóa mỗi nơi mỗi kiểu, không quản lý được nguồn huy động
vốn từ nhân dân cho nhà trường.
Trước tình trạng khẩn cấp như trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây
dựng Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009-2014 nhằm:
Xây dựng cơ chế tài chính mới cho giáo dục, cơ chế đó phải huy động ngày
càng tăng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và đóng góp của
xã hội để đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đồng thời tăng quy mô
giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước giai đoạn mới; Xây
dựng hệ thống các chính sách hướng tới một xã hội học tập, mọi người đều
được học tập trong điều kiện chất lượng ngày càng tăng. Đề án được đưa lên
mạng thông tin của Bộ và báo chí để xin ý kiến rộng rãi cán bộ, nhân dân.
Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội Khóa XII tháng 6/2009, Đề án Đổi mới cơ
chế tài chính giáo dục đã được thông qua, đến nay đang từng bước đi vào



cuộc sống, đem lại sức sống mới cho giáo dục đào tạo Việt Nam phát triển.
Cũng trong năm 2009, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội Khóa XII tháng 11/2009,
Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đã được thông qua,
tạo điều kiện hành lang pháp lý cho giáo dục đào tạo phát triển. Nội dung sửa
đổi và bổ sung Luật giáo dục cũng được thông tin rộng rãi trên báo chí, được
cán bộ và nhân dân góp những ý kiến thiết thực.
Có thể thấy, ngành giáo dục đã trình và được Quốc hội thông qua hai đề
án rất quan trọng: đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục và đề án sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật giáo dục, tạo điều kiện cơ chế và pháp lý cho giáo
dục Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, thực hiện Chiến lược phát
triển giáo dục 10 năm 2011-2020, đưa giáo dục nước nhà hội nhập và tiếp cận
các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Để có được kết quả như vậy chắc chắn
phải là một cuộc tranh luận gay go quyết liệt giữa một bên là tư duy bảo thủ,
trì trệ, quen với cơ chế quan liêu bao cấp với một bên là tư duy mới, cách nhìn
mới, tính khoa học và cập nhật xu thế thời đại.
Và báo chí phản ánh, báo chí vào cuộc với ngành giáo dục như thế nào
để đem lại những thành công đó cũng là vấn đề hết sức thú vị, sẽ được làm rõ
trong phần tiếp theo của luận văn.
1.1.2. Báo chí luôn theo sát những biến chuyển của ngành Giáo dục
Giáo dục là hoạt động xã hội liên quan tới lợi ích của mọi công dân,
mọi gia đình, mọi cấp, mọi ngành và các tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội. Ngành giáo dục là một ngành đông nhất, với hơn 1 triệu nhà giáo và
23 triệu học sinh, sinh viên các bậc học hệ chính quy đang dạy và học trong
gần 40.000 trường học từ mầm non đến đại học, sau đại học. Ngoài ra trong
thời đại kinh tế tri thức, nước ta đang hình thành xã hội học tập với hàng chục
triệu người theo học các hệ bồi dưỡng ngắn hạn, tập huấn nghiệp vụ, vừa học


vừa làm, học từ xa qua các phương tiện truyền thông, du học tại nước ngoài.

Chính vì vậy, giáo dục bản thân nó là một trong những hoạt động sôi động
của xã hội, là vấn đề nhạy cảm được mọi người thường xuyên quan tâm theo
dõi. Trên thực tế, bất cứ một sự thay đổi về chính sách liên quan đến giáo dục,
việc cải tiến thi cử, thay sách giáo khoa, một hiện tượng tiêu cực trong thi cử,
gian lận trong sử dụng văn bằng chứng chỉ, một hành vi vi phạm đạo đức của
giáo viên, một hành vi bạo lực trong học sinh sinh viên, vấn đề thiếu sách
giáo khoa, thiết bị dạy học… đều được phản ánh trên báo chí, lan truyền rất
nhanh dễ gây bức xúc cho mọi người dân.
Giáo dục là lĩnh vực khó, bàn về nó phải có chiều sâu kiến thức chuyên
môn và chiều rộng tri thức tổng hợp, am hiểu tâm lý con người. Tuy nhiên,
dường như ai cũng tỏ ra hiểu biết về giáo dục, có thể là nông sâu, hiểu biết ít
hoặc nhiều nên dễ dàng đưa ra ý kiến của mình, lên tiếng đánh giá khen chê,
đề xuất kiến nghị và đó cũng là nguồn tin tức, ý kiến, dư luận rất lớn, vô tận
cho báo chí khai thác. Có ý kiến cho rằng chính giáo dục là “nguồn sống” của
báo chí. Có những vấn đề được bàn luận, phản ánh, trao đổi trong thời gian
dài hàng tháng, thậm chí từ năm này sang năm khác. Như: vấn đề thay bộ
sách giáo khoa mới phổ thông từ lớp 1 đến lớp 12 được báo chí bàn luận,
khen chê ngay từ năm học 2002-2003 - năm đầu triển khai thay sách lớp 1,
lớp 6, cho đến năm học 2008-2009 là năm kết thúc thay sách giáo khoa mới ở
lớp 12, vẫn còn những bài báo tiếp tục góp ý cho sách giáo khoa, bàn về sự
nặng nhẹ trong chương trình sách giáo khoa mới, kiến nghị phải tiếp tục đổi
mới. Vấn đề giải quyết bài toán mối quan hệ giữa phát triển về quy mô với
nâng cao chất lượng giáo dục, vấn đề học phí học bổng, cơ chế tài chính giáo
dục, vấn đề dạy thêm học thêm, cải tiến thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại
học, vấn đề chuyển đổi mô hình từ trường dân lập sang tư thục, vấn đề khôi
phục hệ thống trường THPT chuyên để đào tạo nhân tài, vấn đề phổ cập giáo


dục mầm non cho trẻ 5 tuổi... mấy năm gần đây, nhất là trong năm 2008-2009
được bàn luận nhiều trên các báo tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, báo

mạng điện tử. Đặc biệt năm 2009, trong suốt thời gian trước kỳ họp thứ 5 và
thứ 6 của Quốc hội Khóa XII để xem xét và thông qua Đề án Đổi mới cơ chế
tài chính giáo dục, Đề án sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Giáo dục,
trên diễn đàn báo chí có hàng trăm bài phản ánh, trao đổi, phản biện về đề án
đổi mới cơ chế tài chính, trong đó có vấn đề học phí; có hàng chục chương
trình phát thanh, truyền hình, hàng chục bài viết, hàng trăm ý kiến trên các
diễn đàn báo chí về sự cần thiết phải bổ sung, sửa đổi hơn 20 điều của Luật
Giáo dục 2005; ngoài ra còn hàng trăm tin, bài phản ánh về thực trạng yếu
kém trong quản lý giáo dục đại học, yếu kém về chất lượng đào tạo, chưa gắn
kết giữa đào tạo và sử dụng nhân lực. Kết quả là Quốc hội đã thông qua 2 đề
án nói trên, đồng thời có thêm một nghị quyết về sự cần thiết thanh tra đánh
giá công tác đào tạo và đảm bảo chất lượng giáo dục tại các trường đại học.
Trước áp lực của công luận và quyết nghị của Quốc hội, Đầu năm 2010, Ban
Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo có Nghị quyết về đổi mới quản lý và
nâng cao chất lượng giáo dục đại học; ngày 27/2/2010, Thủ tướng Chính phủ
ban hành Chỉ thị số 296/2010/CT-TTg về “Đổi mới cơ chế quản lý và nâng
cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2010-2012”; trên cơ sở
đó Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Chương trình hành động nhằm thực
hiện Chỉ thị 296 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết của Ban Cán sự
Đảng Bộ GD&ĐT về đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục
đại học, triển khai từ tháng 3 năm 2010 với mục tiêu đến năm 2012 tạo bước
đột phá cho giáo dục đại học, cao đẳng phát triển mạnh mẽ.
*

*

*

Cả nước ta hiện có hơn 500 cơ quan báo chí với gần 700 ấn phẩm báo
chí phát thanh truyền hình tạo thành những kênh thông tin hết sức đa dạng,



phong phú về mọi vấn đề của đời sống đất nước và quốc tế, trong đó có vấn
đề giáo dục đào tạo. Luật Báo chí nước ta nêu rõ: “Báo chí Việt Nam gồm:
báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình
phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe-nhìn thời
sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử
(được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân
tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài”. Báo chí là phương tiện thông tin đại
chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức
Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hôi; là diễn đàn của nhân dân.
Ngành giáo dục có riêng 2 tờ báo in chuyên về giáo dục (Báo Giáo dục
và Thời đại trực thuộc Bộ GD&ĐT, Báo Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh
trực thuộc Sở GD&ĐT Tp. Hồ Chí Minh) và một báo điện tử (Báo Giáo dục
& Thời đại điện tử), ngoài ra còn có hàng chục tạp chí chuyên đề về giáo dục
đào tạo. Đài Truyền hình Việt Nam từ lâu đã dành riêng một kênh (VTV- 2)
cho giáo dục và khoa học. Đài Tiếng nói Việt Nam cũng có riêng Hệ VOV –
2: Văn hóa - Đời sống - Khoa giáo phủ sóng toàn quốc, tới tận vùng sâu, vùng
xa, hải đảo, phục vụ nhu cầu học tập từ xa của mọi người. Hầu hết các báo,
đài phát thanh và truyền hình từ trung ương đến địa phương của Việt Nam
hiện nay đều tổ chức các chuyên mục, chuyên trang, diễn đàn về giáo dục đào
tạo. Nhờ có hệ thống báo chí rộng khắp như vậy mà mỗi bước phát triển, mỗi
sự đổi mới, hoặc sự bất cập yếu kém của giáo dục đều được phản ánh khá đầy
đủ và kịp thời trên các phương tiện thông tin đại chúng, đem đến cho mọi
người nhịp đập, hơi thở của cuộc sống, của công cuộc đổi mới nói chung, đổi
mới giáo dục nói riêng.
Chúng ta biết rằng, đổi mới giáo dục nói chung, đặc biệt là đổi mới
giáo dục trong những năm đầu của Thế kỷ 21 đóng vai trò như một yêu cầu
bức thiết, có ý nghĩa sống còn của giáo dục Việt Nam. Phản ánh những vấn đề



đổi mới giáo dục hiện nay, báo chí không chỉ đưa tin, mà thực sự là cầu nối
giữa giáo dục và toàn xã hội, làm cho tư tưởng chỉ đạo của Đảng đối với giáo
dục: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của nhân dân”,
“Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng và động lực thúc đẩy CNH, HĐH đất nước” (Văn kiện Đại hội X của
Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.95) được hiện thực hóa trong
đời sống, góp phần tạo nên thành công cho đổi mới giáo dục nước nhà.
1.2. Vai trò của báo chí Việt Nam trong việc tuyên truyền đổi mới giáo dục
1.2.1. Báo chí phản ánh thực trạng giáo dục Việt Nam với những yêu
cầu khách quan phải đổi mới trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc
tế
Thực trạng giáo dục mà báo chí phản ánh muốn khách quan phải dự
trên 2 nguồn tư liệu: Từ các báo cáo chính thức của Bộ GD&ĐT, và từ chính
thực tiễn giáo dục của địa phương, của cơ sở trường lớp.
Ngành Giáo dục sau mỗi năm học đều tiến hành hội nghị tổng kết năm
học và triển khai nhiệm vụ năm học mới. Qua tổng kết đánh giá tình hình thực
hiện nhiệm vụ năm học, ngành Giáo dục cũng nhận định khá đầy đủ về thực
trạng giáo dục cả nước nói chung, của mỗi vùng miền, địa phương nói riêng,
trong đó chỉ rõ thành tựu đạt được, những hạn chế yếu kém, rút ra những bài
học thành công và chưa thành công cho năm học sau. Trong dịp diễn ra hội
nghị tổng kết năm học hàng năm nói trên, ngành giáo dục đều mời các cơ
quan báo chí tham dự đầy đủ, nắm thông tin về năm học từ Bộ GD&ĐT, từ
các cơ quan quản lý cấp Sở, Phòng GD&ĐT, từ Ban lãnh đạo nhà trường đại
học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp để tuyên truyền, thông tin cho toàn xã
hội biết. Những tài liệu trên là hết sức cần thiết đối với những người làm báo,
là cơ sở để phục vụ viết tin bài về giáo dục đào tạo, nhưng với báo chí như thế


là chưa đủ. Bởi vì những thông tin do cơ quan quản lý giáo dục cung cấp cho

báo chí là những thông tin chung nhất, và có thể vẫn chưa đầy đủ khách quan,
có khi vẫn “mắc bệnh thành tích”, (cái tốt phô ra, xấu xa đậy lại - như dân ta
thường nói). Căn bệnh thành tích có ở nhiều lĩnh vực, không riêng gì giáo
dục, bệnh càng nặng càng không nhìn thấy những yếu kém, bất cập, thậm chí
sai lầm, có hại cho xã hội. Không nhận thức đúng thực trạng với những yếu
kém trì trệ thì không có ý thức và quyết tâm đổi mới.
Chính vì vậy, nhiệm vụ phản biện xã hội của báo chí là phải bằng con
đường riêng của mình phản ánh đúng thực trạng của xã hội nói chung, của
giáo dục nói riêng, chứng minh rằng với thực trạng như vậy thì cần thiết phải
làm cuộc đổi mới để tiến lên. Các cơ quan báo chí không dừng lại ở nhận
thông tin chính thống từ cơ quan quản lý giáo dục, mà đã cử phóng viên
chuyên theo dõi giáo dục, bám sát tình hình, đi tới những cơ sở giáo dục, tiếp
cận những cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên những nơi làm tốt và chưa
tốt, những cơ sở giáo dục tiên tiến và cơ sở yếu kém, khó khăn để bổ sung
thực tiễn sống động cho bài viết của mình. Nhờ theo dõi có hệ thống, lại kịp
thời đi sâu đi sát thực tiễn nên các tin bài phản ánh, các chuyên luận, phóng
sự về thực trạng giáo dục trở nên sống động, có sức thuyết phục. Trên thực tế,
có những điển hình giáo dục, có những cá nhân tiên tiến xuất sắc, có những
tấm gương thầy cô giáo hy sinh tận tụy cho sự nghiệp trồng người, những tấm
gương vượt khó, vượt lên hoàn cảnh để học tập khá giỏi, những nhà hảo tâm
đóng góp tiền của, hiến đất xây trường giúp giáo dục phat triển…không có
trong báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ, ngành Giáo dục, nhưng đã được báo
chí phát hiện, nêu gương, tuyên truyền cổ vũ. Bên cạnh đó, có những yếu
kém, sai lầm, những khó khăn, những căn bệnh gây tổn hại cho giáo dục đang
ẩn khuất đâu đây, được che dấu không có trong báo cáo tình hình của các cơ
quan quản lý giáo dục, cũng đã được báo chí lôi ra ánh sáng, chỉ rõ động cơ


và tác hại của những hiện tượng đó. Vấn đề gian lận trong thi cử, “bệnh thành
tích” (chạy theo thành tích, năm sau phải bằng hoặc cao hơn năm trước), tình

trạng “đọc chép” (thầy đọc, trò chép), “dạy chay, học chay”, “học sinh ngồi
nhầm lớp” (có những học sinh được lên lớp 6 mà chưa đọc trôi chảy bài trong
sách giáo khoa, chỉ tương đương lớp 1, lớp 2, báo chí gọi là học sinh “ngồi
nhầm lớp”) …cũng đều do báo chí phát hiện, phản ánh.
Từ những phản ánh đúng thực trạng mà ngành giáo dục đã tiếp thu, đề
ra những phong trào, cuộc vận động (như cuộc vận động “Nói không với tiêu
cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”, cuộc vận động “Mỗi thầy
cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”…) nhằm khắc phục
các hiện tượng tiêu cực, bệnh thành tích. Đồng thời Bộ GD&ĐT đã tổ chức
nhiều hội nghị, hội thảo về đào tạo theo nhu cầu xã hội, xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực, đổi mới công tác thi đua khen thưởng, vinh danh
các điển hình tiên tiến, tôn vinh các nhà giáo mẫu mực, học sinh sinh viên học
giỏi vượt khó, tài năng, đạt thủ khoa trong các kỳ thi tốt nghiệp THPT và
tuyển sinh đại học, đạt thành tích cao trong các kỳ thi quốc tế.
1.2.2.Báo chí tuyên truyền chủ trương, định hướng đổi mới giáo dục
của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, của Bộ ngành Giáo dục
Tuyên truyền chủ trương định hướng của Đảng, Nhà nước, Quốc hội,
sự chỉ đạo của các cấp Bộ, Ngành, Tổ chức là chức năng nhiệm vụ và tôn chỉ
mục đích của báo chí. Luật Báo chí ghi rõ: Nhiệm vụ của báo chí là “Thông
tin trung thực về tình hình trong nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất
nước và của nhân dân; Tuyên truyền phổ biến, góp phần bảo vệ đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất
nqước và thế giới theo tôn chỉ mục đích của cơ quan báo chí; Phản ánh và
hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của


nhân dân; Phát hiện, nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới; đấu tranh
phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực khác”.
Mỗi cơ quan báo chí đều có tôn chỉ mục đích của mình, chủ yếu là phục vụ
nhu cầu thông tin của đối tượng mà tờ báo phục vụ. Nhu cầu thông tin về đổi

mới giáo dục của nhân dân là rất lớn, nhất là các chủ trương của Đảng, Nhà
nước, Quốc hội, tiếp đến là sự chỉ đạo điều hành của Bộ GD&ĐT.
Bước vào những năm đầu của thế kỷ 21, những quan điểm quan trọng
của Đảng trong các văn kiện Đại hội IX, Đại hội X chỉ đạo phát triển giáo dục
là: “Tiếp tục khẳng định quan điểm coi giáo dục đào tạo và khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy CNH, HĐH đất
nước”; “Phải tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục; thực
hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; tiếp tục nâng cao chất lượng toàn
diện; đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp, công
tác quản lý; chăm lo phát triển giáo dục mầm non; củng cố thành tựu xóa mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đẩy nhanh tiến độ phổ cập THCS; coi trọng
và đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp và phân luồng sau THCS, tăng nhanh tỷ
lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội; mở rộng hợp lý quy
mô và làm chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học; tạo
điều kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên suốt đời”.
Từ những quan điểm chỉ đạo của Đảng, trong năm 2000, Quốc hội Khóa X có
Nghị quyết số 40/2000/QH 10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông,
Nghị quyết số 41/2000/QH 10 về mục tiêu phổ cập giáo dục THCS vào năm
2010. Năm 2001 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg
phê duyệt và ban hành “Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010”. Đây là
những văn kiện hết sức quan trọng chỉ đạo và vận hành sự nghiệp giáo dục
Việt Nam trong 10 năm đầu thế kỷ 21.


Ngoài các văn bản chính thức được phổ biến tới các cơ quan quản lý
nhà nước, cơ quan quản lý giáo dục và tới các nhà trường, báo chí là phương
tiện hữu hiệu để tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân cả nước và những người
ngoài nước quan tâm tới các chủ trương, chính sách, định hướng của Đảng,
Nhà nước về giáo dục. Báo chí của các cơ quan Trung ương, Bộ, Ngành, Tổ
chức xã hội nghề nghiệp đều tập trung tuyên truyền các chủ trương định

hướng trên. Mỗi cơ quan báo chí có cách tuyên truyền riêng, sao cho phù hợp
đối tượng của báo. Hàng tuần Bộ Thông tin & Truyền thông phối hợp với Ban
Tuyên giáo TW và Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức giao ban báo chí, phổ biến
những nội dung trọng tâm, trọng điểm cần tuyên truyền trên báo chí, trong đó
có những nội dung về đổi mới giáo dục. Những chương trình hành động của
ngành giáo dục, các nhiệm vụ trọng tâm của từng năm học nhằm triển khai
các chủ trương của Đảng, Nhà nước, Quốc hội đều được lãnh đạo Bộ
GD&ĐT trực tiếp báo cáo và cung cấp tài liệu cho lãnh đạo các cơ quan báo
chí tại hội nghị giao ban hang tuần, hoặc thông qua họp báo tại cơ quan Bộ.
Nhờ có báo chí mà nhân dân được thông tin thường xuyên, chính xác
những chính sách, chủ trương, định hướng đổi mới giáo dục, từ đó nắm rõ và
ủng hộ ngành giáo dục triển khai nhiệm vụ. Mặt khác, giáo dục và đào tạo là
sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, cho nên việc tuyên truyền sâu
rộng định hướng của Đảng, Nhà nước tới mọi người là tạo điều kiện để các
cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội thấu hiểu, quan
tâm chỉ đạo, huy động nguồn lực to lớn từ xã hội tham gia sự nghiệp phát triển
giáo dục. Báo chí có vai trò đặc biệt trong việc tạo ra và thúc đẩy một phong
trào khuyến học rộng lớn ở nước ta, một xã hội học tập đang được hình thành.
1.2.3. Báo chí ủng hộ, phản biện, tạo dư luận góp ý sửa đổi những
đổi mới của ngành giáo dục


Để thực hiện chủ trương, định hướng đổi mới giáo dục, Bộ GD&ĐT
phải xây dựng các văn bản chỉ đạo và điều hành, các chương trình hành động
trong từng chặng đường phát triển đổi mới, tham mưu cho Chính phủ ban
hành các Chỉ thị, Nghị quyết về đổi mới và phát triển giáo dục. Trong số các
văn bản soạn thảo và ban hành nói trên, có khá nhiều văn bản được Bộ
GD&ĐT đăng trên mạng thông tin của Bộ và gửi đăng trên các báo để xin ý
kiến rộng rãi của nhân dân. Những đề án đổi mới lớn, ngoài việc Bộ GD&ĐT
tổ chức các hội nghị, hội thảo để tham vấn ý kiến các nhà khoa học, nhà quản

lý về các vấn đề liên quan, những ý kiến phản biện của báo chí là vô cùng
quan trọng. Có những văn bản sau khi lấy ý kiến rộng rãi của công luận, phản
biện của báo chí đã phải sửa chữa bổ sung khá nhiều. Có những vấn đề nêu
lên, sau khi tổng hợp dư luận và phản biện của báo chí thấy rằng chưa thể đưa
vấn đề dó ra trong thời điểm này, mà phải đưa ra vào thời điểm khác.
Để có thể triển khai đổi mới giáo dục thành công, vấn đề cần giải quyết
trước mắt là đấu tranh chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong
ngành giáo dục như thế nào cho hiệu quả. Các hiện tượng tiêu cực và bệnh
thành tích đã trở nên khá phổ biến, báo chí phản ánh và chỉ trích ngày càng
gay gắt. Trước tình hình đó, từ năm học 2006-2007, ngành Giáo dục phát
động cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích
trong giáo dục”. Cuộc vận động “Hai không” vừa được phát động đã thu hút
hầu hết các báo, đài phát thanh, truyền hình vào cuộc. Trên diễn đàn báo chí
thời gian đó luôn luôn có tin bài về cuộc vận động “Hai không”. Báo chí thể
hiện sự ủng hộ rất cao trên mặt trận tuyên chiến với các hiện tượng, hành vi
tiêu cực thi cử, bệnh thành tích và các hiện tượng tiêu cực khác trong giáo
dục. Nhiều hành vi gian lận thi cử, bệnh chạy theo thành tích ảo ở nơi này nơi
khác đã được báo chí đưa ra ánh sáng, đấu tranh phê bình, đề nghị cơ quan
quản lý xử lý kỷ luật kịp thời. Nhờ đó, sau 3 năm triển khai cuộc vận động


Hai không, về cơ bản các hiện tượng tiêu cực và bệnh thành tích đã được khắc
phục, ngành giáo dục lập lại kỷ cương nền nếp, tạo môi trường lành mạnh cho
triển khai các đề án đổi mới giáo dục.
Như vậy, không đơn thuần thông tin, phản ánh các vấn đề đổi mới giáo
dục, báo chí vừa ủng hộ, vừa phản biện, hơn nữa còn tích cực tạo dư luận để
góp ý, sửa đổi cho những đề án, chương trình đổi mới của ngành Giáo dục. Ví
dụ như đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục đã được Bộ GD&ĐT soạn
thảo dự kiến trình Quốc hội Khóa XI thông qua năm 2005, nhưng sau khi đưa
ra lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân, phản biện của báo chí thì nhiều nội dung

của đề án đã được chỉnh sửa, hoàn thiện, tuy nhiên đã quyết định chưa thể đưa
trình Quốc hội thông qua vào thời điểm năm 2005, mà phải bổ sung hoàn
thiện thêm và lùi thời gian trình Quốc hội Khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ
5 vào tháng 6 năm 2009. Để Quốc hội thông qua đề án đổi mới cơ chế tài
chính giáo dục, báo chí cũng có những đợt tuyên truyền rầm rộ, nhiều tờ báo,
đài phát thanh, truyền hình đã tổ chức hàng loạt bài viết, trao đổi, phỏng vấn,
phóng sự nêu rõ tính lạc hậu bảo thủ của cơ tài chính chế cũ, tạo sự đồng
thuận của các nhà trường, của người dân các vùng miền khác nhau, thông tin
các vấn đề liên quan cơ chế tài chính ở một số nước có nền giáo dục phát
triển. Kết quả sau khi các đại biểu Quốc hội Khóa XII và rất nhiều cử tri đưa
ra câu hỏi chất vấn, được Bộ GD&ĐT trả lời, báo chí thông tin đầy đủ, tạo
công luận ủng hộ, nên đề án đã được Quốc hội thông qua với tỉ lệ 73%. Đây
là một đề án đổi mới một lĩnh vực của giáo dục gặp nhiều khó khăn nhất trong
quá trình xây dựng và thông qua. Bởi đây là khâu còn lưu giữ quan niệm lạc
hậu, tư duy trì trệ của mô hình chủ nghĩa xã hội cũ vận hành theo cơ chế hành
chính, quan liêu, bao cấp. Có được cơ chế tài chính mới sẽ tạo đà cho giáo
dục Việt Nam phát triển trong giai đoạn mới đến năm 2020.


Tiểu kết Chương 1
Trong chương 1, tác giả luận văn nêu ra hệ thống quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cải cách, sửa đổi, đổi mới
giáo dục. Trên cơ sở lược thuật 4 cuộc cải cách giáo dục đã diễn ra ở Việt
Nam từ sau khi chính quyền cách mạng ra đời năm 1945 đến nay, có phân tích
yếu tố lịch sử liên quan đến sự kiện sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước
XHCN Đông Âu do cải tổ và lý giải tại sao ngày nay lại chúng ta dùng khái
niệm đổi mới, không dùng khái niệm cải cách, cải tổ giáo dục. Luận văn nêu
quan điểm của mình: Đổi mới là thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt hơn, tiến
bộ hơn, hiệu quả hơn so với trước. Trong giáo dục trước đây thường dùng
khái niệm cải cách giáo dục - là sửa đổi cho hợp lý hơn, cho phù hợp với tình

hình mới. Về mặt ý nghĩa, hai khái niệm này có sự tương đồng.
Luận văn cũng luận chứng một vấn đề mang tính quy luật: Đó là, đổi
mới giáo dục nói chung, đặc biệt là đổi mới giáo dục trong những năm đầu
của Thế kỷ 21 đóng vai trò như một yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa sống còn
của giáo dục Việt Nam. Vai trò của báo chí phản ánh về đổi mới giáo dục là
rất quan trọng, báo chí luôn đồng hành cùng quá trình đổi mới giáo dục: Báo
chí phản ánh thực trạng giáo dục Việt Nam với những yêu cầu khách quan
phải đổi mới trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế; Báo chí luôn theo
sát những biến chuyển của ngành Giáo dục; Báo chí tuyên truyền chủ trương,
định hướng đổi mới giáo dục của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, của Bộ ngành
Giáo dục; Báo chí ủng hộ, phản biện, tạo dư luận góp ý sửa đổi những quan
điểm, đề án, chương trình đổi mới của ngành giáo dục. Phản ánh những vấn
đề đổi mới giáo dục, báo chí không chỉ đưa tin, cổ vũ, giới thiệu gương điển
hình tiên tiến, mà thực sự là cầu nối giữa giáo dục và toàn xã hội, làm cho tư
tưởng chỉ đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với giáo dục thành hiện
thực.


Chương 2:
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
TRÊN BÁO CHÍ HIỆN NAY
2.1. Nội dung phản ánh của báo chí về vấn đề đổi mới giáo dục
2.1.1. Khái lược về ba tờ báo: Giáo dục&Thời đại, Lao động, Tuổi trẻ
TP. Hồ Chí Minh
Hầu như các tờ báo in hiện nay ít nhiều đều có các tin, bài về giáo dục
và đổi mới giáo dục. Có báo chuyên về giáo dục, có báo tổ chức trang giáo
dục và các chuyên mục giáo dục. Trong số đó, ba tờ báo: Giáo dục & Thời
đại, báo Lao động, báo Tuổi trẻ TP.Hồ Chí Minh là có ảnh hưởng lớn trong
ngành giáo dục và xã hội.
* Báo Giáo dục và Thời đại - cơ quan ngôn luận của Bộ Giáo dục và

Đào tạo, diễn đàn của toàn xã hội về giáo dục đào tạo; được thành lập từ
tháng 12 năm 1959, tiền thân là Báo Người giáo viên nhân dân. Hơn 50 năm
xây dựng và phát triển, từ một ấn phẩm ra một tháng 2 kỳ, đến nay Báo Giáo
dục và Thời đại ra mỗi tuần 5 số (vào các ngày thứ 3, thứ 4, thứ 5, thứ 7, chủ
nhật), ngoài ra còn có thêm 2 số/tháng (số giữa tháng và số cuối tháng). Báo
GD&TĐ phát hành rộng khắp trong ngành giáo dục cả nước với số lượng
trung bình 200.000 bản. Báo cũng phát hành trên một số sạp báo nhưng số
lượng rất ít, chiếm từ 2% - 5% tổng số báo phát hành. Từ tháng 6/2009, Báo
GD&TĐ điện tử ra đời tạo thêm một kênh thông tin nhanh, cập nhật tin tức
hàng giờ về giáo dục và các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội khác. Tuy có
những cố gắng, nhưng do đặc thù của mình mà Báo GD&TĐ có hạn chế nhất
định, chủ yếu vẫn chỉ có ảnh hưởng trong cán bộ, giáo viên ngành giáo dục,
những nội dung tuyên truyền trên báo hầu như ít ảnh hưởng ra ngoài xã hội.


×